Chùa Đông Cao hay chùa Đôi Cao, được xây dựng từ thời nhà Lý, tọa lạc trên quả đồi thuộc thôn Phúc Duyên, xã Tân Hương. Trải qua cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, ngôi chùa bị tàn phá. Đến năm 1999, xã Tân Hương đã tổ chức trùng tu lại chùa và xây dựng gác chuông. Năm 2002, bà con trong xã và các nhà hảo tâm đã vận động quyên góp hơn 120 triệu đồng để tu bổ chùa. Hiện, chùa đã được đầu tư xây dựng khang trang, sạch đẹp, có nhà Tam Bảo, nhà thờ Mẫu, nhà thờ Bác Hồ, phía trước mặt là gác chuông 3 tầng. Chùa Đông Cao đã được công nhận là di tích lịch sử – văn hoá cấp tỉnh năm 2004. Hàng năm, cứ vào ngày 14, 15 tháng Giêng, bà con trong xã và du khách thập phương lại tới chùa làm lễ cầu nguyện năm mới an lành, cây cối đâm chồi nảy lộc, vạn vật tốt tươi. Lễ hội còn diễn ra các hoạt động giao lưu văn hoá, văn nghệ (ảnh) và các trò chơi dân gian thu hút đông đảo người dân tham gia như: Đấu vật, cờ tướng, chọi gà… Chùa thường được gọi là chùa Đông Cao, chùa Cao, tọa lạc trên một ngọn đồi thuộc xã Tân Hương, huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên. Từ Hà Nội đến địa phận tỉnh Thái Nguyên, đi 16km nữa thì đến chùa. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông. Chùa được dựng vào thời Hậu Lê. Ngôi chùa ngày nay do Sư cụ Thích Đàm Hinh tổ chức xây cất vào ngày 17 tháng 5 năm 1992, hoàn thành ngày 21 tháng 7 năm 1992. Chùa còn giữ được các ngôi tháp, bia, cột đá thời Hậu Lê, như tấm bia cổ có khắc niên hiệu Chính Hòa năm thứ 18 (1697). NGUỒN: Viet Architect Group
Thái Nguyên 2550 lượt xem
Sáng ngày 06/01, Đảng ủy, chính quyền và nhân dân xã Minh Lập đã tổ chức Lễ đón nhận Bằng di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh cho đình Minh Lý. Đình Minh Lý thuộc xóm Minh Lý, xã Minh Lập là nơi sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của nhân dân trong xã. Đình thờ vị anh hùng dân tộc Dương Tự Minh, người có đóng góp to lớn trong việc duy trì, củng cố khối đại đoàn kết các dân tộc đánh đuổi giặc ngoại xâm, được nhân dân tôn kính và lập đền thờ Thành hoàng làng. Ngôi đình đã có từ rất lâu, song do biến thiên của lịch sử, thiên tai tàn phá khiến Đình Minh Lý bị xuống cấp nghiêm trọng. Năm 2007, nhân dân 4 xóm Ao Sơn, Đoàn Kết, Làng Chu và Theo Cày đã cùng nhau công đức xây dựng lại ngôi đình trên nền cũ. Đình gồm có tiền tế và hậu cung, tổng diện tích đất xây dựng là 1.903 m. Hằng năm tại đình có 2 kỳ lễ chính vào ngày 09/1 và ngày 20/11 âm lịch, ngoài ra còn có các ngày lễ khác như lễ hạ điền và thượng điền. Lễ vật dâng lên thành hoàng làng chủ yếu là các nông sản tại địa phương với mục đích cầu cho mưa thuận gió hòa,cây cối tốt tươi, mùa màng bội thu, nhân dân các dân tộc trên địa bàn được ấm no hạnh phúc. Với những giá trị về lịch sử và văn hóa, UBND tỉnh Thái Nguyên quyết định công nhận đình Minh Lý là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh. Đây là niềm vui của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân xã Minh Lập nói riêng và huyện Đồng Hỷ nói chung. Việc được công nhận là di tích lịch sử góp phần bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc, giáo dục truyền thống yêu nước, đáp ứng nhu cầu tâm linh của nhân dân trên địa bàn./. NGUỒN TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ HUYỆN ĐỒNG HỶ
Thái Nguyên 2494 lượt xem
Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, đã có nhiều cơ quan được thành lập, đóng và làm việc tại ATK Định Hóa. Trong số này có cơ quan Cục Thông tin, Bộ Quốc phòng. Ngày 31/7/1949, Bộ trưởng Bộ quốc phòng ban hành Nghị định số 123/NĐ thành lập Cục Thông tin thuộc Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Quốc gia và Dân quân, tự vệ Việt Nam. Cơ quan thành lập trên cơ sở Phòng Thông tin liên lạc quân sự do đồng chí Hoàng Đạo Thúy làm Trưởng phòng. Theo Nghị định, Cục Thông tin là cơ quan tham mưu cho Bộ Tổng tư lệnh về mặt thông tin liên lạc; tổ chức, giữ vững thông tin liên lạc từ Bộ Tổng Tham mưu đến các chiến trường, các đơn vị chỉ đạo nghiệp vụ; trang bị vật chất kỹ thuật cho các đơn vị thông tin liên lạc trực thuộc Bộ Quốc phòng, Tổng tư lệnh; thống nhất tất cả các lực lượng thông tin liên lạc ở cơ quan Bộ Quốc phòng, Sở Vô tuyến điện Việt Nam và đưa về nằm trong đội hình Cục Thông tin. Trong giai đoạn 1952-1953, cơ quan Cục Thông tin ở và làm việc ở xóm Khuổi Tát, xã Quy Kỳ (Định Hóa). Địa điểm này đã được khảo sát, xác định vị trí nhưng được xây bia di tích. Ông Hoàng Văn Chức, sinh năm 1942, ở xóm Khuổi Tát, xã Quy Kỳ xác nhận: Khu vực Cục Thông tin làm việc nằm ở trên lưng chừng đồi, san gạt nền tương đối rộng. Sau khi chuyển đi thì nơi này vẫn còn giấu khá nhiều máy móc và điện đàm nhưng nay không còn và gần như mất dấu. Tháng 5-1953, Cục Thông tin chuyển địa điểm đến xóm Khuân Giàng, xã Trung Hội (từ năm 1953 đến nay thuộc xã Trung Lương, Định Hóa). Tuy còn nhiều khó khăn, thiếu thốn nhưng đội ngũ cán bộ đơn vị đã xác định quyết tâm trong thời gian 6 tháng phải hoàn thành những công việc: Hình thành tổ chức cơ quan và đơn vị thuộc Cục; mở lớp đào tạo sĩ quan tham mưu, thông tin liên lạc và cán bộ kỹ thuật sửa chữa vô tuyến điện, điện thoại, máy phát điện; dự thảo trình Bộ Quốc phòng, Tổng Tư lệnh duyệt và ban hành phương án tổ chức hệ thống thông tin liên lạc trong toàn quân; sắm và sửa chữa các phương tiện khí tài thông tin liên lạc để sớm trang bị cho các đơn vị, đồng thời nhanh chóng biên soạn tài liệu “Thông tin liên lạc sơ lược” để huấn luyện trong toàn quân. Cũng tại Khuân Giàng, Tổng Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái đã dành nhiều thời gian đến làm việc và nói chuyện với cán bộ, chiến sĩ của Cục Thông tin. Ông nhấn mạnh: “Thông tin liên lạc cần nắm chắc những nhiệm vụ cốt yếu nhất, trong đó hàng đầu là xây dựng đội ngũ cán bộ, chiến sĩ có đủ trình độ đảm nhận nhiệm vụ, bảo đảm chỉ huy bộ đội trong điều kiện tác chiến vận động với quy mô lớn hơn. Phương hướng tự lực là đúng nhưng Cục Thông tin cần tăng cường phương tiện vật chất - kỹ thuật cho cấp chiến dịch, chiến thuật để đủ sức hoàn thành nhiệm vụ…”. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, Cục Thông tin đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, bảo đảm thông tin liên lạc cho lãnh đạo, chỉ huy các cấp phối hợp giữa các chiến trường; góp phần xây dựng các đại đoàn chủ lực, bảo đảm cho chỉ huy tác chiến của ba thứ quân, cho đấu tranh chính trị, ngoại giao…phục vụ đắc lực cho lực lượng vũ trang đấu tranh giành thắng lợi trong các chiến dịch, đặc biệt là cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân (1953-1954) mà đỉnh cao là Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954. Với ý nghĩa lịch sự quan trọng như vậy, địa điểm đóng quân của Cục Thông tin (1953-1954) tại Khuân Giàng, xã Trung Lương đã được UBND tỉnh công nhận là di tích lịch sử cấp tỉnh vào tháng 8-2017. NGUỒN: Báo Thái Nguyên
Thái Nguyên 2701 lượt xem
Ngày 25-8, tại xóm Thống Nhất 3, xã Vô Tranh (Phú Lương), huyện Phú Lương đã long trọng tổ chức Lễ đón nhận và động thổ công trình ghi dấu tích địa điểm an táng nhà yêu nước Lương Ngọc Quyến cấp tỉnh. Nhà yêu nước Lương Ngọc Quyến sinh năm 1885, 19 tuổi tham gia vào sự nghiệp giải phóng dân tộc; 29 tuổi, bị thực dân Pháp bắt giữ, kết án chung thân cấm cố qua nhiều nhà tù. Ngày 25-7-1916, chúng chuyển ông lên giam ở Nhà tù Thái Nguyên. Tại đây, ông đã giác ngộ lòng yêu nước, ý chí đấu tranh cho các bạn tù và binh lính khố xanh, trong đó có Trịnh Văn Cấn (tức Đội Cấn). Cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên nổ ra đêm 30-8-1917, đến ngày 4-9-1917, ông bị trúng đạn pháo của địch, hy sinh. Nghĩa quân chôn cất ông ở phía Đông Nam đồi Gò Mu, xóm Thống Nhất 3, xã Vô Tranh (Phú Lương). Ngày 23-12-2001, được sự giúp đỡ của chính quyền địa phương và cơ quan chuyên môn, các hậu duệ đã lấy di cốt ông mang về quê nhà, xã Nhị Khê, huyện Thường Tín (Hà Tây) truy điệu, an táng. Nơi ông yên nghỉ (1917-2001) được tỉnh Thái Nguyên xếp hạng Di tích lịch sử cấp tỉnh (Quyết định số 2386/QĐ-UBND, ngày 10-8-2017). Diện tích đất khoanh vùng bảo vệ di tích rộng 1.281m2, trong đó khu vực an táng rộng 335 m2; khu vực cảnh quan tiếp giáp và khu vực phụ cận rộng 946 m2. Cùng ngày, các đại biểu đã tham gia Lễ động thổ công trình; UBND xã Vô Tranh cũng đã công bố quyết định thành lập Ban Quản lý Di tích, gồm 11 người. NGUỒN: Báo Thái Nguyên
Thái Nguyên 2837 lượt xem
Đình Vân Hán thuộc xóm Vân Hán, xã Văn Hán; đình có từ xa xưa, nằm trên một gò đồi với diện tích trên 1 ha, thuộc loại hình Kiến trúc nghệ thuật, di tích lịch sử kháng chiến. Đình thờ Đức thánh cả Cao Sơn Quý Minh Đại Vương - một danh tướng chống giặc Tống thời Lý và con gái của ông. Năm 1951 tại Đình Vân Hán có mở Hội nghị trù bị ban chính sách thuế nông nghiệp do đồng chí Trường Chinh chủ trì. Đình trước kia được xây dựng theo kiểu nhà sàn, gồm một gian, 2 trái, quay hướng Tây Nam; mái Đình lợp bằng ngói vẩy, trong Đình có nhiều cột to đường kính từ 50 60 cm; trải qua thời gian và các biến cố lịch sử, Đình đã được xây dựng lại 5 lần, lần làm lại cuối cùng năm 2015, gồm 03 gian lợp ngói đỏ. Hiện trong Đình còn giữ được nhiều hiện vật cổ như: 1 Bộ kiệu rước, trạm trổ nổi hình rồng; 1 Nhan án trạm trổ nổi hình con hạc, con rồng; 1 bát hương cổ bằng xứ, trạm trổ hình rồng phượng; 1 Bức tượng ông Cao Sơn Quy Minh, hai góc bên dưới bức tượng khắc 2 mặt của Ngọc Rong và Đoan Trinh là 2 cô con gái của ông; 3 sắc phong do vua: Tự Đức, Duy Tân và Khải Định ban. Ngày 28/2/2012, UBND tỉnh Thái Nguyên đã ban hành Quyết định số 596/QĐ-UBND xếp hạng Đình Văn Hán là di tích cấp tỉnh. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Đồng Hỷ , tỉnh Thái Nguyên.
Thái Nguyên 3005 lượt xem
Đình Thịnh Đức thuộc xóm Thịnh Đức, xã Văn Hán, là nơi sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng của nhân dân. Đình được xây dựng từ lâu, vào năm nào không ai nhớ rõ. Trước đây đình gồm năm gian, cột đình bằng gỗ táu, mái lợp gianh, có hạ sàn hai bên làm chỗ ngồi cho các quan viên và khách đến thăm đình. Trước năm 1945, Đình Thịnh Đức còn có tên gọi là Đình Làng Đẫu, được xây dựng trên gò Na Làng thuộc đất đình của Thịnh Đức, khu đất đình bằng phẳng, không khí thoáng mát; Đình quay hướng Tây Nam xuống cánh đồng của xóm; trước cửa đình còn hai cây đa to, bóng mát toả kín sân đình. Về phong tục, lễ hội hàng năm của Đình, dân làng thờ cúng 5 kỳ trong năm vào các ngày 7 tháng giêng , 23 tháng 3, 10 tháng 3, 15 tháng 8 và 23 tháng 1 (âm lịch); vào ngày lễ hội, làng tổ chức nhiều trò chơi như múa lân , tung còn, hát ví, đánh vật. Ngày nay dân bản vẫn duy trì hương khói vào các ngày trên, nhưng các ngày hội không còn được duy trì nữa. Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc ta (giai đoạn 1946- 1954) tại Đình Thịnh Đức nơi đã diễn ra nhiều cuộc họp bí mật của liên Khu Việt Bắc. Đáng chú ý nhất là năm 1953 thực hiện phong trào cải cách ruộng đất, giảm tô của Đảng và nhà nước. Đình Thịnh Đức được chọn làm nơi họp bàn phong trào cải cách ruộng đất, giảm tô của Đảng và nhà nước. Trong cuộc họp có đồng chí Nông Quốc Chấn đại diện cho liên khu uỷ Việt Bắc về dự. Đình còn giữ được nhiều hiện vật quý như: 1nhan án công đồng, 1 ngai sơn son thếp vàng, 1 bát hương cổ, 4 cờ đuôi nheo, 1 chiêng bằng đồng, 1 cồng bằng đồng, 2 bộ cánh cửa, 2 thang gỗ, 2 con Nghê bằng gỗ, 4 chân nến bằng gỗ, 2 ống hương bằng gỗ, 3 sắc phong vua ban (cùng chung với đình Vân Hán), 1 cột đình bằng gỗ táu. Ngày 21/7/2014, UBND tỉnh Thái Nguyên ra quyết định số 1574/QĐ-UBND xếp hạng Đình Thịnh Đức là di tích lịch sử cấp tỉnh. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Đồng Hỷ , tỉnh Thái Nguyên.
Thái Nguyên 3032 lượt xem
Phú Bình là địa phương có số lượng các di tích đình, đền, chùa và lễ hội lớn nhất trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. Vào dịp đầu xuân, các điểm du lịch tâm linh trên địa bàn huyện như: Cụm di tích Đình - Đền - Chùa Cầu Muối; đình Phương Độ; chùa Khánh Long; chùa Mai Sơn… thu hút khá đông du khách trong và ngoài tỉnh đến tham quan, bái lễ. Trong đó không thể không kể đến quần thể di tích Đình - Chùa Hộ Lệnh nằm ở xóm Trung, xã Điềm Thụy, huyện Phú Bình. Chùa Hộ Lệnh tên chữ là “Linh Quang tự”, xây dựng vào khoảng thế kỷ XVII. Chùa nằm trên địa thế cao, chính diện quay theo hướng Đông Nam. Ban đầu chùa có bố cục gồm: Tam quan, tiền đường, hậu cung, nhà tổ... Trải qua thời gian ngôi chùa đã bị xuống cấp. Tuy nhiên, được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo và sự ủng hộ quyên góp của tăng ni phật tử và người dân trong làng, chùa đã được trùng tu, tôn tạo trên cơ sở giữ nguyên hiện trạng và mở rộng thêm khu giảng đường, nhà thờ vong… để phục vụ quý phật tử thập phương và tổ chức các ngày đại lễ. Chùa Hộ Lệnh đã được UBND tỉnh xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật cấp tỉnh năm 2010. Đình Hộ Lệnh được xây dựng vào triều Lê, năm Vĩnh Hựu thứ 4 (1738). Đình Hộ Lệnh thờ các vị thành hoàng làng gồm: Cao Sơn, Quý Minh và Tam Giang là những vị tướng phò vua Hùng đánh giặc giữ nước và Dương Tự Minh, một danh tướng tài giỏi dưới triều Lý. Đình gồm 3 gian, 2 chái, dài 21m, rộng 9m, được kết cấu bởi 48 cột gỗ lim. Các bộ vì kèo đều được trang trí đề tài “tứ linh”. Đình Hộ Lệnh được công nhận là Di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia vào năm 2001. Hằng năm lễ hội Đình - Chùa Hộ Lệnh được tổ chức vào ngày mùng 4 tháng giêng, thu hút hàng nghìn lượt khách thập phương đến tham quan, bái lễ. Trải qua thời gian, cụm di tích Đình - Chùa Hộ Lệnh vẫn bảo lưu dáng vẻ kiến trúc uy nghi cổ kính, là nơi sinh hoạt tôn giáo tín ngưỡng của người dân địa phương, là điểm du lịch tâm linh thu hút đông đảo du khách thập phương đến tham quan và cầu may. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Phú Bình , tỉnh Thái Nguyên.
Thái Nguyên 3268 lượt xem
Rừng Khuôn Mánh thuộc xã Tràng Xá, huyện Võ Nhai, có địa hình hiểm trở, từng là nơi hoạt động của cán bộ cách mạng và du kích trong thời kỳ bí mật. Ngày 15-9-1941, tại đây đã diễn ra Lễ thành lập Đội Cứu Quốc quân II, đó là mốc son đánh dấu một thời kỳ lịch sử đấu tranh cách mạng kiên cường của Đảng và nhân dân ta trong sự nghiệp giải phóng dân tộc. Lịch sử ghi lại: Ở căn cứ địa Bắc sơn- Võ Nhai, cuộc khủng bố đàn áp cách mạng của thực dân Pháp diễn ra ác liệt, Cứu Quốc quân I phải rút khỏi căn cứ để bảo toàn lực lượng, nhiều cơ sở Đảng bị phá vỡ, phong trào cách mạng gặp khó khăn. Lúc đó Đồng chí Hoàng Quốc Việt, Ủy viên Trung ương Đảng, cùng Ban lãnh đạo cứ địa Bắc Sơn- Võ Nhai chủ trương khôi phục lại đội Cứu Quốc quân I để duy trì tiếng súng võ trang Bắc Sơn, cổ vũ phong trào cách mạng. Sáng 15-9-1941 tại rừng Khuôn Mánh, đồng chí Hoàng Quốc Việt, thay mặt Trung ương Đảng tuyên bố thành lập Cứu Quốc quân II, giao cờ và nhiệm vụ cho Đội phải đấu tranh chống địch khủng bố, trừ gian, diệt phản động đầu sỏ, bảo vệ cơ sở cách mạng, bảo vệ căn cứ địa, củng cố và phát triển các đội tự vệ, duy trì tiếng súng đấu tranh võ trang để cổ vũ phong trào cách mạng của cả nước. Ban chỉ huy của Đội được chỉ định gồm ba đồng chí: Chu Văn Tấn- Chỉ huy trưởng; Nguyễn Cao Đàm- Chính trị viên chỉ đạo; Trần Văn Phấn - Chỉ huy phó. Đội ban đầu có 36 cán bộ chiến sĩ (3 nữ), vài ngày sau quân số lên tới 46 người, biên chế thành 5 tiểu đội, trang bị vũ khí thô sơ: Súng kíp, lưỡi lê, giáo mác... Giữa vòng vây của thực dân Pháp và bộ máy cai trị của phong kiến tay sai, đội Cứu Quốc quân II được thành lập, đây là một lực lượng tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam. Rừng Khuôn Mánh, địa điểm thành lập Đội Cứu Quốc quân II ngày 15-9-1941 đã được Bộ Văn hóa- Thông tin (cũ) xếp hạng di tích lịch sử cấp Quốc gia, xã Tràng Xá được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang trong kháng chiến chống Pháp. Hiện, danh sách Đội Cứu Quốc quân II được khắc trang trọng trên bia đá hoa cương, tạc vào đại ngàn rừng Khuôn Mánh một sự kiện lịch sử quan trọng trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam. Nguồn: Báo Thái Nguyên điện tử
Thái Nguyên 3336 lượt xem
Di tích Nhà tù Chợ Chu nằm ở xóm Vườn Rau, Thị trấn Chợ Chu, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên. Năm 1889, Chợ chu bị thực dân Pháp chiếm đóng. Năm 1894, chúng đặt cơ quan đại diện cai trị vùng này. Đến năm 1916, chúng tiến hành xây dựng nhà tù. Ban đầu nhà tù làm bằng tre, gỗ đơn sơ để giam thường phạm, sau chúng giam cầm cả các chiến sỹ yêu nước tham gia cuộc Khởi nghĩa Thái Nguyên (1917) và Khởi nghĩa Yên Bái (1930). Năm 1940, Khởi nghĩa Bắc Sơn nổ ra, chúng bắt nhiều cán bộ tham gia khởi nghĩa đưa về đây giam giữ. Năm 1942, thực dân Pháp xây dựng nhà tù kiên cố, bằng gạch ngói, xi măng có thể giam giữ 200 người một lúc, trong đó có một số tù chính trị chuyển từ Căng Bá Vân, nhà tù Sơn La đến. Tháng 8/1943, 100 tù chính trị ở Nhà tù Sơn La bị dồn về giam ở đây, trong đó có nhiều đồng chí là đảng viên Đảng Cộng sản. Từ đó, một chi bộ Đảng Cộng sản trong tù được hình thành. Do cài được người vào hàng ngũ binh lính địch, Chi bộ Nhà tù Chợ Chu thường xuyên được sự chỉ đạo của Xứ ủy Bắc Kỳ. Trong tù, các chiến sỹ Cộng sản đã biến Nhà tù thành trường học, nghiên cứu lý luận Mac–Lênin, học tập phương thức tổ chức, lãnh đạo cách mạng, rèn luyện bản lĩnh chính trị. Tại đây các chiến sỹ Cộng sản ở Nhà tù Chợ Chu cho ra đời Báo “Thông Ngàn” và xây dựng các màn kịch có nội dung yêu nước, tự hào dân tộc, các bài ca cách mạng để động viên các chiến sỹ cộng sản, những người yêu nước bền gan đấu tranh, chờ thời cơ thuận lợi để vượt ngục ra ngoài hoạt động. Ngày 2/10/1944, ta tổ chức cho 12 đồng chí vượt ngục thành công đã góp phần xây dựng căn cứ quan trọng ở Định Hóa, Đại Từ và Chiến khu Nguyễn Huệ. Đó là các đồng chí Song Hào, Lê Hiến Mai, Tạ Xuân Thu, Hoàng Bá Sơn, Lê Trung Đình, Vũ Phong, Nhị Quý, Trần Tùng, Chu Nhữ, Nguyễn Cao và Phạm Ngọc Bổng… Di tích Nhà tù Chợ Chu là nơi ghi dấu tội ác dã man của thực dân Pháp và cũng là biểu tượng sinh động của những người chiến sĩ cách mạng đã hiến dâng cuộc sống, chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc. Nhiều đồng chí đã nêu cao tấm gương sáng về tinh thần học tập, trưởng thành qua thực tiễn đấu tranh bất khuất, đóng góp xứng đáng cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Nhà tù Chợ Chu được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng Di tích lịch sử văn hoá cấp Quốc gia ngày 25/2/1998. Nguồn: Trang Thông Tin Điện Tử Huyện Định Hóa Tỉnh Thái Nguyên
Thái Nguyên 4252 lượt xem
Căng Bá Vân nằm trên địa phận xã Bình Sơn, thành phố Sông Công, tỉnh Thái Nguyên – một vùng quê giàu truyền thống cách mạng. Trước năm 1941, Căng Bá Vân là một phần của nhà tù tỉnh Thái Nguyên, được người Pháp xây trên một khu đất hẻo lánh thuộc làng Bá Vân, giao thông khó khăn, dân cư thưa thớt, ngăn cách với bên ngoài bởi dòng sông Công. Nhà tù này được đề xuất xây dựng từ năm 1902, nhưng vì nhiều lý do mãi đến năm 1913 mới được bắt đầu khởi công. Ban đầu, nhà tù tỉnh Thái Nguyên có quy mô nhỏ, các nhà giam làm bằng tre, gỗ, lợp lá đơn sơ để giam thường phạm. Nhận thấy nhà tù này nằm trong chốn “rừng thiêng, nước độc”, nhốt tù ở đây là an toàn nhất, chính quyền Pháp đã cho cải tạo và mở rộng nhà tù, xây kiên cố hơn để có thể tiếp quản nhiều tù nhân hơn. Xung quanh nhà tù có tường rào chắc chắn, bốn góc có bốn vọng gác canh giữ, liền nhà giam là nhà của cai ngục và lính, có một vọng gác riêng cho cai ngục. Ngày 29 tháng 9 năm 1936, Tổng thống Pháp đã ra Sắc lệnh ân xá toàn phần cho các tù nhân trên toàn cõi Đông Dương. Rất nhiều tù chính trị – là những chiến sĩ cộng sản yêu nước sau khi được tha bổng đã trở lại hoạt động, móc nối với lãnh đạo phong trào yêu nước từ Bắc tới Nam để đấu tranh đòi tự do, dân chủ, cơm áo và hòa bình. Trước sự bùng nổ của những cuộc bãi công, biểu tình, bãi chợ, bãi khóa, các cuộc đấu tranh đòi khất thuế, chống nạn cường hào áp bức,… diễn ra từ thành thị đến nông thôn, ngày 21 tháng 1 năm 1940, Chính phủ Pháp đã ra Sắc lệnh quản thúc hay trục xuất khỏi nơi cư trú hoặc giam giữ trong các trại tập trung những “phần tử nguy hiểm” cho việc phòng vệ quốc gia và cho an ninh chung, thực chất là để quản thúc các cựu tù chính trị đã được tha bổng trong thời kỳ trước. Thi hành Sắc lệnh này, Chính quyền thuộc địa ở Việt Nam đã cho lập các trại “lao động đặc biệt” (camp spécial des travailleurs) để giam giữ tù chính trị đã được tha bổng những năm trước, trong đó có căng Bá Vân được thành lập theo Nghị định của Thống sứ Bắc Kỳ ngày 28 tháng 10 năm 1941. Căng Bá Vân được duy trì đến tháng 10 năm 1944 và trong khoảng thời gian từ năm 1941 đến 1944 đã có khoảng 200 tù nhân được đưa về đây giam giữ. Sau khi Căng Bá Vân bị xóa bỏ, thực dân Pháp đã đưa các tù chính trị về giam tại căng Nghĩa Lộ, tỉnh Yên Bái được thành lập năm 1944. Tháng 12 năm 1994, Bộ Văn hóa - Thông tin đã ra Quyết định công nhận di tích lịch sử Căng Bá Vân là di tích cấp quốc gia. Những dấu tích của Căng Bá Vân đến nay đã không còn nữa, bởi xưa trại giam chỉ là những dãy nhà làm từ tre nứa, hàng rào cao 5 mét được dựng nên từ những thanh tre được vót nhọn. Nơi đây đã trở thành trung tâm nghiên cứu và phát triển chăn nuôi miền núi, với những trang trại ngựa lớn nhất tại Việt Nam hiện nay. Những chú ngựa mạnh khỏe, lông mượt sẵn sàng tung vó chạy nước đại sẽ tạo nhiều thích thú cho người tham quan đặc biệt là các em bé. Cảm giác như khách tham quan đang ở thảo nguyên Mông Cổ xa xôi chứ không phải ở Thái Nguyên. Nguồn: Báo Thái Nguyên điện tử
Thái Nguyên 3639 lượt xem