Chùa Phúc Thánh nằm trên núi Ngọc Phác, bên hữu ngạn sông Hồng. Chùa hiện có hai tòa Thiêu Hương và tòa Thượng Điện. Theo bia dựng ở Tòa Thiêu Hương thì chùa Phúc Thánh được xây dựng năm 1145, đời vua Lý Anh Tông, niên hiệu Đại Định. Chùa do bà Phụng Thánh phu nhân Lê Thị Xuân Lan là dòng dõi vua Lê Đại Hành và là vợ thứ tư của vua Lý Thần Tông đứng ra chủ trì xây dựng. Ngôi chùa gắn liền với sự kiện lịch sử hào hùng, một tấm gương chiến đấu kiên cường, bất khuất và sự hy sinh cao cả của người con gái quê hương Đất Tổ Vua Hùng trong cuộc chiến đấu chống lại quân xâm lược Nam Hán, đó chính là nữ tướng Xuân Nương công chúa, một vị tướng tài ba dưới thời dựng cờ khởi nghĩa của Hai Bà Trưng. Trong chùa hiện còn lưu giữ được nhiều hiện vật quý như tượng Đức Ông, tượng Phật Bà Quan Âm, tượng Thổ Địa, tượng thánh Mẫu là Lê Thị Xuân Lan... và một số di vật bằng đá có niên đại thời Lý mang giá trị nghệ thuật điêu khắc cao là tấm bia đá niên hiệu Chính Long Bảo Ứng thứ 9 (1171), đá kê chân cột, bát hương đá. Những di vật này là những bản chạm khắc hiếm hoi còn lại đến nay, nó mang đậm dấu ấn nghệ thuật chạm khắc đá thời Lý thể hiện quan niệm về tín ngưỡng, ước vọng về cuộc sống bình yên, hạnh phúc. NGUỒN: BÁO Phú Thọ
Phú Thọ 2796 lượt xem
Đền Đức Bà ( Hương Nộn, Tam Nông, Phú Thọ, Việt Nam) là nơi thờ Xuân Nương Công chúa - người đã có công lớn trong cuộc khởi nghĩa đầu công nguyên. Bà được Trưng Vương phong chức Tả tướng quân kiêm Tham tán mưu sự khi nhà Hán sai Mã Viện xâm lược trở lại nước ta. Bà đã cùng chồng là ông Thi Bằng chiến đấu dũng cảm chống quân xâm lược và cả hai đều anh dũng hy sinh. Tương truyền rằng, nơi đền thờ Bà hiện nay, là nơi hội tụ nghĩa quân và cũng là nơi Bà tử tiết. Cảm phục công đức của Bà, nhân dân địa phương đã lập đền thờ và Bà được phong là Đức Bản Cảnh Đông Cung Đệ Nhất Bát Vị Xuân Nương Công Chúa Đại Vương. NGUỒN: Cơ quan Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
Phú Thọ 2840 lượt xem
Chùa Bồng Lai ( Xã, Hà Thạch, Phú Thọ, Việt Nam) được xây dựng trên một quả đồi có hình dáng một con voi. Từ đây có thể nhìn bao quát bốn phía. Chùa Bồng Lai quay hướng Tây Nam nhìn ra sông Hồng. Đến gần chùa Bồng Lai, ngay từ đê sông Hồng ta có thể chiêm ngưỡng một hòn đảo “Bồng Lai tiên cảnh” giữa đồng lúa xanh, gần đó là nhà thờ và những nếp nhà cổ kính thấp thoáng sau những đám lá cây cổ thụ, bồng bềnh ẩn hiện giữa nền trời xanh biếc. Chùa có kiến trúc đẹp, ở giữa quả đồi đẹp cao nhất khu vực, như một dấu nối giữa trời và đất, giữa âm và dương. Từ đê bước tới chùa, ta phải leo một con dốc dài mới tới cửa Phật. Một không khí mát mẻ, êm dịu của hương hoa đại, của tán lá cổ thụ tạo nên cảm giác khoan khoái và lắng đọng. Theo văn bia, chùa Bồng Lai thời Lê có kiến trúc kiểu nội công ngoại quốc, gồm 36 gian, tượng trưng cho 36 chòm xóm làng Hà Thạch. Trải qua những biến cố của lịch sử xã hội, chùa Bồng Lai đồ sộ bị mai một dần. Đến nay mặt bằng kiến trúc của chùa được bố cục như sau: Ngoài chùa là cổng tam quan làm lại (tam quan cũ bị phá năm 1953) từ cổng theo một lối đi thẳng tắp đến sân chùa lát gạch đỏ rộng 200m2, bên tả sân là ngôi nhà 3 gian mới xây, bên hữu dựng hàng bia đá. Kiến trúc chính của chùa gồm 2 tòa hình chữ đinh, được xây dựng trên nền đất cao nhất. Tiền đường 5 gian dài 14m, rộng 3,1m, mới làm cách đây trên 20 năm, kết cấu kiến trúc kiểu quá giang gối tường bổ trụ. Tòa thứ hai kiến trúc thượng điện 5 gian, dài 13,5m, rộng 8,7m. Kết cấu vì kèo của tòa nhà này gồm câu đầu và trụ báng chống nóc. Thượng điện chùa Bồng Lai còn lại tương đối nguyên vẹn các thành phần kiến trúc cũ. Tất cả có 20 cột gỗ lớn nhỏ, cột cái cao 3,6 m, chu vi 1,25 m; cột con cao 2,5 m, chu vi 1,0m; thân cột được sơn son và vẽ hình rồng cuốn. Đáng chú ý là còn hai vì kèo của thế kỷ 17, lần trùng tu lớn thời Chính Hòa. Đặc biệt trong chùa còn nhiều tảng kê chân cột, chất lượng bằng đá xanh mịn hạt, hình vuông mỗi cạnh 0,4 m, trên mặt chạm khắc một bông sen hai lớp, mỗi lớp 18 cánh, vòng tròn trong cùng là nơi để tiếp xúc với chân cột. Đây là những hòn kê từ lần trùng tu lớn ở thế kỷ 17. NGUỒN: GIÁC NGỘ ONLINE
Phú Thọ 3042 lượt xem
Quần thể Phổ Quang Tự gồm các công trình kiến trúc cơ bản: Tam quan – Gác chuông, nhà văn chỉ, chùa Phổ Quang, nhà bia, nhà Tổ. Tam quan – Gác chuông tại chùa vẫn bảo lưu được kiến trúc cổ trên địa bàn tỉnh Phú Thọ, với hệ mái chồng diêm 2 tầng 8 mái, đao cong thanh thoát, bờ nóc đắp hình Long cuốn thủy. Thượng lương khắc hàng chữ Hán: “Hoàng triệu Minh Mạng nhị thập niên” (tức Minh Mạng năm thứ 12 – năm 1839), các đầu được chạm khắc hình hoa sen. Trên gác chuông treo quả chuông đồng “Phổ Quang tự chung” và khánh đồng đều có niên đại đức năm Minh Mạng nhị thập niên – năm 1839. Sách Văn khắc Hán Nôm Việt Nam (Hà Nội, 1993) đã tóm lược nội dung khắc trên hai tấm bia đá ở chùa. Một tấm bia tạo năm 1628 cho biết chùa là ngôi cổ tự danh lam bị hư hỏng, nên vào năm 1626, các vị Tín quan, Phú Xuyên hầu Nguyễn Hiếu Dũng, Sĩ Phủ Nguyễn Văn Vị cùng khoảng 70 vị hội chủ hưng công tổ chức trùng tu các tòa thượng điện, thiêu hương, tiền đường, hậu đường, tam quan…Một tấm bia tạo năm 1634, có khắc bài thơ Đường luật 8 câu của Phạm Sư Mạnh năm 1377 nói việc đi kinh lý ở vùng này. Chùa Phổ Quang được xây dựng theo kiểu chữ “Công”, lợp ngói, có hai cấp chùa. Chùa cấp trên cao 10m, dọc 7m, gồm ba gian, có một cửa ra vào từ nhà Tổ lên chùa. Chùa cấp dưới ngang 16m, dọc 13,5m, gồm 5 gian. Đá Kê cột có loại vuông, loại bát giác với trang trí gần như lá đề. Giữa chùa có bức đại tự và hai câu đối. Phổ Quang Tự có kiến trúc theo kiểu trồng đầu, điêu khắc đơn giản. Tòa Tam bảo gồm: Bái đường, Thiêu hương và Chính điện. Bộ khung kết cấu gỗ với các bộ vì nóc làm theo kiểu “Thượng giá chiêng, chồng rường – hạ kẻ”. Chùa Xuân Lũng hiện lưu giữ được hơn 30 pho tượng chất liệu gỗ và thổ, được bài trí trên bệ xây. NGUỒN: Sở Du lịch tỉnh Lào Cai
Phú Thọ 2838 lượt xem
Trải qua hơn 700 năm thăng trầm, ngôi đền Xa Lộc ( Tứ Xã, Lâm Thao, Phú Thọ, Việt Nam) vẫn còn nguyên giá trị vốn có, là nơi để nhân dân gần xa tỏ lòng biết ơn trước đức hi sinh, lòng nhân nghĩa và tinh thần yêu nước của dũng tướng Lân Hổ Hầu - Đô thống Đại Vương. Năm 1991, Đền Xa Lộc đã được Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích lịch sử cấp Quốc gia. Ngày nay, cùng với việc lưu giữ, bảo tồn các hiện vật trong ngôi đền, chính quyền địa phương đã tích cực huy động nguồn vốn xã hội hóa để tiếp tục tu bổ và tôn tạo đền, phát huy ý nghĩa tinh thần to lớn không chỉ với người dân của xã Tứ Xã mà còn thể hiện đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc. Đền Xa Lộc có kiến trúc được xem như điển hình của nghệ thuật kiến trúc thờ tự trên địa bàn tỉnh. Đền được xây dựng theo kiểu chữ Nhị gồm Đại Bái và Thượng cung. Lưng Đền dựa vào thế Đền Tổ Vua Hùng trên núi Nghĩa Lĩnh, Đền hướng Nam, xung quanh thủy tiên bao bọc. Nhà Đại Bái có 3 gian, để chiêng, trống, ngựa thờ, khám thờ với gươm, đao, giáo mác được sơn son thiếp vàng. Đây cũng là nơi thờ vong linh các liệt sỹ đã hy sinh trong các trận chiến đấu bảo vệ quê hương. Bên trong Đại Bái là Thượng Cung thờ thần Lân Hổ và thờ Phùng Sáo Đá và Phùng Sáo Đen - hai vị cận quân tài giỏi của thần Lân Hổ. Hai bên tay trái và phải là nhà tả hữu mạc được xây dựng với kiến trúc đơn giản, ba gian để bà con, dân làng, du khách thập phương chuẩn bị lễ vào đền thắp hương. Điều ấn tượng đối với mỗi người khi đến với Đền Xa Lộc chính là khuôn viên bên trong đền đều được bao phủ bởi các cây cổ thụ, tạo bóng mát và không khí trong lành. Năm 2017, Đền được mở rộng thêm khuôn viên rộng hơn 1ha, với ao sen và cổng tam quan, tạo nên nét uy nghi, đẹp đẽ cho ngôi đền. NGUỒN: BÁO PHÚ THỌ
Phú Thọ 2838 lượt xem
Đền Mẫu Âu Cơ xã Hiền Lương, huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ là nơi thờ Tổ Mẫu Âu Cơ. Từ lâu, trong tâm thức của muôn dân đất Việt, Đền Mẫu Âu Cơ gắn với tín ngưỡng thờ Mẫu Âu Cơ đã trở thành một nét đẹp trong tinh hoa văn hóa của người Việt, là biểu tượng thiêng liêng của nguồn cội con Lạc cháu Hồng của muôn dân đất Việt. Trong thời kỳ hội nhập, nghiên cứu giá trị của Đền Mẫu Âu Cơ gắn với phát triển du lịch tâm linh về cội nguồn dân tộc là hướng đi bảo tồn và phát huy giá trị nhiều mặt của di sản. Từ trung tâm thành phố Việt Trì, theo hướng cao tốc Nội Bài - Lào Cai chỉ hơn một giờ đồng hồ là du khách đến Khu di tích Đền Mẫu Âu Cơ, xã Hiền Lương, huyện Hạ Hòa. Đến đây, mỗi người con đất Việt không chỉ có được những khoảnh khắc yên bình, mà còn được đắm chìm trong không gian huyền thoại về hình tượng mẹ Âu Cơ sinh ra con Lạc cháu Hồng nước Việt trong một bọc trăm trứng. Hình tượng này đã trở thành hình tượng bất hủ sống mãi trong tư tưởng, tình cảm và tâm trí của các thế hệ người Việt Nam. Tương truyền rằng, nàng Âu Cơ là “Tiên nữ giáng trần”, không chỉ rất xinh đẹp, “so hoa hoa biết nói, so ngọc ngọc ngát hương” mà nàng Âu Cơ còn chăm đọc chữ, giỏi đàn sáo, tinh thông âm luật nên thường được gọi là “Đệ nhất tiên thiên công chúa”. Sau khi kết duyên với Lạc Long Quân- con trai của Kinh Dương Vương, nàng Âu Cơ sinh hạ một bọc trăm trứng, nở thành một trăm người con. Một ngày, thấy các con đã lớn khôn, Lạc Long Quân nói với Âu Cơ: “Ta là giống Rồng, nàng là giống Tiên, tuy khí âm dương hợp lại mà thành trăm con, nhưng chung hợp thật khó vì dòng giống bất đồng”. Nói rồi, bèn chia 50 người theo mẹ lên núi, 50 người theo cha xuống biển, chia nước ra để cai trị lưu truyền dài lâu. NGUỒN:BÁO PHÚ THỌ
Phú Thọ 2758 lượt xem
Lễ hội Đền Chu Hưng ở xã Ấm Hạ, huyện Hạ Hòa gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của di tích lịch sử Quốc gia Đền Chu Hưng. Đây là nơi thờ tự Côn Nhạc Đại Vương - người có công đánh giặc bảo vệ giang sơn bờ cõi Chu Hưng vào thời kỳ Vua Hùng thứ 18 - Hùng Duệ Vương. Nhân dân Chu Hưng tỏ lòng thương kính Côn Nhạc Đại Vương nên đã tấu trình lên vua Gia Long xin xây ngôi đền để đời đời khói hương phụng thờ Ngài. Vào tháng 7 - 1806 vua Gia Long đã chính thức chuẩn tấu cho nhân dân Chu Hưng khởi công xây dựng ngôi đền, tọa lạc ở địa thế của một vùng đất linh thiêng, trên đỉnh quy sơn xa xa nơi cửa đền là đỉnh núi Kim Quy - Rùa Vàng. Từ đó đến nay, cứ vào ngày lễ Tết, nhân dân Ấm Hạ nói riêng và nhân dân Hạ Hòa nói chung lại tổ chức thắp hương tế lễ để tỏ lòng tôn kính vị thần và mở hội làng vào ngày mùng 7 tháng Giêng hàng năm. NGUỒN: BÁO PHÚ THỌ
Phú Thọ 2759 lượt xem
Đình đền làng Mạo Phổ còn lưu giữ nhiều hiện vật quý, có giá trị như 6 đạo sắc phong, khám thờ, kiệu, những bức cổn chạm khắc rồng phượng bằng gỗ có niên đại cuối Lê đầu Nguyễn… Hằng năm, vào 4 dịp kỳ cầu, người dân làng tổ chức lễ hội với phần tế lễ, rước kiệu và những trò chơi dân gian đặc sắc. Đình đền Mạo Phổ đã được công nhận là di tích lịch sử văn hóa kiến trúc cấp quốc gia năm 1993. Khu di tích đình đền Mạo Phổ được xây dựng từ thời Hậu Lê với quy mô kiến trúc chia làm 2 phần: đình và đền. Đình và đền nằm trên một khu đất rộng, bằng phẳng, cảnh quan thiên nhiên rất đẹp, hướng về phía Đông nhìn ra bãi bên bờ sông Thao. Hiện nay, ngôi đình cũ đã được những người con của làng quê Mạo Phổ đã phát tâm tu sửa, nâng toàn bộ kiến trúc đình lên cao cho trang nghiêm hơn, rộng rãi hơn, xứng đáng hơn với tầm vóc của các vị thần thánh tại đây. Miếu Đức bà Mạo Phổ là nơi thờ phụng Thánh mẫu Duyên Hòa, trước đây được lập ở một nơi riêng biệt. Trong quá trình xây dựng đường đê đi qua làng, miếu cũ đã được dời đến nơi mới trong cùng khuôn viên với đình và đền làng. Trong miếu còn lưu được di tượng của Thánh mẫu linh thiêng và uy nghiêm. Không chỉ đình đền miếu được người dân Mạo Phổ làm lại cho trang nghiêm hơn mà vào dịp này, nhờ một nhân duyên hiếm có, nội dung bản ngọc phả làng Mạo Phổ bị thất lạc trước đây đã được đưa về đúng với nơi thờ tự của nó. Với điềm chim Phượng ngậm chiếc bút ngọc bay đến trong tiếng sấm nổ khi các vị Đại vương Bút Lôi Mao ra đời cho phép liên hệ với dòng Phượng theo mẹ Tiên Âu Cơ lên núi, sáng tạo ra những chiếc trống đồng vang vọng như tiếng sấm, trên đó khắc đúc hình người đội lông mao, là sự xưng danh dân tộc trường tồn từ thời Hùng Vương. NGUỒN: Bách Việt trùng cửu
Phú Thọ 2922 lượt xem
Chùa Phúc Ân được xây dựng vào thời hậu Lê (thế kỷ thứ 18), đại trùng tu vào năm 1972. Hiện nay, tòa Tam bảo chùa Phúc Ân vẫn giữ nguyên dáng vẻ kiến trúc cổ với mặt bằng kiến trúc kiểu chữ Khẩu gồm: Tòa Tiền đường, hai dãy tả, hữu hành lang và tòa Chính điện. Tòa Tiền đường 5 gian 2 dĩ, 6 hàng chân cột với tổng số 40 cột, có 4 bộ vì kèo giữa kết cấu theo kiểu chồng đấu cột đội con lợn, hai vì đốc kết cấu chồng, giá chiêng. Bộ khung gỗ được liên kết cột xà - kẻ chuyền chắc khỏe, đóng bén bào trơn, các chân cột kê trên đá tảng, mái lợp ngói mũi thời Lê. Nét độc đáo ở tòa Tiền đường là tạo mái hiên rộng hơn để chắn nắng, gió mưa, chỉ có 2 đầu đao cong mái trước, phần cổ diêm làm song bưng ván, hệ tường xây gạch nhưng để hàng cột hai đốc chạy dài thông với hành lang nối thượng điện tạo sự bề thế cho ngôi chùa khi đứng ở mọi hướng. Hai dãy tả, hữu hành lang chạy song song nối Tiền đường và Thượng Điện thực chất bên trong mỗi bên 3 gian, song nhìn từ phía sau lại là 6 gian dài thông suốt. Mỗi dãy có 3 hàng chân cột tổng số cả dãy là 18 cột gỗ. Kiến trúc ở đây cho thấy sự tính toán chính xác, khéo léo của nghệ nhân xưa: Với 3 hàng cột đứng đất và một hàng chân cột đội trên xà ngang để tạo thành hai mái nhà cân xứng mà diện tích sử dụng không bị hẹp, lòng nhà được mở rộng nhờ các kẻ truyền liên tiếp đó là kỹ thuật truyền thống của Việt Nam. Tòa Chính điện làm song song với Tiền đường, được bố trí cao hơn qua cách làm giật cấp. Thượng điện gồm 3 gian, 5 hàng chân cột với 18 cột gỗ, hệ mái độc đáo theo kiểu "Tiền tam, hậu nhị", tường hồi bít đốc, phần cổ diêm của mái trước của mái được làm chấn song con tiện thông thoáng, 4 vì kèo kiểu thức "Thượng giá chiêng, chồng rường - hạ kẻ", trần lát ván gỗ lim tiêu biểu cho truyền thống nhà cổ Việt Nam. Chùa Phúc Ân hiện có 22 pho tượng thờ được bài trí hai bên trong tòa Tiền đường và các lớp tượng trên Thượng điện giật cấp trong tòa Chính điện. Trong đó, tiêu biểu là bộ tượng Tam thế mang phong cách nghệ thuật tạo tác tượng tròn thế kỷ 18. Chùa Phúc Ân hiện bảo lưu hệ thống di vật, cổ vật có giá trị, tiêu biểu: Chuông đồng "Phúc Ân tự trung", cao 0,90m, đường kính 0,50m; Khánh đồng dài 1,05m, rộng 0,90m. Chuông và khánh được đúc vào năm Minh Mệnh tam thập tam niên -năm 1832, quai chuông và khánh được tạo thành những vân kỷ hà, khánh được tạo dáng hình một chiếc lá đề khổng lồ. Trên thân chuông và khánh khắc chữ Hán ghi tên những người công đức tu sửa chùa Phúc Ân. NGUỒN: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ HUYỆN LÂM THAO
Phú Thọ 2524 lượt xem
Đình Hạ Bì Trung nằm trong hệ thống các di tích lịch sử thờ Đức Tản Viên Sơn thánh, Cao Sơn, Quý Minh ở vùng ven sông Đà và vùng trung du Bắc Bộ. Đình được làm bằng tranh, tre, nứa lá ngay sau khi dân làng chuyển từ hữu ngạn về tả ngạn sông Đà vào cuối thế kỷ 18. Đến năm Đinh Hợi năm 1827, ngôi đình được xây dựng bằng gỗ đinh, lim, tường xây, ngói lợp trên một thế đất bằng phẳng, nhìn theo hướng Đông Nam. Bên cạnh Tản Viên Sơn tam vị, Đình Hạ Bì Trung còn thờ Thành hoàng làng đã có công khai dân, lập ấp, lập nên trang Hạ Bì; cùng phối thờ còn có Bản thổ long cung, Tiên Dung công chúa, Nam giao học tổ Sĩ Nhiếp – người có công truyền bá chữ Hán vào Việt Nam. Sau một thời gian dài với những thăng trầm, biến cố của lịch sử, nhiều hạng mục công trình của đình đã bị hư hỏng. Những nét truyền thống còn lưu giữ lại được đó là hệ thống dui mè, hoành, bộ câu đầu, 8 cột cái, ban thờ ba vị thánh Tản Viên Sơn, bát nhang, hai sáp cắm nến, ống hoa… và nghi thức tế lễ vẫn được thực hiện theo các nghi lễ truyền thống. Năm 2007, được phép của ủy ban nhân dân tỉnh, nhân dân trong làng đã đóng góp, công đức trên 500 triệu đồng tu bổ và phục dựng lại một số hạng mục công trình trong di tích. Ngày 13-3, bà con nhân dân trong xã Xuân Lộc (Thanh Thủy) và du khách thập phương đã vui mừng đón bằng công nhận di tích lịch sử cấp quốc gia cho đình Hạ Bì Trung. NGUỒN: BÁO PHÚ THỌ
Phú Thọ 2502 lượt xem