Di tích lịch sử

Việt Nam

Núi Thần Đinh.

Núi Thần Đinh ở thôn Rào Đá, xã Trường Xuân, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Núi này còn gọi là Bất Nghĩa Sơn . Cách Thành Phố Đồng Hới khoảng 25km về phía Tây Nam và cách đường Hồ Chí Minh nhánh Đông 3km, ngọn núi này mang nhiều huyền tích về một cõi tâm linh, từng được người xưa coi là “chốn đa Phật” Trên núi còn nhiều di tích của một ngôi chùa khá tiếng tăm, liên quan đến câu chuyện về chiếc chuông đồng của vua Càn Long đem phụng cúng cho chùa vì tiền kiếp của mình... Trông xa núi mang hình một chiếc yên ngựa. Núi nằm ở độ cao 405m so với mực nước biển và mất chừng khoảng 40 phút leo qua 1260 bậc đá để lên đến Chùa Non (còn có tên Kim Phong). Chùa được xây dựng vào năm 1701. Ở đây tồn tại tấm bia đá lập vào thời Minh mạng thứ 11 (1830) ghi chép về chùa. Trước cửa chùa có giếng nước trong vắt, mát ngọt, không bao giờ cạn được gọi là giếng Tiên. Giếng nằm ngay giữa bốn bề là đá khô khốc, vậy mà không biết nước có từ đâu để giếng luôn đầy cho dù là vào những năm nắng nóng khô hạn nhất. Bây giờ nhiều người tứ xứ đến ngoạn cảnh Thần Đinh, họ không quên mang theo chai nước để lấy ít nước từ giếng Tiên về dùng, coi như nguồn nước tinh tuý từ chốn thần tiên với bao điều mong ước. Đứng trên đỉnh núi Thần Đinh nghe gió ù thổi, nghe truyền thuyết kể rằng: Thầy Ân Khả đã tu ở chùa này (chùa Kim Phong) từ năm 1694 (đời Lê Huy Tông, niên hiệu Chính Hòa, ứng với triều Khang Hy bên Trung Quốc), thầy là người đức độ tài trí, được tăng ni phật tử trong vùng yêu mến. Trước khi viên tịch, thầy cắt một ngón tay út bỏ vào tráp để lại cho chùa. Lạ thay ngón tay tươi mãi không hề bị thối rữa. Sau này thầy đầu thai vào một gia đình bên Trung Quốc và tái sinh trong hình hài vua Càn Long (1736-1796) (tương truyền vua Càn Long cũng bị thiếu mất một ngón tay út). Vua Càn Long linh cảm tiền kiếp có duyên nợ với chùa non trên núi Thần Đinh bên Đại Việt nên đã gửi một quả chuông sang tặng, chuông có khắc mấy chữ "Thần Đinh chung". Thuyền chở chuông vào đến cửa sông Nhật Lệ thì không may bị bão tố nhấn chìm. Sau này một ngư dân quê ở huyện Bố Trạch tên là Đặng Văn Tiên, trong một lần thả lưới đã bắt được quả chuông và đem cúng vào chùa Non trên núi Thần Đinh. Không biết huyền thoại về quả chuông đồng do vua Càn Long tặng có thật hay không. Một số người cho rằng hiện nay quả chuông chùa Non trên núi Thần Đinh đang được treo ở chùa Phổ Minh (ở Thành Phố Đồng Hới). Chiếc chuông của chùa Phổ Minh hiện nay là có thật, nhưng có liên quan với truyền thuyết trên hay không thì chưa ai khẳng định. Toàn đỉnh núi Thần Đinh là những dãy đá vôi thấp màu xám đen, lô nhô như những dãy núi nhỏ mọc lên từ một đỉnh núi lớn trông rất kỳ lạ. Phải chăng vì vậy mà người xưa từng gọi chùa Thần Đinh bằng tên khác nữa là chùa Non? Núi Thần Đinh có ba ngọn. Đá xếp chồng lên nhau gợi cho ta tưởng tượng đây là vị quan viên đội mũ cánh chuồn đang đọc văn. Kia là hình con đại bàng tung cánh, nọ là con hổ đang nhe nanh vuốt. Ngôi chùa Thần Đinh xưa nay chỉ còn lại những mảng tường đá rêu phong, đổ nát, chen đầy cây cối, giữa một vạt đất bằng phẳng đầy cây cổ thụ. Một vài căn miếu nhỏ nằm lẻ loi ở rìa cây phía Bắc là còn khá nguyên vẹn. Cảnh sắc Thần Đinh gợi nhớ biết bao đến tiền nhân. Núi Thần Đinh bây giờ đã trở thành điểm du lịch sinh thái, tâm linh khá hấp dẫn cho du khách. Những người thành tâm khi đến dâng hương, uống nước giếng thần sẽ gặp nhiều may mắn, tránh được ốm đau bệnh tật, cả năm làm ăn phát đạt. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Bình.

Quảng Trị 2843 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Di Tích Lịch Sử Bến Phà Quán Hàu

Bến phà Quán Hàu, là nơi ghi dấu ấn những hoạt động của các công nhân bến phà khi nhiều lần bãi công, dừng chạy phà để cản bước chân quân xâm lược thực dân Pháp. Đây cũng chính là "toạ độ lửa" trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước khi hàng ngày đế quốc Mỹ đã trút hàng ngàn tấn bom hòng chặt đứt nguồn lực tiếp tế từ hậu phương vào tiền tuyến… Bến phà Quán Hàu là di tích lịch sử cấp Quốc gia ở trên QL1A đoạn đi qua thị trấn Quán Hàu huyện Quảng Ninh. Năm 1886, thực dân Pháp đã cho xây dựng bến phà để vượt sông Nhật Lệ. Hàng ngày, những chiếc phà gỗ thô sơ được dùng để vận chuyển người, lương thực, quân đội Pháp qua lại phục vụ mục đích xâm lược của thực dân. Để ngăn cản những bước chân xâm lược của thực dân Pháp, những người công nhân làm việc tại bến phà đã nhiều lần tổ chức đình công, bỏ chèo và cương quyết không tiếp tay cho mục đích xâm lược của thực dân. Những hành động kiên quyết của công nhân bến phà đã góp phần công sức cùng toàn dân đánh đuổi thực dân xâm lược…Trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước, hàng vạn tấn bom đạn của Mỹ đã ném vào bến phà này nhằm chặt đứt tuyến đường huyết mạch vận chuyển hàng hoá, nguồn lực từ miền Bắc chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam. Mặc dù trong mưa bom bão đạn dày đặc của đế quốc Mỹ, các chiến sĩ làm nhiệm vụ tại bến phà này đã anh dũng chiến đấu, bắn trả máy bay địch. Với ý chí quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, được sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng và chính quyền nhân dân huyện Quảng Ninh và sự đùm bọc, giúp đỡ của quân và dân địa phương các xã anh hùng như Lương Ninh, Vĩnh Ninh, Võ Ninh... các cán bộ, chiến sĩ bến phà Quán Hàu đã phát huy truyền thống cách mạng của quê hương "Hai giỏi", xác định tư tưởng chấp nhận gian khổ hy sinh, quyết chiến quyết thắng, dù tình huống nào cũng bảo đảm mạch máu giao thông thông suốt "phà chờ xe chứ quyết không để xe chờ phà". Cán bộ chiến sĩ phà Quán Hàu đã lập nhiều chiến công xuất sắc, hoàn thành tốt nhiệm vụ. Theo chiều dài lịch sử, mỗi ngày bến phà Quán Hàu có nhiều lượt đưa bộ đội, đưa hàng tiếp tế, đưa vũ khí đạn dược vượt qua mưa bom bão đạn để chi viện cho miền nam ruột thịt. Nơi đây cũng đã có biết bao cái tên đi vào huyền thoại trong kháng chiến của quê hương như tấm gương tận tụy, hy sinh của liệt sĩ…Cùng với sự phát triển đi lên của đất nước, bến phà Quán Hàu đã dừng hoạt động và thay vào đó là chiếc cầu Quán Hàu hiện đại được xây dựng nối hai bờ Nam - Bắc phục vụ việc phát triển kinh tế xã hội của địa phương nói riêng và cả nước nói chung. Bến phà Quán Hàu cũng đã được xếp hạng là di tích lịch sử cấp Quốc gia. Hiện nay, điểm di tích này đã được đầu tư xây dựng là nơi người dân huyện Quảng Ninh thường xuyên đến dâng hương tưởng nhớ các anh hùng liệt sĩ… Nguồn Trang thông tin điện tử huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình.

Quảng Trị 2961 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Bến phà Long Đại

Nơi đây ghi dấu sự hy sinh anh dũng của 16 thanh niên xung phong thuộc đơn vị C130 tỉnh Thái Bình trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước cách đây 50 năm: 9/1972- 9/2022. Đây là những câu thơ viết vội của người sinh viên còn rất trẻ tên là Vũ Đình Văn khi đi trên một trong những chuyến phà qua sông Long Đại trong đội hình của đơn vị hành quân vào mặt trận Quảng Trị năm 1972. Chứng kiến cảnh chiến tranh ác liệt và sự hi sinh vô cùng lớn lao của bộ đội, thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến của các đơn vị phục vụ bến phà, anh vô cùng xúc động, cảm phục và đã viết nên bài thơ Đêm hành quân qua phà Long Đại. Bài thơ viết vội ấy đã có những câu thơ thực không thể thực hơn. Hơn nửa thế kỷ trước, bến Phà Long Đại là địa bàn nằm trong vùng “cán soong” của Quân khu IV, trở thành điểm “yết hầu”, “huyết mạch “, là cầu nối giao thông đặc biệt quan trọng trên tuyến đường 15 giữa hậu phương lớn miền Bắc với chiến trường miền Nam và nước bạn Lào, Campuchia. Bến phà còn là một trọng điểm vượt sông trọng yếu, ác liệt nhất của tuyến đường Hồ Chí Minh lịch sử. Chính tại nơi này, đế quốc Mỹ tập trung dội xuống hàng trăm tấn bom đạn dày đặc hòng hủy diệt và “bóp nghẹt” nguồn lực từ hậu phương chi viện vào tiền tuyến. Bến phà Long Đại cùng với các địa danh khác như: Mụ Dạ, Xuân Sơn, Cổng Trời, phà Gianh, phà Quán Hàu trở thành những “túi bom”, “chảo lửa” trong cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ, nhất là từ những năm 1967-1971. Để đảm bảo giữ vững mạch máu giao thông thông suốt, tránh những khi bị địch đánh phá không thể vận chuyển hàng hóa và vũ khí được, từ tháng 1/1971 ở khu vực Long Đại được phát triển thành 2 bến phà: bến phà I ở sát cầu Long Đại ngày nay và bến phà II ở hạ lưu sông Long Đại cách bến I khoảng 500m. Tháng 7 – 1972, đế quốc Mỹ đánh phá ác liệt tại bến phà Long Đại và đường 15A. Đơn vị thanh niên xung phong huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An trong khi đang làm nhiệm vụ đã bị giặc Mỹ ném bom rải thảm vào đội hình làm cho đơn vị bị thương vong nặng nề phải chuyển về tuyến sau củng cố lực lượng. Để đảm bảo mạch máu giao thông thông suốt, đơn vị C130 được điều động ra đóng quân và thường trực ứng cứu tại đây cùng bộ đội công binh kịp thời thông xe thông tuyến. Sống và chiến đấu tại nơi được mệnh danh là “túi bom”, là “chảo lửa” nhưng các chiến sĩ Thanh Niên Xung Phong của Đại đội 130 vẫn không hề nao núng, luôn giữ vững ý chí và quyết tâm: “Đánh địch mà đi, mở đường mà tiến”, “Địch đánh phá ta sửa ta đi, địch lại phá ta lại sửa ta đi, “Sống bám cầu bám đường, chết kiên cường dũng cảm”. Địch đánh xong, ta cứu người, cứu hàng hóa, khí tài, người này ngã, người khác thay thế, tiếp tục làm nhiệm vụ thông bến, bảo đảm mạch máu giao thông. 15 giờ ngày 19/9/1972, trong lúc các chiến sĩ của đơn vị C130 tỉnh Thái Bình đang làm nhiệm vụ tại bến phà 2 Long Đại, thì máy bay Mỹ đã liên tục ném bom tại bến phà Long Đại và đánh vào đội hình của C130. Trận oanh kích của địch chỉ kéo dài trong khoảng một giờ đồng hồ đã gây những thiệt hại hết sức nặng nề và tổn thất lớn cho đơn vị: 15 chiến sĩ đã hy sinh (7 nữ, 8 nam), trong đó có 3 chiến sĩ hy sinh khi đang vận chuyển hàng bằng thuyền từ bờ Bắc sang bờ Nam sông Long Đại; 12 chiến sĩ hy sinh tại bến phà và trong hầm trú ẩn, một số đồng chí khác bị thương. Sau khi máy bay giặc Mỹ ngừng ném bom, khu vực đơn vị đóng quân chỉ còn lại bãi đất ngồn ngang hố bom. Các chiến sĩ đã khẩn trương đến khu vực hầm để đào bới thật nhanh với hy vọng đồng đội của mình vẫn an toàn, nhưng sau mỗi lớp đất trái tim họ lại quặn thắt khi nhìn thấy đồng đội của mình nằm đó, có những chiến sĩ thi thể không còn nguyên vẹn. Toàn đơn vị đã nén đau thương để mai táng các anh, các chị và tiếp tục nhiệm vụ của mình. Nỗi đau của đơn vị chưa nguôi, ngày 23/9/1972, đế quốc Mỹ lại tiếp tục ném bom xuống bến phà Long Đại, chiến sĩ Trần Mạnh Hà trong khi đang làm nhiệm vụ đã hy sinh. Đơn vị C130 một lần nữa lại phải tiễn đưa người đồng đội của mình trong niềm tiếc thương vô hạn, trong nỗi đau lên đến tột cùng. Sau hai đợt rải thảm bom của đế quốc Mỹ, đơn vị C130 đã hy sinh 16 đồng chí gồm 7 nữ, 9 nam. Các anh, các chị đã dũng cảm hy sinh khi đang làm nhiệm vụ tại bến phà 2 Long Đại ở thời điểm ác liệt nhất và mãi mãi nằm lại với đất mẹ Quảng Ninh (Quảng Bình). 50 NĂM ĐÃ TRÔI QUA (9/1972 – 9/2022), máu xương của các anh chị đã hòa vào dòng chảy của dòng sông Long Đại, an giấc ngàn thu. Để tri ân, tưởng nhớ các anh hùng liệt sỹ đã hy sinh vì sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, Tỉnh đoàn Quảng Bình đã phối hợp với Tập đoàn Công nghiệp cao su Việt Nam đầu tư xây dựng Nhà bia tưởng niệm 16 thanh niên xung phong hy sinh tại bến phà II Long Đại. Công trình khánh thành vào ngày 21-12-2012. Ngày 7-10-2016, Uỷ Ban Nhân Dân tỉnh Quảng Bình đã ban hành Quyết định số 3101/Quyết Định -Uỷ Ban Nhân Dân xếp hạng di tích lịch sử đối với nơi hy sinh của 16 Thanh Niên Xung Phong tại bến phà II Long Đại tháng 9-1972. Cùng với đền tưởng niệm các anh hùng liệt sỹ Trường Sơn, di tích là “địa chỉ đỏ” trong hành trình du lịch thăm lại chiến trường xưa, tri ân đồng đội. Và trong mỗi người dân, cán bộ chiến sỹ trong và ngoài huyện nhà khi đến đây dâng hương tưởng niệm đều cảm thấy tự hào về những chiến công của các thế hệ cha anh đã chiến đấu anh dũng, hy sinh vì nền độc lập, tự do dân tộc. Nguồn Trang thông tin điện tử huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình.

Quảng Trị 2951 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Mộ và nhà thờ Hoàng Kế Viêm

Mộ và nhà thờ Hoàng Kế Viêm thuộc thôn Văn La, xã Lương Ninh (huyện Quảng Ninh) được xếp hạng di tích lịch sử cấp tỉnh theo Quyết định số 2167/Quyết Định - Uỷ Ban Nhân Dân ngày 26-8-2011. Di tích là nơi để tưởng niệm Hoàng Kế Viêm-một nhân vật lịch sử có vai trò quan trọng trong thời kỳ chống Pháp nửa sau thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, đồng thời cũng là nơi để giáo dục cho thế hệ trẻ truyền thống yêu nước, lòng dũng cảm, kiên cường đấu tranh bảo vệ đất nước của tổ tiên, ông cha, khơi dậy lòng tự hào về truyền thống quê hương. Hoàng Kế Viêm (1820-1909) còn gọi là Hoàng Tá Viêm, tự Nhật Trường, hiệu Tùng An, quê làng Văn La, tổng Văn Đại, phủ Quảng Ninh (nay thuộc xã Lương Ninh, huyện Quảng Ninh). Năm 1843, Hoàng Kế Viêm thi đỗ cử nhân và được bổ làm tư vụ, hàm Quang Lộc Tự Khanh. Năm 1846, đời vua Thiệu Trị, ông làm lang trung Bộ Lại. Năm 1852, ông giữ chức án sát tỉnh Ninh Bình; năm 1854, ông được thăng Bố Chính tỉnh Thanh Hóa; năm 1859, là Bố Chính kiêm Tuần vũ tỉnh Hưng Yên; năm 1863, ông giữ chức Tổng đốc An-Tĩnh (Nghệ An-Hà Tĩnh). Trong thời gian này, ông đã có công trong việc trị an, mở mang kinh tế, phát triển dân sinh. Năm 1870, ở Bắc Kỳ xảy ra nhiều biến loạn, giặc Cờ Đen, Cờ Trắng, Cờ Vàng hoành hành, cướp phá, quấy nhiễu nhân dân, Pháp âm mưu chiếm vùng sông Hồng để được tự do buôn bán với vùng Vân Nam và Hoa Nam (Trung Quốc), khiến cho tình hình xã hội hết sức rối loạn. Trước tình hình đó, triều đình đã cử Hoàng Kế Viêm làm Thống đốc quân vụ đại thần bốn tỉnh Lạng-Bình-Ninh-Thái, trực tiếp chỉ huy quân thứ Tam Tuyên cùng với Tán tương Tôn Thất Thuyết lo việc dẹp loạn, ổn định Bắc Kỳ. Với kế sách “vừa đánh vừa dụ hàng”, chỉ sau một thời gian ngắn, Hoàng Kế Viêm đã thu phục được thủ lĩnh quân Cờ Đen là tướng Lưu Vĩnh Phúc, cùng hợp sức đánh tan giặc nổi loạn Cờ Trắng, Cờ Vàng. Nhờ vào công lao này, ông được phong hàm Đại học sĩ lãnh Tổng đốc Tam Tuyên, sung Tiết chế quân vụ Bắc Kỳ. Năm 1873, quân Pháp dưới sự chỉ huy của đại úy F.Garnier đánh chiếm thành Hà Nội và nhiều tỉnh khác ở Đồng bằng sông Hồng, Hoàng Kế Viêm được triều đình cử làm Tiết chế quân vụ Bắc Kỳ (chức vụ quân sự cao nhất ở Bắc Kỳ) để chỉ huy, đôn đốc việc phòng thủ chống Pháp. Ở chức vụ này, ông đã chỉ huy quân dân Hà Nội phối hợp với quân Cờ Đen đánh thắng cuộc tấn công của Pháp vào thành Hà Nội, giết chết tên chỉ huy Pháp F.Garnier. Mười năm sau, ngày 19-5-1883, Hoàng Kế Viêm lại chỉ huy quân dân Hà Nội đập tan cuộc tấn công của quân Pháp ở Cầu Giấy, bắn chết tên trung tá chỉ huy H.Riviere. Năm 1887, ông được thăng chức Thái tử Thiếu bảo, Cơ mật Viện Đại thần. Ngoài tài năng về quân sự, Hoàng Kế Viêm còn là người hay chữ: làm thơ, viết văn, viết sử. Những tác phẩm của ông bằng Hán Nôm với bút danh Tùng An khá đa dạng và phong phú như: Trù Thiết sơn phòng sư Nhị tấn (tổng kết việc củng cố an ninh vùng biên cương kết hợp với khai hoang và tăng gia sản xuất), Thần cơ yếu ngữ (sách giáo khoa cho bộ binh nói về cách sử dụng các loại vũ khí mới, cách bắn súng, bảo quản vũ khí có tranh vẽ minh họa và các bài tập), Hoàng Triều Văn Vũ thế tắc lệ (Những phép tắc cho các trường thi võ), Phê thị trần hoàn (ghi chép về đời vua Tự Đức), Tiên công sự tích biệt lục (ghi lại thân thế và sự nghiệp của cha ông)... Sau khi mất, ông được vua Duy Tân truy tặng hai chữ “Văn Nghị " có nghĩa là bạn của văn chương. Người dân địa phương truyền tụng về Hoàng Kế Viêm rằng, khi về hưu, vua ban cho ông 4 mẫu ruộng nhất đẳng điền tùy ý chọn nhưng ông chỉ chọn 4 mẫu đất cỏ hoang mà người làng Thế Lại dùng để nuôi trâu bò rồi ông vận động con cháu trong họ cùng dân làng đi khẩn hoang một vùng đất khác cạnh đó thành đồng ruộng hai mùa tươi tốt. Nhân dân gọi đó là đồng cồn Hoàng ngàn mùa không mất. Ruộng khai phá xong, ông chia đều cho mọi người cày cấy. Biết ơn ông, dân làng đã lập một đền thờ Thổ công tại cánh đồng để hàng năm cúng tế. Ngày khai trương đền thờ, người dân thắp hương, đèn cúng khấn nhưng hương không cháy, đèn không đỏ, họ lấy làm kỳ lạ, hoảng sợ họ phải cho người về mời rước ông lên cúng. Từ đó về sau, đến kỳ cúng bái không còn xảy ra chuyện như vậy nữa nên dân làng xem ông còn to hơn cả Thổ thần. Khuôn viên lăng mộ Hoàng Kế Viêm có diện tích hơn 230m2, bao gồm: cổng, sân, hàng rào, bia mộ, hồ bán nguyệt và mộ. Phần mộ được xây bằng xi măng theo h́ình chữ nhật, phía trên mộ đắp nổi h́ình 7 lá sen chồng lên nhau tượng trưng cho sự thanh bạch, tấm lòng trong sáng như cuộc đời của ông. Nhà thờ được xây dựng vào năm 1937 bằng gạch và lợp ngói âm dương. Kiến trúc của nhà thờ gồm ba gian, được bài trí theo hướng đông-nam, rộng khoảng 300m2. Năm 1967, nhà thờ đã bị đánh sập trong một đợt không kích của giặc Mỹ. Năm 1998, con cháu hậu duệ đã đóng góp công, của xây dựng lại nhà thờ như hiện nay. Hàng năm, cứ đến ngày giỗ ông, con cháu trong dòng họ tập trung tại nhà thờ làm lễ dâng hương, cúng bái để tưởng nhớ công đức của ông. Với những ý nghĩa và giá trị lịch sử đó ngày 24/02/2023, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ban hành Quyết định số 396/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao Du Lịch về việc công nhận Di tích lịch sử Mộ và Nhà thờ Hoàng Kế Viêm ở xã Lương Ninh (huyện Quảng Ninh) là di tích Quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Bình.

Quảng Trị 2915 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đình Kim Bảng và hang lèn Cây Quýt

Di tích lịch sử cách mạng đình Kim Bảng và hang lèn Cây Quýt thuộc thôn Kim Bảng, xã Minh Hóa (huyện Minh Hóa). Nơi đây gắn liền với những sự kiện lịch sử sôi động hào hùng của tỉnh Quảng Bình và của dân tộc trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp. Đặc biệt, nơi đây diễn ra sự kiện Đại hội đại biểu tỉnh Đảng bộ Quảng Bình lần thứ II vào ngày 19/5/1949. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Minh Hóa có vị trí chiến lược quan trọng, là căn cứ địa cách mạng của tỉnh Quảng Bình. Đình Kim Bảng là ngôi đình không rộng lắm nhưng nằm ở vị trí thuận lợi giữa một vùng đất khá rộng và bằng phẳng. Từ Kim Bảng, theo các con đường bí mật xuyên rừng có thể tỏa về các ngả, vì vậy, các đại biểu có thể đến dự đại hội mà vẫn được bảo đảm bí mật, an toàn. Cạnh đình Kim Bảng còn có các hang lèn như hang Quýt, hang Diêm rộng và sâu, có thể tổ chức cho vài trăm người hội họp phòng khi bất trắc. Với điều kiện đó, Huyện ủy Tuyên Hóa đã bố trí lấy lèn đá phía ngoài hang Diêm làm nơi đặt vọng gác bảo vệ vòng ngoài, đồng thời bố trí lực lượng dân quân du kích canh gác suốt ngày đêm trong thời gian diễn ra đại hội. Còn hang Quýt được chọn làm nơi trú ẩn hoặc có thể làm nơi tổ chức đại hội khi có sự cố xảy ra. Nhân dân ở đây giàu truyền thống cách mạng, một lòng đi theo Đảng, Bác Hồ…Chính vì vậy, chỉ trong thời gian ngắn, 4 ngôi nhà dã chiến bằng gỗ, tranh, tre, nứa,…đã được dựng lên quanh đình Kim Bảng để phục vụ cho đại hội. Đồng bào Minh Hóa không chỉ góp công mà còn dốc hết của từ trâu bò, lợn, gà đến ngô, sắn, rau quả…ủng hộ cho đại hội. Hàng chục cán bộ, du kích và nhân dân được cử đến phục vụ đại hội trong suốt 12 ngày (đại hội diễn ra trong 9 ngày và 3 ngày cho công tác chuẩn bị). Quanh khu vực đình Kim Bảng, 8 vọng gác được đặt trên điểm cao và cắt cử người canh giữ nghiêm ngặt. Nhờ đó, đại hội đã được bảo đảm bí mật, an toàn tuyệt đối, thậm chí đến 7 ngày sau khi đại hội bế mạc thì thực dân Pháp mới biết được, chúng điên cuồng cho máy bay đến thả bom, đốt cháy đình.Đại hội đại biểu tỉnh Đảng bộ Quảng Bình lần thứ II là một sự kiện vô cùng quan trọng trong lịch sử Quảng Bình. Nghị quyết do Đại hội thông qua đã đáp ứng kịp thời những đòi hỏi khách quan của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Quảng Bình. Đưa phong trào kháng chiến chuyển sang bước ngoặt lịch sử mới có ý nghĩa cực kỳ quan trọng không những với nhân dân trong tỉnh mà còn có ảnh hưởng tích cực đối với phong trào kháng chiến của cả nước. Di tích lịch sử cách mạng đình làng Kim Bảng và hang lèn Cây Quýt được xếp hạng cấp tỉnh theo Quyết định số 1088/Quyết Định -Uỷ Ban Thể Thao Du Lịch ngày 9-7-1999 của UBND tỉnh Quảng Bình. Đình Kim Bảng, hang lèn Cây Quýt với “Quảng Bình quật khởi”, ngày 15-7, đã trở thành ngày truyền thống lịch sử của Quảng Bình, trở thành phong trào thi đua vượt qua thử thách trong suốt chặng đường kháng chiến của nhân dân ta. Đình Kim Bảng được tiến hành xây dựng vào 1924 và hoàn thành vào năm 1925. Đình được làm bằng gỗ, mái lợp tranh, nền đất, đình gồm có đình Tiền và đình Hậu. Trong thời kỳ chống Pháp đình bị máy bay Pháp bắn cháy, sau đó đình được sửa lại làm trường học và nhà kho quốc phòng. Năm 1966, đình lại bị máy bay Mỹ ném bom Napan cháy toàn bộ. Hiện nay, đình được tỉnh cấp kinh phí khôi phục lại đình trên nền đất cũ của đình làng. Năm 2004, đình được phục hồi và tu bổ, tôn tạo, trở thành một điểm đến ý nghĩa cho du khách và nơi sinh hoạt văn hóa, giáo dục truyền thống yêu nước và cách mạng cho các thế hệ. Hang lèn Cây Quýt nằm cách đình Kim Bảng khoảng 500m; có chiều cao trung bình khoảng 3m; rộng 15,5m; chiều sâu của hang 22m; cửa hang rộng 10m. Hang lèn Cây Quýt được sử dụng trong những ngày diễn ra Đại hội II tháng 5 năm 1949. Cũng tại hang lèn Cây Quýt tháng 9 năm 1964 đã diễn ra Hội nghị quân chính của sư đoàn 325A an dưỡng để ổn định tổ chức chuẩn bị vào Nam chiến đấu. Năm 1968, huyện tổ chức mừng công bắn rơi chiếc máy bay thứ 3.000 của Mỹ trên miền Bắc; Hang lèn Cây Quýt cũng là nơi cất giấu 400 tấn lương thực trong những năm chiến tranh chống Mỹ. Đặc biệt, hang lèn Cây Quýt vừa là di tích khảo cổ được M.cô-la-ni một nhà khảo cổ học người Pháp thuộc trường Viễn đông Bác cổ Hà Nội trước đây khai quật và nghiên cứu. Nguồn Cổng thông tin điện tử xã Minh Hóa , huyện Minh Hóa , tỉnh Quảng Bình.

Quảng Trị 2802 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Đình làng Lý Hòa

Đình Lý Hòa thuộc xã Hải Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình. Đình nằm trên một vùng đất cao giữa làng, với địa thế đẹp, thoáng mát. Cách quốc lộ 1A theo đường bờ sông về phía Đông Bắc chừng 1 km, đình hướng về phía Nam, trước mặt là con sông Lý hiền hòa chảy xuôi ra biển. Đình Lý Hòa được xây dựng năm 1737, do dân làng cùng nhau góp công, góp của. Mới đầu đình chỉ có 4 trụ bằng lim, hàng năm khi tế lễ nhân dân mới dựng lên lợp tranh, khi tế lễ xong lại hạ xuống xếp lại. Vị thần được thờ trong đình làng “Cương khẩu Đại vương”, một vị thần giữ cửa biển Cương Gián được thờ ở đình làng Cương Gián (Nghi Xuân - Nghệ An) - Gia phả các dòng họ ở Lý Hòa đều ghi các vị thần tổ ở làng Cương Gián - xứ Nghệ vào. Năm 1804 - 1808 khi Hội đồng hương Lý vững mạnh, thì nhân dân quyên góp để làm, mái đình được lợp bằng ngói vảy, phần hậu chẩn chỉ để giữ thờ. Sau đó dựng thêm đình trung. Năm 1824 xây cất thêm phần ngoài, hai gian cũ để thờ đồ tử khí. Theo phần phả để lại thì trong cùng “tứ trụ” gồm 4 vị thần: Thiên Yana, Hạnh Tiểu Nương và hai nàng công chúa con Thiên Yana (dân gọi là tứ vị đại càn). Đình giữa thờ thành hoàng và thờ vọng các vị thần có miếu dinh trong làng. Ngoài cùng thờ thập nhị gia tiên (tiên tổ 12 họ) có sắc bằng của vua. Nói đến làng Lý Hoà, không ai lại không biết đến dòng họ Nguyễn Duy, một dòng họ trong nhiều đời kế tục đỗ đạt làm quan to, được kính trọng. Trong thời kỳ nhà Nguyễn, kể từ năm Minh Mạng thứ 10 mở đại khoa đầu tiên cho đến khoa thi cuối cùng 1919, dòng họ Nguyễn Duy ở làng Lý Hòa đã đóng góp 5 vị đại khoa (tiến sĩ). Đó là trường hợp có một không hai trong lịch sử khoa cử Việt Nam thời phong kiến. Đình Lý Hòa ngoài việc thờ tự các vị tổ khai cơ làng, khai cơ nghề nghiệp cho con cháu, thờ tự các danh khoa danh giá của làng, còn gắn liền với các sự kiện lịch sử tiêu biểu của địa phương, của tỉnh trong thời kỳ tiền khởi nghĩa giành chính quyền ở huyện lỵ, trong thời kỳ chống thực dân Pháp xâm lược nước ta đặc biệt là trong cuộc chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ. Những ngày đầu chuẩn bị cho việc vận động quần chúng, tập hợp lực lượng trong mặt trận Việt Minh để cùng địa phương tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền. Đình Lý Hòa là nơi các chiến sĩ cách mạng đã cất dấu tài liệu và đi lại bắt liên lạc, nhóm họp để trao đổi các chủ trương lớn của cấp trên. Ngày 23/8/1945, cả làng đã hội tụ tại đình, đổ về huyện đường. Cùng các địa phương trong huyện làm nên cuộc khởi nghĩa cách mạng tháng Tám giành chính quyền ở huyện lỵ thắng lợi. Trong cuộc chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ. Đình Lý Hòa nói riêng, làng Lý Hòa nói chung là một trong những nơi đánh phá cực kỳ dã man của giặc Mỹ. Địch đánh từ trên trời xuống, từ biển vào.v.v... Các thế hệ, các lớp thanh niên của làng trước khi lên đường nhập ngũ đều tập trung tại đình để được nhắc nhở phát huy truyền thống cha ông, sống xứng đáng với tổ tiên đã tạo dựng ra nền văn hóa tinh thần, văn hóa vật chất và quyết tâm bảo vệ quê hương đất nước, trong những năm tháng chiến tranh quyết liệt, làng Lý Hòa vinh dự được các đồng chí Võ Nguyên Giáp, Đồng Sĩ Nguyên, Lê Quang Hoà... khi vào chiến trường đều ghé thăm. Đình Lý Hòa cũng như làng Lý Hòa nói chung bị đánh đi đánh lại nhiều lần, đình bị bom Mỹ tàn phá, nhưng làng còn là đình còn. Nhân dân địa phương vẫn kiên trì bám trụ, một tấc không đi, một ly không rời, bám làng bám quê hương. Chắc tay chèo tay súng, hưởng ứng khẩu hiệu: “xe chưa qua nhà không tiếc, đường chưa thông không tiếc máu tiếc xương”. Những cột đình bị sập, bị gãy, cùng với nhà cửa, nhân dân tháo dỡ để phục vụ cho những chuyến xe qua, đảm bảo giao thông, đảm bảo mạch máu vì miền Nam ruột thịt. Những chiến sĩ bị thương, những đoàn an dưỡng đều dừng chân tại đình để sau đó ra Bắc, vào Nam. Từ ngày hòa bình lập lại đến nay, đình làng thành nơi hội họp, nơi sinh hoạt văn hóa, là trung tâm chính trị, xã hội của cộng đồng làng xã, nơi các thế hệ con cháu tìm hiểu thêm quá khứ rực rỡ của tổ tiên, nâng cao lòng tự hào và trách nhiệm của mỗi người đối với quê hương làng xóm. Đình Lý Hòa có giá trị lịch sử kiến trúc nghệ thuật tiêu biểu, là nơi thờ tự các vị tổ có công khai sáng làng và các nghề đặc trưng của làng biển (việc tế lễ của đình ngoài hai kỳ Xuân - Thu, mỗi năm có đại trường câu, có việc của làng, ngày tết. Ngoài ra cứ 6 năm có một kỳ tế lễ thành hoàng rất long trọng). Đình Lý Hòa là hiện thân của bản sắc văn hóa làng quê Việt Nam cùng với biết bao giá trị văn hóa đáng được bảo tồn. Hơn nữa đình còn gắn liền với những sự kiện lịch sử tiêu biểu của địa phương, của tỉnh, đặc biệt từ năm 1945 đến nay. Đình còn là một công trình mang biểu tượng lịch sử văn hóa, là nơi sinh hoạt văn hóa của làng biển Lý Hoà. Nơi giáo dục phát huy truyền thống hiếu học, lòng yêu quê hương đất nước cho các thế hệ hôm nay và mai sau. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình

Quảng Trị 2953 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đình làng Tượng Sơn

Đình Tượng Sơn nằm ngay trung tâm xã Quảng Long, trên một thế đất tương đối cao, phía trước có dòng sông Mai (sông Kênh Kịa) chảy qua, sau dựa vào triền cát như ôm trọn lấy làng Tượng Sơn. Lịch sử xây dựng đình làng gắn với lịch sử xây dựng và phát triển cùng với những biến động về chính trị - xã hội diễn ra trên vùng đất Quảng Long, Quảng Trạch (thời phong kiến thuộc xã Đại Đan, tổng Thuận Bài). Đình được xây dựng vào năm Canh Ngọ (1750), đời vua Cảnh Hưng thứ XI đến nay đã hơn 250 năm. Đình Tượng Sơn lúc đầu xây dựng để thờ và ghi công các vị tổ đã có công khai khẩn lập ra làng Đại Đan và những vị được vua giao "Bảo quốc hộ dân", sau này thờ các vị thần trung quân ái quốc. Qua ký ức của nhiều thế hệ dân làng, đình Tượng Sơn là một trong những ngôi đình lớn trên đất Quảng Bình lúc bấy giờ. Đình được xây dựng và bài trí khá công phu. Đình gồm sân đình, tiền đình và hậu đình. Sân đình, tiền đình là nơi diễn ra lễ hội và nơi vui chơi giải trí, gặp mặt tế lễ, hội họp, rước sắc của làng. Hậu đình là nơi thờ Thành Hoàng và các vị thần có công với quê hương đất nước. Đình Tượng Sơn là sự kết hợp giữa chính quyền và thần quyền. Sau vụ đàn áp phong trào Cần Vương ở huyện Quảng Trạch thất bại (1888), thực dân Pháp điên cuồng tìm cách trả thù. Chúng đã lợi dụng hiềm khích giữa dân lương giáo, xúi giục bọn việt gian đội lốt tôn giáo đốt cháy đình làng. Dù rằng lúc này Đình chỉ còn lại dấu tích một thời, nhưng hình ảnh ngôi đình làng vẫn in đậm trong ký ức của mỗi người dân. Với tâm huyết đó, mùa xuân năm Nhâm Tý (1912) đình làng được khởi công xây dựng lại trên nền đình cũ theo kiến trúc của triều Nguyễn. Sau một năm chung lòng chung sức, góp công góp của của cộng đồng làng, đến mùa xuân năm Quý Sửu (1913) đình làng hoàn thành. Về cấu trúc, đình xây dựng lại lần 2 cơ bản vẫn như cũ nhưng đồ sộ và hoàn hảo hơn. Đặc biệt phần trang trí phối cảnh bên ngoài cũng như các chi tiết đường nét hoa văn, chạm trổ hình ảnh con voi trận được khắc ở bình phong đều thể hiện rõ tinh thần thượng võ của vùng đất Tượng Sơn. Riêng phần hậu đình ngoài việc thờ Thành Hoàng làng còn thờ vua Quang Trung và danh tướng Nguyễn Dụng ở chính diện hợp với ý nguyện lòng dân. Năm 1968, do tính chất của cuộc chiến tranh phá hoại ngày càng ác liệt của đế quốc Mỹ, ngôi đình lại bị bom đánh sập. Mãi cho đến năm 1993, Đảng bộ và nhân dân Quảng Long đã phục hồi lại phần hậu đình gồm 3 gian, được xây bằng đá, gạch, xi măng, mái lợp ngói như hiện trạng ngày nay. Tuy nhiên, việc làm đó cũng mới chỉ dừng lại việc phục hồi nơi thờ tự, chứ chưa tái hiện lại phần kiến trúc nghệ thuật của ngôi đình ngày xưa. Đình Tượng Sơn là một công trình lịch sử - văn hóa, là nơi hội tụ những sinh hoạt văn hóa truyền thống tốt đẹp của vùng đất Quảng Long là nơi trao truyền giá trị văn hóa giữa các thế hệ. Các phong tục, lễ hội của làng diễn ra ở Đình đều tập trung phản ánh các quan niệm thờ cúng và thể hiện tư tưởng người nông dân làng xã trong sự tôn vinh các vị thần. Trong những năm vận động thành lập chi bộ Đảng ở địa phương, Đình Tượng Sơn là nơi các chiến sĩ cộng sản đi lại, họp kín để trao đổi, tuyên truyền những chủ trương, đường lối của Đảng. Thời kỳ tiến tới tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng 8, đình làng cũng là nơi diễn ra các cuộc mít tinh của mặt trận Việt Minh kêu gọi quần chúng nổi dậy hưởng ứng sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc. Đêm 19/8/1945, tại đình làng, Ban vận động và chỉ đạo khởi nghĩa xã được thành lập. Tại đây ngày 23/8/1945, tên lý trưởng đã giao nộp ấn tín và sổ sách cho Việt Minh. Hoà bình lập lại (1954), đình Tượng Sơn là trụ sở hành chính trong một thời gian khá dài của uỷ ban xã Quảng Long. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, để đảm bảo cho việc chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến miền Nam. Đình Tượng Sơn trở thành nơi tập kết, dừng chân của các đơn vị bộ đội, nơi trung tâm tiếp nhận hàng hóa, vũ khí. Ngoài ra đình cũng là nơi chứa đựng quân khí của đại đội 365, pháo 37, Bệnh viện Quảng Trạch cũng đóng ở đây. Khi phát hiện được những điểm cất dấu hàng nên đế quốc Mỹ đã tập trung đánh phá ác liệt vùng đất Quảng Long, lúc này đình đã bị đánh sập. Nhưng với tinh thần tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng, Đảng bộ và nhân dân Quảng Long đã dùng số gỗ còn lại để làm hầm phòng không, hầm cứu thương và phần lớn đưa ra làm cầu Kênh Kịa cho xe qua. Có thể nói trong những năm tháng đầy khó khăn, gian khổ, hy sinh chống lại cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, đình Tượng Sơn đã góp một phần đẩy nhanh sự nghiệp thống nhất đất nước. Với những giá trị về mặt lịch sử trên năm 2003, đình Tượng Sơn được Bộ Văn hóa-Thể thao và Du lịch công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Bình.

Quảng Trị 2775 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đình làng Lũ Phong

Đình làng Quảng Phong-trước đây gọi là đình Lũ Phong, được xây dựng vào năm 1542, để thờ 5 vị thánh Thành hoàng có công khai khẩn, lập làng qua các thời kỳ. Năm 1962, đình được công nhận là Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Trong những năm kháng chiến chống Mỹ, đình là mục tiêu đánh phá ác liệt của kẻ thù. Tới nay đình đã được tôn tạo lại và dần dần phục hồi các giá trị truyền thống lịch sử tốt đẹp của địa phương. Đình làng Lũ Phong là nơi tưởng nhớ công ơn Thành Hoàng Làng (những vị quan, tướng đầu tiên về khai khẩn sinh sống tại đây), đặc biệt hơn đình làng cũng ghi dấu ấn lịch sử Chi bộ đầu tiên được thành lập của Huyện Quảng Trạch và phía Bắc Quảng Bình (10/1993). Để tưởng nhớ công lao của ông, cha và cầu cho làm ăn thuận lợi, mùa màng bội thu, cuộc sống ấm no, bình an, hàng năm người dân tổ chức cúng tế. Việc chuẩn bị cho lễ hội đình làng Lũ Phong được thực hiện rất công phu. Chiều ngày 17 tháng Giêng, người dân của 10 tổ dân phố của phường Quảng Phong đều bận rộn, chuẩn bị các mâm cỗ để cúng lễ cho sáng ngày hôm sau. Trong mâm cỗ cúng ngày lễ được chia làm hai loại: loại mâm cỗ thứ nhất gồm có hoa quả, vàng mã, hương, rượu,…;loại mâm cỗ thứ hai gồm xôi thịt. Lễ hội đình làng Lũ Phong được tổ chức từ 9 giờ sáng ngày 18 tháng Giêng khi các mâm cỗ của 10 tổ dân phố trong phường đã được trưng bày đầy đủ tại đình Lũ Phong. Các nghi lễ cúng do các bậc cụ lão lớn tuổi trong phường thực hiện. Quá trình hình thành, phát triển của đình làng Lũ Phong,các truyền thống ông cha sẽ được đọc lại trong buổi lễ, nhằm giáo dục cho các thế hệ sau nhớ về cội nguồn. Đồng thời lễ hội Lũ Phong cũng nêu lên những thành tích mà phường Quảng Phong đã đạt được trong năm trước, cầu mong cho năm mới mọi điều thuận lợi, hướng thiện, cầu bình an, mọi người dân sẽ có cuộc sống tốt đẹp hơn. Nguồn Cổng thông tin điện tử thị xã Ba Đồn, tỉnh Quảng Bình.

Quảng Trị 3073 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đình làng Phù Trịch

Làng Phù Trịch (Quảng Lộc, TX. Ba Đồn) vốn nổi danh bởi chiến thắng Phù Trịch - La Hà những năm chống Pháp ác liệt. Mảnh đất này vẫn còn lưu dấu bao giá trị lịch sử, văn hóa vững bền theo thời gian. Đình làng Phù Trịch là nơi hội họp, diễn ra các hoạt động văn hóa-văn nghệ, lưu giữ nhiều phong tục, tập quán tốt đẹp và còn là hiện thân của tình đoàn kết cộng đồng. Một trong những giá trị làm nên niềm tự hào vững bền của người dân Quảng Lộc nói chung và làng Phù Trịch nói riêng là mái đình Phù Trịch cổ kính, mang đậm dấu ấn thời gian. Đình Phù Trịch được xây dựng vào năm 1843, là một công trình kiến trúc ẩn chứa nhiều giá trị lịch sử, văn hóa của địa phương. Điều đáng quý là bên trong đình Phù Trịch hiện đang lưu giữ 12 sắc phong thời nhà Nguyễn từ vua Tự Đức đến vua Duy Tân, điều đó thể hiện được sự trân trọng quá khứ, cũng như công lao của các bậc tiên hiền. Mặt đình hướng ra sông Gianh, lưng tựa vào làng tạo thế đứng vững chắc giữa không gian thoáng đãng. Đình được thiết kế hai phần: đình tiền và đình hậu. Đình tiền được xây dựng khá rộng, có thiết kế đẹp, công phu. Các đường nét hoa văn được chạm khắc trau chuốt, tỉ mỉ. Ở hai đầu hồi phía đông và tây đắp hình hai con chim phượng có tư thế đang bay, với cách đắp ốp những đường nét cong lượn tinh tế, sắc sảo, uyển chuyển, hài hòa, tuyệt mỹ, mang cốt cách đăng đối cung đình. Đình hậu có kiểu kiến trúc và cách bố trí mang những nét tương đồng như những đình khác ở các địa phương khu vực miền Trung, từ các chi tiết hoa văn phối cảnh bên ngoài cho đến phần nội thất bên trong. Đình hậu được xây dựng theo hình chữ nhật, mái lợp bằng ngói Hưng Ký. Đình hậu là nơi thờ phụng vị thành hoàng danh tướng Phạm Bá Quý và các vị thần, vị tướng có công danh, đức độ, các vị khoa bảng danh thơm, tiếng tốt, phò dân, giúp nước được nhân dân mến mộ. Cách đình khoảng 20m về phía tay trái, dân làng còn lập riêng một lăng miếu được xây cất khá công phu thờ Thành hoàng Phạm Bá Quý, người có công lớn trong việc khai khẩn ruộng đất lập nên làng Phù Trịch, vừa là một vị tướng có tài. Phía trên hương án treo 2 chữ Hán “Anh Linh” do vua ban tặng, thể hiện là nơi trang nghiêm và kính cẩn để thờ ngài. Năm 1817, ông được vua Thành Thái sắc phong “Bản thổ Thành hoàng chi thần”, sau đó sắc phong là “Thượng đẳng Tôn thần”. Bởi thế, khi xây dựng miếu thờ, dân làng đã khắc hai câu đối bằng chữ Hán: “Sinh vi tướng Binh Lồi cứu quốc/Tử phong thần bản thổ thành hoàng”. Phía trên 4 nóc miếu vẫn còn giữ được những nét chạm trổ rồng, phượng tinh xảo và nguyên bản, thể hiện uy quyền của một danh tướng. Về phía đông cách đình khoảng 1.200m nhân dân địa phương còn lập nên một khu miếu gọi là “Tam tòa tứ miếu”, gồm có 4 ngôi miếu. Mỗi ngôi miếu được thiết kế theo ba tòa kiến trúc giống nhau, các đường nét đắp ốp, uốn lượn, chấm họa đều theo một thể thống nhất. Bốn ngôi miếu dùng để thờ các vị: Nam Hán Lang Lai, Tả phụ thiền tướng công Nguyễn Hữu Hiền, thân phụ các tả phụ thiền quận công, tứ vị thần nông, những vị có công trong việc trấn ải biên thùy, khai cơ điền thổ, xây dựng bảo vệ quê hương và được sắc phong qua các triều vua. Di tích lịch sử đình Phù Trịch ngoài việc thờ tự vong linh những vị tổ khai cơ lập nghiệp nên làng, những vị có công đức được nhân dân tôn kính, đình còn gắn liền với những sự kiện lịch sử quan trọng trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Tiêu biểu như chiến thắng Phù Trịch La Hà vào mùa xuân tháng 2-1950 đã đi vào lịch sử của địa phương và dân tộc như một mốc son chói lọi, xác và máu quân thù nhuốm đỏ cả dòng sông. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Phù Trịch là địa bàn trọng điểm; bến đò ngang Phù Trịch là huyết mạch giao thông quan trọng, là nơi đưa đón bộ đội, thanh niên xung phong, nhân dân qua lại và vận chuyển hàng hóa vào chiến trường. Đình Phù Trịch là nơi tập kết quân, cất dấu hàng hóa quan trọng như vũ khí quân trang, quân dụng, gạo muối, thuốc men. Đình Phù Trịch, vùng đất Phù Trịch trở thành điểm nóng mà địch tập trung đánh phá suốt đêm với hàng ngàn loại bom đạn khác nhau hòng ngăn chặn cắt đứt mạch máu giao thông đường bộ, đường thuỷ. Đến năm 1967, 1968 với cuộc chiến tranh mang tính huỷ diệt, đế quốc Mỹ đánh bom vào nhà thương, trường học, đình, chùa, lăng, miếu… phần đình tiền cũng bị đánh sập từ đây. Qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, đình Phù Trịch nói riêng, làng Phù Trịch nói chung đã có những đóng góp đáng kể cho sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc. Đã gần hai trăm năm qua mà các đường nét hoa văn chạm trổ trong tổng thể kiến trúc của ngôi đình vẫn nguyên vẹn trên một vùng đất có nhiều chiến tích, là nơi thờ tự, tín ngưỡng và địa điểm sinh hoạt văn hoá tâm linh của các thế hệ người làng Phù Trịch. Cứ vào mỗi dịp tết đến xuân về, nhất là đêm giao thừa Tết Nguyên đán, con cháu trong làng đều tập trung về đình để cùng nhau đón giao thừa, dâng hương và đánh chiêng, gõ trống khai xuân, ngày 6 tháng giêng hàng năm, tất cả các họ tựu trung tại đình làng để tổ chức lễ khai canh đầu xuân của làng. Đây là dịp để các tộc họ, con cháu gần xa trở về tham dự lễ, cùng ôn lại những giá trị truyền thống tốt đẹp của vùng đất này. Và đình làng mãi là nơi chốn đi về đầy tự hào của bao thế hệ người dân nơi đây. Nguồn Cổng thông tin điện tử xã Quảng Lộc, thị xã Ba Đồn, tỉnh Quảng Bình.

Quảng Trị 2750 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đình Hòa Ninh.

Đình Hòa Ninh thuộc làng Hòa Ninh xưa nay là xã Quảng Hòa, thị xã Ba Đồn được xây dựng từ năm Bảo Đại thứ 11 – 1936. Thời phong kiến, đình vừa là “trạm giao liên của các binh đoàn phục vụ cho việc hành quân”, vừa là nơi thờ cúng các vị anh hùng, các vị có công khai khẩn đất hoang lập nên làng mạc… Cùng với các giá trị về văn hóa, Đình làng Hòa Ninh trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ xâm lược cũng là nơi ghi dấu nhiều sự kiện lịch sử. Ngôi đình là nơi hội họp của nhân dân, nơi diễn ra các cuộc mít tinh của mặt trận Việt Minh kêu gọi quần chúng nổi dậy giành chính quyền ở làng xã, huyện lỵ (8-1945). Trong những năm chống Mỹ cứu nước, đây cũng là nơi lực lượng vũ trang ta tập kết và là kho cất dấu vũ khí sẵn sàng đánh trả lại máy bay địch khi chúng đánh phá miền Bắc. Năm 1965, bom đạn giặc Mỹ khiến đình Hòa Ninh bị hư hỏng nặng. Nhưng, với sự quyết tâm của bà con, cùng sự chỉ đạo sâu sát của chính quyền các cấp, năm 1976, Đình đã được tu sửa thành công và trở thành một “địa chỉ vàng” cho thế hệ đi sau nêu cao niềm tự hào, trách nhiệm đối với truyền thống vẻ vang của cha ông. Năm 1993, Bộ Văn hóa-Thông tin (cũ) đã xếp hạng đình Hòa Ninh là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Đình Hòa Ninh được xây dựng với quy mô và kiến trúc đồ sộ, tỷ mỷ. Đình được bố trí với hệ thống tường thành bao quanh, cổng trụ, bình phong và tòa đại đình nằm ngang. Sự sắc sảo, tinh tế thể hiện ngay ở cổng của đình, với cổng chính được xây dựng bằng gạch. Hai trụ biểu hai bên được thiết kế vô cùng công phu, các đường nét hài hòa với từng họa tiết và màu sắc. Trên hai đỉnh trụ biểu là hình ảnh hai con nghê được ốp tinh xảo bằng men xanh, nâu nhạt thể hiện sức mạnh đoàn kết của người dân. Cổng đình mang đậm nét kiến trúc nghệ thuật của làng quê Việt Nam. Đình Hòa Ninh xã Quảng Hoà gồm có 5 gian, 4 vài, 1 cửa chính và 4 cửa phụ. Trước cửa chính đình có khắc chữ “Thọ” được lồng trong mặt trăng và 3 chữ Hán đắp nổi là Phúc, Du, Đồng. Đây cũng là trung tâm thể hiện các họa tiết trang trí như: Long, Lân, Quy, Phụng, bát bửu, hoa lá… bằng nghệ thuật đắp vữa và ghép các mảnh sành, sứ. Ngoài ra, khu vực này còn có thêm 2 câu đối của cử nhân Nguyễn Tiến Ích. Đình Hòa Ninh có phần mái độc đáo, được xây theo kiểu tứ giác, hai mái thượng phía trước và sau, hai mái hạ ở hai đầu Đông, Tây. Ở giữa nóc đình là hình tượng lưỡng long chầu nguyệt linh thiêng. Hằng năm, vào mỗi dịp Tết, tại đình Hòa Ninh Quảng Bình có tổ chức lễ hội Kỳ Phúc, đây là lễ hội nhằm với mục đích cầu phúc cho nhân dân, cầu cho quốc thái dân an, mùa màng bội thu, thuận buồm xuôi gió... Ngoài ý nghĩa cầu phúc, đây cũng là dịp mà người dân làng Quảng Hòa, mà lớn hơn nữa là người dân Quảng Bình nhớ về tổ tiên, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Nguồn Cổng thông tin điện tử xã Quảng Hòa , thị xã Ba Đồn, tỉnh Quảng Bình.

Quảng Trị 2663 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa