Di tích lịch sử

Việt Nam

Đồi Cát Trắng Mũi Né ( Bàu Trắng)

Bàu Trắng (hay Bàu Cát, Bạch Hồ, Bàu Sen) là một hồ nước ngọt ở tỉnh Bình Thuận, cách thành phố Phan Thiết khoảng 62 km về hướng Đông Bắc, thuộc thôn Hồng Lâm, xã Hòa Thắng, huyện Bắc Bình (trước đây thuộc xã Bình Nhơn, huyện Hòa Đa cũ). Theo truyền thuyết nơi đây là một hồ lớn, sau người dân đắp đập cát chạy vắt ngang hồ để đi qua. Hồ lớn này từ đó bị chia thành 2 phần: tiểu hồ và đại hồ. Do "Bàu" trong tiếng địa phương nghĩa là "hồ" nên từ rất lâu, người địa phương đã gọi là tiểu hồ là Bàu. Năm 1867 khi Hồ Chí Thông đi ngang qua đây, thấy cảnh đẹp của Bàu Trắng mà cụ gọi là "Bạch Hồ". "Bạch Hồ" bắt đầu xuất hiện trong thơ của Nguyễn Thông và cũng từ đó trở thành tên mà giới thi nhân gán cho Bàu Trắng. Bàu Trắng chia thành 2 phần bởi một đồi cát vắt ngang qua. Nhân dân ở đây từ xưa đã gọi là Bàu Ông và Bàu Bà. Bàu bà rộng hơn Bàu Ông và chứa lượng nước nhiều hơn. Độ sâu của Bàu Bà là 19m vào mùa mưa. Xung quanh Bàu Bà trồng rất nhiều sen. Sen được cư dân trồng với mục đích thu hoạch hạt và ngó. Chính vì việc trồng sen tại khu vực này khiến cho cảnh quan thêm phần đặc sắc. Nhỏ hơn Bàu Bà, thế nhưng có một con đê ngăn cách giữa 2 hồ lại. Bàu ông nước cạn hơn và không ngọt bằng Bàu Bà. Sở hữu vẻ đẹp thiên nhiên hiếm có, Bàu Trắng là điểm tham quan nổi tiếng mà hầu hết du khách không thể bỏ qua mỗi khi chọn Bình Thuận là nơi nghỉ dưỡng, tham quan, vui chơi giải trí. Với tổng diện tích khoảng 45 ha, điểm du lịch bao gồm 23,2 ha thuộc đất 3 loại rừng do Ban Quản lý rừng phòng hộ Lê Hồng Phong quản lý, còn lại 2,8 ha đất và 19 ha mặt nước do Uỷ Ban Nhân Dân xã Hòa Thắng quản lý. Năm 2013, nơi đây được công nhận là địa điểm nằm trong top 100 điểm đến ấn tượng của Việt Nam, trong giai đoạn 2014 - 2016 tiếp tục nhận danh hiệu điểm đến ưa thích Asean và top 100 điểm yêu thích khu vực phía Nam. Đặc biệt năm 2019, Bàu Trắng vinh dự đón nhận Bằng xếp hạng di tích danh lam thắng cảnh cấp quốc gia theo Quyết định của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Nguồn Cổng thông tin huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận.

Lâm Đồng 2248 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Chùa núi Tà Cú

Chùa núi Tà Cú (người địa phương hay gọi đơn giản là chùa Núi) là một ngôi chùa tọa lạc trên núi Tà Cú ở độ cao hơn 400 m, thuộc thị trấn Thuận Nam, huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận, gần Quốc lộ 1, cách Phan Thiết 28 km về phía Nam. Chùa này là một di tích lịch sử - văn hóa quốc gia của Việt Nam. Vào giữa thế kỷ 19 nhà sư Trần Hữu Đức (1812-1887) pháp danh Thông Ân, pháp hiệu Hữu Đức từ Phú Yên vào Bình Thuận dựng một thảo am ở làng Kim Thạnh (Bàu Trâm) vừa tu hành vừa bốc thuốc. Ông đã từng tu hành và góp nhiều công sức chăm lo Phật sự ở nhiều chùa tại Bình Thuận như chùa Cổ Thạch, Linh Sơn (Tuy Phong), Phước Hưng (Phan Thiết) và một số chùa ở đảo Phú Quý. Năm 1872 nhà sư lên núi Tà Cú tu hành trong một hang đá (sau này gọi là hang Tổ). Cho đến lúc mất, sư Hữu Đức không xuống núi nữa. Lúc đương thời nhà sư Hữu Đức là một thầy thuốc giỏi. Năm Tự Đức thứ 33 (1880) hoàng thái hậu bệnh nặng, chư thần tâu xin rước sư về giúp trị bệnh nhưng nhà sư từ chối, chỉ gởi người về triều. Bệnh hoàng thái hậu hết, vua Tự Đức mới ban cho tên chùa là Linh Sơn Trường Thọ và nhà sư là "Đại lão hòa thượng". Đến khi nhà sư Hữu Đức viên tịch (nhằm ngày 5 tháng 10 năm 1887 âm lịch) thì sư Tâm Hiền lập ngôi chùa mới ở phía dưới, sau này gọi là chùa Dưới hay chùa Long Đoàn và chùa Linh Sơn Trường Thọ là chùa Trên. Phía trên chùa, cách hang Tổ khoảng 50 m là tượng Phật Thích Ca nhập Niết Bàn dài 49 m, cao 7 m. Tác phẩm do ông Trương Định Ý chủ trì, được đúc bằng bê tông cốt thép trong đợt trùng tu năm 1963. Cách pho tượng khoảng 50 m về phía dưới là nhóm tượng Di đà Tam tôn xếp thành hàng ngang, xây trên đài sen: tượng A Di Đà ở giữa cao 7 m, bên trái là tượng Quán Thế Âm và bên phải tượng Đại Thế Chí đều cao 6,5 m. Tháp mộ của Tổ và của các nhà sư trụ trì đã qua đời được chia thành hai cụm ở trước điện thờ và sau điện thờ. Tháp Tổ nằm trước điện thờ, bên cạnh có mộ con cọp tương truyền là đã được sư Hữu Đức thuần hóa. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bình Thuận.

Lâm Đồng 2428 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đình làng Tú Luông

Đình Tú Luông được gọi theo tên của làng Tú Luông ngày trước. Thuở sơ khai, đình dựng bằng tranh lá đơn sơ và dần dần nhiều thập niên sau đó mới được tôn tạo bề thế trang nghiêm. Như những đình khác ở Bình Thuận, đình Tú Luông do toàn thể hương chức và Nhân dân trong làng đóng góp công của tạo dựng nên. Năm 1995 - 1996, qua khảo sát, đối chiếu từ kết cấu kiến trúc, kỹ thuật xây dựng, nghệ thuật trang trí tạo hình, các di vật cổ còn lại ở đình và tìm hiểu gia phả của một số tộc họ định cư lâu đời ở trong làng, Bảo tàng và Sở Văn hóa thông tin Bình Thuận xác định niên đại tạo dựng đình Tú Luông vào khoảng đầu thế kỷ XIX. Hiện ngôi đình tọa lạc tại phường Đức Long, cách trung tâm thành phố Phan Thiết khoảng 1,5 km về hướng Tây Nam. Theo ông Nguyễn Hữu Tứ - Trưởng Ban quản lý đình làng Tú Luông, lúc mới khai lập, Tú Luông là một trong những làng quê có vị thế tọa lạc lý tưởng, thuận tiện cho việc làm ăn sinh sống và sớm có kinh tế ổn định ở Phan Thiết. Ở đình Tú Luông còn lưu giữ bức hoành cổ khắc ghi chữ Hán nói rõ về địa dư và cảnh quan của làng. Quần thể kiến trúc đình Tú Luông lúc mới tạo dựng khá quy mô, bề thế bao gồm đình thờ Thần, Tiền đường, cổng Tam quan, bình phong, gian thờ Tiền hiền, nhà Võ ca, nhà Nhóm, nhà bếp, cổng hậu và bức tường thành bao bọc xung quanh. Đình Tú Luông có một kết cấu kiến trúc đặc sắc riêng, ở đây sử dụng đồng thời 2 dạng kiến trúc dân gian tiêu biểu ở địa phương, đó là dạng kiến trúc “tứ trụ” và “trùng thiềm điệp ốc” phối kết hợp. Trong kết cấu kiến trúc, gỗ, gạch đóng vai trò quan trọng. Trong đó gỗ là vật liệu chính yếu để tạo nên bộ khung liên kết của từng nóc đình, tiếp đến là chất vữa pha chế bằng kinh nghiệm dân gian từ vôi, vỏ sò, cát, mật đường, nhựa cây... để làm chất kết dính xây dựng nên các bức tường vững chắc và các nóc đình trang nghiêm, cổ kính. Các vật liệu lợp và lát nền vẫn còn bảo lưu, đó là ngói âm dương cổ và gạch bát tràng vốn được sử dụng phổ biến trong các công trình kiến trúc dân gian lúc bấy giờ ở địa phương. Ngoài ra, ở đình còn lưu lại 2 chiếc đại hồng chung đúc đồng có niên đại vào cuối thế kỷ XIX. Cả 2 chiếc đại hồng chung đóng vai trò quan trọng trong việc hòa âm nhạc lễ hàng năm của đình. 6 long khám, 4 hương án, 3 bức bao lam và 2 chiếc án thư. Đây là những di vật đóng ghép bằng gỗ quý, được chạm trổ, điêu khắc công phu, sắc nét. Những di vật này có chức năng quan trọng trong việc bài trí thờ phụng ở nội thất. 20 bức hoành phi và 16 câu đối, toàn bộ chạm khắc chữ Hán cổ sắc nét trên những loại gỗ tốt. Mỗi bức có kích cỡ khác nhau, một số có chạm lộng viền quanh những hình tượng giao long, hoa lá thanh nhã. Nội dung ca ngợi uy quyền của thần linh, truyền lại cho con cháu về công ơn to lớn của ông bà, tổ tiên; chỉ giáo thế hệ đi sau nếp thuần phong mỹ tục và truyền thống tốt đẹp của dân tộc… Đình Tú Luông đã được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia vào năm 2001. Đây là nơi diễn ra các lễ hội dân gian trong không gian văn hóa. Hằng năm đình đều tổ chức rất nhiều đợt tế lễ. Lớn nhất là hai lệ xuân thu nhị kỳ vào tháng 2 và tháng 8 âm lịch. Thông qua đây, thế hệ hôm nay hiểu hơn về lịch sử địa phương, từ đó có ý thức trong việc giữ gìn giá trị văn hóa tốt đẹp của tiền nhân xưa. Nguồn Cổng thông tin điện tử phường Đức Long, thành phố Phan Thiết , tỉnh Bình Thuận.

Lâm Đồng 2295 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đền thờ và khu mộ cụ Nguyễn Thông

Ông sinh ngày 28/5/1827 tại làng Bình Thạnh, tổng Thạch Hội Hạ, huyện Tân Thạnh, phủ Tân An, tỉnh Gia Định (nay là xã Phú Ngãi Trị, huyện Châu Thành, tỉnh Long An), có tên tự là Hy Phần, hiệu Kỳ Xuyên, biệt hiệu Độn Am. . Thông minh, ham học nhưng Nguyễn Thông lại sớm mồ côi. Với sự nỗ lực vươn lên của mình, ông đã làm Tu Nghiệp Quốc Tử Giám. Khi Pháp xâm chiếm Nam Kì, ông cùng các sĩ phu nơi đây không chịu hợp tác và đi tị địa tại Bình Thuận. Cả cuộc đời mình, ông hết lòng lo cho nước, cho dân…Khi ông tròn 10 tuổi thì mẹ bạo bệnh qua đời. 7 năm sau thì cha ông cũng mất. Gia đình ông từ đấy lâm vào cảnh khốn khó, do đó Thông phải bươn chải kiếm sống để lo cho cả nhà. Ham học nhưng chẳng có thầy giáo kèm cặp nên hai anh em phải tự học với nhau. Cho đến khi ông Nguyễn Nhữ Hiền được triều đình bổ nhiệm đến làm phủ ở Tân An thì hai anh em tìm đến xin thọ giáo. Thời gian học thầy Hiền chẳng được bao lâu thì thầy lại bị điều về kinh đô. Năm 1849 (năm Kỷ Dậu, triều vua Tự Đức), Nguyễn Thông đã thi đỗ cử nhân, nhưng đến kì thi hội ông đã bị đánh rớt chỉ vì lí do là tập bài thi bị dính mực. Cũng bởi nhà nghèo nên Thông không thể tiếp tục sự nghiệp đèn sách được nữa và ông nhận chức huấn đạo tại Phú Phong – tỉnh An Giang. Năm 1855, ông ra Huế, rồi sau đó một năm được thăng chức Hàn Lâm viện tu soạn, vào làm trong nội các, tham gia soạn sách “Nhân sự kim giám” (Gương vàng soi việc người). Khi Pháp xâm chiếm miền Đông Nam Kì vào năm 1859, Nguyễn Thông đã tình nguyện tòng quân và làm tham mưu đắc lực cho Thống đốc quân vụ Tôn Thất Hiệp, trông coi việc cơ mật. Đại đồn Chí Hòa bị thất thủ năm 1861, rồi tỉnh Biên Hòa cũng bị Pháp chiếm đóng. Sau khi chiến đấu ở trận Chí Hòa, cậu ông là Trịnh Quang Nghi cùng bạn là Phan Văn Đạt lại chiêu mộ nghĩa binh chống quân Pháp ở Gò Công và Tân An. Nguyễn Thông đã tham gia phong trào ấy. Phan Văn Đạt bị Pháp bắt giết, còn Thông may mắn thoát được. Năm sau cậu ông lại giúp Trương Định rất đắc lực trong chức Tham tán quân vụ. Đến năm 1862, Pháp buộc ta phải nhượng 3 tỉnh miền Đông, nhờ cụ Phan Thanh Giản đề cử nên Nguyễn Thông được bổ nhiệm làm Đốc học Vĩnh Long. Tại đây ông vẫn giữ liên lạc với cậu, đồng thời vẫn liên lạc với các sĩ phu yêu nước, trong đó có những sĩ phu dời gia đình từ miền Đông sang. Cũng thời gian này, ông đã cho xây dựng lại Văn Thánh Miếu Vĩnh Long. Năm 1867, Pháp đã bức chiếm thành Vĩnh Long, ông và nhiều sĩ phu Nam Kì không chịu hợp tác nên đã tị địa ra tại Bình Thuận. Nguyễn Thông đã cùng chiến hữu bàn nhau việc điều tra, liên lạc với Biên Hòa, đồng thời cũng tích cực phát triển nghề nông, sản xuất lương thực lo kế lâu dài đánh Pháp. Chính ông đã tổ chức việc đi thám hiểm các vùng cao nguyên La Ngư, Ba Dầu (Bình Tuy), ghi rõ địa hình, địa thế khả năng khai hoang và vẽ rõ địa đồ. Sau đó, ông bị điều động đi Khánh Hòa, rồi ra Quảng Ngãi, Huế. Cuối 1867, ông làm Án Sát tỉnh Khánh Hòa và dâng sớ xin truy tặng tên thụy cho cụ Phan Thanh Giản và điều trần 4 vấn đề ích nước lợi dân nhưng bị triều đình Huế bác bỏ. Năm 1870, Nguyễn Thông làm Biện lí Bộ hình rồi Bố Chánh Quảng Ngãi. Đặc biệt ở Quảng Ngãi trong 3 năm, ông đã làm nhiều việc có lợi ích cho nông dân, nhất là công tác thủy lợi. Cũng thời gian này, ông bị mang một nỗi oan án là bị tố cáo xử án thất xuất nên bị triều đình cách chức, bị tống giam vào ngục và bị xử trượng. Người dân và quân lính đều rất thương mến ông nên đứng ra xin quan Khâm sai Nguyễn Bính mới vào nhậm chức tại Quảng Ngãi xem xét lại tội trạng của ông. Có người còn tự nguyện đến tận kinh thành gặp vua kêu oan cho ông. Vua thương tình nên tha cho ông và cho điều tra lại mới hay vụ việc này là do tên cường hào Lê Doãn vu cáo ông. Thời gian này, ông được triều đình chấp nhận 2 nguyện vọng, đó là: tổ chức trồng cây và định rõ việc học sử, xin ban cấp sách học các trường. Đến năm 1876, ông trở ra Huế làm Tu nghiệp Quốc Tử Giám. Ông cùng các ông Bùi Ước, Hoàng Dung Tân khảo duyệt bộ “Khâm định Việt sử cương mục”. và cũng nhân dịp về kinh đô Huế lần này, ông soạn bộ “Việt sử cương giám khảo lược”. Đồng thời ông dâng sớ và được chuẩn y việc khai khẩn vùng Tây Nguyên từ biên giới Campuchia đến Quảng Trị, thu nạp dân Nam Kì ra. Thế nhưng cuối cùng việc này đã bị quân Pháp phản đối nên triều đình Nguyễn ra lệnh bãi bỏ. Năm 1880, Nguyễn Thông làm Phó sứ diễn nông kiêm Đốc học tỉnh Bình Thuận, ông còn bàn với những người đồng hương tị địa chính thức lập Đồng Châu Xã để họ có tổ chức tương tự làm ăn, sản xuất ổn định cuộc sống tại Bình Thuận sau khi chạy lánh từ trong Nam ra. Ông dựng một ngôi nhà nhỏ bên cạnh sông Phan Thiết (nay là khu vực di tích Dục Thanh), đặt tên là Ngọa Du Sào (Tổ nằm chơi) để đọc sách, làm thơ, trên vách có vẽ một số cảnh tiêu biểu mà đời ông trãi qua. Ông chính thức coi Bình Thuận là quê hương thứ 2 của mình. Năm 1884, Nguyễn Thông mất. Mộ ông được xây cất dưới chân núi Cố (núi Ngọc Sơn) thuộc thôn Ngọc Sơn – phường Phú Hài – thành phố Phan Thiết – Bình Thuận. Ngôi mộ cụ Doanh điền sứ Bình Thuận Nguyễn Thông được xây dựng khá đơn giản và gần gũi. Mộ có chiều dài gần 9 mét rưỡi, rộng gần 6 mét rưỡi. Phần chính mộ đắp hình con lân như những ngôi mộ cổ của người đời xưa. Xung quanh khu mộ được trồng cây cảnh rất đẹp, nhìn vào khu lăng mộ Doanh điền sứ Bình Thuận bây giờ trông rất hoành tráng. Khu lăng mộ này đã được Nhà nước xếp hạng di tích lịch sử năm 1999. Tham quan khu lăng mộ, chúng tôi thật sự bồi hồi khi nhớ tới công lao của nhà hoạt động chính trị, xã hội, nhà giáo dục, nhà văn, nhà viết sử… Nguyễn Thông đối với dân tộc ta. Nguồn Cổng thông tin điện tử phường Phú Hài, thành phố Phan Thiết , tỉnh Bình Thuận.

Lâm Đồng 2391 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Di tích lịch sử Sở Trà

Ngay trong khuôn viên của Trung đoàn 726, xã Quảng Trực, huyện Tuy Đức (Đắk Nông) có 1 ngôi nhà cổ, màu trắng, xây theo kiểu kiến trúc Pháp. Theo nhận định của chuyên gia, nơi đây trước kia là địa điểm Sở Trà do người Pháp xây dựng tại Đắk Nông. Khoảng những năm 30 của thế kỷ XX, thực dân Pháp vào vùng đất Tây Nguyên mở các đồn điền, trồng các loại cây như cà phê, trà và thuê công nhân là người dân tộc thiểu số. Năm 1962, Đồn điền lúc đó rộng khoảng 20ha và có khoảng 80 công nhân làm việc tại đây. Trong đó, người dân tộc thiểu số làm việc tại đồn điền có khoảng 40 người. Đặc biệt, có 12 tù nhân chính trị bị bắt về làm việc tại đây. Những công nhân làm việc tại đồn điền được trả 30 đồng/tháng. Có những người không lấy tiền thì sẽ quy ra đổi thành gạo hoặc muối. Cuối năm sẽ được thưởng thêm bằng thịt bò. Một ngày, người công nhân tại đồn điền trà làm việc từ 7 giờ sáng đến 5 giờ chiều, buổi trưa sẽ được cho ăn uống và nghỉ ngơi. Khoảng năm 1966 thì đồn điền giải thể. Qua khảo sát, di tích lịch sử Sở Trà được bảo tồn khá nguyên vẹn với 1 công trình xây dựng bằng kết cấu bê tông cốt thép, theo kiểu kiến trúc Pháp những năm đầu thế kỷ XX. Hiện nay, về quá trình xây dựng ngôi nhà vào ngày tháng năm nào chưa có tư liệu cụ thể. Diện tích khuôn viên ngôi nhà khoảng 200m². Ngôi nhà gần như còn nguyên vẹn với 1 trệt, 1 lầu và 1 tầng lửng. Bên trong ngôi nhà có 8 gian phòng và có 1 lò sưởi ấm xây thông từ tầng trệt lên lầu 1 và tầng lửng để sưởi ấm khi giá lạnh. Phía sau phòng tầng trệt có một hầm bí mật thoát hiểm nhưng đã che đậy miệng hầm. Cho đến nay, dù được Trung đoàn 726 quản lý nhưng chưa khám phá khai thông căn hầm bí mật này. Lân cận khu vực công trình có một số cây ăn quả, cây trà cổ thụ mà theo người dân địa phương, những cây cổ thụ này khoảng 100 năm tuổi. Trong đó có 2 cây me tây đã được công nhận là cây di sản Việt Nam vào tháng 9/2022. Di tích lịch sử Sở Trà được công nhận là di tích lịch sử cấp tỉnh. Nguồn: Báo Đắk Nông điện tử

Lâm Đồng 3694 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Tháp Nước Phan Thiết

Tháp nước Phan Thiết nằm bên sông Cà Ty xây gần 90 năm trước, do hoàng thân Xuphanuvong (Lào) thiết kế, hiện là biểu tượng của tỉnh Bình Thuận. Tháp nước Phan Thiết (còn được gọi "Lầu nước") được người Pháp xây dựng 1928-1934 theo chủ trương quy hoạch đô thị của nhà cầm quyền đương thời, phục vụ cung cấp nước sinh hoạt cho Tòa Công sứ Pháp (nay là trụ sở UBND Bình Thuận) và người dân nội thị Phan Thiết. Vị trí xây dựng tháp nước nằm trên đất làng Long Khê, bên tả ngạn sông Cà Ty, cao ráo thoáng mát, cách Tòa Công sứ chừng 350 m. Bản thiết kế tháp nước do hoàng thân Xuphanuvong (Lào, khi đó ông là du học sinh trường Albert Sarraut tại Việt Nam) vẽ, được Sở Công chánh Hà Nội duyệt và công trình được đưa ra đấu thầu. Trong số hai nhà thầu Pháp và hai nhà thầu Việt, thì nhà thầu Ưng Du (người gốc Huế, làm việc ở Bình Thuận) trúng thầu. Tháp nước được xây dựng theo hình trụ bát giác đều. Chiều cao từ đế lên đỉnh tháp là 32 m. Tổng thể chia làm 3 phần, gồm: thân tháp, bầu đài và phần mái. Phần thân tháp có hình trụ bát giác, mỗi cạnh rộng 3,9 m càng lên cao càng thu nhỏ lại. Đường kính chân tháp dài 9 m, chu vi 31,2 m, diện tích sàn 73,4 m2. Dọc theo các cạnh của thân tháp từ trên xuống có bố trí 5 ô thông gió được trang trí các hoa văn chữ triện tương ứng với 5 chữ: "Hỷ", "Phúc", "Thọ", "Kiết", "Lộc". Hàm ý cầu chúc cho muôn người vui vẻ, hạnh phúc, trường thọ, thịnh vượng và no ấm. Riêng cạnh phía Tây ô thông gió chữ "Lộc" được thay bằng cửa sắt ra vào tháp. Phần bầu đài, tức là bồn nước, cũng được thiết kế hình bát giác cao 5 m, đường kính 9 m, chứa 350 m3 nước. Xung quanh bầu đài có 8 hình tròn được đắp nổi bằng mảnh sành sứ cách điệu bốn chữ U.E.P.T, viết tắt của cụm từ tiếng Pháp "Usine des Eaux de Phan Thiet" (nghĩa là Nhà máy nước Phan Thiết). Với đặc điểm kiến trúc vươn cao nên công trình cũng được sử dụng như một cột cờ. Thạc sĩ Nguyễn Chí Phú, Phó giám đốc Bảo tàng tỉnh Bình Thuận cho biết, trong quá trình xây dựng, các chuyên gia và nhân công đã tuân thủ nghiêm ngặt thiết kế kỹ thuật. Sỏi phải đem rửa 5 lần cho sạch cát bụi. Cát đúc cũng phải rửa 3 lần cho sạch chất bẩn. Sắt đúc phải dùng giấy nhám chà xát cho hết hoen rỉ. Ván dùng làm cốt pha phải bào láng để khi tháo ra không cần phải tô trét gì thêm. Nhờ đó, công trình được vững chãi, bền bỉ đến ngày hôm nay. Trải qua gần 90 năm tồn tại, dù trước bom đạn chiến tranh và môi trường khắc nghiệt, nhất là qua hai trận lũ lịch sử năm Nhâm Thìn (1952) và Quý Dậu (1993), tháp nước vẫn đứng vững uy nghi giữa lòng thành phố, trở thành biểu tượng thiêng liêng, đi vào thơ ca và âm nhạc của xứ biển Phan Thiết. Ngày 19/10/2018, tháp nước Phan Thiết đã được UBND Bình Thuận quyết định xếp hạng di tích cấp tỉnh. nguồn: Du lịch Phan Thiết

Lâm Đồng 4317 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Dinh Bảo Đại 1

Đà Lạt nổi tiếng với 3 dinh thự thời vua Bảo Đại là Dinh 1, Dinh 2, Dinh 3 gắn liền với những nốt lịch sử thăng trầm của đất nước ta. Năm 1940, một người triệu phú Pháp tên Robert Clément Bourgery đã cho xây dựng Dinh 1. Năm 1949 thì cha vợ của vua Bảo Đại đã góp tiền để vua mua lại căn dinh thự này. Vua Bảo Đại đã đặt Tổng Hành Dinh tại đây để làm việc trong suốt những năm làm Quốc Trưởng giai đoạn 1949 – 1954. Ngoài Đà Lạt, vua Bảo Đại còn sở hữu một dinh thự rất nổi tiếng khác ở Vũng Tàu đó chính là Bạch Dinh. Năm 1956, Dinh 1 đã chuyển sang cho Ngô Đình Diệm dùng. Sau đó nhiều năm thì nơi này trở thành nơi nghỉ ngơi của các nguyên thủ quốc gia tới năm 1975. Vào năm 2014, chính quyền địa phương đã đầu tư khôi phục, tu sửa Dinh 1, đưa nơi này vào hoạt động tham quan, nghỉ dưỡng tại Đà Lạt. Dinh 1 Đà Lạt (Dinh Bảo Đại) đã trải qua nhiều lần tu sửa. Khuôn viên bên ngoài được thiết kế rộng rãi và được bố trí sẵn các bàn ghế rất sang trọng. Bước qua cánh cổng vào khuôn viên có hàng trăm loài hoa đua hương khoe sắc, khung vườn cờ khổng lồ, dải bậc tam cấp 7 màu, hàng trăm chiếc đèn lồng treo lủng lẳng... Đài phun nước mang đậm nét Châu Âu cũng thu hút rất nhiều du khách. Bước lên lầu 1, ngoài khu vực sảnh chính thì hai bên của dinh là 2 phòng khách lớn, phía sau là 4 căn phòng lớn nhỏ khác nhau. Lúc trước, những căn phòng này được dùng làm phòng chuyển tiếp, phòng văn thư, phòng bếp và phòng WC. Cuối lầu 1 là một phòng chụp hình rất hoành tráng và nguy nga. Trong đó có cả ngai vàng, võng lọng sơn son thiết vàng... Khi bước lên lầu 2 của Dinh 1 Bảo Đại, bạn sẽ thấy 3 căn phòng ngủ khác nhau. Căn thứ nhất là phòng ngủ của mẹ vua Bảo Đại (bà Từ Cung). Phòng thứ 2 là phòng ngủ của vua Bảo Đại. Kế tiếp là phòng ngủ của Nam Phương hoàng hậu, nằm đối diện với dãy hành lang của dinh. Có thể nói, căn phòng thứ 2 là quan trọng nhất trong dinh 1 của vua Bảo Đại. Đây là nơi chuyên diễn ra những buổi hội họp quan trọng dưới thời của vua Bảo Đại từ năm 1949 cho đến năm 1954. Đây cũng là nơi bàn về các chiến dịch, chiến sự vào năm 1955 đến năm 1963. Đến chính quyền của Ngô Đình Diệm, ông mới sửa sang lại phòng của vua Bảo Đại và đào đường hầm bí mật tại đây. Lối đi xuống đường hầm được ngụy trang y hệt một giá sách bên phải giường ngủ. Lối thoát này dẫn ra bãi trực thăng phía sau đồi của dinh 1. Đặc biệt ở khu dinh thự này là những công trình xây dựng đậm chất quân sự, bạn sẽ không khỏi bất ngờ và choáng ngợp trước vẻ đặc sắc của nó. Đầu tiên là một sân rộng đáp trực thăng, kho xăng, lối đi thoát hiểm (đường hầm). Cánh cửa hầm được lắp thêm kim loại có sức nặng vài trăm kilogam, pháo, kính chống đạn... Nguồn: Cổng thông tin du lịch Đà Lạt

Lâm Đồng 4660 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di Tích Căn Cứ Kháng Chiến Khu 6 Cát Tiên

Khu di tích lịch sử căn cứ kháng chiến khu VI Cát Tiên có tổng diện tích gần 50 hecta, ở địa bàn thôn 5, xã Đức Phổ, huyện Cát Tiên, tỉnh Lâm Đồng. Đây là một địa chỉ lý tưởng thu hút nhân dân và du khách yêu thiên nhiên, ưa khám phá và tìm hiểu lịch sử, truyền thống cách mạng dân tộc đến tham quan. Di tích Khu VI, Cát Tiên là công trình có ý nghĩa lịch sử quan trọng, ghi lại những công lao và chiến tích của các thế hệ cha anh trong công cuộc đấu tranh chống giặc Mỹ xâm lược, giai đoạn 1963 - 1966. Khuôn viên di tích Khu VI, Cát Tiên được thiết kế hài hòa, khoa học và đẹp mắt, phù hợp với không gian cảnh quan, với hệ thống đường nội bộ trải bê tông sạch đẹp uốn lượn quanh các ao hồ trong xanh thoáng mát; Tượng đài uy nghi tọa lạc trên đỉnh đồi trung tâm đã tạo nên điểm nhấn thu hút sự chú ý của nhân dân và du khách khi đến tham quan di tích Khu VI, Cát Tiên. Cách đồi Tượng đài không xa là nhà trưng bày với 108 hiện vật đã sưu tầm được và một số loại vũ khí thô sơ được phục chế phục vụ cho công tác trưng bày và thuyết minh. Rải rác trên những sườn đồi xanh rợp bóng mát của các loại cây rừng là công trình các lán trại, hầm trú ẩn tái hiện không gian làm việc, sinh hoạt của “Các cơ quan Khu ủy, Quân khu” với tổng số 23 hạng mục, trong đó, cơ quan Khu ủy có 12 hạng mục và cơ quan Quân khu là 11 hạng mục. Theo tư liệu lịch sử, trong giai đoạn từ năm 1963 - 1966 Khu ủy, khu VI Cát Tiên đã có những đóng góp quan trọng đánh dấu sự phát triển lớn mạnh không ngừng của lực lượng cách mạng nước ta. Thời gian đầu, Khu VI là nơi tập trung củng cố và chuẩn bị những điều kiện cần thiết nhằm phối hợp với toàn miền Nam tiến công địch, phá ấp chiến lược, mở rộng vùng làm chủ, vùng giải phóng, tạo thế và lực để phong trào cách mạng Việt Nam giành những thắng lợi to lớn. Đặc biệt trong Đông - Xuân năm 1964 - 1965, phong trào cách mạng ở Khu VI đã có bước phát triển nhảy vọt cả chiều rộng lẫn chiều sâu; quân và dân Khu VI đã chủ động tích cực phối hợp với toàn miền Nam tiến công địch trong chiến dịch Đồng Xoài mùa Hè năm 1965, góp phần làm phá sản chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ. Mùa khô năm 1965 - 1966, quân và dân Khu VI đã đánh thắng cuộc phản công lần thứ nhất của địch ở chiến trường Khu VI. Từ đây, quân và dân Khu VI liên tục làm thất bại kế hoạch bình định, tìm diệt của địch trong cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ hai (1966 - 1967), đến mùa khô 1967 - 1968, quân và dân Khu VI đã đẩy mạnh các cuộc tiến công và giành được những thắng lợi to lớn. Từ giữa năm 1965 đến cuối năm 1968, Đảng bộ, quân và dân Khu VI đã phối hợp với toàn miền đánh thắng chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ. Chiến công của quân và dân Khu VI - Cát Tiên thể hiện sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng. Trong đó, cộng đồng các dân tộc Khu VI đã đoàn kết, anh dũng, bất khuất, làm nên những chiến công vang dội, thể hiện sự chói sáng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, với lòng yêu nước nồng nàn đã giúp quân và dân Khu VI vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, góp phần giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Việc xây dựng, tôn tạo Khu di tích lịch sử căn cứ kháng chiến Khu VI, Cát Tiên đã thể hiện tinh thần uống nước nhớ nguồn, vinh danh, phát huy những giá trị lịch sử to lớn của quân và dân Khu VI, đồng thời đây chính là nơi giáo dục, rèn luyện và bồi dưỡng truyền thống cách mạng cho các thế hệ con cháu mai sau. Nguồn: Trang Thông Tin Điện Tử Huyện Cát Tiên

Lâm Đồng 6854 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Khu di tích thác nước Datanla

Khu Du lịch di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia Thác Đa tang la, hay còn được gọi là Da tan la, là một thác nước nổi tiếng tại thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng, Việt Nam. Nằm trong khu du lịch Đa tan la, thác cách thác Prenn 8 km và trung tâm thành phố Đà Lạt khoảng 10 km. Thác Da tang la được xem là một trong những điểm đến lý tưởng cho những du khách muốn tham quan và trải nghiệm phiêu lưu mạo hiểm. Tên gọi “Đa tang la” hay “Đa tang la” được lấy từ tiếng K’Ho, được hợp thành từ “Đạ-Tam-N’ha”, có ý nghĩa là “dưới lá có nước”. Tên gọi này có nguồn gốc từ cuộc xung đột lịch sử giữa các dân tộc Chăm – Lạch – Chil trong thế kỷ XV. đến thế kỷ XVII. Thác Da tang la có lượng nước dồi dào nhờ vào nguồn nước ổn định từ thượng nguồn. Không ồn ào như một số thác khác, Da tang la chảy qua nhiều thềm đá và đổ từ ghềnh cao khoảng 20m. Phần dưới của thác tạo thành khu vực nước rất trong, được gọi là Suối Tiên, trong khi phần trên có một vực sâu gọi là Vực Tử Thần. Theo truyền thuyết, vì vực sâu này nằm giữa một vùng đồi núi, nên đã từng là nơi lánh nạn cho một cánh quân của dân tộc bản địa trong cuộc chiến tranh với người Chăm hàng trăm năm trước. Có nhiều truyền thuyết về nguồn gốc và ý nghĩa của thác Đa tang la. Một trong số đó kể về cuộc gặp gỡ của dũng sĩ K`Lang và nàng sơn cước Hơbilang tại đây. Một số truyền thuyết khác về thác Đa tang la cho rằng thác là nơi mà các nàng tiên thường tắm, hoặc câu chuyện về cuộc chiến tranh giữa người Lạt và người Chăm, trong đó thác đóng vai trò quan trọng trong chiến lược chiến đấu của họ. Với những giá trị văn hóa đó mà vào năm 1998, thác Đa tang la đã được nhà nước ta công nhận là một trong những danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử ở Đà Lạt nổi tiếng, được xếp hạng di tích cấp quốc gia. Nguồn: Cổng thông tin du lịch Đà Lạt

Lâm Đồng 3780 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích lịch sử Thác Cam Ly Đà Lạt

Thác Cam Ly nằm cách thành phố Đà Lạt 2km về phía Tây. Đây được xem là thác nằm gần trung tâm thành phố nhất. Thác Cam Ly nằm cạnh dòng suối Cẩm Lệ, thác được hình thành từ một phần dòng nước chảy vào từ hồ Xuân Hương và một dòng suối khác là suối Cam Ly cũng chảy vào đây. Thác Cam Ly là một trong những con thác được nói về sự tưởng nhớ, sự biết ơn, sự kính trọng của người dân nơi đây đối với người có công trong thời kỳ đó. Truyền thuyết kể rằng, thác Cam Ly có nguồn gốc từ tiếng K’Ho. Người dân trong bộ tộc Lạch (Lạt) gọi thác Cam Ly là Liêng Tô Sra - ranh giới của dòng suối Cẩm Lệ đến sông Đạ Đờng. Người dân trong buôn làng mới lấy tên của vị tù trưởng của bộ tộc Lạch (Lạt) lúc đó là K'Mly để tưởng nhớ, thể hiện sự biết ơn của dân làng đối với vị tù trưởng này. Vị tù trưởng này đã lo bữa ăn giấc ngủ của cả bộ tộc, sống chan hoà với các người dân, lo lắng cuộc sống của người dân trong làng trở nên ấm no, sung túc, đầy đủ. Nên tên của vị tù trưởng này được đặt cho con thác là K’MLy sau này đọc chạy (đọc trại) là Cam Ly. Còn theo nguồn gốc của tiếng Hán Việt thì Cam Ly có nghĩa là dòng suối có nước ngọt (Cam là ngọt, Ly là thấm vào). Thác Cam Ly sở hữu vẻ đẹp thơ mộng, đặc biệt vào mùa mưa khi nước chảy cuồn cuộn, tạo ra những khối nước khổng lồ đổ xuống dữ dội. Với vị trí thuận tiện gần trung tâm thành phố, thác Cam Ly thu hút đông đảo du khách ghé thăm hàng năm . Dưới chân thác Cam Ly là một vườn hoa nhỏ, góp phần tạo nên một phong cảnh hài hòa và đẹp mắt. Ngoài ra, trong khu vực thác còn có lăng Nguyễn Hữu Hào, được xây dựng với nhiều kiến trúc độc đáo. Vào năm 1998, Thác Cam Ly đã được nhà nước ta xếp hạng là danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử ở Đà Lạt được công nhận di tích cấp quốc gia. Nguồn: Cổng thông tin du lịch Đà Lạt

Lâm Đồng 3793 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa