Đình Bình Hòa tọa lạc ở phường 12, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh. Năm 1818, thôn Bình Hòa được thành lập và ngôi đình cũng được dựng vào năm ấy. Năm 1853, được vua nhà Nguyễn là Tự Đức sắc phong. Đình được xây dựng trên gò đất cao, quay về hướng đông. Theo trục chính từ ngoài vào là nhà võ ca, tiền điện, trung điện và chính điện. Nhà võ ca mới được xây dựng thêm vào năm 1972, dài 20,7m, rộng 13,49m. Tiền điện hình chữ nhật dài 13,49m, rộng 9,56m, gồm ba gian hai chái, nhà có kiểu như nhà ở thông thường, có bốn hàng cột, đường kính từ 0,35m đến 0,40m, cao 6m. Trung điện hình chữ nhật dài 12,48m, rộng 9,57m. Mái lợp ba lớp ngói, kiến trúc theo kiểu chồng diêm đầu hồi bịt đốc, trên bờ nóc gắn tượng lưỡng long tranh châu (lưỡng long triều nguyệt). Trung điện làm theo kiểu tứ tượng, gồm bốn cột chính rồi phát triển ra chung quanh. Chính điện hình chữ nhật dài 11,03m, rộng 9,57m, cũng được xây theo kiểu tứ tượng, chỉ có một tầng mái, các xà kẻ gỗ ở tường hồi không có thanh kẻ chéo góc. Nhà túc dài 16,48m, rộng 8m, ngoài ra còn có nhà kho và nhà bếp. Tiền điện có ba ban thờ : hồi đồng ngoại, tả ban chư vị, hữu ban chư vị. Các bàn thờ, khám thờ, hoành phi, câu đối đều được chạm trổ tinh vi, ba mặt bàn đều được chạm trổ, bốn góc bàn chạm bốn đầu rồng, bốn chân bàn chạm bốn chân rồng. Đặc biệt, trên đường diềm bàn thờ tiền điện có chạm hình lưỡng long tranh châu, thân rồng được cách điệu bằng cành mai. Đường diềm trên bàn thờ tiền điện với hoa văn mai dơi cũng rất đáng chú ý. Ngoài ra còn các hoa văn nho, sóc, phượng, hoa sen. Đình thờ bốn vị thành hoàng và thần Nam Hải. Lễ kỳ yên hằng năm là lễ lớn nhất từ ngày 11 đến 14 tháng 9 âm lịch. Vị thần được thờ chính tại đình Bình Hòa là Thành hoàng Bổn cảnh, được vua Tự Đức sắc phong vào năm Quý Sửu (1853). Ngoài bộ cột quý, trong đình hiện còn lưu giữ 39 hiện vật có giá trị khác. Đáng chú ý là 5 bàn thờ bằng gỗ được chạm trổ tinh xảo; hai bát nhang gốm Sài Gòn xưa, sắc phong của vua Tự Đức, v.v… Ngày 7 tháng 1 năm 1993, ngôi đình đã được Bộ Văn hóa-Thông tin công nhận là di tích Kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia theo Quyết định số 43 Văn Hóa /Quyết Định. Nguồn Trang thông tin điện tử phường 12, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh.
TP Hồ Chí Minh 2035 lượt xem
Chùa Phụng Sơn, tên chữ là Phụng Sơn Tự, còn có tên là chùa Gò, tọa lạc ở số 1408 Đường 3 tháng 2, phường 2, quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. Ngôi cổ tự này đã được xếp hạng là "Di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia" vào ngày 16 tháng 11 năm 1988. Chùa Phụng Sơn được thiền sư Liễu Thông (1754-1840) tạo lập vào đầu thế kỷ 19, dưới triều vua Gia Long trên nền của một ngôi chùa Chân Lạp cổ, giống các chùa Giác Lâm và chùa Cây Mai, nằm trên một đồi nhỏ bao quanh là ao Bàu Chuông có trồng sen. Năm 1904, am lá được xây cất lại. Và kể từ đó cho đến nay, chùa có hai lần trùng tu lớn, đó là vào thời hòa thượng Huệ Minh trụ trì (1904 -1915) và vào năm 1960. Năm 1963, hòa thượng Thích Phước Quang cho xây lại cổng tam quan, do kiến trúc sư Nguyễn Bá Lăng vẽ kiểu. Tuy được trùng tu lại vài lần, nhưng chùa vẫn theo kiến trúc cổ với bộ khung gỗ và mái ngói âm dương. Chùa Phụng Sơn xây theo kiểu chữ "quốc" (chữ Hán), dài trên 40 m, rộng gần 20 m, có hàng hiên chạy quanh bốn phía. Bên trong chùa chia ra hai khu rõ rệt, phía trước là chính điện, cách một sân lộ thiên, phía sau là nhà giảng. Hai bên sân lộ thiên có đông lang và tây lang, nối liền hai nơi. Sân lộ thiên có hòn non bộ, tượng Quan Âm và cây cảnh, nhờ có khoảng sân này nên chùa được thoáng đãng, sáng sủa. Nơi chính điện, các cột đều làm bằng gỗ tốt, lâu ngày đã trở nên đen bóng. Chùa thờ kiểu "tiền Phật, hậu Tổ". Điện Phật có nhiều tượng Phật xưa bằng gỗ, thiếp vàng chạm trổ mỹ thuật. Tổng cộng chùa có khoảng 40 pho tượng thờ. Nhiều tượng thờ do nhóm thợ từ Sa Đéc, do hòa thượng Huệ Minh mời đến chùa để tạo tác vào những năm đầu thế kỷ 20. Có nhiều pho tượng quý như bộ Di Đà Tam Tôn, bộ Ngũ Hiền thượng kỳ thú, pho tượng Phật bằng đá, tượng Tiêu Diện... Chùa Phụng Sơn là một trong những ngôi chùa cổ, còn in đậm nét sự có mặt của tín ngưỡng dân gian, Như bên hành lang chánh điện thờ Linh Sơn Thánh Mẫu, một trong những vị nữ thần được tôn kính và thờ tự phổ biến ở miền Nam. Dấu vết của quá trình sinh sống và cộng cư của nhiều dân tộc tại vùng đất này còn được thể hiện qua hình ảnh ngôi miếu nhỏ thờ Ông Tà (Neak Tà) trong khuôn viên chùa, bên những ngôi tháp Tổ. Đó là dạng tín ngưỡng, là một nét văn hóa phổ biến của cư dân Khmer. Là một trong những ngôi chùa cổ còn lưu lại đậm nét về địa thế, kiến trúc, nghệ thuật tạc tượng, cách bày trí và thờ cúng, chùa Phụng Sơn đã góp phần mang lại một giá trị văn hóa - nghệ thuật phong phú, đa dạng trong dòng phát triển của văn hóa Phật giáo tại Nam Bộ. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận 11, thành phố Hồ Chí Minh.
TP Hồ Chí Minh 2326 lượt xem
Hiện tọa lạc trong con hẻm 475 Cách Mạng Tháng Tám, Phường 13, Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh. Không rõ năm lập Đình Chí Hòa, chỉ biết rằng đình có sau khi Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam kinh lược (1698), và thiết lập làng xã cho lưu dân người Việt. Ban đầu, đình Chí Hòa được dựng khá đơn sơ theo kiểu chữ "tam" (三), với vách ván và mái lợp ngói âm dương. Sau khi được vua Tự Đức ban sắc phong (16 tháng 2 Âm lịch năm Nhâm Tý, 1852), ngôi đình mới được xây dựng kiên cố và được tu bổ vài lần về sau. Khi xưa, khuôn viên đình rộng trên một mẫu (hecta), hiện nay đã bị thu hẹp vì bị lấn chiếm. Ngay cả cây đa to trước đình, gốc đến ba người ôm, rễ phụ mọc tua tủa từ thân xuống...cũng bị đốn hạ vào năm 1980, khiến cảnh quan đình bị thay đổi nhiều... Đây là ngôi đình thuộc hàng cổ nhất tại thành phố và đã được Bộ Văn hóa cấp bằng công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia theo quyết định số 1460 - Quyết Định /Văn Hóa ký ngày 28 tháng 6 năm 1996. Nguồn Trang thông tin điện tử phường 13, quận 10, thành phố Hồ Chí Minh.
TP Hồ Chí Minh 2209 lượt xem
Đình Bình Đông được xây dựng trên cù lao ngay nhánh rẽ của dòng Kinh Đôi, thuộc phường 7 quận 8 thành phố Hồ Chí Minh. Theo “Gia Định thành thông chí” của Trịnh Hoài Đức, thôn Bình Đông thuộc tổng Tân Phong, huyện Tân Long, phủ Tân Bình (1818). Đình có sắc phong Tự Đức ngũ niên (1853). Như vậy đình Bình Đông phải được xây dựng trước năm 1853, tức trước năm nhận được sắc. Sắc phong cho Thần "Thành hoàng bổn cảnh" của thôn Bình Đông, huyện Tân Long ghi ngày 29 tháng 11 âm lịch năm Nhâm Tý (08/01/1853). Theo các bô lão thì đình Bình Đông có từ xưa. Lúc đầu, kiến trúc của đình chỉ là ngôi nhà lá, dùng làm nhà làng cho dân cư quanh vùng tới hội họp và cúng bái. Đến năm 1922 được trùng tu bằng mái ngói, vách ván, cột kèo gỗ theo dạng đình Nam Bộ với võ ca và chánh điện nằm giữa, hai bên có Đông và Tây lang, bên cạnh lại có nhà Nghĩa Từ. Đến năm 1930, đình xuống cấp nên được sửa chữa lớn, mái ngói được thay bằng ngói đại ống 2 lớp, vách trét ô dước, nền gạch tàu. Năm 1968, trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân, đình bị bom đánh sập một phần võ ca, chánh điện và nghĩa từ. Mãi đến năm 1991, đình được xây dựng lại với kết cấu bằng nguyên vật liệu nặng (bêtông - cốt sắt) nhưng kiến trúc tổng thể vẫn giữ nguyên. Lần xây dựng này có thêm nhà Truyền Thống. Tuy toàn bộ cảnh quan không thay đổi nhưng kết cấu không còn nét xưa. Nổi bật còn lại vẫn là các hiện vật bên trong chánh điện như toàn bộ khám thờ thần, Tả Hữu ban, Hội đồng đều chạm thủng viền quanh với rồng vờn châu, từng lộc, tứ linh rất nghệ thuật. Trên bàn thờ Thần có khánh đựng mão thần, bộ bát bửu bằng đồng, lư hương bình hoa bằng gốm quí. Trước bàn thờ bố trí bộ lỗ bộ đầu bịt đồng rất quí. Cặp liễng treo hai bên bàn thờ Thần. Chung quanh cặp liễn có chạm các hoa văn rất nghệ thuật. Ngoài ra còn có 4 cặp liễn khác cùng kích cỡ, cùng mang tính nghệ thuật chạm trổ với nội dung ca ngợi công đức Thần được treo tuần tự theo cung cách thờ cúng. Trong chánh điện còn phải kể đến bao lam chạm trổ hình dáng: mai, lan, cúc, trúc, mẫu đơn, sóc, giác trên các loại gỗ quí. Các hoành phi đáng kể như Bình Đông Đình có ghi niên đại 1870 treo trên cửa chánh điện và bức "Diệu - Diệu anh linh" niên đại 1850. Trong nhà nghĩa từ bài trí hai bàn Tiền và Hậu hiền với đầy đủ hiện vật thờ cúng. Cạnh có bàn Tiên - Sư cũng được chưng dọn rất nghiêm túc. Riêng nhà Truyền Thống nằm cạnh là nơi trưng bày một số hình ảnh minh họa thời gian cụ Tôn Đức Thắng hoạt động tại Sài Gòn và tại đình Bình Đông. Nhìn tổng thể còn có miếu Ngũ Hành, bàn thờ Thần Nông, miếu Ông Tà bố trí theo tục lệ trước mặt võ ca (gần cổng Tam quan). Sân khấu thiết kế nằm trong võ ca nhằm phục vụ hát xướng ngày đại lễ. Đình Bình Đông không chỉ nổi tiếng là đình cổ, linh thiêng mà nơi đây còn mang ý nghĩa quan trọng của sự kiện lịch sử cách mạng. Năm 1920, Tôn Đức Thắng (nguyên Chủ tịch nước) từ hải ngoại trở về Sài Gòn và bí mật thành lập Công hội đỏ phát triển mạnh trong đội ngũ công nhân nhằm đoàn kết chống tư bản đế quốc. Lúc này ông Ka Hiêm là hội viên đình Bình Đông nên biến đình thành cơ sở của Công hội đỏ. Năm 1925, là lãnh đạo tổ Công hội đỏ thuộc Nhà đèn Chợ Quán, ông Ka Hiêm tổ chức nhiều cuộc họp tại đình và các tài liệu đều được cất giấu dưới khám thờ. Theo ông Dương Quang Đông (Nguyên thường vụ Xứ ủy Nam kỳ) - Chủ tịch câu lạc bộ hưu trí TP. Hồ Chí Minh và ông Ka Hiêm thì Chủ tịch Tôn Đức Thắng đã đến dự nhiều lần những cuộc họp quan trọng tại đình Bình Đông trong khoảng thời gian từ 1925 - 1928. Những lần đó Bác Tôn đã thuyết giảng về chủ nghĩa Mác, lòng yêu nước cho các công nhân nòng cốt của Hội. Thời gian hoạt động của Công hội đỏ diễn ra từ 1925 - 1928, không hề bị lộ bí mật. Chính tại chánh điện, các mật thư của Nguyễn Ái Quốc được chuyển từ nước ngoài về cũng như các sách báo tuyên truyền cho chủ nghĩa Mác đều được cất giấu cẩn thận và an toàn tại đình Bình Đông. Thời kỳ chống Mỹ, đình Bình Đông là nơi liên lạc, chuyển vũ khí vào nội thành và cũng là nơi bộ đội miền Nam đặt súng bắn vào Tòa hành chánh quận 7 của chế độ cũ năm 1968. Đình Bình Đông là một di tích văn hóa và lịch sử, được Bộ Văn hóa cấp bằng công nhận di tích theo quyết định số 2890 - Văn Hóa /Quyết Định ký ngày 27/09/1997. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận 8, thành phố Hồ Chí Minh.
TP Hồ Chí Minh 2300 lượt xem
Đình Minh Hương Gia Thạnh hội quán tọa lạc tại 380 đường Trần Hưng Đạo, phường 11, quận 5, thành phố Hồ Chí Minh. Đình là nhà việc của xã Minh Hương, một xã được thành lập vào năm 1698, tập hợp con cháu người Hoa ở dinh Phiên Trấn. Năm 1808, vua Gia Long ban cho tên “Gia Thạnh đường” nên đình còn có tên Minh Hương Gia Thạnh. Năm 1867, chính quyền thuộc địa thay đổi cơ cấu hành chính, đình không còn là nhà việc của xã và trở thành hội quán của hội Minh Hương Gia Thạnh. Đình được xây dựng năm 1797, trùng tu vào các năm 1839, 1901 và 1962. Lần trùng tu cuối sử dụng một số vật liệu hiện đại và xây thêm tầng lầu trên chính diện. Kiến trúc đình theo kiểu nhà năm gian, vì kèo gỗ, mái lợp ngói ống, tường gạch. Nội thất đình bao gồm võ ca, chính điện và hậu điện. Bên phải võ ca có miếu Ngũ Hành. Đứng trước cổng có thể nhìn rõ trên mái đình các trang trí hình lưỡng long tranh châu, cá hóa long, tượng ông Nhật bà Nguyệt, phù điêu trích tuồng tích của Trung Quốc … do lò gốm Đồng Hòa sản xuất năm Tân Sửu 1901. Bộ khung gỗ kết cấu kiểu kẻ chuyền và các cột gỗ kê trên chân đế bằng đá tạo cho đình thêm nét cổ kính. Trên cột và các đà ngang treo nhiều hoành phi, câu đối, phần lớn được làm từ đầu và giữa thế kỷ XIX. Có tất cả 38 hoành phi và 22 câu đối, tập chạm bốn chữ “Thiện tục khả phong” (Tục tốt đáng khen) do vua Tự Đức ban cho năm 1863 và câu đối của Trịnh Hoài Đức làm năm Minh Mạng thứ 2 (1821). Chính điện đình xây trên nền cao, phía trước trang trí ba bao lam chạm lộng các đề tài tùng – hạc, mai – điểu, liên – áp, giỏ cua, giỏ trái cây … Cuối chính điện là ba khám thờ lớn bằng gỗ đặt trên bệ gạch, được chạm viền chung quanh lưỡng long tranh châu, lân, phụng, dây hoa …Khám thờ thần đặt ở giữa với bài vị: Ngũ thổ tôn thần – Ngũ cốc tôn thần, Đông trù tư mệnh -Bốn cảnh thành hoàng. Trước khám thờ có một lư trầm bằng đá và hai tượng Ngô Nhân Tịnh, Trịnh Hoài Đức cũng bằng đá đặt hai bên. Bên trái là khám thờ Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh và Đô đốc tướng quân Trần Thắng Tài, hai vị quan tướng có công lớn, được triều Nguyễn phong là Thượng đẳng thần. Khám bên phải thờ Trịnh Hoài Đức và Ngô Nhân Tịnh, hai người Minh Hương làm quan đến chức Thượng thư, (cùng với Lê Quang Định hợp thành “Gia Định tam gia”, một nhóm nổi tiếng về văn học và sử học). Góc trái chính điện có một chuông đồng. Quai chuông là một con rồng hai đầu, bốn chân. Thân chuông đúc nổi 2 hàng chữ “Gia Định thành Minh Hương xã công tạo“, “Long tập Quí Mùi thu nguyệt” (chuông do xã Minh Hương thành Gia định làm năm Quí Mùi – 1823). Hậu điện cách chính điện một sân thiên tỉnh nhỏ. Ở đây cũng có ba khám thờ trang trí giống nhau. Các vị tiền hiền khai sáng ra làng được thờ ở khám thờ chính giữa. Bên trái là khám thờ các hương chức và phu nhân có công, vợ chồng ông Trương Công Sĩ, người đã tặng đất cho xã. Những viên chức nhỏ có công và vợ được thờ ở khám bên phải. Miếu Ngũ Hành thờ Ngũ Hành Nương Nương và Chúa Sinh Nương Nương (người chuyên lo giúp việc sinh đẻ). Trong khám thờ có tượng Bà mẹ Sinh. Trước tượng Bà là tượng hai hầu và mười hai bà mụ bồng đứa trẻ trên tay. Phúc đức chính thần (Thổ Địa) và Bạch Mã Thái giám cũng được thờ ở miếu. Góc trái miếu có một chuông đồng đúc năm Tự Đức thứ 2 (1849). Ngoài những hiện vật đã kể, trong đình còn nhiều hiện vật quí khác như: bia lập năm 1839 ghi tên những người Minh Hương làm quan có tiếng dưới triều Nguyễn; một số hoành phi câu đối, đặc biệt là đôi câu đối làm cong theo thân cột, chạm nổi long, lân, qui, phụng … với đầu rồng được chạm cao hơn bề mặt câu đối gần một tấc, hai đỉnh gang làm năm 1842; bộ ghế chạm rồng, phượng; bộ thập bát binh khí …Đình Minh Hương là một trong những ngôi đình xưa ở thành phố Hồ Chí Minh. Ngoài ý nghĩa là một di tích của xã Minh Hương, nơi thờ tự hương hỏa của người Minh Hương, đình còn có giá trị về nghệ thuật thư pháp, nghệ thuật chạm khắc gỗ mang phong cách Việt Nam thế kỷ 19. Đình Minh Hương đã được Bộ Văn hóa ra quyết định số 43-Văn Hóa /Quyết Định ngày 07/01/1993 công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận 5, thành phố Hồ Chí Minh.
TP Hồ Chí Minh 2415 lượt xem
Đình Nghĩa Nhuận tọa lạc tại 27 đường Phan Văn Khỏe, phường 13, quận 5, thành phố Hồ Chí Minh. Đình Nghĩa Nhuận nguyên là đình thôn Tân Nhuận thuộc tổng Tân Phong, huyện Tân Long, phủ Tân Bình, một thôn đã được Trịnh Hoài Đức nhắc đến trong Gia Định thành thông chí. Từ năm 1836 thôn Tân Nhuận thuộc tổng Tân Phong Trung, huyện Tân Long, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định. Năm 1853, Thần Thành Hoàng bổn cảnh của làng được vua Tự Đức ban tặng sắc phong. Sau, đình trở thành hội quán của Hội Nghĩa Nhuận, thờ Quan Công là vị thần chính nên còn có tên là miếu Quan Đế. Theo Vương Hồng Sến, hội quán Nghĩa Nhuận được thành lập năm 1872 và trùng tu vào các năm 1879, 1894, 1906 và 1911. Đình gồm hai khu nhà riêng biệt trên khuôn viên khoảng hai ngàn mét vuông. Phần trước gồm các điện thờ, thiên tỉnh và hai dãy nhà phụ hai bên. Phía sau là nghĩa từ và các khu nhà phụ. Năm 1993, đình được xây thêm tam quan và hai dãy nhà dọc hai bên sân để thờ Thái Tuế thiên quân, Văn Xương đế quân, Thần Tài đại hắc thiên ở phía bên trái và thờ Di Lặc tôn Phật, Quan Âm Bồ Tát, Địa Tạng vương Bồ Tát ở bên phải. Hai bên cửa đình, ngoài hai sư tử đá chầu hai bên, còn có tượng Di Đà Hộ Pháp và Vương Đại thiên quân. Tiền điện đình có bàn thờ Tả Thần môn và ngựa Xích Thố bài trí đối xứng với bàn thờ Hữu Thần môn và Chiến sĩ trận vong. Từ tiền điện qua sân thiên tỉnh thì vào chính điện. Giữa chính điện có khám thờ Quan Đế với tượng quan Đế bằng gỗ cao khoảng 80cm, ngồi trên ngai. Hầu trước khám thờ là tượng Quan Bình và Châu Xương bằng gỗ cao 180cm đặt trong tủ kính đối mặt nhau. Bên trái khám thờ Quan Đế là gian thờ Thần Thành Hoàng bổn cảnh. Sắc phong của vua Tự Đức đặt trong một tủ kính lớn. Sắc ban cho Thần làng Thanh Bình, huyện Bình Dương, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định cũng được đặt chung ở đây. Khám thờ Bà Thiên Hậu ở góc bên phải. Trong khám thờ có tượng Bà Thiên Hậu bằng gỗ cao khoảng 70cm, ngồi trên ghế chạm. Nghĩa từ thờ các bậc tiền hiền, hậu hiền có công với làng. Nét nổi bật của đình là nghệ thuật chạm gỗ mang phong cách Việt Nam nửa cuối thế kỷ 19 và nửa đầu thế kỷ XX. Hầu như có thể nhìn thấy các tác phẩm chạm gỗ ở khắp nơi trong đình: trên tất cả các vì kèo, bao lam cửa, bao lam khám thờ, hương án, câu đối ... với các mô típ mới lạ như trái đào lộn hột, măng cụt, chim đậu trên chùm mận ... Bên cạnh các đề tài quen thuộc. Được nhắc đến nhiều là tượng ngựa Xích Thố, một trong những tượng ngựa Xích Thố đẹp nhất ở thành phố Hồ Chí Minh; 3 bức phù điêu trước ba hương án ở chính điện chạm nổi "Lục quốc phong tướng", "Trưng Nữ Vương khởi nghĩa" và "Lê Thái Tổ khởi nghĩa" được đánh giá là đỉnh cao về nghệ thuật chạm nổi và đổi mới về đề tài; bức bình phong sơn son thếp vàng, chạm nổi hai mặt các đề tài Bát Tiên quá hải, cầm kỳ thi họa, mai điểu, nho sóc ... viền chung quanh là lưỡng long tranh châu, phụng hoàng, chân đỡ bình phong là 4 kỳ lân ở góc và 2 con rùa ở bên dưới tạo cho bình phong vẻ sinh động. Nghệ thuật chạm khắc đá cũng được thể hiện đặc sắc qua hai cột đá chạm rồng trước cửa đình, cặp sư tử chầu hai bên cửa, các cột đá chạm nổi câu đối, chân kê cột hình bát giác chạm mai, trúc, bầu rượu, túi thơ... Ngoài ra còn có một sô hiện vật giá trị như lư trầm bằng đồng đúc ba con rồng nâng quả cầu, bộ binh khí, cặp hạc đứng trên lưng rùa ...Đình Nghĩa Nhuận không chỉ là di tích của làng Tân Nhuận xưa mà còn thể hiện sự giao lưu văn hóa Hoa - Việt ở vùng đất đông đảo đồng bào Hoa - Việt chung sống. Tuy có vài thay đổi qua những lần trùng tu, đình vẫn giữ được vẽ cổ kính với những tác phẩm chạm gỗ, chạm đá giá trị. Đình đã được công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật theo quyết định số 43-Văn Hóa /Quyết Định ký ngày 07/01/1993. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận 5, thành phố Hồ Chí Minh.
TP Hồ Chí Minh 2351 lượt xem
HỘI QUÁN ÔN LĂNG tọa lạc tại số 12 đường Lão Tử, Phường 11, Quận 5 Hội quán Ôn Lăng, còn được gọi là chùa Quan Âm. Hội quán Ôn Lăng, còn được gọi là chùa Quan Âm, là trụ sở của hội đồng hương những di dân người Hoa nguyên quán ở phủ Tuyền Châu, tỉnh Phước Kiến (Trung Hoa). Hội quán được xây dựng vào khoảng nửa cuối thế kỷ thứ 18 và đã được trùng tu vào các năm 1828, 1867, 1897, 1993, 1995. Năm 1809, Ban Quản trị hội quán đã xây thêm một hồ phóng sinh trước hội quán, để “trấn mạch tụ khí” cho miếu thờ được linh thiêng. Ngoài Thiên Hậu Thánh Mẫu là vị thần được thờ ở gian giũa chính điện, hội quán Ôn Lăng còn thờ các vị Ngọc Hoàng Thượng Đế, Bà Chúa Sinh, Phúc Đức Chính Thần (Thần Thổ Địa), Quan Đế, Bao Công, Văn Xương Đế Quân (vị Thần ban phước lộc), Mã Tướng Quân, Thần Thành Hoàng Bổn Cảnh, Phật Thích Ca, Phật Di Đà, Thiên Phụ Địa Mẫu, Tử Vi, Hoa Quang Đại Đế (Thần Tài), Tề Thiên Đại Thánh. Đặc biệt, án thờ Bồ Tát Quan Thế Âm được đặt trong sân phía sau chính điện với tượng thờ Quan Âm cao gần hai mét đứng trên tòa sen, hai bên có Kim Đồng, Ngọc Nữ theo hầu. Mặt bằng tổng thể của hội quán gồm một khoảng sân nhỏ phía trước, một khối nhà hình chữ nhật ở giữa (gồm tiền điện, sân thiên tỉnh, trung điện, chính điện) và ba khối nhà vuông góc nhau tạo thành hình chữ U bao bọc khối nhà này, khoảng giữa các khối nhà là lối đi khá rộng rãi. Hội quán được xây dựng và trang trí theo phong cách đặc trưng của đền miếu Phước Kiến với kiểu kiến trúc “tứ hợp diện”, mái lợp ngói ống, đầu các xà gồ dưới mái hiên được chạm trổ hình bông sen…Giá trị nghệ thuật của hội quán thể hiện qua các phù điêu hình hai con rồng tranh viên ngọc, chim phượng hoàng và các mô hình thành quách, người, thú… bằng gốm được trang trí trên mái ngói; cặp tượng kỳ lân bằng đá chầu hai bên cửa gồm tượng lân giáo tử (lân mẹ đang dạy lân con) và tượng lân hàm châu (lân ngậm ngọc trong miệng); những mảng phù điêu bằng gỗ chạm trổ tinh xảo trang trí ở mặt tiền và trên các vì kèo; các bao lam cửa, bao lam khám thờ chạm trổ tinh tế hình mai – điểu (hoa mai – chim sẻ), trúc – tước (cây trúc – chim tước), ngô đồng – phượng (cây ngô đồng và chim phượng), 16 cặp liễn, 23 hoành phi (có niên đại từ năm 1826 đến năm 1908), chuông đồng đúc năm Ất Dậu (1885) và tượng các vị thần thánh được tạo tác chân phương, gần gũi với đời thường. Thiên Hậu Thánh Mẫu là vị thần được thờ chính nhưng về sau việc thờ Quan Âm được coi trọng hơn nên hàng năm lễ hội Quan Âm được tổ chức rất long trọng trong ba ngày 17 tháng 6 âm lịch. Ngoài việc tế lễ, Ban Quản trị còn phát lộc cho người đến tham dự. Hội quán Ôn Lăng đã được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia theo Quyết định số 39/2002/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thông Tin ngày 30 tháng 12 năm 2002. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận 5, thành phố Hồ Chí Minh.
TP Hồ Chí Minh 2222 lượt xem
Miếu Thiên Hậu tọa lạc tại số 710 đường Nguyễn Trãi, phường 11, quận 5, là ngôi miếu thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu của cộng đồng người Hoa – Quảng Đông, gốc ở huyện Tuệ Thành (Trung Quốc). Miếu được xây dựng vào năm 1760. Từ đó đến nay, miếu đã được trùng tu nhiều lần. Miếu có cấu trúc mặt bằng dạng chữ Quốc, chia làm 3 dãy: tiền điện, trung điện và hậu điện. Hội quán Tuệ Thành và truờng học nằm hai bên miếu. Nóc miếu được trang trí hoa văn hoa lá, hình nhân bằng gốm sứ do hai lò Bửu Nguyên và Đồng Hòa sản xuất vào năm Mậu Thân (1908), có cảnh "đả võ đài", "bái tổ vinh quy", mô tuýp "lưỡng long tranh châu", có hình ảnh tiên đồng, tiên nữ với hàng chữ "hòa hợp nhị tiên"... Hai con lân đá, chạm từ khối đá nguyên được đặt trong sân miếu. Tiền điện đặt hai trang thờ hai bên cửa vào. Bên trái thờ Thần Cửa (Môn Quan Vương Tả), bên phải thờ Phúc Đức Chánh Thần. Tại đây cũng có bia đá ghi truyền thuyết về Thiên Hậu Thánh Mẫu và bức tranh lớn vẽ cảnh Bà hiển linh trên sóng nước. Bia công đức ghi lại sự đóng góp trùng tu miếu vào các đời: Đạo Quang thứ 8 (1828) và Đạo Quang thứ 10 (1830) – Tự Đức thập nhất niên (1857); Hàm Phong cửu niên (1859); Quang Tự - Mậu Tuất (1898)...Trung điện đặt bộ lư phát lam niên hiệu Quang Tự thứ 12 (1886) là bộ lư lớn nhất so với những bộ lư ở những miếu khác trong Thành phố. Tại đây cũng có kiệu lớn sơn son thếp vàng bằng gỗ tốt, dành rước Bà trong ngày vía. Bức hoành phi "Hàm Hoằng Quang Đại" treo tại đây, cho biết năm trùng tu xưa nhất của miếu (1800). Hậu điện là gian chính đặt thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu. Trên trang thờ Bà có 3 tượng lớn: tượng cao nhất dùng vào dịp vía bà, cung nghinh ra sân cho bà ngự lãm lễ hội; tượng giữa đặt trên trang thờ và tượng dưới cùng dùng đặt vào kiệu đưa đi diễu hành quanh các khu phố vào ngày lễ hội. Tại gian chính điện còn đặt 2 đại hồng chung bằng gang: một có niên đại 1795 đời vua Càn Long thứ 60 và một được đúc năm Canh Tuất 1850. Trong "Thiên Hậu cung" có đặt một thuyền gỗ ở góc, treo cờ ghi 4 chữ "phổ độ chúng sanh", dùng dâng cúng Bà vào ngày vía hàng năm. Hai bên trang thờ Bà còn đặt trang thờ Kim Huê nương nương bên phải và Long Mẫu nương nương bên trái... Gian phụ cũng đặt thờ Quan Thánh, Địa Tạng, Thần Tài. Tủ kính lớn gian chính điện đặt tượng Bát Tiên và tướng lịnh của Ariès ký tên: cấm các binh sĩ Pháp, Y-Pha-Nho phá phách miếu – được lưu giữ từ năm 1860. Ngoài các hiện vật quý, trong miếu còn có các pháp khí như: đỉnh trầm, lư trầm, lư hương bằng đá sa thạch... do người Hoa thành kính tín ngưỡng Bà đã dâng cúng. Là ngôi miếu quan trọng nhất ở Thành phố đặt thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu cùng một số hiện vật quý trong miếu, ngày 07/01/1993 miếu được công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật theo quyết định số 43-Văn Hóa /Quyết Định của Bộ Văn hóa thông tin. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận 5, thành phố Hồ Chí Minh.
TP Hồ Chí Minh 2395 lượt xem
Miếu Nhị Phủ, Nhị Phủ hội quán hay còn được gọi là chùa ông Bổn, tọa lạc tại 264 đường Hải Thượng Lãn Ông, phường 14, quận 5, thành phố Hồ Chí Minh. Có tên là Nhị Phủ vì miếu được thành lập do sự đóng góp của người Hoa gốc ở hai phủ Tuyền Châu và Chương Châu, Phúc Kiến, Trung Quốc. Về sau nhóm Tuyền Châu lập hội quán Ôn Lăng, nhóm Chương Châu lập hội quán Chương Châu (nay là Hà Chương). Không rõ miếu được xây dựng năm nào. Hiện nay trong miếu còn lưu giữ một chuông cổ. Trên chuông chỉ đúc hàng chữ "Nhị phủ Đại Bá Công Ất Dậu trong thu cát đán..." nên khó xác định niên đại. Trong "Cổ Gia Định phong cảnh vịnh", bài phú mô tả phong cảnh Gia Định từ năm 1770 đến năm 1815. Trên một câu đối treo ở chính điện hội quán Hà Chương (được thành lập sau miếu Nhị Phủ) có ghi năm trùng tu là Gia Khánh Kỷ Tỵ tức năm 1809. Như vậy hội quán này được xây dựng muộn nhất là vào cuối thế kỷ XVIII. Từ những dữ liệu trên, có thể nói "Ất Dậu"chạm trên chuông là năm 1765, cũng là năm thành lập miếu. Từ khi thành lập đến nay, miếu đã qua ba lần trùng tu lớn vào những năm 1875, 1901 và 1990. Dù vậy, miếu vẫn giữ được nét cổ kính qua phong cách kiến trúc và trang trí truyền thống của người Hoa - Phúc Kiến. Khuôn viên miếu rộng khoảng hai ngàn năm trăm mét vuông. Phần sân chiếm gần phân nửa diện tích. Không gian còn lại bao gồm các điện thờ, trụ sở hội quán và sân thiên tỉnh. Miếu có dạng nhà khung gỗ, mái ngói, tường gạch. Vách mặt tiền ghép bằng các phiến đá. Bộ khung gỗ được sơn màu đỏ, trang trí đẹp mắt bằng các bông sen chạm ngược ở đầu các thanh chống xà gồ dưới mái hiên, các tượng kỳ lân bằng gỗ đầu xà cột hay những diềm gỗ chạm lộng trên thanh ngang...Mái miếu lợp ngói ống, diềm mái là hàng ngói thanh lưu ly. Hình thức vì kèo "chồng rường - giá chiêng" khiến mái miếu hơi cong cộng với thiết kế tạo hình hai tầng mái và các đầu đỉnh mái, đầu đao uốn cong tạo cho ngôi miếu có dáng một chiếc thuyền rồng... Trên mái trang trí tượng cá hóa long, mai, lan, cúc, trúc, rồng, phượng... bằng gốm sứ nhiều màu sắc. Ơở gờ đỉnh mái có tượng lưỡng long tranh châu. Thân rồng không duỗi dài như thường thấy mà gần như dựng thẳng, đuôi xòe cao. Bên trong miếu bài trí đơn giản nhưng không kém phần trang nghiêm. Trên mỗi cột gỗ cao sơn màu đỏ, được kê bằng các chân đá chạm trổ mỹ thuật, có treo một hoặc hai câu đối. Nhiều câu đối cao hơn 3 mét, được làm cong theo chiều cong của cột. Hoành phi cũng được trang trí nhiều nơi. Có tất cả 14 câu đối và 30 hoành phi, phần lớn được làm từ năm 1864 đến năm 1901. Các hoành phi, câu đối được chạm viền chung quanh, bên trong chạm nổi các chữ Hán trên nền hoa văn rồng mây, sóng nước... ngoài ý nghĩa ca ngợi thần thánh còn có giá trị nghệ thuật thư pháp và nghệ thuật chạm gỗ. Bàn thờ ông Bổn tức Phúc Đức chính thần, vị thần bảo hộ đất đai theo tín ngưỡng của người Hoa đặt giữa chính điện. Hai bên thờ Quảng Trạch tôn vương và Thái Tuế gia gia. Dọc hai bên thiên tỉnh trước chính điện là hai gian thờ Quan Thánh đế quân và Chúa Sinh nương nương. Hậu điện thờ Ngọc Hoàng đại đế, Thích ca Phật tổ và Quan Âm Bồ tát. Các vị thần, thánh được thể hiện bằng tượng gỗ hay thạch cao đặt trang trọng trong các khám thờ. Nổi bật nhất là khám thờ ông Bổn được làm năm 1894. Khám thờ bằng gỗ, sơn nhũ vàng, chạm trổ các đề tài lưỡng long tranh châu, ngô đồng - phượng, lân hàm châu... xen kẻ hoa văn đồng tiền, chữ thọ, các con vật miền sông nước như tôm, cua, cá... là một tác phẩm của nghệ thuật chạm khắc gỗ, một hiện vật quý của miếu. Ngoài ra còn có những hiện vật giá trị khác như chuông cổ bằng hợp kim đúc năm Ất Dậu (1765), chuông bằng gang làm năm 1875, tượng kỳ lân bằng đá, các bao lam, bình phông, hoành phi, câu đối... có niên đại cuối thế kỷ 19. Miếu Nhị Phủ được xem là một trong những đền miếu xưa nhất của người Hoa ở thành phố Hồ Chí Minh. Là một công trình kiến trúc đặc sắc với nghệ thuật chạm đá, chạm gỗ tinh xảo, miếu Nhị Phủ không chỉ thể hiện sự giao lưu văn hóa Hoa - Việt mà còn đánh dấu sự định cư và phát triển của người Hoa Phúc Kiến, gắn liền với sự phát triển của Sài Gòn xưa. Ngày 31/8/1998 miếu Nhị Phủ đã được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật theo quyết định số 1811/1998/Quyết Định-Bộ Văn Hóa Thông Tin. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận 5, thành phố Hồ Chí Minh.
TP Hồ Chí Minh 2232 lượt xem
Lệ Châu hội quán, nhà thờ tổ nghề thợ bạc tại Sài Gòn - thành phố Hồ Chí Minh, tọa lạc trên một khu đất rộng 805m2, tại số 586 đường Trần Hưng Đạo B, phường 14, quận 5, thành phố Hồ Chí Minh. Đây là một ngôi nhà đã tồn tại hơn 100 năm, là nhà thờ tổ nghề thợ bạc được xây dựng sớm nhất tại Sài Gòn và cả vùng Nam Bộ. Tác giả Vương Hồng Sển đã viết: "Đường Nguyễn Trãi đi một đoạn khỏi đường Tổng Đốc Phương gặp chùa Lệ Châu. Đây là "chùa tổ" thờ tổ sư của nhóm thợ và chủ lò kim hoàn. Sau những người Hoa kiều đồng nghề cũng nhập với đồng nghiệp Việt Nam nên mỗi năm cúng tổ long trọng và oai nghi lắm". Những năm cuối thế kỷ 19, Sài Gòn đã là một khu công nghiệp khá quan trọng. Thợ thủ công Sài Gòn có tay nghề cao và được tổ chức thành các "ty thợ", "phường thợ". Riêng nghề thợ bạc (nghề kim hoàn ngày nay) rất phát triển. Làm cho nhà nước thì có các ty: ty thợ bạc Nội, ty thợ bạc Tả Trung, ty thợ bạc Hữu Trung... Còn tư nhân thì tập trung lại thành các lò thợ bạc. Xung quanh vùng Chợ Lớn đã có tới hơn 30 lò thợ bạc hành nghề. Làm ăn phát đạt - Nhớ ơn tổ nghiệp. Một số chủ lò thợ bạc có uy tín ở vùng Chợ Lớn đã đứng ra vận động quyên góp từ các lò thợ bạc trong vùng và khắp các tỉnh miền Đông, miền Tây Nam Bộ, kẻ ít, người nhiều, họ đã chung lưng góp sức mua được một vuông đất ở đường Thủy Binh (Rue des Marins tức đường Trần Hưng Đạo B ngày nay). Nhà thờ tổ được xây cất bắt đầu từ năm 1892 đến năm 1896 thì hoàn thành. Nhà thờ tổ đã trải qua nhiều đợt trùng tu lớn vào các năm 1920, 1934, 1946. Lần trùng tu lớn cuối cùng là tháng 8/1968 đã cất lại toàn bộ nghĩa từ và sửa chữa lớn ở chánh điện do bị bắn phá hư hại. Chánh điện được xây theo kết cấu ba gian dọc, có hai hàng cột chạy dài từ ngoài vào trong, tường gạch tô, mái lợp ngói âm dương. Bài trí ở chánh điện đơn giản, không có một pho tượng nào. Mặt trường chính của chánh điện đặt ba khám thờ được trang trí bằng những bao lam chạm trổ rồng, phụng, hoa, điểu... sắc nét công phu. Chính giữa là khám thờ lớn ở trong đặt các đồ thờ tự và bài vị với hai chữ "Tổ Sư" được viết theo lối đại tự đẹp, chân phương và được sơn son thếp vàng. Hai bên là hai khám thờ nhỏ, khám thờ bên phải đề hai chữ "Tiền Hiền", khám thờ bên trái đề hai chữ "Hậu Hiền". Từ ngoài vào trong dọc theo các hàng cột có 6 cặp câu đối và 9 bức hoành phi với nội dung tập trung vào chủ đề nhớ ơn tổ nghiệp, ca ngợi sự phát triển thịnh đạt của nghề thợ bạc. Tất cả các hoành phi, câu đối, bao lam... đều được sơn son thếp vàng với chất lượng giấy qui có độ tuổi vàng cao nên đều láng bóng và rõ nét, dù tất cả đều có niên đại khá lâu. Trong nhà thờ tổ còn tồn giữ được một số hiện vật khá độc đáo: Một cái trống lớn có chiều cao 1,10m, đường kính 0,60m, tang trống không phải bằng các mảnh gỗ ghép mà lại là một cây gỗ tròn lớn khoét rỗng. Đi đôi với trống là một quả chuông cao 1m, đường kính 0,50m, trên chuông để niên đại năm Ất Mùi (1895) do thợ Hà Nội chế tác và ghi rõ họ tên 14 người trong nghề thợ bạc phụng cúng để tỏ lòng thành kính tổ sư. Đặc biệt là 4 tấm bia đá đặt đối nhau ở hai bức vách chánh điện. Có tấm có niên đại 1895, có tấm để năm 1916, 1920. Trên các tấm bia khắc tên họ, tên hiệu, địa phương, số tiền đóng góp để xây dựng nhà thờ tổ. Qua đó ta thấy có mặt đệ tử nghề thợ bạc khắp Nam kỳ lục tỉnh: Tây Cống, Đề Ngạn, Trà Vinh, Bến Tre, Cần Thơ... người Hoa, người Việt. Bên cạnh những tên hiệu chữ Hán Nôm như: Thịnh Đức, Kim Phước, Đức Phát... còn có những tên hiệu rất Nam Bộ như: Năm Sương hiệu, Bảy Trừ hiệu... Theo truyền thuyết nhà thờ tổ sư nghề thợ bạc này, được dựng lên để thờ một vị tổ sư họ Trần (không rõ tên), quê từ miền ngoài vào, nguyên là thợ bạc trong cung nội, học nghề thợ bạc từ hai vị cao tổ của nghề kim hoàn Việt Nam là hai cha con: "Đệ nhất tổ sư"Cao Đình Độ (1743 - 1810, hiệu "Đệ nhất tổ sư" do vua Gia Long phong năm 1810) và "Đệ nhị tổ sư" Cao Đình Hương (1773 - 1821, hiệu "Đệ nhị tổ sư" do vua Minh Mạng phong năm 1821). Lễ giỗ tổ kim hoàn tại Lệ Châu hội quán được tổ chức vào ngày 7 tháng Hai (âm lịch), là ngày giỗ của vị "Đệ nhị tổ sư" Cao Đình Hương. Ngày cúng tổ hàng năm ở đây qui tụ rất đông các đệ tử của nghề thợ bạc từ khắp các vùng Nam Kỳ lục tỉnh. Lễ giỗ được tổ chức trong ba ngày từ ngày 6 đến ngày 8 tháng Hai (âm lịch). Hơn một thế kỷ trôi qua, ngôi nhà thờ tổ vẫn được Ban trị sự và các đệ tử của nghề thợ bạc bảo quản nguyên vẹn. Ngôi nhà không chỉ là nơi thờ cúng bình thường nói lên truyền thống "tôn sư trọng đạo", "uống nước nhớ nguồn" của những người hành nghề kim hoàn mà còn mang đậm những nét văn hóa đặc sắc về lịch sử đấu tranh cũng như quá trình phát triển của vùng Sài Gòn và Nam Bộ xưa. Vì lý do đó "Lệ Châu hội quán" đã được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật theo quyết định số 1811/1998/Quyết Định - Bộ Văn Hóa Thông Tin ngày 31/8/1998. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận 5, thành phố Hồ Chí Minh.
TP Hồ Chí Minh 2052 lượt xem