Chùa Trầm tọa lạc trên núi Trầm hay còn gọi là Tử Trầm Sơn thuộc xã Phụng Châu, huyện Chương Mỹ (Hà Nội). Chùa Trầm có lịch sử lâu đời, do Tướng quân Trần Văn Tăng khởi dựng từ khoảng năm 1515 của thế kỷ 16. Chùa Trầm cũng vinh dự được đón Bác Hồ 3 lần về thăm. Quần thể di tích chùa Trầm là nơi cách đây hơn 77 năm về trước Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến với câu nói đã trở thành lời thiêng sông núi: “Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Hơn ba phần tư thế kỷ đã trôi qua kể từ sau ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến ngày 19/12/1946, di tích lịch sử hang Trầm vẫn được bảo vệ và gìn giữ nguyên vẹn. Nơi đây đã ba lần được đón Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong đó có hai lần Bác ra lời kêu gọi kháng chiến trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ của dân tộc ta. Lời kêu toàn quốc kháng chiến năm 1946, để chuẩn bị cho công cuộc kháng chiến chống Pháp trường kỳ, trong đó nhiệm vụ đặc biệt quan trọng là liên tục giữ sóng quốc gia, nhằm chuyển tải đầy đủ và kịp thời các chủ trương, đường lối lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng và Nhà nước tại thời điểm đó đến với nhân dân, theo chỉ đạo của Trung ương Đảng, Đài Tiếng nói Việt Nam đã chọn hang Trầm là nơi làm việc từ cuối năm 1946 đến đầu năm 1947. Tại hang Trầm, ngày 19/12/1946, qua làn sáng Đài Tiếng nói Việt Nam Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến với câu nói bất hủ: “Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Câu nói ấy đã ngân vang đến mọi miền tổ quốc và đi vào tâm thức của hơn 30 triệu người dân Việt Nam (lúc đó) như một lời hiệu triệu. Ngay sau lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Bác, ngày 20/12/1946, quân và dân Thủ đô Hà Nội đã nổ những tiếng súng đầu tiên tấn công thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta. Cũng tại đây, vào thời khắc Giao thừa Tết Đinh Hợi năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc thơ chúc Tết đồng bào, chiến sĩ cả nước và kiều bào ta ở nước ngoài qua Đài Tiếng nói Việt Nam Tại cửa hang Trầm hiện vẫn còn cột phát sóng ghi dấu thời kỳ hoạt động của Đài Tiếng nói Việt Nam, cũng là mốc lịch sử quan trọng trong công cuộc đấu tranh giành độc lập của dân tộc Việt Nam. Lời kêu gọi kháng chiến chống Mỹ cứu nước năm 1966, khi cuộc chiến tranh chống Mỹ bước vào thời điểm khó khăn ác liệt nhất, ngày 3/7/1966, một lần nữa hang Trầm lại được đón Bác về viết Lời kêu gọi kháng chiến chống Mỹ cứu nước, chuẩn bị cho Hội nghị chính trị đặc biệt của Trung ương Đảng với tuyên ngôn bất hủ “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Trong thời gian làm việc tại đây, trên vách đá của hang Trầm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết những câu đối bằng chữ Hán ca ngợi cảnh đẹp của núi Trầm. Bác căn dặn cấp ủy, chính quyền địa phương làm những công trình phúc lợi để phục vụ đời sống của nhân dân cũng như phục vụ cho công cuộc kháng chiến lâu dài. Với ý nghĩa lịch sử đặc biệt quan trọng, năm 1962 quần thể di tích chùa Trầm, trong đó có hang Trầm đã được công nhận Di tích lịch sử cấp Quốc gia. Chùa Trầm và hang Trầm ngày nay được đông đảo người dân trong cả nước lựa chọn là điểm du xuân đầu năm mới bởi ngoài yếu tố tâm linh thì nơi đây còn mang giá trị rất lớn của lịch sử trong hai cuộc kháng chiến giành độc lập của dân tộc Việt Nam. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Chương Mỹ , thành phố Hà Nội.
Hà Nội 3159 lượt xem
Chùa Trăm Gian hay còn được biết đến với tên gọi khác là chùa Quảng Nghiêm hay chùa Tiên Lữ, được xếp vào một trong “tứ đại danh thắng của xứ Đoài”. Đây là một ngôi chùa cổ kính có từ thời nhà Lý, chùa tọa lạc trên một ngọn đồi cao khoảng 50m, ở huyện Chương Mỹ, Hà Nội. Chùa Trăm Gian được khởi công xây dựng vào khoảng năm 1185, dưới thời vua Lý Cao Tông, gắn liền với truyền thuyết về đức Thánh Bối. Do tác động của thời gian, ngôi chùa đã được trải qua nhiều lần trùng tu và mang dáng vẻ như ngày nay. Chùa có tất cả 104 gian, được chia thành 3 cụm kiến trúc chính, có lẽ vì thế mà chùa mang cho mình cái tên Trăm Gian. Ngôi chùa Trăm Gian gắn liền với truyền thuyết về đức Thánh Bối. Tương truyền rằng, vào thời nhà Trần, ở làng Bối Khê có người phụ nữ mộng thai thấy Đức Phật rồi sinh ra một cậu con trai. Bố mẹ mất khi tuổi còn nhỏ, cậu con trai vào tu tại chùa Đại Bi trong làng. Trong quá trình học đạo tại chùa trên núi, cậu đã tinh tường nhiều phép linh thông. Sau khi được vua Trần sắc phong làm Hòa Thượng tại kinh đô, ngài xin vua về làng dựng lên ngôi chùa mới. Năm 95 tuổi, ngài ngồi vào một cái khảm gỗ siêu thoát. Sau 100 ngày, đệ tử mở khảm gỗ ra thì thấy mùi thơm ngào ngạt cả một vùng. Thấy vậy, dân làng và đệ tử đã cho xây tháp để thờ phụng đức Thánh Bối. Hiện nay, chùa Trăm Gian được coi là một trong bốn chùa nổi tiếng và linh thiêng nhất xứ Đoài, bên cạnh chùa Thầy, chùa Trầm và chùa Tây Phương. Theo tấm bia Quảng Nghiêm tự bi ký dựng năm Hoằng Định 4 (năm 1603), thì ngôi chùa này đẹp nhất phủ Quốc Oai. Những thập niên gần đây, ngôi chùa liên tục được tu bổ, tôn tạo nhưng về cơ bản vẫn theo lối cũ. Vì những giá trị nổi bật về kiến trúc, nghệ thuật điêu khắc nên năm 1962 chùa Trăm Gian đã được Bộ VHTTDL xếp hạng là Di tích Lịch sử - Văn hóa cấp quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Chương Mỹ , thành phố Hà Nội.
Hà Nội 3087 lượt xem
Chùa Cự Đà có từ thế kỷ XVII. Tên chữ: Linh Minh Tự. Làng Cự Đà là tên gọi của một trong ba thôn Khúc Thủy, Khê Tang, Cự Đà, thuộc xã Cự Khê, huyện Thanh Oai, TP. Hà Nội. Trong ba thôn này thì Cự Đà có tuổi đời lâu nhất, nơi đây không chỉ được biết đến nhờ 2 nghề truyền thống là làm miến và làm tương, mà còn do kiến trúc. Ngoài cổng làng, cổng xóm, dân làng hiện nay vẫn giữ được những đình, chùa, miếu cổ và một số ngôi nhà có kiến trúc lai kiểu Pháp cách đây hàng trăm năm. Chùa Cự Đà tên chữ là Linh Minh Tự, được xây dựng từ lâu đời nhưng không ai nhớ đích xác vào lúc nào. Theo văn bia còn lại, ngôi chùa chiếm vị trí phong thủy tốt: sau lưng là đống già sơn tựa thế, phía đông có dân cư tụ hội, bên trái là từ đường họ Đinh, bên phải là miếu thờ Thành hoàng, trước mặt có dòng sông Nhuệ. Mùa xuân năm Chính Hòa 16 (1695) chùa Cự Đà 3 gian 2 chái được Đại sư Thích Duy Nghiễm cùng Lý trưởng Trịnh Đăng Long chủ trì việc trùng tu lần đầu tiên. Đến mùa thu năm Tự Đức 32 (1879), chùa được Đại sư Thích Tịnh Đoan đảm nhận công việc mở rộng với quy mô lớn hơn trước, gồm 5 gian tiền đường và 3 gian hậu cung. Trụ trì chùa hiện nay là Thượng tọa Thích Tiến Đạt, Phó Trưởng Ban thường trực Ban Pháp chế Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Tại Quyết định số 06 QĐ/BVHTT ngày 13-4-2000 của Bộ Văn hóa và Thông tin, ngôi chùa Cự Đà được xếp hạng Di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia. Ngày 2-11-2014, chùa Cự Đà khánh thành đợt trùng tu mới. Nhà chùa từ đó tiếp tục hoàn chỉnh công trình với 2 giếng đá ở trong và ngoài sân trước, cùng một cổng phụ ở phía tây mở ra bãi đất liền với cánh đồng làng. Cổng phụ phía đông ăn thông với lối đi chính về phía cầu đường sắt. Cổng lớn của chùa là một tam quan hẹp, mặt quay hướng nam nhìn qua hai cây muỗm to ra sông Nhuệ. Du khách bước vào sân chùa rồi qua 3 gốc cổ thụ nữa thì đến thềm rồng của chùa chính, có tượng đôi voi quỳ trên bệ đá ở hai bên. Tiền đường xây 5 gian cửa gỗ bức bàn, đầu hồi bít đốc, nối với thượng điện theo hình “chữ Đinh”, hai bên có cửa ngách dẫn vào 2 hành lang chạy dọc thượng điện rồi kéo dài đến hậu đường. Bên hữu chùa chính có Tổ đường song song với học đường, đều 5 gian; phía sau là tháp và lối vào nhà khách; phía trước là phương đình 2 tầng 8 mái 16 cột, có gác treo chuông lớn nhìn ra nếp nhà nhỏ 3 gian với 10 tấm bia hậu các loại, xa hơn là miếu thờ Thành Hoàng. Bên tả chùa chính lại có nhà giải vũ và tượng Quan Âm Nam Hải đứng trong lầu nhỏ 2 tầng 8 mái 4 cột, phía sau lầu là nhà Mẫu và nhà Tăng. Nguồn Cổng thông tin điện tử xã Phú Diễn , huyện Thanh Oai , thành phố Hà Nội.
Hà Nội 1950 lượt xem
Đình Canh Hoạch, xã Dân Hòa, huyện Thanh Oai là một trong những di tích lịch sử văn hóa có niên đại khởi dựng từ sớm, có giá trị trên nhiều phương diện nghiên cứu. Ngày nay, tuy di tích không còn giữ được sự bề thế vốn có trước đây, song những giá trị về lịch sử, kiến trúc, nghệ thuật vẫn được bảo tồn nguyên vẹn và có nhiều giá trị về nhiều mặt trong kho tàng di tích văn hóa dân tộc. Đình Canh Hoạch được công nhận Di tích cấp quốc gia năm 1991. Theo các cụ cao niên, xưa kia, làng Canh Hoạch có ba ngôi đình là đình Cả, đình Diệc và đình Trung. Trải qua nhiều biến cố của lịch sử, đình Cả và đình Diệc đã bị hỏng, chỉ còn đình Trung. Dân làng đã chuyển các đồ thờ, thần phả sắc phong của đình Cả, đình Diệc về đình Trung cùng để phối thờ. Canh Hoạch có tên nôm là làng Vác, nên ngôi đình làng còn có tên là đình Vác. Ngôi đình được tọa lạc trên khu đất cao rộng ở giữa làng, ngoảnh về hướng Tây nhìn ra quốc lộ 21B. Theo cuốn thần phả, đình Canh Hoạch thờ ba vị: Hùng Lý, Cao Hàn và Trần Quốc Uy. Vị thần thành hoàng thứ nhất là Hùng Lý Đại vương, vốn là một hoàng tử, con bà cung phi thứ sáu của Hùng Đoan Vương, khi lớn lên có nhiều tài, được vua cha phong chức, làm quan trấn thủ Tam Giang. Vị thần thành hoàng thứ hai là Cao Hàn Đại vương, cùng thời với Hùng Lý Đại vương. Khi nước Văn Lang có giặc, Cao Hàn được nhà vua giao cùng với Hùng Lý hợp lực đánh giặc ở vùng Tam Giang. Vị thần thành hoàng thứ ba là Trần Quốc Uy, con của Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn. Ông vốn là người thông minh hiếu học, đỗ đại khoa và được vua Trần phong làm quan, giữ việc binh, có công lao đánh giặc Mông – Nguyên sang xâm lược nước ta. Mặt bằng tổng thể khu di tích bao gồm cổng đình, sân đình, hai ngôi nhà tả, hữu mạc, ngôi nhà đại bái, trung cung và hậu cung. Đầu tiên là cổng đình được xây dựng theo kiểu bốn trụ biểu hoa dành tạo lối vào ra để cho dân làng vào lễ thánh. Bốn cột trụ xây gạch thành khối hình vuông cao to, chia làm ba phần: đế, thân và đỉnh. Phần đế hình khum tạo thế vững chắc cho thân và đình trụ. Phần thân trụ xây khối hộp hình chữ nhật, ngoài trang trí gờ chỉ, trong lòng viết câu đối ca ngợi truyền thống quê hương và công đức của vị Thành hoàng. Trên đình trụ đắp hộp đèn lồng và hoa cành cách điệu cánh bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông, cầu mong mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt. Tiếp đó là sân đình được lát gạch đỏ, đăng đối qua sân đình có hai ngôi nhà tả mạc và hữu mạc. Hai ngôi nhà đều có ba gian, xung quanh xây gạch, tường hồi bít đốc, mái chảy lợp ngói mũi mỏng, các bộ vì kiến trúc làm theo kiểu thức kèo cầu quá giang, thiên về bào tròn đóng bén. Những công trình kiến trúc chính gồm ngôi nhà đại bái, trung cung và hậu cung cấu trúc liên kết theo kiểu chữ Công. Ngôi nhà đại bái ở phía trước cấu trúc mặt bằng hình chữ Nhất có năm gian, tường hồi xây gạch bít đốc kìm đấu vuông khóa bờ nóc, hai mái chảy lợp ngói mũi. Bộ khung nhà kiến trúc ba hàng chân cột gỗ tròn nâng các bộ vì được làm theo kiểu thức chồng rường giá chiêng, bẩy hiên. Tiếp đến là ngôi nhà trung cung, nhà cầu nối đại bái với hậu cung, có ba gian hẹp. Sau đó là ngôi nhà hậu cung ba gian hình chữ Nhất chạy song song với nhà đại bái. Ngôi nhà này xây tường gạch bao quanh, đầu hồi bít đốc kìm đấu vuông khóa bờ nóc, hai mái chảy lợp ngói mũi. Về kiến trúc bên trong của ba ngôi nhà đều chung một kiểu thức bộ khung nhà làm bằng gỗ, bốn hàng cột tròn, các bộ vì theo kiểu thượng chồng rường, hạ bẩy. Về điêu khắc và nghệ thuật trên các lớp kiến trúc gỗ có hoa lá cách điệu, lá hóa rồng mang phong cách nghệ thuật thời Nguyễn muộn, như dòng chữ trên thượng lương ghi xây dựng đình vào năm 1912. Trong đình hiện còn lưu giữ được nhiều đồ thờ tự của ba ngôi đình dồn lại. Trong đó, có hai hương án thời Nguyễn được chạm đục kênh bong rồng, phượng, hoa lá cách điệu, một cuốn thư trên diềm ngoài có đục chạm kênh bong các hoa văn tứ quý, trong lòng họa bài thơ làm theo thể ngũ ngôn bát cú với nội dung ca ngợi công đức Thành hoàng. Đặc biệt, trong đình còn lưu giữ được 9 đạo sắc phong và một cuốn thần phả ghi sự tích các vị thần được thờ làm Thành hoàng của làng Canh Hoạch. Về lễ hội, trước kia lễ hội làng Canh Hoạch từ ngày 11 đến 13 tháng 3 âm lịch. Xưa kia hình thức tổ chức lễ hội tiến hành như sau: Ngày 11/3 dân làng tổ chức rước ba cỗ kiệu thành hoàng, kiệu Đức Thánh Cả Trình Lý đi trước, tiếp kiệu Đức Thánh Hai Cao Hàn và kiệu Đức Thánh Ba Trần Uất từ đình xuống cổng dinh vào đình sắc rước sắc các vị thành hoàng ra đình. Sau đó, làng dùng kiệu đốn xuống rước bát nhang Trạng nguyên Nguyễn Đức Lượng từ Nhà thờ Trạng nguyên họ Nguyễn và lại rước bát nhang Thường quốc công ở đình Sắc về đình Đụn phối hưởng tế cộng đồng. Ngày 13/3, dân làng tổ chức rước sắc, rước bát nhang trạng nguyên và Thường quốc công hoàn cung. Nguồn Cổng thông tin điện tử xã Dân Hòa , huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội
Hà Nội 2153 lượt xem
Đền Nội Bình Đà thờ Đức Quốc tổ Lạc Long Quân (từ truyền thuyết đến chính sử sau này đều ghi) nằm ở vùng châu thổ sông Hồng thuộc xã Bảo Cựu – Phủ Ứng Thiên – Đỗ Động Giang (nay là làng Bình Đà – xã Bình Minh – huyện Thanh Oai – TP Hà Nội). Đền thờ nhìn về hướng Tây, có núi Tam Thai ở phía tây - nam (nay gọi là khu Ba Gò). Theo truyền thuyết trong vùng và những dấu tích cổ còn lại, đây là nơi đặt mộ của Quốc tổ Lạc Long Quân. Đền Nội được xây dựng từ thời cổ xưa, trải qua bao thăng trầm của lịch sử, dấu ấn thời gian chỉ còn lại qua những tấm bia thời Lý, thời Lê Trung Hưng. Đến thời Khải Định (1918) Đền được trùng tu với quy mô hoành tráng. Trải qua nhiều lần trùng tu, phục dựng, từ 1980 đến nay, được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và chính quyền địa phương, ngành văn hóa các cấp cùng công đức bách gia trăm họ, kiều bào ta ở nước ngoài, nhân dân xã Bình Minh đã xây dựng lại ngôi Đền trên nền thiêng cũ. Đặc biệt là từ 2009 - 2010, nhân dịp chuẩn bị cho Đại lễ kỷ niệm nghìn năm Thăng Long, đền Nội đã được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Chính phủ, đầu tư phục dựng quy mô và hoàn chỉnh, trở thành một di tích lịch sử - văn hóa lộng lẫy, trong không gian văn hóa thoáng rộng và có sức hấp dẫn du khách bốn phương. Tọa lạc trong khuôn viên 10.000m2 trên thế đất vồng cao như hình con rùa (Hoàng Quy Cung) đầu hướng về phía mặt trời mọc, nơi dòng sông Nhuệ uốn lượn mềm như dải lụa vắt ngang những thảm lúa mênh mông, hướng sông, thế đất tựa hình lưỡng phượng giao phi. Cửa đền nhìn ra hướng Tây, đồng điền nhô lên Ba Gò (còn gọi là Bảo Hoa, Tam Thai) mang dáng hình hổ phục, nơi đây tương truyền là nơi táng mộ Lạc Long Quân, xa xa dòng Hát lung linh có màu cẩm thạch, đôi bờ mềm mại lúa ngô, trông lên Tản Viên vời vợi một màu xanh như thách thức với thời gian, nắng khát, mưa nhuần. Phía Nam dòng Đỗ Động bắt nguồn từ sông Hát như chiếc đai ngọc lượn vòng rồi xuôi giữa làng, trở thành long mạch linh thiêng, cồn lên hai thềm phù sa nuôi dưỡng dân sinh và trở thành dòng sông thiêng âm thầm qua các thế hệ. Kèm theo đó, nước từ 6 hướng đổ về Đình Găng, Cầu Hội giống như những con rồng đang uốn lượn (lục long chầu hội). Phía Bắc chùa Bụt Mọc nằm giữa mênh mang cánh đồng Cổ Lõi, nơi tiềm ẩn những di sản quý báu từ thời Hùng Vương dựng nước (trống đồng, trầu vàng, cau vàng được tìm thấy năm 1984). Phải chăng khí thiêng sông núi đã hội tụ về đây tạo nên vùng cát địa ! Đền được xây dựng theo kiểu chữ Đinh, có tường gạch bao quanh, hậu cung đặt long ngai Lạc Long Quân, cung đệ nhị đặt đồ thờ (tế tự), tiếp đến là đại đình (đại bái) phương đình nơi đặt lễ. Hai bên tả mạc đường bệ bao lấy khu sân gạch rộng lớn, bốn mùa rợp mát bóng cây. Trước ngọ môn là sân ngoài kề bên ao sen rộng 500m2 ngào ngạt dâng hương. Những công trình này đều được xây dựng khang trang mang đậm bản sắc phương Đông. Điều đáng quý trong Đền còn lưu giữ được nhiều cổ vật quý như: thần phả, sắc phong, bia ký, chuông đồng, đồ tế tự, hoành phi, câu đối, văn trào…. Đặc biệt trong đền có bức phù điêu, một ấn tượng khó quên với nét chạm khắc tinh xảo trên nền gỗ được sơn son thiếp vàng còn nguyên giá trị, tương truyền cách đây gần chục thế kỷ. Bức tranh miêu tả cảnh Lạc Long Quân cùng văn võ bá quan xem hội đua thuyền. Đó là kết tinh văn hóa hàng ngàn năm của dân tộc. Tiềm năng về giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể của Đền Nội đã được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) cấp bằng di tích ngày 13 tháng 3 năm 1985. * Bức phù điêu giá tượng Nằm chính diện trong hậu cung trang trọng và uy nghiêm là bức phù điêu quý hiếm, hoành tráng, lộng lẫy, có chiều dài 2,8 mét và rộng 2,2 mét. Bức phù điêu có 5 tầng. Trên đó, hàng đầu có hai mươi vị quan văn mặc áo thụng, tay cầm hốt, đầu đội mũ cánh chuồn. Mười sáu vị quan võ mang cân đai bối tử hùng dũng, quắc thước, cầm long đao. Mười tám thị nữ mặc áo dài nếp mỏng mềm mại đang dâng tráp sớ với đủ loại cờ quạt, tàn tán, ô, lọng. Ngoài ra còn có voi, ngựa và nhóm dân binh đội mâm dâng hoa quả. Phía trước các hàng người là dòng nước mênh mang hiện lên những con thuyền rồng cong mũi như đang rẽ sóng lao nhanh. Tục truyền, bức phù điêu này được khởi sự từ thời nhà Đinh, khi Đinh Tiên Hoàng lên làm vua đã cho xây đền Thượng tại Phong Châu để thờ các vua Hùng với mỹ tự: “Hùng Vương sơn nguyên Thánh tổ”. Người đã giao cho Hoàng hậu Đan Gia và Đinh Quốc công Nguyễn Bặc đặc trách, cùng với Bộ Lễ tuyển các thợ giỏi để chế tác bức giá tượng này. Đây là công trình nghệ thuật – tín ngưỡng cổ xưa cực kỳ độc đáo, hiếm có, nếu không nói là duy nhất hiện có trong các di tích văn hóa tâm linh ở Việt Nam. Giá trị của bức giá tượng đã góp phần quan trọng tạo nên giá trị chung của di tích đền Nội, nơi thờ Đức Quốc Tổ Lạc Long Quân tại Bình Đà. Lễ hội truyền thống Bình Đà trước đây được mở chính thức từ ngày 24 tháng Hai đến ngày mùng 6 tháng ba âm lịch hàng năm. Những năm gần đây, theo Quy chế tổ chức Lễ hội của Chính phủ, hội đền Quốc Tổ Lạc Long Quân ở Bình Đà, xã Bình Minh, Thanh Oai chỉ mở dồn trong 3 ngày, từ mùng 4 đến mùng 6 tháng 3 âm lịch hàng năm (chung cho cả Đền Nội và Đình Ngoại). Ngày 4/3 âm lịch là ngày Nhật luân kỳ phước (tức là tế lễ cầu phúc ở cả hai Đền); ngày 5/3 âm lịch là ngày rước sắc và lễ trào, làm bánh thánh theo truyền thuyết để dâng vào Đền làm lễ Trào, buổi tối mồng 5/3 âm lịch vào giờ tuất làng làm lễ trào ở Đền Nội nhằm âm dương hoà hợp; ngày 6/3 âm lịch: buổi sáng tế cộng đồng (tế lễ Quốc Tổ và Đương Cảnh Thành Hoàng), rước bánh thánh ra giếng Ngọc để thả rồi té Thiên quan ngoài trời. Buổi chiều là lễ rước Hoàn cung (rước Đương Cảnh Thành Hoàng về đền Ngoại). Tiềm năng giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể của đền Nội đã được Bộ Văn Hóa Thông Tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) cấp bằng di tích ngày 13 tháng 3 năm 1985. Và năm 1990, Đền Nội tiếp tục được Bộ văn hóa công nhận là Di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Ngày 01/04/2014, Lễ hội Bình Đà đã được Nhà nước công nhận là lễ hội văn hoá phi vật thể cấp quốc gia đầu tiên của thành phố Hà Nội. Ngày 25 tháng 12 năm 2015, Thủ tướng Chính Phủ đã ra Quyết định số: 2382/QĐ-TTg Quyết định công nhận Bức giá tượng (phù điêu) chạm khắc hình tượng đức Lạc Long Quân và nhân vật về thời kỳ Hùng Vương, hiện đang được lưu giữ tại Đền Nội - Bình Đà là Bảo vật Quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử xã Bình Minh, huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội.
Hà Nội 2429 lượt xem
Chùa Bối Khê có tên chữ là “Đại Bi tự”, một trong những ngôi chùa cổ nhất ở Bắc Bộ. Tương truyền, chùa được xây dựng từ năm 1338 dưới thời Trần. Chùa thờ Phật, Tam Tòa Thánh Mẫu, thờ Đức thánh Bối Nguyễn Đình An – người có công đánh giặc phương bắc, và cũng lưu giữ nhiều dấu tích tôn giáo của phái Trúc Lâm, Đạo giáo, Khổng giáo. Theo tài liệu được giới nghiên cứu công nhận, chùa trải qua tám đợt trùng tu lớn vào các đời Lê Sơ, Mạc, Lê Trung Hưng và Nguyễn. Hiện nay, kiến trúc và phần nhiều các mảng chạm của chùa mang dáng dấp thời Nguyễn. Chùa hội tụ rất nhiều những nét kiến trúc, mỹ thuật tiêu biểu của nhiều thời kỳ. Bậc thềm phía trước thượng điện còn lưu giữ vết tích của gạch của thời Mạc và thời Lê, với hoa văn, linh vật trang trí chạm nổi còn gần như nguyên vẹn. Các mảng chạm gỗ của chùa phần lớn là từ thời Nguyễn. Các mảng chạm này độc đáo ở chỗ, thay vì những mô típ quen thuộc như tùng, cúc, trúc, mai, sen, rồng, phượng… thì một số mảng chạm lại mô tả tích thầy trò Đường Tăng đi thỉnh kinh, hai con ngựa (hoặc nai) giỡn chơi với nhau bị ngã, chạm long lân tỉ mỉ và tinh xảo… Chùa Bối Khê có kết cấu “Tiền Phật, hậu Thánh”, “Nội công, ngoại quốc”, hướng Tây, bao gồm các hạng mục: Đền Đức Ông, vườn tháp, ngũ môn quan, cầu gạch, tam quan, nhà bia sắp lễ; chùa Phật (tiền đường, thiêu hương, thượng điện, tả – hữu hành lang); điện Thánh (đại bái, ống muống, hậu cung), nhà Tổ – nhà Mẫu và nhà khách. Trải qua nhiều thời kỳ, chùa Bối Khê vẫn lưu giữ được nhiều hiện vật độc đáo với những niên đại khác nhau. Trong chùa hiện nay còn lưu giữ bệ sen đỡ tượng Quan Âm có chạm khắc hình chim thần Garuda, chịu ảnh hưởng của nghệ thuật chạm khắc Chăm-pa, bia “Bối động thánh tích bi ký” từ năm 1453 ghi lại sự tích thánh Bối, hai quả chuông lớn đúc năm Thiệu Trị thứ 4 (1844), pho tượng Quan Âm 12 tay độc nhất vô nhị, một số bia từ thời Trần cùng 22 đạo sắc phong từ thời Lý đến thời Nguyễn, hai chiếc giếng ngọc bên hông chùa. Chùa có hệ thống tượng Phật cổ gồm 12 pho, từ Hộ pháp, Tam thế Phật, tòa Cửu Long, Thập điện Diêm vương, trong đó đặc biệt là các tượng La Hán bằng đất nung tuyệt đẹp, vô cùng sinh động và chân thực, thể hiện các gương mặt, tư thế khác nhau. Chùa Bối Khê đã được công nhận Di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia năm 1979. Lễ hội chùa Bối Khê diễn ra từ ngày 10 – 12 tháng Giêng (âm lịch). Ngoài ra, tại chùa còn có lễ hội cầu mưa và tục kết chạ giữa hai làng Bối Khê và Tiên Lữ (xã Tiên Phương, huyện Chương Mỹ). Ngoài ra, chùa Bối Khê còn có một điểm độc đáo, phía sau khuôn viên chùa có căn hầm địa đạo từng là kiểu mẫu thời kháng chiến chống Pháp, được xây tháng 1/1948 với 3 ngách chính. Hầm có tác dụng chuyển quân dưới mặt đất và khi rút lui thì trở thành chỗ phòng thủ vững chắc. Tại đây, quân và dân làng Bối Khê đã đập tan 3 cuộc càn quét của giặc Pháp, tiêu diệt 372 tên địch. Huyện Thanh Oai xác định chùa Bối Khê có giá trị đặc biệt của địa phương. Trong hiện tại và tương lai, chùa Bối Khê là điểm du lịch văn hóa tâm linh nằm trong tuyến chùa Hương (Mỹ Đức), đền Đức Thánh Cả (Ứng Hòa) nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội, du lịch của huyện nói riêng và du lịch liên kết vùng các huyện phía Nam Hà Nội nói chung. Nguồn Sở Văn hóa và thể thao thành phố Hà Nội.
Hà Nội 2100 lượt xem
Đền Làng Tó là nơi thờ vua An Dương Vương. Tương truyền rằng, xưa kia, An Dương Vương khi kế nghiệp các vua Hùng đã từ đất Tổ về Làng Tó hạ trại lập đại bản doanh, huy động dân các tỉnh lân cận xây Thành Cổ Loa chống giặc nhà Tần phương Bắc thắng lợi nên được dân làng Tó lập đền thờ. Theo các tư liệu và văn bia còn lưu giữ tại đền thì ngôi đền được xây dựng từ thời Lê, trải qua nhiều lần trùng tu, lớn nhất là thời Nguyễn. Đền Tó được xây dựng gồm tam quan, tiền tế, bái đường và hậu cung. Di vật tại đền khá phong phú, đa dạng, đáng chú ý là tấm bia đá có niên hiệu Cảnh Thịnh (năm 1800) và hệ thống hoành phi, câu đối, long ngai, bài vị, tượng thờ. Đền Tó đã được UBND thành phố Hà Nội cấp bằng xếp hạng Di tích lịch sử văn hóa năm 1999 và ngày 29/1/2019 đã được Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch ra Quyết định số 420/QĐ-BVHTTDL công nhận là Di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia./. Nguồn Sở văn hóa và thể thao thành phố Hà Nội.
Hà Nội 1943 lượt xem
Đình Văn Nội thuộc địa phận phường Phú Lương, quận Hà Đông, Hà Nội. Đầu thế kỷ XIX, Văn Nội thuộc tổng Thắng Lãm, huyện Thanh Oai, phủ Ứng Thiên, trấn Sơn Nam Thượng. Sau các thời kỳ thay đổi địa giới hành chính thì hiện nay Văn Nội thuộc phường Phú Lương, quận Hà Đông. Di tích được gọi theo tên thôn là đình Văn Nội. Theo truyền thuyết, đình Văn Nội có từ lâu đời thờ Đổng Xá đại vương, hay còn gọi là Chu Bá, một vị tướng thời Hai Bà Trưng. Đến thời vua Lê Đại Hành thân chinh đánh giặc, có hành quân qua vùng đất này và dừng chân hành lễ cầu đảo và được thần âm phù đánh giặc. Sau khi thắng giặc trở về, Lê Đại Hành ban thưởng 10 hốt vàng kim để nhân dân nơi đây sửa lại đình để “ức niên hương hoả” và ban mỹ tự “bảo quốc khang dân”. Đến thời Lê, niên hiệu Bảo Thái 2 (1721) đình Văn Nội được xây dựng bằng gỗ và gạch quay hướng tây. Tháng 3 năm 1854, niên hiệu Tự Đức thứ 7, đình được tu sửa như ngày nay. Đình gồm các hạng mục công trình kiến trúc Nghi môn, Tả hữu mạc, Đại bái và Hậu cung có kết cấu theo kiểu chữ “đinh”. Nghi môn làm theo kiểu cột trụ đèn lồng, trên đỉnh là 4 chim phượng, kết đuôi chụm lại thành hoa danh, ô lồng đèn trang trí tứ quý, hai bên cột trụ là tường bao, cổng pháo 2 tầng 8 mái lợp ngói ống, bức tường lửng trang trí chữ thọ. Tả hữu mạc là hai dãy nhà, mỗi dãy 3 gian tường xây hồi bít đốc, các bộ vì chủ yếu bào trơn đóng bén, thiên về độ bền chắc, đảm nhiệm chức năng là nơi củ soát lễ vật trước khi vào dâng thành hoàng. Từ sân đình bước qua 3 bậc là tới Đại bái có kích thước 10m x 20m, chiều cao từ nền lên nóc đình là 5m với hệ thống cột chịu lực gồm 30 cột quân cao 3,15m. 6 bộ vì kèo kết cấu theo kiểu thức “giá chiêng kép” liên kết từ cột cái ra cột quân là một cốn chồng rường chạm nổi tích tứ linh. Hệ thống cửa được làm theo kiểu bức bàn. Cửa võng được chạm thủng trang trí đề tài lưỡng long chầu nguyệt, xung quanh chạm tứ linh, phía dưới cửa võng là hoành phi nền gấm chữ vàng mang phong cách nghệ thuật thời Nguyễn. Hiện trạng kiến trúc đình Văn Nội mang đậm dấu ấn thời Nguyễn. Ngoài ra đình còn bảo tồn nhiều di vật có giá trị như cuốn thần tích của làng do Đông các Đại học sĩ Nguyễn Bính soạn năm Hồng Phúc nguyên niên (1572) và 30 đạo sắc phong của các triều đại phong kiến phong tặng đức thành hoàng. Trong thời kỳ tổng khởi nghĩa giành chính quyền, tại di tích này đã diễn ra mít tinh, biểu tình, thành lập Uỷ ban Cách mạng lâm thời. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, đình Văn Nội là nơi sơ tán của Tổng cục Hậu cần và đón Đại tướng Võ Nguyên Giáp thăm và nói chuyện với chiến sĩ và nhân dân. Đình đã được Bộ Văn hoá và Thông tin xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật năm 1986. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận Hà Đông, thành phố Hà Nội
Hà Nội 1854 lượt xem
Từ Thủ đô Hà Nội dọc theo Quốc lộ 32, qua Thị trấn Phùng, huyện Đan Phượng, rẽ phải là đến Đình Đại Phùng. Tên đình gọi theo tên làng, nay thuộc xã Đan Phượng, huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội. Ngôi đình khang trang, bề thế, cổ kính có từ thời hậu Lê (thế kỷ XVII) tọa lạc ở đầu làng, hướng về phía sông Đáy cổ và núi Tản Viên. Bên trái là Ngôi chùa “Tam Giáo” và xóm làng trù phú bao quanh. Ngoài giá trị một trung tâm văn hóa làng xã, đình Đại Phùng còn lưu giữ nét kiến trúc và những mảng chạm khắc dân gian hết sức độc đáo. Theo thần phả thì Đình Đại Phùng có từ thời Trần, Đình thờ thần Tích lịch hỏa quang, một trong các vị nhiên thần (Mây – Mưa – Sấm – Chớp) và tướng quân Vũ Hùng, người có công đánh giặc thời Trần Nghệ Tông. Tướng Vũ Hùng đã dẹp tan bọn giặc thường quẫy nhiễu ở phía Tây kinh thành Thăng Long. Sau khi ông mất được nhà Trần phong tặng Trần triều Trung quân Ngã Bốn, Vũ Hùng Đại Vương. Nhân dân tổng Phùng lập đền thờ ngay trên mảnh đất ngài đã lập doanh sở. Xung quanh đình còn nguyên những tên gọi: Ao Đồn, Nha Môn, Ngõ Phủ… Đình có quy mô lớn, gồm Tiền tế và Đại đình. Toà Đại đình có các bức chạm khắc thể hiện tài nghệ sáng tạo của nghệ nhân, bao gồm hai phần Đại bái và Hậu cung. Đình nằm trong tổng thể các ngôi đình xứ Đoài nổi tiếng, tuy không to lớn, bề thế nhưng lại có những mảng chạm khắc dân gian rất đặc sắc, tiêu biểu cho đình xứ Đoài. Về kiến trúc, đình gồm hai công trình, phía trước là tòa hiền tế, phía sau là tòa đại đình có kết cấu ba gian hai chái, rộng rãi và cao hơn tòa hiền tế. Dấu ấn kiến trúc cổ cho biết khởi thuỷ, đình được dựng theo hình chữ Nhất, nơi thờ thánh đặt tại gian giữa và ở gác lửng. Đến thế kỷ thứ XIX, dân làng xây thêm phần hậu cung tạo cho mặt bằng kiến trúc chuyển sang hình chữ Đinh. Hầu hết mọi giá trị của đình đều tiềm ẩn vào toà kiến trúc với những mảng chạm gỗ thế kỉ XVII, thể hiện đặc trưng của nghệ thuật chạm khắc dân gian thời kì này. Về nghệ thuật chạm khắc, trang trí ở đình được tập trung thể hiện ở các đầu dư, cốn, kẻ, cửa võng và bộ vì nóc. Có thể nói những mảng chạm tinh tế đã thể hiện các ý tưởng, nội dung có giá trị cao về nghệ thuật, phong phú về thể loại và tập trung khai thác các đề tài sinh hoạt văn hoá dân gian, tâm linh, thể hiện những ước vọng của người dân. Những bức chạm đã toát lên một khung cảnh thanh bình của giai đoạn này… Tiêu biểu là mô típ hoạt cảnh “Vinh quy bái tổ”. Đám rước về làng có cảnh ca công của lối hát ca trù truyền thống, các bức diễn tả hội làng đông vui với nhiều trò diễn xướng, trò chơi như: đấu vật, đá cầu…; các cảnh: Trai gái tình tự, tiên tắm đầm sen, uống rượu, đánh cờ… từ các loài vật linh thiêng như: Rồng, Phượng, Ngựa, Voi đến các con vật gần gũi với người như: Mèo, Thạch Sùng, Chim, Cá… đều được chạm khắc sinh động trong nội thất ngôi đình. Những tác phẩm điêu khắc đồ sộ, hoàng tráng trở thành không gian sinh hoạt vui vẻ, gần gũi, đầm ấm của quê hương. Năm 1991, đình Đại phùng được Bộ Văn hóa-Thể-thao và Du lịch công nhận, xếp hạng di tích đặc biệt quan trọng cấp Quốc gia. Năm 2010, ngôi đình được trùng tu lớn và được gắn biển “Công trình kỷ niệm 1000 năm Thăng Long-Hà Nội”. Lễ hội đình Đại Phùng được tổ chức mỗi năm ba lần. Ngày 18 tháng Giêng là ngày đản sinh của thánh Vũ Hùng, đây là lễ hội lớn nhất trong năm; thứ hai là ngày 12 tháng 2 tưởng nhớ thần Tích Lịch Hào Quang, vị thần hoàng chung của cả tổng Phùng; lễ thứ ba là ngày 18 tháng 11 kỷ niệm ngày hóa của Vũ Hùng. Những năm mở hội lớn, làng Đại Phùng mời các làng trong xã như: Đông Khê, Đồi Khê, Phượng Trì… tham gia hội đồng rước. Đoàn rước kiệu của các làng hoành tráng, cờ biển rợp trời, trống chiêng rộn rã. Nam, phụ, lão, ấu đủ các thành phần đoàn thể cùng vào hội. Đám rước lớn xuất phát từ sân đình Đại Phùng, đi qua làng Đông Khê, Đồi Khê vượt lên triền đê, vòng qua chùa Tam Giáo rồi trở về tập kết ở sân đình. Khí thế hùng dũng oai nghiêm của đoàn rước mô phỏng cảnh xuất quân lịch sử năm xưa của tướng Vũ Hùng đánh giặc rợ Cao, giành lại thanh bình cho đất nước. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội.
Hà Nội 2354 lượt xem
Đình So được khởi dựng vào nửa cuối thế kỷ 17. Đến nay di tích Đình So vẫn giữ được những nét nguyên sơ cổ kính và là địa chỉ văn hóa quen thuộc của nhân dân trong vùng nói riêng và của du khách thập phương nói chung. Đình So là một kiến trúc nổi tiếng và khá quy mô của vùng đất Phủ Quốc xưa nổi danh với câu ca: “Đẹp Đình So, to Đình Cấn”. Đình So nằm trên thế đất hình con rùa theo thế gối sơn đạp thủy. Hiện tại đình bao gồm các hạng mục: Đại bái, Hậu cung, hai dãy Tả – Hữu vu, Nghi môn, hồ nước lớn hình bán nguyệt. Khu đình chính được đặt ở vị trí trung tâm. Đình So được xây dựng theo kiểu “nội công ngoại quốc”, quy mô lớn. Đại bái gồm 07 gian 2 dĩ; xung quanh là hệ thống cửa bức bàn, sàn gỗ chạy dọc hai bên. Sự hòa quyện giữa hai yếu tố di tích và không gian cảnh quan tạo nên nét riêng khác cho di tích Đình So. Kết cấu kiến trúc ngôi đình chủ yếu bằng chất liệu gỗ và xen vào đó có cả chất liệu đá, hệ mái làm theo phong cách truyền thống toàn bộ bằng ngói mũi hài. Tất cả các cấu thành đó tạo nên quần thể kiến trúc tín ngưỡng khá hoàn chỉnh và độc đáo của di tích. Về nghệ thuật chạm khắc, trong kiến trúc cổ, giá trị nghệ thuật được thể hiện rõ nét và đặc sắc ở phần trang trí điêu khắc. Đa số được tập chung ở bức cốn Nghi môn và nhiều nhất ở Đại bái. Ngoài các giá trị nêu trên, di tích Đình So hiện còn lưu giữ được các di vật, cổ vật có giá trị tiêu biểu như: hai tấm bia nói về quá trình xây dựng và các đợt trùng tu đình, hệ thống tảng kê chân cột tạc theo kiểu hoa sen có trong Đại bái. Đôi rồng đá được chạm khắc tỉ mỉ đặt ở hai bên bậc lễn dẫn vào Đại bái, bộ kiệu bát cống được tạo tác rất công phu. Đình So thờ ba anh em họ Cao đã có công phù giúp vua Đinh dẹp loạn 12 sứ quân và đã trở thành những vị thần linh thiêng của làng. Theo Thần tích Đình So chép rằng: Vào mùa xuân năm Canh Dần 930, có ông Cao Hiển và bà Lã Thị Ả ở làng Vạn Kỳ, huyện Gia Định, phủ Thuận An, đạo Kinh Bắc nhà vốn rất nghèo, làm nghề đánh cá trên sông. Hai ông bà đã ngoài 50 tuổi mà vẫn chưa có con trai. Nghe nói ở đền Hữu Linh, trang Sơn Lộ là nơi linh ứng cầu gì được nấy, bèn cùng nhau sắm sửa lễ vật đến đó cầu tự. Đến ngày mồng 8 tháng 2 năm Quý Tỵ (933), bà sinh được một bọc, nở ra ba người con trai, hình dáng kỳ dị, tướng mạo đường đường, thân hình cao lớn. Ba đứa trẻ lớn lên thành những chàng trai khoẻ mạnh rồi theo Đinh Tiên Hoàng đi dẹp loạn 12 sứ quân. Chiến công lớn được ghi lại của 3 ông là trận chiến với sứ quân Đỗ Cảnh Thạc vùng Đỗ Động. Khi Đinh Bộ Lĩnh bị vây hãm ở Bối Khê, tình thế vô cùng nguy cấp, lập tức ba ông mang quân đi giải vây. Dân trang Sơn Lộ mang bún bánh ủng hộ, lại chọn 300 tráng đinh đi theo các ông làm thần tử. Vào trận, ba anh em tả xung hữu đột chém được chánh tướng Đỗ Thanh Long và hàng vạn sĩ tốt, giải thoát cho Đinh Bộ Lĩnh. Đinh Tiên Hoàng lên ngôi bèn sắc phong 3 ông là Tam vị Thông Hiện Nguyên soái Đại Vương. Đến nay, Đình So vẫn còn lưu giữ được 42 sắc phong qua các triều đại ban tặng để ghi nhớ công ơn của 3 vị nguyên soái đại vương. Để tưởng nhớ công ơn của các ngài, hàng năm vào ngày 8/2 âm lịch nhân dân trong làng lại tưng bừng mở hội. Theo đó, lễ hội đình làng So gồm có các nội dung như: lễ dâng hương, tế lễ Thành hoàng làng, giao lưu văn nghệ, hát quan họ và các trò chơi dân gian. Việc thờ thành hoàng làng nhằm giáo dục truyền thống cho các thế hệ dân làng phải biết tôn trọng, nhớ về cội nguồn, tiên tổ, giáo dục tinh thần đoàn kết cộng đồng để cùng nhau xây dựng cuộc sống tốt đẹp hơn. Với những giá trị về lịch sử xây dựng; nhân vật lịch sử được thờ tự; kiến trúc nghệ thuật độc đáo; giá trị khoa học của ngôi đình làng nơi đây, ngày 24/12/2018 Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định xếp hạng di tích Quốc gia đặc biệt đình So. Nguồn Sở Văn hóa và thể thao thành phố Hà Nội.
Hà Nội 1860 lượt xem