Di tích lịch sử

Việt Nam

Di tích Trận địa pháo cổ trên núi Tao Phùng (núi Nhỏ)

Trận địa pháo này cũng thuộc một trong ba trận địa, tạo thành tuyến phòng thủ Vũng Tàu của người Pháp được xây dựng cùng thời điểm với trận địa pháo cổ Núi Lớn. Trận địa pháo Núi Nhỏ có chức năng là chốt tiền tiêu và được bố trí thành ba cụm theo thế vòng cung bao quát cả vùng Biển Đông và Nam Vũng Tàu. Để xây dựng một trận địa pháo có thể nói là lớn nhất lúc bấy giờ thực dân Pháp đã bắt người dân lao dịch khổ sai dùng sức người xẻ đá ,phá núi làm đường, đào hào giao thông, xây hầm công sự đều làm bằng thủ công, phương tiện thô sơ đã cướp đi biết bao tính mạng, mồ hôi, xương máu của nhân dân ta. Với giá trị đó , Di tích Trận địa pháo cổ trên núi Tao Phùng (núi Nhỏ) được Bộ Văn Hóa Thông Tin theo Quyết Định số 57Văn Hóa/Quyết Định, ngày 18/01/1993 của Bộ Văn Hóa Thông Tin. Trận địa pháo cổ Vũng Tàu là bộ sưu tập vũ khí cổ lớn nhất Đông Dương, đây là một chứng tích lịch sử về sức mạnh phi thường của nhân dân ta. Từ Trận địa Pháo Núi Lớn du khách ôm theo bờ biển đi về phía Bãi Trước, đến đường Hải Đăng rẽ phải trước khi gặp đoạn đường cua đầu tiên hoặc đi theo lối vào Tịnh Xá Ngọc Bích và phía dưới chân tượng Chúa Ki Tô du khách bắt gặp một trong số 11 đại pháo của trận địa Núi Nhỏ được chia thành 3 cụm: + Cụm thứ nhất ngay dưới chân tượng chúa Ki tô, gồm 3 khẩu ở độ cao trung bình 136m so với mực nước biển và được đặt trong một công sự đào sâu dưới mặt đất. có đường kính 10,5m, ba cỗ pháo này có cùng kiểu dáng, cấu tạo, và cỡ đạn là 240mm, nòng dài 12,33mm, trên thân các cớ pháo đều ghi các dấu hiệu, kích cỡ nòng súng, kiểu dáng và năm sản xuất, trọng lượng của pháo và phân hiệu của đội. + Cụm thứ hai ( đặt tại Hải Đăng), gồm 5 khẩu, độ cao trung bình 91 m so với mực nước biển. Năm cỗ pháo này đều có cùng kiểu dáng, cấu tạo và cỡ đạn là 300mm. Trên thân pháo đều ghi các thông số cần thiết. . Cụm này nằm cách cụm pháo thứ nhất chừng 300m về phía Bắc. Hiện nay còn lại 04 khẩu, một khẩu chỉ còn lại mâm pháo do súng được chuyển về trưng bày trong bộ sưu tập súng cổ ở sân Bạch Dinh. +Cụm thứ (Tịnh xá Ngọc Bích), có 3 khẩu, ở độ cao trung bình khoảng 90m so với mực nước biển. Ba cỗ pháo của cụm này có cỡ đạn bằng nhau là 140mm. trên thân pháo đều ghi các thông số cần thiết. Hiện nay, 3 cỗ pháo này bị hoen rỉ hư hại nặng, các thông số cần thiết. Hiện nay, 3 cỗ pháo này bị hoen rủ hư hại nặng, các thông số bị mài mòn. Ba cỗ pháo được đặt riêng biệt trong ba công sự, cách đều nhau 27m và được nối thông với nhau bằng hệ thống giao thông hào và hầm trú ẩn. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

TP Hồ Chí Minh 1753 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Chùa Phước Lâm

Đây là một trong những ngôi chùa cổ ở thành phố Vũng Tàu, có niên đại gần 200 năm + chùa được xếp hạng di tích cấp quốc gia năm 1992 và được xem là một trong những trung tâm phật giáo ở địa phương, thường xuyên có tăng ni phật tử trong nước và quốc tế ( chủ yếu người Ấn Độ) đến thưởng ngoạn và hành lễ. Vào những ngày lễ lớn như tết Nguyên Đán, rằm tháng Giêng, lễ phật Đản, lễ Vu Lan...số lượng tăng ni phật tử về chùa rất lớn có khi không còn chỗ nghỉ. Vì vậy chùa đang có kế hoạch tu bổ, nâng cấp mở rộng chánh điện nhưng vẫn bảo tồn được những nét kiến trúc xưa để giúp tăng ni phật tử toàn tâm hướng về đạo, đồng thời là điểm đến hấp dẫn khách hành hương, di lịch tâm linh. Chùa có kiến trúc dạng tứ trụ của chùa cổ miền Nam với hệ thống tượng phật phong phú : cạnh hồ sen là pho tượng Quan Âm Nam Hải cao 3,5m, chính điện có các pho tượng Di Dad, Tam Tôn, Thích Ca, A Nam, Ca Diếp, Phật nhập Niết Bàn, Tượng chuẩn Đề bằng gỗ, tượng ông Giám bằng đất nung... Đặc biệt, chùa còn lưu giữ tượng thần Vish NU bằng đá, có niên đại cuối thời phù Nam- Chân Lạp (khoảng thế kỷ thứ 7) rất quý hiếm.Thần VIsh Nu là thần bảo tồn vũ trụ thường ở các tháp Chàm Miền Trung Nam Bộ. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

TP Hồ Chí Minh 1658 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Di tích lịch sử "Địa điểm trận chiến ngày 6/6/1969 tại Bình Ba"

Di tích lịch sử Địa điểm trận chiến ngày 6/6/1969 tại Bình Ba (ấp Bình Đức, xã Bình Ba, huyện Châu Đức), là khu tưởng niệm 3.050 anh hùng liệt sĩ của Trung đoàn 33 đã hy sinh vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Đồng thời, là nơi yên nghỉ tập thể của 53 cán bộ, chiến sĩ thuộc Tiểu đoàn 1 - Trung đoàn 33 đã hy sinh anh dũng trong trận chiến không cân sức với kẻ thù (quân chư hầu Úc) ngày 6/6/1969. Đây là di tích lịch sử mang nhiều giá trị về lịch sử, khoa học quân sự, ca ngợi sự dũng cảm hy sinh quên mình vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc của những người lính bộ đội cụ Hồ cùng với tình yêu thương đùm bọc của nhân dân các địa phương nơi các đồng chí đóng quân và chiến đấu đã giúp cho các đồng chí đứng vững trên chiến trường, hoàn thành nhiệm vụ được giao. Ngày 29/12/2023, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ban hành Quyết định số 4248/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao Du Lịch xếp hạng di tích lịch sử Địa điểm trận chiến ngày 6/6/1969 tại Bình Ba, thuộc xã Bình Ba, huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu là di tích cấp quốc gia để bảo tồn và phát huy giá trị của di tích. Đây là sự ghi nhận giá trị lịch sử, văn hóa của di tích lịch sử này, đồng thời ghi nhận những nỗ lực của Đảng bộ, Nhân dân Châu Đức, Ban Liên lạc cựu chiến binh Trung đoàn 33 và tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu trong việc bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị của Di tích lịch sử Địa điểm trận chiến ngày 6/6/1969 tại Bình Ba. Nguồn Sở Văn Hóa Thể Thao tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

TP Hồ Chí Minh 1651 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

 Chùa Long Bàn 

Chùa cổ Long Bàn còn gọi là chùa làng Long Điền (xưa thuộc tổng An Phú Thượng, quận Long Điền) ở thôn Long Phượng, Thị Trấn Long Điền, huyện Long Điền. Chùa tọa lạc trên một khu đất cao tương đối bằng phẳng. Trải qua gần 175 năm xây dựng chùa vẫn gần như nguyên trạng, lưu giữ những nét kiến trúc văn hóa nghệ thuật đặc sắc. Chùa được xây dựng vào năm Thiệu Trị thứ 5 - năm Ất Tỵ 1845 do 2 vị hòa thượng Hải Chánh và Bảo Thanh làm trụ trì đầu tiên và được dân làng tôn làm tổ sư. Kiến trúc chùa Long Bàn nguy nga, tráng lệ với những tác phẩm nghệ thuật điêu khắc mang đậm nét truyền thống độc đáo, lưu giữ văn hóa tâm linh, thờ phượng Phật pháp. "Theo truyền thuyết, vùng đất Long Điền trước kia có 9 con rồng chầu. Ngôi chùa được xây dựng trên phần cuối cùng của dãy núi Thùy Vân, có nhiều tảng đá tự nhiên phẳng như bàn thạch nên dân làng đặt tên là chùa Long Bàn", sư thầy Thích Pháp Minh diễn giải. Ngôi chùa được xây cất theo kiểu chữ "Tam", mang phong cách Á Đông gồm 3 lớp nhà song song là tòa Giảng đường, tòa Chánh điện, nhà Tổ. Khuôn viên chùa bằng phẳng, rộng hơn 3.000m2 với nhiều cây cổ thụ tỏa bóng mát. Cổng chùa được xây dựng mới năm 1963 bằng đá hoa cương. Cửa 2 bên cuốn vòm, phía trên là lầu chuông và lầu trống. Phía trên 2 trụ cổng là tấm biển có hàng chữ "Long Bàn Cổ Tự". Trước tòa Chánh điện của chùa có ngôi nhà sàn bằng gỗ, trong đặt tượng "Tiêu Diêu Đạo Sĩ". Mái chùa được lợp ngói âm dương, đầu ngói có gờ viền bằng gốm men xanh. Trên đỉnh nóc chùa có gắn tượng "Lưỡng Long chầu nguyệt" và các bức tranh vẽ phong cảnh sơn thủy, hoa lá. Các kèo, cột bên trong chùa sử dụng hoàn toàn bằng gỗ tốt. Bên trong tòa Chánh điện, ở gian giữa thờ Phật A Di Đà, Phật Thích Ca Mâu Ni, Quan Âm, Thế Chí, Ngọc Hoàng, Di Lặc, Bồ Tát. Gian bên trái thờ vị sư Tổ Bồ Đề Đạt Ma, gian bên phải thờ Quan Thánh. Ngoài ra, tại đây còn có bàn thờ La Hán và Thập điện Diêm Vương. Phía sau Chánh điện là nhà thờ Tổ, thờ Tổ sư Bồ Đề Đạt Ma và 2 bài vị của hòa thượng Hải Chánh và hòa thượng Bảo Thanh. Tòa Giảng đường rộng 227m2, mặt trước có những câu đối khắc chìm bằng sơn đen. Phía trên 3 cửa ra vào gần sát mái là những ô trang trí, miêu tả hoa, núi và các hoạt động của con người. Đây là nơi thuyết pháp về đạo Phật, làm đàn chay cúng cô hồn, tổ chức các giờ kinh sám hối. Đã trải qua gần 175 năm xây dựng, nhưng chùa Long Bàn vẫn còn lưu giữ được nhiều hiện vật lâu đời quan trọng như các pho tượng Phật, Ngọc Hoàng Thượng đế, Quan Thánh đế, 18 vị La Hán, Long Thần, Hộ Pháp… bằng gỗ mít; 8 khuôn in kinh khắc chữ Hán trên gỗ; các quả chuông, trong đó có đại hồng chung bằng đồng đường kính 0,4m, cao 1,2m, niên đại hơn 150 năm. Chùa Long Bàn với vẻ đẹp độc đáo về kiến trúc cổ, điêu khắc nghệ thuật mang giá trị văn hóa tâm linh lâu đời, tọa lạc giữa không gian hòa quyện với thiên nhiên tươi đẹp, ngôi chùa trở thành điểm đến tín ngưỡng Phật pháp của người dân địa phương và du khách gần xa. Năm 1991, chùa cổ Long Bàn được Bộ Văn Hóa -Thể Thao công nhận là di tích lịch sử - văn hóa - danh lam thắng cảnh cấp Quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

TP Hồ Chí Minh 1838 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Bạch Dinh

Bạch Dinh được dùng làm nơi nghỉ dưỡng và hội họp cho toàn quyền Pháp ở Đông Dương và quan chức cấp cao của chính quyền Sài Gòn sau này. Đây cũng chính là nơi giam lỏng vua Thành Thái (từ 1909-1910), một vị vua có tư tưởng yêu nước, chống lại ách đô hộ của thực dân Pháp. Được tọa lạc ở vị trí cao ráo cách mực nước biển gần 30m, từ tiền sảnh Bạch Dinh nhìn xuống, du khách sẽ có cảm giác như đang ở tầng lầu của một tòa cao ốc xây dựng trên mặt nước biển, có thể phóng tầm mắt bao quát cả trung tâm thành phố Vũng Tàu. Có hai lối lên Bạch Dinh: Một đường uốn quanh chạy dưới rừng cây giá tỵ dành cho xe hơi lên tới tiền sảnh. Một đường đi bộ qua 146 bậc tam cấp cổ xưa, kín đáo nằm giữa hai hàng sứ cao niên. Bạch Dinh với lối kiến trúc Châu Âu cuối thế kỷ 19, cao 19m, rộng 15 m, dài 28 m, gồm 3 tầng: Tầng hầm làm nơi nấu nướng; tầng trệt vừa làm nơi khánh tiết vừa dùng bày trí một số hiện vật cổ xưa như: Song bình bách điểu chầu phụng, bộ tràng kỷ hoàng gia có niên đại Khải Định (1921), cặp ngà voi châu phi dài 170cm… Tầng lầu thoáng hơn dành cho việc nghỉ dưỡng. Nhưng có lẽ ấn tượng hơn cả là 8 bức chân dung tạc các vị thần Hy Lạp thời cổ đại, từ gương mặt, mắt mũi đến sắc thái đều biểu hiện rõ ràng, sắc nét và tinh tế. Trải qua hơn thế kỷ, với bao biến đổi của thời gian, Bạch Dinh vẫn giữ nguyên tính sang trọng, hài hòa và uy nghiêm hiếm thấy. Từ năm 1991 đến nay một phần của Bạch Dinh được dùng làm bảo tàng, trưng bày 8.000 hiện vật độc bản nằm trong bộ sưu tập cổ vật gốm sứ có niên hiệu Khang Hy (Thế Kỷ 17) được trục vớt từ “kho báu Hòn Cau”. Các nhà khảo cổ cho biết số cổ vật này nằm dưới đáy biển gần 300 năm, tính đến thời điểm trục vớt nhưng vẫn giữ được màu men tuyệt đẹp. Nếu đem so với những bộ sưu tập khác được trục vớt trong vùng biển Cù Lao Chàm, Cà Mau, Bình Thuận… bộ sư tập cổ vật Hòn Cau vẫn luôn được đánh giá là bộ sưu tập đẹp nhất. Bạch Dinh không chỉ làm mê mẩn toàn quyền Pháp ở Đông Dương Paul Doumer, các quan chức cấp cao của chính quyền Sài Gòn lúc bấy giờ mà cho đến thời điểm hiện tại thì đây cũng là một trong số rất nhiều địa điểm tham quan của Vũng Tàu, thu hút được đông đảo khách du lịch đến tìm hiểu về lịch sử và tận hưởng vẻ đẹp của thiên nhiên. Với những giá trị đó ngày 4 tháng 8 năm 1992, Bạch Dinh đã được Bộ Văn hóa-Thông tin công nhận là Di tích lịch sử văn hóa quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

TP Hồ Chí Minh 1642 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Khu di tích lịch sử Địa đạo Long Phước

Di tích Địa đạo Long Phước thuộc xã Long Phước, cách trung tâm thành phố Bà Rịa khoảng 7 km về phía Đông Bắc. Đây là một chứng tích hào hùng của quân và dân ta trong suốt hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế Quốc Mỹ xâm lược. Ngoài ra, Địa Đạo Long Phước còn là một công trình sáng tạo độc đáo của chiến tranh nhân dân do Đảng Cộng Sản Việt Nam lãnh đạo. Di tích được công nhận là di tích quốc gia theo quyết định số 34/Văn Hóa.Quyết Định ngày 09/01/1990 của Bộ Văn hóa Thông tin. Do có vị trí chiến lược quan trọng về quân sự, là đầu mối căn cứ địa cách mạng của tỉnh Bà Rịa - Long Khánh, nằm trên trục lộ giao thông (lộ 52 và 23), trục nối đường liên tỉnh Bà Rịa – Long Khánh nên Long Phước luôn là địa bàn tranh chấp quyết liệt giữa ta với địch trong suốt hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Năm 1948 nhằm bảo toàn lực lượng và củng cố phong trào cách mạng và cũng để đảm bảo tính mạng và tài sản của nhân dân khi có địch càn quét của địch, Đảng bộ Long Phước đã phát động phong trào đào hầm bí mật trong toàn xã. Đến năm 1949, Chi bộ xã đã có Nghị quyết xây dựng địa đạo vừa để bảo toàn lực lượng và có thể đánh trả địch. Thực hiện Nghị quyết của chi bộ quân và dân Long Phước đã phát triển hệ thống địa đạo ở 5 ấp: Đông, Tây, Nam, Bắc và Phước Hữu. Các cụm địa đạo được nối với nhau bởi đường xương sống, có hầm bí mật chứa lương thực dự trữ với các công sự chiến đấu. Đường địa đạo xương sống cách mặt đất 2-3m, lòng địa đạo cao 1,5-1,6m, rộng 0,6-0,7m đảm bảo đi lại, vận chuyển dễ dàng. Tiền thân là căn hầm nhà ông Năm Hồi với chiều dài 300 mét, nhờ đó tháng 10 năm 1949 lực lượng vũ trang cách mạng đã chiến thắng cuộc càn quét của giặc Pháp giữ vững ấp và cơ sở cách mạng. Năm 1963 địa đạo được khôi phục và phát triển ở ấp Nam Tây chiều dài 200m, có cấu trúc thêm giao thông hào, ụ chiến đấu, kho lương thực, hầm cứu thương. Địa đạo đã trở thành thế trận vững chắc để lực lượng cách mạng bám trụ kiên cường đánh bại nhiều cuộc tấn công, lấn chiếm của địch, điển hình là trận chiến 44 ngày đêm ( 05/3-01/4/1963). Ngày 05/3/1963 tiểu đoàn 61 do Quận trưởng Long Lễ trực tiếp chỉ huy cùng với lực lượng dân vệ có xe M113 yểm trợ đánh phá ấp Bắc Long Phước. Phía ta giữ vững trận địa 3 ngày liền chống trả sự tấn công của địch. Hai trung độ 445, C20 bộ đội huyện và du kích xã dựa vào hào giao thông, ụ chiến đấu để tiêu hao sinh lực địch. Ngày 08/3/1963, địch tăng cường thêm Tiểu đoàn biệt động quân 38, pháo binh và xe M113 càn quét ác liệt tại Long Phước. Đến ngày 01/4/1963 toàn bộ hào giao thông rơi vào tay giặc, các lỗ châu mai bị bịt kín. Cửa chính của địa đạo bị hai xe M113 đè lên. 250 chiến sĩ và nhân dân của ta rút hết xuống địa đạo, với sự chỉ huy của chính trị viên Nguyễn Minh Ninh các chiến sỹ của ta sử dụng quả mìn câm chế lại giao cho đồng chí Mười Dẫm và Sáu Bảo đột phá và đặt vào xích xe M113 rồi điểm hỏa. Khi mìn nổ chiếc xe bị hất tung, quân ta nhanh chóng trườn lên rút chốt trái sang, sử dụng các loại vũ khí ồ ạt tấn công. Trước đoàn bất ngờ, mau lẹ bọn địch không kịp trở tay và phải tháo chạy. Đây là trận chiến đấu lớn thu được nhiều thắng lợi: Tiêu diệt và làm bị thương 143 tên địch, phá hủy 12 xe M113 và đánh bại trận càn quét của địch với lực lượng đông gấp bội có thiết giáp, không quân và pháo binh yểm trợ. Trong suốt hai thời kỳ kháng chiến chống thực dân và đế quốc, quân và dân Long Phước đã đào được tổng số 3.600 mét địa đạo, trong đó ấp Đông 650 mét, ấp Bắc 2.700 mét, ấp Nam 250 mét. Trải qua bao mưa bom, bão đạn địa đạo và quân dân Long Phước vẫn đứng vững kiên cường, xứng danh vùng đất một thời đạn bom vẫn được xem như “ núm sữa”quan trọng nuôi dưỡng phong trào cách mạng của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu và xứng đáng với danh hiệu cao quý mà đảng nhà nước ban tặng “ Đơn vị anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”. Địa đạo Long Phước là nơi ghi dấu truyền thống cách mạng hào hùng, là niềm tự hào, kiêu hãnh của thế hệ mai sau, là nơi thể hiện đường lối chiến tranh nhân dân mưu trí, sáng tạo của quân và dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu trong hai thời kỳ kháng chiến. Hiện nay địa đạo Long Phước đã được tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu cho trùng tu, tôn tạo, có phòng trưng bày truyền thống đón du khách trong và ngoài nước đến tham quan và tìm hiểu về lịch sử cách mạng. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

TP Hồ Chí Minh 1723 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Di tích khảo cổ Dốc Chùa

Di tích khảo cổ Dốc Chùa là di tích cấp Quốc gia xếp hạng năm 2001 (Quyết Định 53/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao ngày 28/12/2001), nằm trên bờ sông Đồng Nai, trên đường liên tỉnh lộ Tân Uyên đi Lạc An, thuộc ấp Tân Hòa, xã Tân Mỹ, huyện Bắc Tân Uyên. ​Qua những đợt khai quật đã hình thành nhiều bộ sưu tập hiện vật có giá trị lịch sử và khoa học rất lớn. Các công cụ sản xuất bằng đá, gốm, đồng,… đặc biệt một bộ sưu tập gồm 76 khuôn đúc đồng và 68 công cụ vũ khí bằng đồng đã phát hiện trong di tích. Dốc Chùa trở thành một sưu tập hiện vật quan trọng biểu hiện cho một đỉnh cao phát triển của thời tiền sử vùng Đông Nam Bộ. Một di tích đa dạng và phong phú có nhiều yếu tố mới, sự hội tụ về kinh tế, kỹ thuật của xã hội phát triển cao, có niên đại từ 2500 – 3000 năm cách ngày nay. Trong đó, có Tượng Thú được công nhận Bảo vật quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bình Dương.

TP Hồ Chí Minh 1653 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Di tích khảo cổ Cù Lao Rùa

​​Cù Lao Rùa thuộc phường Thạnh Hội, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương. Xếp hạng di tích quốc gia năm 2009 (Quyết Định số 836/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao Du Lịch ngày 03/3/2009). ​​Di tích có niên đại phát triển qua hai giai đoạn (sớm từ 3500 – 3000; muộn từ 3000 – 2700 năm cách ngày nay). Tổng diện tích 277 hecta, độ cao 15m so với mặt bằng khu vực. Đây là một trong những điểm khảo cổ học được phát hiện đầu tiên ở miền Đông Nam Bộ, qua các cuộc khai quật khảo cổ phát hiện Cù Lao Rùa là khu di tích cư trú - mộ táng, với nhiều công cụ bằng đá, đồ gốm và hàng ngàn mảnh gốm vỡ các loại và nhiều mộ táng. Trải qua hơn 100 năm nghiên cứu, Cù Lao Rùa đã góp phần quan trọng bảo tồn di sản văn hoá thời tiền sử và danh thắng tỉnh Bình Dương. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bình Dương.

TP Hồ Chí Minh 1589 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Nhà cổ Trần Công Vàng

Ngôi nhà tọa lạc tại số 21, đường Ngô Tùng Châu, phường Phú Cường, thị xã Thủ Dầu Một, trên một khu đất rộng 1.333m2, riêng phần chính (nhà trên) là 323m2, nhà phụ (nhà dưới) chiếm 119m2, được xây cất và hoàn thành vào khoảng năm 1889 – 1892. Ngôi nhà được công nhận di tích cấp Quốc gia ngày 07/01/1993. Nhà quay mặt về hướng Nam, lưng dựa vào ngọn đồi (nơi có trụ sở Ủy ban nhân dân Tỉnh bây giờ), đây cũng là cái thế đắc địa, nói theo các nhà phong thủy xưa. Xét về mặt vị trí địa lý của ngôi nhà cụ Vàng cũng như hai ngôi nhà cổ nữa của cánh họ Trần ở phường Phú Cường đều nằm gần con sông Sài Gòn, rất thuận tiện cho việc chuyên chở cây gỗ từ rừng về. Được biết, nội tổ của cụ Vàng đã từng làm nghề rừng, có trại cưa, xẻ gỗ. Công trình xây dựng theo kiến trúc kiểu chữ đinh nghịch, tức là phần nhà ngang nằm bên trái nhà trên, thay vì nằm bên phải. Đây là nhà chữ đinh có cải tiến, có bộ phận sân con ngăn cách nhà trên và dưới, liên lạc giữa hai bộ phận bằng một nhà cầu nhỏ cắt đôi sân con làm hai phần cửa của nhà dưới trổ ra nơi đầu sân con ấy mà không trổ ra ở đầu hồi, cái cửa này cũng được kiến trúc một cách đặc biệt, mới nhìn giống như một số cổng đền người Hoa, nhưng chủ nhân lại bảo phóng theo kiểu đền của Ấn Độ. Cũng như nhiều nhà khác, nhà cụ Vàng có bộ khung sườn làm theo kiểu nhà xuyên trính, nhưng có đến 8 đấm, 8 quyết ở hai chái nhà. Bộ trính, trổng, cối đều được đẻo gọt khéo léo, trính uốn xong có tạo gờ, các đoạn kèo được chạm tỉ mỉ, công phu, hàng lá dung thẳng tắp ở hàng cột thứ ba. Toàn phần nhà trên đếm được 48 cây cột tròn, tất cả đều đứng xa vách. Phần trang trí bên trong ngôi nhà là phần làm cho du khách thích thú nhất, đó là sự chạm khắc công phu, từ chân cột đến mái nhà, bàn ghế tủ ghế, trang thờ các khung cửa các ô lồng… hoành phi, liễn, đối, những bức tranh tứ bình, những tấm thủ quyển… tất cả đều chạm trổ, sơn thếp cẩn xà cừ công phu khéo léo, làm cho ngôi nhà tráng lệ mà trang nghiêm. Nhìn chung, những mô típ chạm khắc ở đây thường mang tính ước lệ, tượng trưng, trong đó thể hiện ước muốn một cuộc sống bình yên, hạnh phúc, và một nết sống nhân nghĩa, đạo đức… Những đường nét chú trọng sự uyển chuyển, mềm mại. Các hình ảnh chạm khắc gồm cây cỏ, hoa lá, chim thú, vật dụng, những đường hình học. Riêng tấm thủ quyển treo ở bàn thờ bên phải từ trong nhìn ra chạm hình Tùng Lộc, Mã Dương có kèm theo hai câu thơ chữ Hán tạo được cái vẻ thanh thoát, nhã đạm, tiêu sái. Phân bố mặt bằng của ngôi nhà,Trước hết là nhà trên, nhà có 5 gian hai chái, phần thờ phụng, tiếp khách, các buồng để ở và chứa đồ đạc của cải được ngăn chia rạch ròi. Phần thờ phụng chiếm ba gian dựa theo nguyên tắc gian bên trái thờ cha mẹ của chủ nhà, bên phải thờ ông bà, bàn thờ giữa thờ ông bà cao hơn gọi chung là gia tiên. Mỗi bàn thờ gồm tủ thờ cẩn xà cừ, bên trên là đồ ngũ sự, bên trong là bài vị hoặc chân dung người quá cố, sát vách lụa là bức thờ, trên có bài châm, câu đối, đầu bức thờ có phần Mi chạm “Lưỡng long tranh châu” và tấm thủ quyển. Hai gian hai bên là phòng ngủ của vợ chồng chủ nhân, phía sau vách thờ là dãy buồng chứa đựng đồ đạc... Trên các bàn thờ là những trang thờ có đặt các bài vị, đề quan thánh đế quân, thổ công, đông trù, tư mệnh, phước đức thánh thần, tài thần. Phần dành để tiếp khách gồm hai lòng căn (tức từ hàng cột thứ hai đến hàng cột thứ tư), nơi đây có đặt bàn ghế để tiếp khách, bao gồm ở gian giữa làm một bàn tròn lớn, mặt bàn lót đá cẩm thạch, trên bàn đặt giá Bát bửu (tám món binh khí cổ), chung quanh bàn có đặt ghế với chạm trổ tinh vi và giàu ý nghĩa tượng trưng. Hai bên bàn tròn ấy là những bàn hình chữ nhật đóng theo kiểu ghế chân nghi. Ở gian đầu là hai bàn hình hộp xoài, chung quanh đặt ghế kiểu hiện đại, tất cả các bàn ghế đều bằng gỗ. Dọc theo vách ngăn giữa phần tiếp khách và phần thờ có đặt những bàn nhỏ hình vuông bên trên có những đĩa trái cây bằng sứ, cũng nơi đây chủ nhân cho đặt một tấm Phả đồ nêu khái quát thế thứ của những người trong họ. Ở hai đầu chái nhà cũng có đặt bàn, bên trái trên bàn thờ để ảnh chủ nhân, có cặp đôi hai bên, bộ tranh tứ bình cở nhỏ, cặp câu đối và tranh tứ bình. Đặc biệt, trước của buồng ngủ đặt một cái tủ kiếng, bên trong chứa nhiều món quý như tiền cổ, nón quai thao, đồ cho cô dâu khi về nhà chồng, theo kiểu xưa… Nhà dưới là một căn nhà ngang, cất theo lối xuyên trính nhưng đơn giản hơn nhà trên. Nhà ngang dùng để tiếp khách bình thường, là nơi sinh hoạt gia đình, nhà ăn, nhà bếp,… phía trước nhà ngang là nhà xe hướng cửa ra cổng. Sân trước trồng nhiều chậu hoa kiểng, cây kiểng… tôn thêm nét đẹp cổ kính của ngôi nhà. Nhà cụ Vàng vừa mang tính nghệ thuật – nhân văn đậm nét văn hóa truyền thống Việt Nam; đồng thời, khẳng định kỹ thuật điêu khắc, chạm trổ đã có truyền thống lâu đời ở Bình Dương. Các hiện vật trang trí và đồ dùng trong nhà còn nhiều và hầu hết là cổ vật. Toàn bộ kiến trúc ngôi nhà và hiện vật bên trong, cho ta thấy được nét sinh hoạt của gia đình thuộc tầng lớp giàu có ở cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, thể hiện sự phát triển về đời sống của cư dân người Việt trên đất Bình Dương. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bình Dương.

TP Hồ Chí Minh 1639 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Chợ Bến Thành

Lịch sử hình thành Chợ Bến Thành gắn liền với thăng trầm của đô thị Sài Gòn – Chợ Lớn. Chợ được khởi công xây dựng từ năm 1912, trải qua nhiều lần trùng tu, di dời mới có được diện mạo và vị thế hôm nay. Ban đầu, chợ nằm bên bờ sông Bến Nghé, nơi có một bến sông để quân lính và người dân ra vào thành Gia Định (Quy Thành, thành Bát Quái), vì thế nên gọi là Chợ Bến Thành. Sau cuộc nổi dậy Lê Văn Khôi (1833-1835), thành Gia Định bị phá bỏ, Chợ Bến Thành cũng hoang vắng. Sau khi người Pháp tấn công Sài Gòn (tháng 2-1859), chợ bị thiêu rụi hoàn toàn. Năm 1860, người Pháp cho xây lại Chợ Bến Thành ở địa điểm cũ. Sau nhiều lần trùng tu, ngôi chợ dần khang trang hơn với hệ thống cột gạch, sườn sắt, mái ngói, .. Đến đầu thế kỷ XX, người Pháp cho xây lại Chợ Bến Thành mới tại vị trí ngày nay trong khoảng thời gian 1912-1914, cửa nam có gắn chiếc đồng hồ mang tính biểu tượng. Phía trước cửa chính (cửa nam) là Bùng binh Chợ Bến Thành, còn gọi là Công trường Diên Hồng, Quảng trường Quách Thị Trang... Đến năm 1952, khi tu sửa chợ người ta cho gắn 12 bức phù điêu của xưởng mỹ nghệ Biên Hòa ở bốn cửa chợ. Từ đó đến nay hình ảnh Chợ Bến Thành trở nên quen thuộc, gần gũi, trở thành một miền ký ức văn hóa đô thị của thành phố. Nguồn: Báo điện tử Pháp Luật thành phố Hồ Chí Minh

TP Hồ Chí Minh 3401 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp thành phố Mở cửa