Di tích lịch sử

Việt Nam

Địa điểm lưu niệm Chủ tịch Tôn Đức Thắng tại khu vực Ba Son

Địa điểm lưu niệm Chủ tịch Tôn Đức Thắng nằm trong khuôn viên Liên hiệp xí nghiệp Ba Son ngày nay là một xưởng sửa chữa và đóng tàu lớn, địa chỉ tại số 2 đường Tôn Đức Thắng, phường Bến Nghé, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh. Đây là một di tích lịch sử mang nhiều ý nghĩa. Xưởng cơ khí mang số 323 đường số 12 trong khuôn viên xí nghiệp là nơi người thợ máy Tôn Đức Thắng (sau này là Chủ tịch nước Việt Nam - từ 1969 đến 30/08/1980) đã từng làm việc và hoạt động cách mạng trong những năm 1915 - 1928. Năm 1861 Pháp hạ Đại Đồn Chí Hòa, chiếm lĩnh Sài Gòn. Ngày 28/4/1863 chính phủ Pháp đã ký nghị định chính thức thành lập Thủy xưởng (Arsenal) Ba Son, đặt trực thuộc Bộ Hải quân Pháp. Vì tầm quan trọng đó, năm 1884 chính phủ Pháp cho xây dựng thêm một ụ tàu lớn nữa để làm căn cứ sửa chữa tàu cho các hạm đội quân Pháp ở vùng Viễn Đông. Sau khi hiệp định Genève được ký kết, quân đội Pháp rút khỏi Đông Dương, ngày 12/9/1956 Pháp chuyển giao Ba Son lại cho hải quân chính quyền Sài Gòn. Dưới chế độ Sài Gòn cũ, Thủy xưởng Ba Son được đổi tên là Hải quân công xưởng, đặt trực thuộc Bộ Quốc phòng. Sau tháng 4/1975, Hải quân công xưởng được chính quyền Cách mạng tiếp quản và được đổi tên thành Liên hiệp xí nghiệp Ba Son, trực thuộc Bộ Quốc phòng cho đến ngày nay. Thủy xưởng Ba Son là một xưởng lớn nhất Sài Gòn, là một trong những nơi tập trung số lượng công nhân đông nhất ở Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ. Nhằm đào tạo thợ cơ điện người bản xứ cung cấp cho các hãng, xưởng của người Pháp mở tại Sài Gòn, ngày 20/2/1906 chính phủ Pháp ký quyết định thành lập trường cơ khí Á châu tại Sài Gòn (Eécole des mécaniciens Asiatiques de SaiGon - tức trường Kỹ thuật Cao Thắng ngày nay). Xưởng sửa chữa tàu biển Ba Son là xưởng được sử dụng học sinh của trường thực hành tại xưởng và tuyển trực tiếp học sinh học xong tại trường. Trường cơ khí Á châu Sài Gòn và xưởng cơ khí của Thủy xưởng Ba Son thời kỳ đó đã gắn liền với những hoạt động cách mạng đầu tiên của nhà cách mạng Tôn Đức Thắng. Học xong bậc tiểu học ở quê nhà: làng An Hòa, xã Mỹ Hòa Hưng, tổng Định Thành, tỉnh Long Xuyên (nay là xã Mỹ Hòa Hưng, thị xã Long Xuyên, tỉnh An Giang), người thanh niên Tôn Đức Thắng quyết định lên Sài Gòn tìm việc làm và định hướng cuộc đời mình vào tầng lớp thợ thuyền. Bác Tôn đã thi vào trường Cơ khí Á châu khóa học 1915 - 1917. Hiện nay tại Bảo tàng thành phố Hồ Chí Minh còn lưu giữ một cuốn sổ gốc ghi danh học sinh theo học các khóa ở trường này từ năm 1906 đến năm 1966. Tháng 8/1920 bác từ Pháp trở về Sài Gòn làm công nhân cho hãng KROFF và CIE. Chịu ảnh hưởng của cuộc Cách mạng tháng 10 Nga và học được nhiều kinh nghiệm đấu tranh của công nhân Pháp, bác Tôn đã vận động thành lập Công hội đỏ đầu tiên tại thành phố. Công hội bí mật phát triển trong công nhân xưởng Ba Son, hãng Faci, nhà đèn Chợ Quán... Từ năm 1920 đến 1925 số hội viên đã lên đến 300 người do bác Tôn làm hội trưởng. Đây là tổ chức Công hội đầu tiên của Việt Nam có mục đích tương trợ và đấu tranh bênh vực quyền lợi của công nhân, chống đế quốc tư bản. Dưới sự lãnh đạo của Công hội đỏ, phong trào đấu tranh của công nhân thành phố trong thời kỳ này bùng nổ mạnh mẽ. Tiêu biểu là cuộc bãi công đòi tăng lương, đòi nghỉ nửa ngày vào ngày lãnh lương của công nhân Thủy xưởng Ba Son nổ ra ngày 4/8/1925 kéo dài đến ngày 12/8/1925. Cuộc bãi công thắng lợi, nhưng để ủng hộ phong trào đấu tranh của công nhân và nhân dân lao động Trung Quốc bằng cách "kìm chân" chiến hạm J. Mi-Sơ-Lê theo lệnh chính phủ Pháp cần sửa chữa gấp để đưa sang Trung Quốc đàn áp phong trào cách mạng. Cuộc bãi công của công nhân Ba Son tiếp tục bằng hình thức lãn công, kéo dài việc sửa chữa chiến hạm đến 4 tháng. Như vậy ở cuộc đấu tranh này ngoài việc đòi quyền lợi kinh tế và cải thiện điều kiện làm việc, còn mang tính chất chính trị, đặc biệt là khởi động ý thức đoàn kết quốc tế của giai cấp công nhân Việt Nam. Cuộc bãi công của công nhân Ba Son dưới sự lãnh đạo của tổ chức Công hội đỏ đã mở đầu cho giai đoạn đấu tranh mới của giai cấp công nhân Việt Nam. Giai đoạn đấu tranh có tổ chức, có lãnh đạo và được sự ủng hộ của toàn thể công nhân và nhân dân lao động. Phong trào đấu tranh đã đi từ tự phát sang trình độ tự giác là cơ sở tốt để tiếp nhận chủ nghĩa Mác - Lênin. Ngày 19/11/1975 trên cương vị Chủ tịch nước, bác Tôn đã về thăm lại xưởng Ba Son và ghi lại trong sổ lưu niệm của nhà máy. Ngày 12/8/1993 Bộ Văn hóa đã ra quyết định công nhận Ba Son là di tích lịch sử. Nguồn: Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh

TP Hồ Chí Minh 4752 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Dinh Quận Hóc Môn

Dinh Quận Hóc Môn tọa lạc tại số 1, đường Lý Nam Đế, thị trấn Hóc Môn, (cạnh trụ sở UBND huyện) là nơi để lại nhiều sự kiện đấu tranh nổi bật suốt chặng đường dài lịch sử từ 1885 đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng của Nhân dân 18 Thôn vườn trầu. Sau khi hạ được Đại đồn Chí Hòa, thực dân Pháp xây dựng tại nơi đây một ngôi nhà gỗ cao 3 tầng dùng làm Đồn binh. Khi tên Trần Tử Ca về nhậm chức Đốc Phủ, dùng Đồn làm Dinh huyện Bình Long. Vốn là một tay say quỷ quyệt của thực dân Pháp, Trần Tử Ca bị nhóm do các ông Phan Văn Hớn (Quản Hớn) và Nguyễn Văn Quá (Chánh Lãnh Binh) cầm đầu gần 1.000 nghĩa quân tiến về đốt Dinh Quận, bắt và cắt đầu bêu giữa chợ. Đó là ngày 8/2/1885 Tết Ất Dậu. Sau đó, Dinh Quận Hóc Môn được xây dựng lại với nền móng đá xanh, tường gạch, có hệ thống phòng thủ từ lầu cao đến tận vòng rào. Lối kiến trúc y như Đồn binh nên người địa phương gọi là Đồn Hóc Môn. Trấn nhậm thay Trần Tử Ca là Đốc phủ Ngôn, đến Quận Trà rồi Quận Thọ. Đây là khoảng thời gian dài người dân vùng Hóc Môn hứng chịu bao cảnh tham tàn, bỉ ổi của thực dân Pháp và bọn tay sai đầu sỏ kể trên. Với truyền thống kiên cường bất khuất của Nhân dân Hóc Môn. Ngày 4/6/1930, khoảng 6 giờ sáng trước Dinh Quận, hàng trăm bà con Hóc Môn kéo biểu tình đòi “bãi bỏ thuế thân, giảm các thuế môn bài và thuế chợ, cấp đất cho dân cày nghèo”. Quận Trà cho mời những người cầm đầu vào Dinh thương lượng, nhưng chúng xảo quyệt bắt giữ họ trong đó có ông Lê Văn Uôi (Bí thư xã Tân Thới Nhì), là người cầm đầu cuộc biểu tình. Mọi người không nao núng, quyết liệt đòi hỏi Quận Trà phải thả những người bị cầm giữ. Đoàn biểu tình càng lúc càng đông, khí thế đấu tranh có phần lan rộng, khiến Quận Trà nhượng bộ. Một mặt chúng thả những người bị giữ, mặc khác chúng gọi điện cho quan thầy ở Sài Gòn cứu viện. 2 giờ sau, cuộc đấu tranh bị 2 tên Blachôlê và Nobbot chỉ huy bắn xối xả vào đoàn biểu tình, gây thương vong nhiều người. Nhưng sự kiện lịch sử gây ấn tượng nhất tại Dinh Quận Hóc Môn là cuộc khởi nghĩa Nam kỳ ngày 23/11/1940. Đồn Hóc Môn rất kiên cố, xây bằng đá xanh như là một pháo đài, cao khoảng 15 thước, có ụ súng và hệ thống phòng thủ lỗ châu mai do một trung đội lính khố xanh trấn giữ. Ngày 22/11/1940, Pháp tăng cường thêm 1 trung đội để đối phó với tình hình. Chiều 22/11/1940, cánh quân của ông Đỗ Văn Cội đột nhập vào thị trấn, giả dạng thường dân, phục kích sau lưng Đồn chờ lệnh cướp Đồn. Một cánh quân khác có nhiệm vụ phá cầu, đốn cây ngăn lộ, đánh chiếm các công sở, nhà việc... Cánh quân từ Phước Vĩnh An, Tân Thông, Tân An Hội, Tân Phú Trung do ông Phạm Văn Sáng và Đặng Công Bỉnh chỉ huy, xuất phát từ ấp Bến Đò, đánh chiếm nhà việc, diệt 1 tên, thu 4 súng, làm chủ tình hình tại đây (Tân Phú trung). Liền đó cánh quân này được lệnh kéo về Hóc Môn. Cánh quân Long Tuy Thượng do ông Bùi Văn Hoạt chỉ huy. Cánh quân thuộc Tổng Long Tuy Trung do ông Đỗ Văn Dậy và Lê Bình Đẳng chỉ huy. Khoảng 24 giờ đêm ngày 22/11/1940, vẫn chưa nghe thấy tiếng pháo lệnh ở Sài Gòn. Sau khi hội ý, các vị chỉ huy những cánh quân thống nhất tấn công Đồn giặc. Lập tức các cánh quân tiến thẳng về Đồn Hóc Môn, nơi trú ngụ của tên Quận trưởng Bùi Ngọc Thọ. 2 nghĩa quân tên Nghé và Kinh xung phong vào cổng trước, hy sinh. Nghĩa quân bốn phía xông vào Đồn như nước vỡ bờ. Trước sức mạnh của nghĩa quân và quần chúng, bọn lính trong Đồn không còn tinh thần kháng cự, bỏ chạy tán loạn. Nghĩa quân chiếm lĩnh hoàn toàn bên trong Đồn nhưng trên lầu, địch vẫn ngoan cố dùng súng bắn tẻ, cùng lúc gọi điện về Sài Gòn, Thủ Dầu Một cấp cứu. Vì nóng lòng bắt cho được tên Quận Thọ nên đồng chí Đỗ Văn Dậy bám ống máng nước để leo lên tầng trên Đồn. Đến lưng chừng bị trúng đạn, đồng chí bị rơi xuống và hy sinh sau đó. Cuộc chiến đấu đang thế giằng co thì viện binh địch đến. Không thể cầm cự, nghĩa quân rút khỏi thị trấn, phân tán về các làng, lực lượng vũ trang rút về ấp Bến Đò (Tân Phú Trung) rồi di chuyển sang ấp Mỹ Hạnh (Đức Hòa). Cuộc tiến công Đồn Hóc Môn (sau gọi là Dinh Quận Hóc Môn) tuy thất bại nhưng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng mọi người dân sự khâm phục lòng dũng cảm của các chiến sĩ cách mạng trong cuộc chiến đấu chống thực dân cướp nước. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, 7 giờ sáng ngày 30/4/1975, thị trấn Hóc Môn hoàn toàn được giải phóng, lá cờ Tổ quốc phất phới bay trên Dinh Quận, nơi tên Quận trưởng Nguyễn Như Sang và bọn tay sai đã chạy trốn từ tối đêm trước. Ngày nay Dinh Quận Hóc Môn được chọn làm Bảo tàng huyện, nơi đây tập trung nhiều tư liệu trưng bày, minh họa các giai đoạn lịch sử thăng trầm cũng như khí thế đấu tranh cách mạng của quân và dân trong huyện Hóc Môn qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Một Tượng đài đặt trước di tích Dinh Quận Hóc Môn thể hiện gương hy sinh bất khuất của quân và dân 18 Thôn Vườn trầu, được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn: Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn

TP Hồ Chí Minh 8931 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

KHU TƯỞNG NIỆM LIỆT SĨ NGÃ BA GIỒNG, DI TÍCH LỊCH SỬ QUỐC GIA

Di tích Ngã Ba Giồng là di tích lịch sử cách mạng thuộc Ấp 5, xã Xuân Thới Thượng, huyện Hóc Môn. Được bao quanh bởi ba con đường: Phan Văn Hớn, Nguyễn Văn Bứa và tỉnh lộ 19. Khu di tích Ngã Ba Giồng là khu tưởng niệm về những sự kiện lịch sử trong hai cuộc khácg chiến chống ngoại xâm. Được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia vào năm 2002. Ngã ba Giòng (còn có tên gọi đầy đủ là Ngã ba Giòng Bằng Lăng) nằm trên địa phận thôn Xuân Thới Tây thuộc 18 thôn vườn trầu xưa được hình thành từ những năm 1698 đến năm 1731. Từ lâu đời, Ngã ba Giồng là 1 địa danh có tên gọi dân gian đã đi vào lịch sử của quê hương 18 thôn vườn trầu Hóc Môn – Bà Điểm. Tục truyền rằng xưa kia nơi đây là 1 vùng đất giồng tương đối cao ráo và là nơi mọc nhiều cây bằng lăng nên địa danh này có tên gọi từ đó. Sau khi cuộc khởi nghĩa Nam kỳ (23/11/1940) bị thất bại, thực dân Pháp đã tăng cường đàn áp, khủng bố khốc liệt phong trào cách mạng vùng Hóc Môn – Bà Điểm. Chúng đã lập ra ở Hóc Môn 3 trường bắn để giết hại các đồng chí lãnh đạo Đảng, các đồng chí đồng bào yêu nước của quê hương Hóc Môn và các vùng lân cận. Ngã ba Giồng là trường bắn thứ ba ghi lại tội ác tày trời của giặc pháp và bọn tay sai đối với nhân dân Hóc Môn. Rút kinh nghiệm từ 2 trường bắn trước (1 tại rạp hát cũ trung tâm Quận lỵ Hóc Môn, 1 cạnh giếng nước sau Bệnh viện Hóc Môn ngày nay), chúng xử bắn công khai, bắt nhân dân đến xem nhằm mục đích uy hiếp tinh thần cách mạng của nhân dân Hóc Môn. Nhưng cách xử bắn đó đã phản tác dụng, nhân dân Hóc Môn đã tận mắt chứng kiến sự tàn ác của thực dân Pháp, sự hy sinh cao cả của các chiến sĩ cộng sản nên ngọn lửa yêu nước của họ càng bùng lên mãnh liệt. Trường bắn thứ 3 này, chúng không dám xây dựng gần trung tâm Quận lỵ nữa mà đưa ra khu vực Ngã ba Giồng là vùng hoang vắng, thưa dân để tránh sự phản kháng của nhân dân. Tại đây, chúng xây dựng thành 1 trường bắn có mô đất kiên cố dài 12m, cao 2,2m, phía trước có trồng 6 cột bắn, mỗi cột cao 1.7m, hướng bắn quay về phía đồng ruộng (bưng Tràm Lạc). Vào năm 1941, tại đây chúng lén lúc xử bắn rất nhiều lần, không cho nhân dân xem, hàng trăm chiến sĩ cộng sản và đồng bào yêu nước bị chúng giết hại. Với ý nghĩa lịch sử vô cùng thiêng liêng của Ngã ba Giồng, nơi ghi dấu tội ác dã man của giặc Pháp, nơi thể hiện ý chí chiến đấu bất khuất kiên cường và sự hy sinh cao cả của đồng chí và đồng bào ta sau cuộc khởi nghĩa Nam kỳ (23/11/1940); sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (30/4/1975), huyện Hóc Môn đã nhanh chóng khôi phục và tôn tạo khu di tích lịch sử cách mạng Ngã ba Giồng nhằm giáo dục truyền thống cho các thế hệ thanh thiếu niên. Nơi đây đã trở thành điểm tham quan, nơi tổ chức lễ hội truyền thống trong những ngày lễ lớn hàng năm của huyện Hóc Môn và thành phố đặc biệt là lễ kỷ niệm ngày Nam kỳ Khởi nghĩa (23/11). Hiện nay được sự nhất trí của thành phố, huyện đang tiến hành tôn tạo xây dựng Ngã ba Giồng thành “Khu tưởng niệm liệt sĩ Ngã ba Giồng”. Nguồn: Cổng thông tin điện tử Hóc Môn

TP Hồ Chí Minh 8521 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Khu di tích Láng Le Bàu Cò

Khu di tích Láng Le Bàu Cò tọa lạc tại xã Tân Nhựt, huyện Bình Chánh, Tp HCM. Láng Le Bàu Cò gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược vào năm 1948 với những trận đánh lớn đi vào lịch sử. Di tích Láng Le Bàu Cò được công nhận là di tích lịch sử cấp thành phố vào năm 2003. Sở dĩ được gọi tên là khu di tích Láng Le Bàu Cò vì Tên gọi của khu di tích Láng Le Bàu Cò là do người dân địa phương đặt ra. Xóm làng được thành lập cạnh những con kênh rạch chằng chịt và dòng sông. Láng Le Bàu Cò có vị trí nằm ở bên trong cánh đồng có diện tích rộng lớn và có rất nhiều tôm, cua, cá. Cùng với nhiều loài chim như vịt trời, cò, con le le, cúm núm, cồng cộc, đa đa, diệc, đỏ nách tới kiếm ăn tại đây. Vì vậy, người dân Tân Nhựt gọi với cái tên thân thuộc và mộc mạc đó là Láng Le Bàu Cò. Di tích Láng Le Bàu Cò được xem là cửa ngõ để di chuyển tới trung tâm căn cứ Vườn Thơm và tấn công cơ quan đầu não của quân địch tại Sài Gòn. Trước đây khu di tích Láng Le Bàu Cò vốn là cánh đồng lau sậy mọc um tùm. Vào ngày 15/4/1948 thực dân Pháp đưa 3 nghìn quân lính cùng nhiều vũ khí hiện đại đồng loạt tấn công khu vực Láng Le Bàu Cò nhằm tiêu diệt căn cứ Vườn Thơm. Khi đó lực lượng vũ trang cách mạng ở Láng Le - Bàu vì lực lượng nhỏ và vũ khí thô sơ tuy nhiên được sự giúp đỡ của người dân địa phương cùng với lợi thế về địa hình. Chỉ sau hơn nửa ngày đấu tranh đã chuyển sang tấn công khiến quân Pháp bị thương vong với số lượng lớn. Chiến thắng Láng Le Bàu Cò đã tiêu diệt 300 tên địch và bắt sống 30 lính đánh thuê cùng phá hủy nhiều máy móc, xe nhà binh, súng các loại của quân giặc. Tuy nhiên, về phía ta có nhiều cán bộ chiến sĩ đã anh dũng hy sinh với tuổi đời còn rất trẻ. Ngày 14/10/1966 tại Láng Le tiểu đoàn biệt động quân Việt Nam Cộng Hòa bị dân quân du khách tiêu diệt. Khu di tích Láng Le Bàu Cò có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với người dân Sài Gòn nói riêng và cả nước nói chung. Trước lòng căm thù thực dân Pháp, quân dân Láng Le Bàu Cò đã có cuộc chiến vang lừng lịch sử và có ý nghĩa to lớn mở đầu cho phía ta và phía địch. Đối với phía ta trận đánh mở đầu cho sự anh dũng trong tư thế kháng chiến vững mạnh. Còn với quân địch đã phải lùi vào thế bỏ chiến lược và bị tiêu diệt. Thực dân Pháp không còn định hình được chiến lược đánh bại Việt Minh. Hơn thế, tại căn cứ Vườn Thơm, Láng Le Bàu Cò còn diễn ra trận chiến quyết tâm bảo vệ căn cứ của ta và đập tan mọi kế hoạch phá hoại của quân giặc. Khu di tích Láng Le Bàu Cò sau phong trào Đồng Khởi vào năm 1960 còn là hậu cần, bàn đạp của lực lượng vũ trang để giải phóng Long An - Sài Gòn - Gia Định. Để tưởng nhớ sự hy sinh của đồng bào và các chiến sĩ của ta, vào năm 1988 huyện Bình Chánh đã xây dựng công trình lịch sử tại vùng đất Láng Le Bàu Cò với diện tích rộng 1000m2. Nguồn: Báo thông tin điện tử TP Hồ Chí Minh

TP Hồ Chí Minh 13210 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp thành phố Mở cửa

Khu di tích lịch sử Địa đạo Củ Chi

Nằm cách trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh khoảng 70 km về hướng Tây Bắc, Địa đạo Củ Chi là nơi thu nhỏ trận đồ biến hóa và sáng tạo của quân và dân Củ Chi trong cuộc kháng chiến lâu dài, ác liệt suốt 30 năm chống kẻ thù xâm lược, giành độc lập, tự do cho Tổ quốc. Với tầm vóc chiến công của mình, địa đạo Củ Chi đã đi vào lịch sử đấu tranh anh hùng của nhân dân Việt Nam như một huyền thoại của thế kỷ 20 và trở thành một địa danh nổi tiếng trên thế giới. Chỉ từ những dụng cụ thô sơ là lưỡi cuốc và chiếc ki xúc đất đã tạo nên một kỳ quan đánh giặc độc đáo có một không hai với khoảng 250 km đường hầm tỏa rộng như mạng nhện trong lòng đất, có các công trình liên hoàn với địa đạo như: Chiến hào, ụ, ổ chiến đấu, hầm ăn, ngủ, hội họp, sinh hoạt, quân y, kho cất dấu lương thực, giếng nước, bếp Hoàng Cầm … Những sự tích có thật từ địa đạo đã vượt quá sức tưởng tượng của con người. Ðường hầm sâu dưới đất từ 3 đến 8m, chiều cao chỉ đủ cho một người đi lom khom. Căn hầm đầu tiên ở ngay bìa rừng có giếng ngầm cung cấp nguồn nước uống và sinh hoạt cho toàn khu vực địa đạo. Giếng sâu 15m, trong vắt. Hệ thống địa đạo gồm 3 tầng, từ đường "xương sống" toả ra vô số nhánh dài, nhánh ngắn ăn thông nhau, có nhánh trổ ra tận sông Sài Gòn. Tầng một cách mặt đất 3m, chống được đạn pháo và sức nặng của xe tăng, xe bọc thép. Tầng 2 cách mặt đất 5m, có thể chống được bom cỡ nhỏ. Còn tầng cuối cùng cách mặt đất 8 đến 10m hết sức an toàn. Ðường lên xuống giữa các tầng hầm được bố trí bằng các nắp hầm bí mật. Bên trên nguỵ trang kín đáo, nhìn như những ụ mối đùn, dọc đường hầm có lỗ thông hơi. Liên hoàn với địa đạo có các hầm rộng để nghỉ ngơi, có nơi dự trữ vũ khí, lương thực, có giếng nước, có bếp Hoàng Cầm, có hầm chỉ huy, hầm giải phẫu... Còn có cả hầm lớn, mái lợp thoáng mát, nguỵ trang khéo léo để xem phim, văn nghệ. Cũng từ địa đạo này, cuộc hành quân Crimp (cái bẫy) của Mỹ với 3.000 quân bộ, cuộc hành quân Sedarfall gồm 12.000 lính, có xe tăng, máy bay yểm trợ tối đa, nhằm biến Củ Chi thành "khu tự do hủy diệt" đã bị đập tan. Củ Chi thật xứng danh "đất thép thành đồng" qua 20 năm bền bỉ chiến đấu. Với giá trị và tầm vóc chiến công được đúc kết bằng xương máu, công sức của hàng vạn chiến sĩ, đồng bào, khu căn cứ địa đạo Củ Chi đã được Bộ Văn hóa công nhận là Di tích quốc gia đặc biệt. Từ ngày hòa bình trở lại, đã có hàng chục ngàn đoàn du khách với hàng triệu người đủ màu da, sắc tộc trên thế giới đến viếng thăm địa đạo Củ Chi. Từ các vị Tổng Bí thư Đảng Cộng Sản, Nguyên thủ Quốc gia, đến các chính khách, tướng lĩnh, nhà khoa học, triết học, nhà văn, nhà báo, cựu chiến binh Mỹ...đã đặt chân xuống địa đạo với tất cả niềm xúc động và kính phục đối với vùng đất anh hùng. Một chính khách ở Cộng hòa Liên Bang Đức đã phát biểu: “Đã nhiều năm tôi nghi ngờ về cuộc chiến đấu của nhân dân Việt Nam. Làm sao một nước nhỏ và nghèo lại có thể đánh thắng một nước lớn và giàu có như nước Mỹ. Nhưng khi tới đây, chui qua 70m đường hầm, tôi đã tự trả lời được câu hỏi đó”. Nguồn: Di tích lịch sử TP Hồ Chí Minh

TP Hồ Chí Minh 5071 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Bến Nhà Rồng - Bảo Tàng Hồ Chí Minh (Chi nhánh TP.HCM)

Bến Nhà Rồng là một trong những di tích lịch sử gắn liền với con đường cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Bến Nhà Rồng hay Bảo tàng Hồ Chí Minh khởi đầu là một thương cảng lớn của Sài Gòn. Thương cảng này nằm bên sông Sài Gòn và được xây dựng từ năm 1863, và hơn 2 năm sau, vào năm 1864, Nhà Rồng này được hoàn thành, trên khu vực gần cầu Khánh Hội. Nhà Rồng được khởi công xây dựng vào ngày 4 tháng 3 năm 1863, do “Công ty vận tải biển” xây dựng một cửa hàng để làm nơi ở cho Tổng giám đốc và là nơi bán vé tàu. Mái nhà được trang trí hình rồng, ở giữa thay vì trái châu thì là chiếc phù hiệu mang hình “Đầu ngựa và chiếc mỏ neo”. Phù hiệu “Đầu ngựa” hàm chỉ thời trước bên Pháp, công ty này chuyên lãnh chở đường bộ với ngựa kéo xe, trong khi biểu tượng “Mỏ neo” tượng trưng cho tàu thuyền. Năm 1919, công ty được phép xây cầu cảng bằng xi măng cốt thép nhưng không thực hiện được. Phải đến tháng 3/1930 mới hoàn thành bến mới, chỉ có một bến nhưng dài 430m. Năm 1955, sau khi thực dân Pháp thất bại ở Việt Nam, Thương mại Sài Gòn được chuyển giao cho chính quyền miền Nam nước ta quản lý. Chính phủ đã khôi phục lại mái nhà và thay thế hai con rồng cũ bằng hai con rồng khác có đầu hướng ra ngoài. Với diện tích xây dựng công trình gần 1.500m2, diện tích còn lại là khu vườn xanh mát không khí mát mẻ, khung cảnh thơ mộng gồm hơn 400 cây quý từ khắp mọi miền đất nước quy tụ về đây khoe sắc tỏa hương, đặc biệt là cây đa tân trào của cố Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh và cây bồ đề của Tổng thống Ấn Độ. Năm 1965, Nhà Rồng được quân đội Mỹ sử dụng làm trụ sở của Cơ quan tiếp nhận viện trợ quân sự Mỹ. Năm 1975, sau khi đất nước thống nhất, Nhà Rồng, biểu tượng của cảng Sài Gòn, do Cục Đường biển Việt Nam quản lý. Bến Nhà Rồng hiện nay là Bảo tàng Hồ Chí Minh, Chi nhánh TP HCM, một trong những chi nhánh bảo tàng và di vật lưu niệm về Chủ tịch Hồ Chí Minh trong cả nước. Bởi vì, tại đây, vào ngày 5/6/1911, chàng trai trẻ Nguyễn Tất Thành (sau này là Hồ Chí Minh) đã lên tàu đi làm phụ bếp để có dịp sang châu Âu. Tiếp theo là ngày Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước ở Việt Nam. Bến cảng nhà Rồng là nơi lưu giữ nhiều tài liệu, hiện vật vô giá giúp thế hệ mai sau hiểu rõ hơn về cuộc đời và sự nghiệp cách mạng vĩ đại của người Cha già dân tộc. Bảo tàng được xây dựng thành 12 phòng trưng bày với khoảng 170 dữ liệu, hình ảnh và hiện vật. Không chỉ vậy, đây còn là địa chỉ để mọi người đến học tập tìm hiểu về cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Bác Hồ. Bến Nhà Rồng còn là điểm đến thu hút hàng triệu du khách trong nước và quốc tế. Từ những giá trị, ý nghĩa to lớn trên, Bến cảng Nhà Rồng xứng đáng là di tích lịch sử cấp quốc gia mà chúng ta cần bảo tồn, tôn vinh cũng như tuyên truyền, quảng bá tới bạn bè năm châu. Bến Nhà Rồng sẽ mãi là niềm tự hào lớn của cả dân tộc. Nguồn: Cục di sản văn hoá

TP Hồ Chí Minh 7251 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Dinh Độc Lập

Dinh độc lập ngày nay được gọi là Dinh Thống Nhất hay hội từ trường Thống Nhất. Đây từng là nơi ở và làm việc của tổng thống Việt Nam cộng hòa. Dinh Độc Lập hiện nay được chính phủ Việt Nam xếp hạng vào di tích quốc gia đặc biệt. Năm 1962 Ngô Đình Diệm đã cho xây dựng công trình với thiết kế của tòa nhà là kiến trúc sư Ngô Viết Thụ. Năm 1868 sau khi chiếm xong Lục Tỉnh Nam Kỳ thực dân Pháp cho xây dựng ở đây một dinh thự. Ban đầu ding là nơi ở của thống đốc nam kỳ. Từ năm 1887 khi tổng thống Pháp ký sắc lệnh thành lập Liên bang Đông Dương thì dinh độc lập trở thành phủ toàn quyền Pháp tại Đông Dương. Năm 1954 với thất bại ở Điện Biên Phủ và Theo hiệp định Giơnevơ quân viễn trinh Pháp đã phải rút khỏi Việt Nam. Ngày mùng 7 tháng 9 năm 1954 cao ủy Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương đã thay mặt cho nước Pháp trao trả Dinh Độc Lập cho đại diện nhà cầm quyền Sài Gòn đó là thủ tướng Ngô Đình Diệm. Ngày 27 tháng 2 năm 1962 đã diễn ra đảo chính, hai viên phi công quân đội Sài Gòn Lái hay máy bay ném bom làm sập toàn bộ phần chính cánh trái của Dinh, do không thể khôi phục lại nên Ngô Đình Diệm đã quyết định khởi công xây dựng lại dinh ngày mùng 1 tháng 7 năm 1962. Trong thời gian xây dựng dinh mới gia đình Ngô Đình Diệm đã chuyển đến sống tại Dinh Gia Long. Khi công trình đang được xây dựng thì Ngô Đình Diệm bị phe đảo chính giết chết ngày mùng 2 tháng 11 năm 1963. Do vậy tới ngày khánh thành dinh người chủ tọa buổi lễ là Nguyễn Văn Thiệu - Chủ tịch Ủy ban lãnh đạo Quốc gia. Người có thời gian sống lâu nhất ở Dinh Độc Lập là Nguyễn Văn Thiệu. Đây là cơ quan đầu não của chính quyền Sài Gòn, là nơi được chứng kiến biết bao sự can thiệp của quân sự nước ngoài tác động vào chiến tranh tàn khốc ở Việt Nam và là nơi ra đời nhiều chính sách phản lại nhân dân của tổng thống Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Văn Thiệu. Với chiến dịch Hồ Chí Minh ngày 30 tháng 4 năm 1975 Chiếc Xe Tăng mang số hiệu 390 đã húc đổ cổng Dinh Độc Lập để tiến thẳng vào dinh. 11 giờ 30 cùng ngày Trung úy Bùi Quang Thận Đại đội trưởng chỉ huy xe 843 đã hạ lá cờ 36 xuống và kéo lá cờ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam lên. Lá cờ phất phới tung bay trên nóc dinh độc lập đã kết thúc 30 năm chiến tranh gian khổ và anh dũng của dân tộc Việt Nam. Vào giờ phút này Tổng thống cuối cùng của chế độ Việt Nam cộng hòa là Dương Văn Minh cùng toàn bộ nội các của chính quyền Sài Gòn đã tuyên bố đầu hàng vô điều kiện với chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng Nhân dân hai miền Nam Bắc đã sum họp 1 nhà. Dinh độc lập đã được nhà nước công nhận là di tích lịch sử văn hóa. Ngoài những tên gọi là dinh độc lập thì còn có một số tên gọi khác như dinh toàn quyền, dinh tổng thống hay còn được gọi một tên khác đó là phủ đầu rồng. Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ đã kết hợp hài hòa giữa nghệ thuật kiến trúc hiện đại với kiến trúc truyền thống phương Đông. toàn thể Dinh làm thành hình chữ Cát có nghĩa là tốt lành và may mắn. Tâm của Dinh Độc Lập là vị trí phòng trình quốc thư lầu thượng là Tứ Phương. Cửa chính hình chữ khẩu đề cao giáo dục và tự ngôn luận. Vẻ đẹp kiến trúc của Dinh còn được thể hiện bởi bức rèm hoa lá mang hình dáng cách điệu. Đây là cải biến từ hình ảnh của cung điện Cố Đô Huế, điều này làm tăng vẻ đẹp của dinh. Diện tích sử dụng là 20.000 m², được chia làm 95 phòng. Mỗi phòng tại đây có một chức năng riêng có kiến trúc và các trang trí phù hợp với mục đích sử dụng. Sau năm 1975 khu nhà chính ngày tiếp tục được sử dụng một số vòng và để phục vụ du khách tham quan. Tại góc đường Huyền Trân công chúa - Nguyễn Thị Minh Khai trước năm 1975 là khu sinh hoạt của đội Cận Vệ phi hành đoàn lái máy bay cho Nguyễn Văn Thiệu. Hiện nay đã được cải tạo thành khu nhà nghỉ trưa và bếp ăn tập thể của cán bộ công nhân viên hội trường Thống Nhất. Khu nhà hai tầng với diện tích 160 m², dưới đường Nguyễn Du trước 1975 là trụ sở làm việc của Đảng Dân chủ sau năm 1975 là nơi làm việc của ban giám đốc. Hội trường Thống Nhất ngoài các khu nhà trên ở góc trái dinh phía đường Nguyễn Thị Minh Khai còn có một nhà Văn Giáp Đường 4 m xây trên một gò đất cao. Dinh Độc Lập không chỉ là một công trình kiến trúc độc đáo mà nó còn là một minh chứng lịch sử. Dinh độc lập đã cùng đất nước ta trải qua biết bao thăng trầm của lịch sử với sự kiên cố của Dinh đã để lại cho con cháu một đời những bài học quý giá về tình yêu nước và sự kiên cường trong cuộc sống của ông cha ta. Nguồn: Cổng thông tin điện tử TP Hồ Chí Minh

TP Hồ Chí Minh 4517 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa