Thái Nguyên được xem là vùng đất “thủ đô gió ngàn” trong thời kỳ kháng chiến. Đến với nơi đây, chúng ta có cơ hội tìm về cội nguồn của loài người với Mái đá Ngườm Thần Sa, với núi Đuổm hoang sơ kỳ vĩ, đắm mình trong câu chuyện tình lãng mạn của nàng Công, chàng Cốc… Và một trong những địa chỉ không thể bỏ qua chính là Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam - nơi lưu giữ bản sắc cộng đồng dân tộc Việt. Cách Thủ đô Hà Nội khoảng 80km, Bảo tàng văn hóa các dân tộc Việt Nam nằm ở số 1 Đội Cấn, thành phố Thái Nguyên. Bảo tàng được thành lập năm 1960 với tên gọi ban đầu là Bảo tàng Việt Bắc. Năm 1990 đổi tên thành Bảo tàng Văn hoá các dân tộc Việt Nam và trở thành 1 trong 7 Bảo tàng quốc gia Việt Nam. Được xây dựng trên một khuôn viên rộng đến 40.000m² cạnh dòng sông Cầu thơ mộng, tại điểm giao nhau của các đường Đội Cấn, Hoàng Văn Thụ, Bắc Kạn và Cách mạng tháng Tám, Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam là một công trình kiến trúc quy mô, tầm cỡ mang nhiều tính nghệ thuật, đã đạt giải thưởng Hồ Chí Minh về công trình kiến trúc đợt 1 năm 2006. Trải qua hơn 50 năm hình thành và phát triển với hàng trăm cuộc nghiên cứu, sưu tầm, Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam đang quản lý gần 30.000 tài liệu, hiện vật có giá trị, là cơ sở để hoàn thiện hệ thống trưng bày trong nhà cũng như ngoài trời, phục vụ tốt nhu cầu tham quan của công chúng. Bước vào khuôn viên Bảo tàng, chúng ta sẽ dừng chân tại Gian long trọng. Nơi đây giới thiệu những nét khái quát về văn hoá Việt Nam. Ở tiền sảnh lớn, chúng ta được ngắm nhìn chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ kính yêu cuả dân tộc Việt Nam. Người ôm ba em bé, đại diện cho ba miền Bắc - Trung - Nam. Bức tượng thể hiện tình yêu thương vô bờ bến của Bác với các cháu thiếu nhi ba miền, đồng thời thể hiện chính sách thống nhất, đa dạng và đoàn kết của dân tộc Việt Nam. Sau tượng Bác Hồ là bức phù điêu lớn được tạc bằng gỗ mô phỏng các lễ hội tiêu biểu truyền thống các tộc người từ Bắc vào Nam: Múa khèn trong phiên chợ vùng cao, múa sư tử trong hội xuân vùng thung lũng, lễ hội Ka Tê của đồng bào Chăm, lễ hội đâm trâu của đồng bào Tây Nguyên và hội đua ghe ngo của đồng bào Nam Bộ. Tiếp đó, du khách sẽ lần lượt tham quan hệ thống 5 phòng trưng bày gồm: Trưng bày và giới thiệu về văn hoá các tộc người nhóm ngôn ngữ Việt - Mường (Kinh, Mường, Thổ, Chứt). Đồng bào sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa nước và đánh cá. Trong đời sống tâm linh có tục thờ cùng ông bà tổ tiên và các nghề thủ công truyền thống phát triển ở trình độ cao; Trưng bày và giới thiệu các tộc người nhóm ngôn ngữ Tày - Thái (Tày, Thái, Nùng, Giáy, Lào, Lự, Sán Chay, Bố Y). Đồng bào sống chủ yếu ở nhà sàn, trồng lúa trên các thung lũng, ven sông suối, với hệ thống dẫn nước bằng mương, phai, lái, lín, cọn nước. Các nghề thủ công rèn, dệt vải khá phát triển với các sản phẩm đẹp và tinh tế. Đặc biệt họ có đời sống tinh thần phong phú với nhiều điệu xoè và bài hát then độc đáo; Trưng bày và giới thiệu văn hoá các tộc người thuộc 3 nhóm ngôn ngữ Hmông - Dao (Hmông, Dao, Pà Thẻn), Ka Đai (La Chí, La Ha, Cờ Lao, Pu Péo) và Tạng Miến (Lô Lô, Phù Lá, Hà Nhì, La Hủ, Cống, Si La). Đồng bào giỏi canh tác trên nương rẫy và ruộng bậc thang. Chợ phiên là nơi thể hiện rõ bản sắc văn hoá vùng cao, văn hoá ẩm thực, văn hoá mặc, nghệ thuật thêu thùa, in hoa, biểu diễn âm nhạc, múa khèn... Trưng bày giới thiệu văn hoá 21 tộc người thuộc nhóm ngôn ngữ Môn – Khơ Me (Ba Na, Brâu, Bru - Vân Kiều, Chơ Ro, Co, Cơ Ho, Cơ Tu, Gié Triêng, H'rê, Kháng, Khơ Me, Khơ Mú, Mảng, Xinh Mun, Mnông, Ơ Đu, Mạ, Rơ Măm, Tà Ôi, Xơ Đăng, Xtiêng). Đồng bào cư trú rải rác ở khu vực Tây Bắc, Miền -Tây Nguyên và Nam Bộ. Đời sống kinh tế chủ yếu canh tác nương rẫy, những nương rẫy có độ cao tương đối lớn, đồng canh tác theo phương pháp chọc lỗ tra hạt. Kiến trúc nhà rông Tây Nguyên, chùa của dân tộc Khơ Me; nghề thủ công đan lát và lễ hội văn hoá cộng đồng là những nét văn hoá độc đáo của cư dân Môn - Khơ Me; Trưng bày và giới thiệu văn hoá các tộc người thuộc nhóm ngôn ngữ Nam Đảo (Chăm, Gia Rai, Ê Đê, Raglai, Chu Ru) và ngôn ngữ Hán (Hoa, Ngái, Sán Dìu). Các tộc người thuộc nhóm ngôn ngữ Nam Đảo cư trú tập trung trên các cao nguyên đất đỏ Tây Nguyên và dải đất ven biển Miền Trung; Văn hoá Nam Đảo mang đậm nét mẫu hệ. Các tộc người thuộc nhóm ngôn ngữ Hán cư trú trên cả ba vùng Bắc, Trung, Nam; Văn hoá Hán mang đậm nét phụ hệ. Mỗi phòng trưng bày với hệ thống tài liệu và hiện vật phong phú, đa đạng đã tái hiện một cách chân thực cảnh quan cư trú và đời sống văn hoá 54 dân tộc anh em, từ cực bắc Hà Giang đến vùng đất mũi Cà Mau với những hình ảnh gần gũi như: các phiên chợ vùng cao, cảnh săn bắt voi rừng, hình ảnh chọc lỗ bỏ hạt của người dân tộc phía bắc, lễ hội cồng chiêng của người Ê đê, Ba na ở Tây nguyên; sông nước của đồng bào Nam bộ; các nghề thủ công truyền thống, các hình thức sinh hoạt văn hóa trong trang phục, âm nhạc, ẩm thực, lễ hội trong sản xuất lao động…. Điểm nhấn đặc biệt của Bảo tàng là hệ thống trưng bày ngoài trời với không gian 6 vùng văn hoá: Núi cao phía Bắc, Thung lũng, Trung du - Bắc Bộ, Miền Trung - Ven biển, Trường Sơn - Tây Nguyên, và Đồng Bằng Nam Bộ sẽ mang lại những trải nghiệm hết sức thú vị cho du khách. Mỗi vùng văn hoá đều có không gian tổ chức lễ hội, có cấu trúc cảnh quan mang tính đặc trưng vùng miền và một ngôi nhà cụ thể, mang tính nguyên gốc làm điểm nhấn giới thiệu các giá trị văn hoá Việt Nam tới du khách. Tại đây, du khách cũng dễ dàng tận mắt nhìn thấy nhiều dụng cụ vốn rất quen thuộc từ xưa của dân tộc như cái cối xay lúa đan bằng nan tre, cái cày bằng cây thô sơ, những mái nhà lợp tranh, vách đất… Có thể nói Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam tại Thái Nguyên như “mái nhà chung” của cộng đồng 54 dân tộc anh em trên dải đất hình chữ S. Khách đến tham quan sẽ có dịp chiêm ngưỡng một bức tranh toàn cảnh, tìm hiểu về cội nguồn, truyền thống, văn hóa các dân tộc trên khắp mọi miền đất nước. Cùng với Khu du lịch sinh thái Hồ Núi Cốc, Căn cứ cách mạng an toàn khu ATK, Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam đã, đang và sẽ là điểm đến hấp dẫn cho mọi du khách trong và ngoài nước.
Thái Nguyên
Từ tháng 1 đến tháng 12
4902 lượt xem
Định Hóa (Thái Nguyên) - nơi cách đây 76 năm (năm 1947), Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng lãnh đạo Trung ương Đảng và Chính phủ lựa chọn là nơi lập an toàn khu (ATK), nơi ra đời những quyết sách quan trọng, mang tính bước ngoặt của Đảng ta trong cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám và cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Hành trình về những địa danh lịch sử trong quần thể khu di tích vào những ngày mùa Thu lịch sử, mỗi người dân Việt Nam sẽ cảm nhận được những dấu ấn lịch sử và những lời Bác Hồ dạy còn vang vọng đâu đây. Ấn tượng đầu tiên khi đặt chân đến ATK Định Hóa, đó là một vùng đất bán sơn địa với địa hình rừng núi xen lẫn cánh đồng, con suối, bản làng của đồng bào dân tộc Tày. Thung lũng Chợ Chu được bao bọc bởi những triền núi đá trập trùng tựa như chiến hào vững chãi, kiên cố. Ở nơi đây, khi dừng chân vào rạng sáng ngày 20/5/1947, Bác Hồ đã nhận thấy những thuận lợi của địa hình để lựa chọn những địa điểm hoạt động bí mật. Bác Hồ khẳng định: “Có nhân dân tốt, có cơ sở chính trị tốt là ở nơi đó “tiến khả dĩ công, thoái khả dĩ thủ” (tiến có thể đánh, lui có thể giữ). Đặc biệt, khi chọn đồi Tỉn Keo ở thôn Nà Lọm, xã Phú Đình (Định Hoá) để làm nơi lập căn cứ, Bác khẳng định: “Trên có núi, dưới có sông/Có đất ta trồng, có bãi ta chơi/Tiện đường sang Bộ Tổng/Thuận lối tới Trung ương/Nhà thoáng, ráo, kín mái/Gần dân, không gần đường”. Vì vậy, trong tổng thể hàng trăm di tích thuộc Khu di tích lịch sử Quốc gia đặc biệt ATK Định Hóa, địa điểm nào cũng gắn với hình ảnh Bác Hồ, các đồng chí trong Trung ương Đảng và Chính Phủ cùng những sự kiện lịch sử trong những năm tháng kháng chiến gian khổ. Những địa danh lịch sử đã để lại dấu ấn trong khu di tích ATK Định Hóa như: Chợ Chu, Chùa Hang, đồi Khau Tý, thác Khuôn Tát, đèo De, núi Hồng, Điềm Mặc, suối Đình, Định Biên, Bảo Biên, đồi Pụ Đồn, Tỉn Keo, những ngôi nhà sàn Bác ở và làm việc, nhà trưng bày AKT… Trong những hoạt động cách mạng tại ATK Định Hoá, Bác Hồ cùng Trung ương Đảng và Chính phủ đã vạch ra đường lối chiến lược cho cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc. Đặc biệt, Bác đã soạn thảo “Sửa đổi lối làm việc”, chủ trì cuộc họp Bộ Chính trị để thông qua kế hoạch chiến dịch Đông - Xuân 1953 - 1954, quyết tâm tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến 9 năm trường kỳ, gian khổ của dân tộc. Trong những ngày tháng gian khổ của cuộc kháng chiến, bài thơ “Cảnh khuya” của Bác đã ra đời nơi núi rừng Định Hoá: “Tiếng suối trong như tiếng hát xa/Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa/Cảnh khuya như vẽ, người chưa ngủ/Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà”. Ngày nay, tại Chùa Hang (Thị trấn Chợ Chu), bàn thờ Bác được đặt ở vị trí trang trọng với niềm kính yêu vô hạn. Chính tại đây, Bác Hồ đã từng ở vào năm 1950 để chỉ đạo chiến cuộc Đông - Xuân 1953 - 1954.
Thái Nguyên
Từ tháng 1 đến tháng 12
4559 lượt xem
Nằm tại tỉnh Thái Nguyên, khu du lịch Hồ Núi Cốc là một trong những điểm đến hấp dẫn nhất của khu vực phía Bắc. Khu du lịch sinh thái rộng lớn này cách trung tâm thành phố Thái Nguyên khoảng 16 kilomet, và các trung tâm Hà Nội khoảng 70 kilomet. Hồ Núi Cốc là một hồ nhân tạo, có diện tích đến 25 hecta, với 89 đảo lớn nhỏ trong hồ, tạo nên một cảnh quan thiên nhiên thơ mộng. Cùng với chuyện tình hồ Núi Cốc của chàng Cốc và nàng Công đầy cảm động, khiến nơi đây càng trở nên thu hút hơn bao giờ hết. Không chỉ vậy, khu du lịch còn có nhiều điểm tham quan độc đáo cho bạn khám phá. Thái Nguyên là một tỉnh phía Bắc Việt Nam, vậy nên thời tiết ở đây cũng thay đổi theo 4 mùa trong năm. Theo kinh nghiệm của Klook, du lịch Hồ Núi Cốc đẹp nhất là vào tháng 3 đến tháng 9. Vào khoảng thời gian này, thời tiết Thái Nguyên nhiều nắng, ít mưa, rất thích hợp để tham gia các hoạt động ngoài trời. Bên cạnh đó, đây cũng là khoảng thời gian khu du lịch Hồ Núi Cốc tổ chức nhiều hoạt động nghệ thuật, giải trí, tạo ra một không khí sôi động cho nơi đây. Các tháng còn lại rơi vào mùa đông, là mùa lạnh ở Thái Nguyên, không thích hợp cho các hoạt động giải trí, khám phá ngoài trời. Tuy nhiên, nếu bạn chỉ muốn tìm một nơi nghỉ dưỡng có thiên nhiên trong lành thì Hồ Núi Cốc vẫn là một lựa chọn phù hợp. Đến Hồ Núi Cốc, bạn có thể tham gia các trải nghiệm như: Vui Chơi tại Công Viên Nước, thưởng thức biểu diễn nhạc nước, thăm vườn động vật hoang dã, thăm quan các hang động,... và còn nhiều trải nghiệm hấp dẫn khác.
Thái Nguyên
Từ tháng 3 đến tháng 9
4656 lượt xem
Chùa Thạch Long được mệnh danh là “chùa thiêng trong hang đá”, tọa lạc tại xã Cao Kỳ, huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn. Đây là ngôi chùa linh thiêng tại miền Bắc với nhiều câu chuyện cổ tích huyền ảo. Chùa được xây dựng vào khoảng thế kỷ thứ XVIII với nhiều câu chuyện tâm linh, đồng thời nó còn gắn liền với một thời kỳ lịch sử khốc liệt của dân tộc. Vào ngày 02/11/2011, chùa Thạch Long đã được UBND tỉnh Bắc Kạn trao bằng công nhận là di tích lịch sử - văn hóa cổ truyền cấp tỉnh. Hiện nay, ngôi chùa vẫn thu hút được sự quan tâm của các du khách hành hương phương xa tìm đến. Chùa Thạch Long ở Bắc Kạn nên chủ yếu khí hậu quanh năm thoáng mát và dễ chịu, nên bạn có thể đi du lịch Bắc Kạn vào bất cứ thời điểm nào trong năm. Trong đó, thời điểm lý tưởng nhất để đến Bắc Kạn đó chính là vào mùa hè (từ tháng 5 - 7) bởi thời điểm này bạn sẽ chiêm ngưỡng được những cảnh sắc thiên nhiên tuyệt diệu nhất. Đến chùa Thạch Long vào khoảng tháng 5 đến tháng 7 bạn sẽ cảm nhận được sự khác nhau giữa 2 kiểu không khí khi ở trong hang và ngoài hang, đồng thời bạn đến vào thời điểm này cũng dễ dàng đi đến chùa Thạch Long. Ngôi chùa hiện vẫn còn lưu truyền nhiều câu chuyện cổ tâm linh, theo người dân ở Bắc Kạn, ngày xưa, người dân xã Vi Hương - Bạch Thông xuôi dòng sông Cầu rước tượng Phật Thích Ca về bằng thuyền thờ Hoa Sơn. Tượng Phật rất nặng nên khi ngược lên Vi Hương, đến vằng Bó Mi, xã Cao Kỳ thì thuyền cứ xoay tròn không đi được.Cho đến khi trời đã tối, người đi rước tượng phải căng lều ngủ lại Bó Mi để sang hôm sau tính tiếp. Sáng hôm sau khi tỉnh dậy, những người đi rước tượng hốt hoảng không thấy Đức Phật đâu, họ đành thắp một bó nhang to và khấn mong được biết Đức Phật đang ở đâu sẽ lập đền thờ cúng ở đấy. Chưa kịp dứt lời thì nhang khói bay sang bên kia bờ sông, luồn mãi vào trong hướng núi. Đi theo hướng khói ấy, họ đã phát hiện tượng Phật đã ngự tọa tại chỗ cao nhất trong một hang động tuyệt đẹp và rộng rãi. Cảm thấy sự huyền bí của Đức Phật, người dân xây dựng chùa ngay tại đây, và đặt tên là Thạch Long (Rồng Đá), ý muốn nói đây là ngôi chùa nằm trong hang đá thiêng. Chùa Thạch Long được xây dựng vào khoảng thế kỷ thứ XVII nên cũng đã phần nào chứng kiến được lịch sử hào hùng của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Chùa Thạch Long vào thời gian đó còn được bộ đội ta sử dụng làm kho cất vũ khí. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Bác Hồ đã đến thăm nơi này 3 lần. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ 1954, chùa đã trở thành trạm vận chuyển vũ khí và kho vũ khí bí mật của quân đội ta khi chiến đấu. Tới năm 1986, chùa Thạch Long mới được chính quyền sở tại và người dân địa phương phục hồi phần nào. Hiện nay chùa được xem là công trình tiêu biểu nhằm đáp ứng cho mong muốn sinh hoạt về văn hóa tinh thần người dân.
Thái Nguyên
Tháng 5 đến tháng 7
4670 lượt xem
Thác Đầu Đẳng là một trong những biểu tượng của du lịch Bắc Kạn, thu hút du khách bằng vẻ đẹp hùng vĩ nhưng cũng không kém phần nên thơ. Bắt nguồn từ dòng sông Năng, len qua những vạt rừng, vách đá, nơi đây quả thật là bức tranh nhiên ấn tượng, điểm đến lý tưởng cho các chuyến nghỉ mát cuối tuần. Thác Đầu Đẳng là con thác được hình thành bởi dòng sông Năng, thuộc Vườn Quốc gia Ba Bể, cách trung tâm thị trấn Chợ Rã, Bắc Kạn chừng 16 km. Dòng sông len hỏi dưới ngọn núi đá vôi Lũng Nam, tạo thành động Puông. Khi chảy đến bản Hua Tạng của xã Nam Mẫu thì bị chặn lại bởi hàng trăm tảng đá lớn nhỏ. Ở vị trí này, địa hình có độ dốc tầm 500 m, nhờ đó mà sinh ra thác nước Đầu Đẳng hùng vĩ và ấn tượng như ngày nay. Thác nước đổ mạnh xuống hẻm sông Năng, luồn qua các tảng đá vôi khổng lồ xếp chồng lên nhau. Thác được chia thành 3 đoạn, đoạn đầu tiên nước đổ từ trên cao xuống với lực mạnh và khá khúc khuỷu. Đoạn thác thứ 2 nước rẽ thành 2 dòng khác nhau, đoạn thứ 3 nước chảy êm đềm, mang vẻ đẹp mộng mơ, cuốn hút du khách. Không chỉ nổi tiếng nhờ cảnh sắc trời ban, thác Đầu Đẳng Bắc Kạn còn có ý nghĩa to lớn với nền nông nghiệp địa phương. Hàng năm, dòng nước của con thác này sẽ chuyên chở một lượng lớn phù sa từ thượng nguồn về làm cho cây cối, ruộng đồng thêm phần xanh tốt. Giờ đây, cùng với Hồ Ba Bể, thác nước Đầu Đẳng là điểm du lịch Bắc Kạn hấp dẫn mà du khách không nên bỏ qua. Thông thường, khi đi du lịch, du khách sẽ kết hợp tham quan Hồ Ba Bể và thác Đầu Đẳng. Do đó, bạn phải chọn những thời điểm phù hợp để khám phá được trọn vẹn cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp ở cả 2 địa điểm này. Mùa đông, thời tiết ở đây khá lạnh, mùa hè và mùa thu sẽ có những cơn mưa bất chợt. Chính vì vậy, nếu có cơ hội, du khách nên đến thác vào các tháng mùa xuân, cảnh đẹp mà thời tiết cũng khá thuận lợi. Nếu muốn chiêm ngưỡng sự hùng vĩ của con thác và cần ánh sáng đẹp để chụp hình thì buổi sáng là thời gian lý tưởng nhất để khởi hành. Thác Đầu Đẳng là một những danh thắng nổi tiếng nhất ở Bắc Kạn, có sức hút đặc biệt đối với du khách. Dòng nước từ trên cao đổ xuống, va chạm với đá tạo nên tiếng động vang dội, cách vài km vẫn có thể nghe rõ. Đến gần hơn với con thác, du khách sẽ được ngắm nhìn vẻ đẹp kỳ vĩ của thác nước và phong cảnh núi rừng. Từ dưới nhìn lên, nước tung bọt trắng xóa, tạo nên những hình ảnh lấp lánh, đẹp đến nao lòng. Vào những ngày đẹp trời, ánh nắng sẽ chiếu xuyên qua mặt nước làm cho bọt nước trông giống hệt những viên kim cương được cất dấu dưới đáy dòng thác. Cảnh tượng ấy khiến không ít du khách phải thốt lên kinh ngạc vì cái đẹp hoang dại pha chút huyền ảo, hiếm có vô cùng. Bao quanh con thác Đầu Đẳng là rừng núi bạt ngàn, xanh mướt, tạo nên bầu không khí trong lành, thoáng đãng. Cây cối mọc len lỏi giữa những vách núi hùng vĩ minh chứng cho sức sống mãnh liệt đến khó tin. Dòng nước tuôn xối không một phút giây ngơi nghỉ, đổ xuống dòng sông Năng, luồn qua cả những tảng đá vôi lớn xếp chồng thành thạch trận. Hai bên bờ là những hàng cây xanh tốt, toả bóng mát khắp cả một vùng.
Thái Nguyên
Tháng 4 đến tháng 10
5438 lượt xem
Động Puông là địa danh du lịch nổi tiếng tọa lạc tại Vườn Quốc gia Ba Bể, đây là một hang luồn karst thuộc núi đá vôi Lũng Nham trên sông Năng ở huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn. Động Puông nằm ở phía Bắc của vườn Quốc gia Ba Bể và cách trung tâm thị trấn Chợ Rã tầm 5km. Động Puông được tạo nên do sông Năng chảy xuyên qua dưới núi đá vôi Lũng Nham. Động Puông có chiều dài 300 m, trần động cao hơn 20m và rộng trung bình 30m cùng khung cảnh thiên nhiên kỳ bí. Đặt chân vào bên trong, du khách sẽ được chứng kiến nhiều vách đá dựng đứng cao chót vót cùng các thạch nhũ với hình thù, màu sắc vô cùng đặc biệt. Đây cũng là nơi sinh sống của 23 loài dơi với số lượng lên đến hàng vạn. Động Puông thuộc vườn Quốc gia Ba Bể với nhiều dãy núi đá và các cánh rừng bao bọc xung quanh, lại có thêm hồ Ba Bể đóng vai trò như một chiếc ‘điều hoà không khí’ nên đã giúp nơi đây sở hữu thời tiết mát mẻ quanh năm. Nếu định du lịch tại vườn Quốc gia Ba Bể và ghé động Puông thì du khách nên đến vào mùa hè (tháng 5 đến tháng 9), lúc này bạn sẽ cảm nhận được tốt nhất sự thanh mát tại đây. Ngoài ra từ mùng 9 đến 11 tháng Giêng âm lịch, tại Ba Bể còn diễn ra lễ hội Lồng Tồng của dân tộc Tày nữa, nếu có dịp thì nhớ phải sắp xếp tham gian nha. Khác với nhiều hang động, để du lịch động Puông du khách buộc phải đi bằng thuyền vào bên trong, lý do là động Puông được hình thành do sông Năng chảy xuyên qua dưới núi đá vôi Lũng Nham. Khi di chuyển gần đến gần động, bạn sẽ thấy ngay cửa hang không quá lớn, tuy nhiên lại ngập tràn sự hoang sơ. Được khám phá hang động trên những chiếc thuyền độc mộc, lênh đênh từ từ di chuyển vào cửa động chắc chắn sẽ rất thú vị. Vào bên trong động Puông, du khách sẽ lập tức được chứng kiến sự kỳ vĩ của những dải thạch nhũ đa dạng hình thù rũ từ trên cao xuống, cùng với đó là hệ thống những vách đá cao lớn hoang sơ. Không gian bên trong cực kỳ rộng rãi, kết hợp với làn nước bên dưới tạo nên cảm giác rất mát mẻ. Nếu bạn chưa biết thì động Puông có chiều dài lên đến 300m, vòm hang cao hơn 20m. Khi càng di chuyển vào sâu thì không gian động Puông sẽ càng tối lại, ánh sáng yếu dần đi. Lúc này bạn sẽ cần đến một chiếc đèn pin để nhìn rõ khung cảnh xung quanh mình. Từ đây du khách sẽ thấy rõ hơn nhiều khối thạch nhủ đổ dọc xuống như thác, nhiều khối đá xám xịt đa dạng hình thù xếp chồng lên nhau rất kỳ lạ. Chưa hết, trong lòng động Puông còn có một bãi bồi khá bằng phẳng, thuyền có thể đến và neo lại giúp du khách đi vào bên trong động dễ dàng. Động Puông gồm 2 động liền nhau là Động Trên và Động Dưới hay còn có tên khác là Puông Tềnh và Puông Tẩu. Đường đi tại đây rất dễ di chuyển, cũng nhờ vậy mà rất nhiều bức ăn check-in “nghìn Like” đã ra đời tại đây. Hiện nay, động Puông là địa danh du lịch được rất nhiều du khách lựa chọn ghé thăm. Đến đây ngoài động Puông, du khách còn có thể lựa chọn tham quan thêm nhiều địa danh khác tại vườn quốc gia Ba Bể như là hồ Ba Bể, thác Đầu Đẳng, động Hua Mạ, đền An Mã, thác Bạc Bản Vàng,...
Thái Nguyên
Tháng 5 đến tháng 9
5416 lượt xem
Động Nàng Tiên toạ lạc trong núi Phja Trạng thuộc tại xã Lương Hạ ( huyện Na Ri). Nằm cách trung tâm tỉnh Bắc Kạn hơn 50km. Nhìn từ phía xa, Động Nàng Tiên tựa như một thiếu nữ đang ngủ say. Động Nàng Tiên nằm sâu trong lòng núi tầm 60m, cửa động rộng 6m và cao 6m, hang động có chiều cao khoảng 30-50m. Xung quanh hang động được bao trùm bởi cây cối nên khi tiến từ ngoài vào hang động du khách sẽ cảm nhận được một bầu không khí mát mẻ, dễ chịu và hương thơm thanh mát, nhẹ nhàng của cây cỏ. Khi tiến vào động, du khách sẽ phải ngỡ ngàng bởi vẻ đẹp ảo diệu do những thạch nhũ và cột đá tạo ra. Động Nàng Tiên được biết đến nhờ vẻ đẹp hoang sơ được thiên nhiên ban tặng và những câu chuyện truyền thuyết huyền bí về 7 nàng tiên. Những yếu tố đó đã tô vẽ nên một hang động huyền ảo, thần bí nổi tiếng tại Việt Nam như bây giờ. Bạn có thể ghé thăm Động Nàng Tiên vào bất kỳ thời điểm nào trong năm. Vì xung quanh hang động là cây cối nên bầu không khí ở đây luôn mát mẻ dù là những ngày có nắng gắt. Nhưng hãy lưu ý nếu bạn muốn ghé thăm Động Nàng Tiên từ tháng 5 đến tháng 10 bạn phải chú ý theo dõi dự báo thời tiết, vì trong những tháng này tỉnh Bắc Kạn thường có mưa, sẽ gây ảnh hưởng đến hành trình tham quan Động Nàng Tiên của bạn. Khi tiến vào cửa hang động, bạn sẽ như đang tiến vào một thế giới khác hoàn toàn. Bóng tối bên trong hang động đối ngược với ánh sáng bên ngoài sẽ làm các giác quan của bạn trở nên nhạy cảm hơn. Bạn sẽ cảm nhận được rõ ràng tiếng róc rách của dòng nước chảy, cảnh vật mờ ảo do hơi nước mang lại, bầu không khí dịu nhẹ… Lối vào trong của Động Nàng Tiên được bao bọc bởi những phiến đá mang cảm giác mát lạnh. Nhìn lên trên trần hang động, bạn sẽ thấy được những thạch nhũ hình thành cách đây hàng triệu năm về trước. Có những thạch nhũ đã xuất hiện từ rất lâu, như những tháp đá chảy ngược từ trên trần hang động chạm đến dưới lòng đất tạo thành những cột đá vững chắc làm cho hang động nơi đây càng thêm phần kiên cố. Đi sâu vào bên trong là không gian trung tâm rộng lớn của Động Nàng Tiên. Được bao quanh bởi các hang động nhỏ bé khác làm cho khung cảnh nơi đây càng thêm lung linh, huyền ảo. Các thạch nhũ, phiến đá với hình dáng lạ mắt được hình thành từ lâu đời trên trần hang động sẽ làm bạn liên tưởng đến những đoá hoa tuyệt đẹp. Mọi ngóc ngách trong Động Nàng Tiên đều gắn liền với một câu chuyện mang đầy nét huyền bí và ảo mộng. Có thể nói đến như “Ao tiên”, theo truyền thuyết lưu truyền thì đó là nơi mà các tiên nữ dùng để tắm và nô đùa hằng ngày. Đi qua “ Ao tiên” bạn sẽ nhìn thấy những bậc thang trũng đọng nước tuỳ vào thời tiết mà lượng nước đọng bên trong nhiều hay ít, khung cảnh đó sẽ làm bạn cảm thấy như đang lạc vào các thửa ruộng bậc thang của người dân miền núi cao. Đó có thể là lý do nơi đây được gọi là “Ruộng tiên”, nơi mà các nàng tiên sẽ trồng trọt và thu hoạch vụ mùa. Tiên cảnh huyền ảo nhất có lẽ phải kể đến “Buồng tiên”, nơi đây được tạo nên bởi vô số nhũ thạch có đủ hình dáng và màu sắc rực rỡ khác nhau và đặc biệt là chỉ có một lối đi. Nhìn thấy tất cả khung cảnh đó bạn sẽ lập tức liên tưởng tới nơi đây là phòng ngủ của các tiên nữ chốn bồng lại tiên cảnh. Vẻ đẹp mờ ảo này còn được tìm thấy ở những khối thạch nhũ lấp lánh đang rũ xuống mặt đất trông giống những mái tóc óng ả, mượt mà của các nàng tiên xinh đẹp.
Thái Nguyên
Tháng 5 đến tháng 10
5804 lượt xem
Vườn quốc gia Ba Bể nằm cách thủ đô Hà Nội hơn 200 km, là địa điểm du lịch sinh thái lý tưởng cho những ai yêu thiên nhiên và thích khám phá. Xứng danh “bảo vật của núi rừng Bắc Kạn”, vườn Ba Bể luôn khiến du khách phải trầm trồ, mê mẩn mỗi khi có dịp chiêm ngưỡng. Đến đây, bạn sẽ được đắm mình trong cảnh sắc thiên nhiên hoang sơ, ngắm nhìn hệ sinh thái động thực vật đa dạng hay thú vị hơn là thưởng thức những món ngon mang phong vị địa phương. Vườn Quốc gia Ba Bể trực thuộc huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn, nằm trải dài trên 5 xã Quảng Khê, Khang Ninh, Cao Trĩ, Cao Thương và Nam Mẫu. Được mệnh danh là “bảo vật của núi rừng Bắc Kạn”, nơi đây nổi tiếng với nhiều danh thắng đẹp. Trong đó, nổi bật hơn cả vẫn là Hồ Ba Bể - một trong hồ nước ngọt tự nhiên lớn nhất Việt Nam và thế giới. Vườn Ba Bể sở hữu hệ sinh thái đa dạng với hơn 1.000 loài thực vật cùng 80 loài thú quý hiếm. Bên cạnh sự đa dạng về mặt sinh học, khu vườn Quốc gia này còn thu hút du khách bằng vẻ đẹp mộng mơ hiếm nơi nào có được. Hiện nay, ở Ba Bể đang phát triển rất nhiều loại hình du lịch, hứa hẹn sẽ mang đến cho du khách những trải nghiệm khó quên. Vườn Ba Bể được bao bọc bởi những cánh rừng nguyên sinh và dãy núi đá, quanh năm mát mẻ. Do đó, thời điểm lý tưởng nhất để bạn đi du lịch vườn Quốc gia Ba Bể là vào các tháng mùa hè. Còn nếu bạn muốn tận hưởng không khí lễ hội náo nhiệt và tham gia các trò chơi dân gian thì có thể đi vào tháng Giêng, tầm từ mùng 9 – mùng 10 Tết. Là danh thắng nổi tiếng thế giới, vườn Ba Bể vừa là khu bảo tồn sinh quyển lớn vừa là Ramsar ngập nước trên núi đá vôi. Đến đây, du khách sẽ được chiêm ngưỡng hệ thống hang động kỳ vĩ, hệ động thực vật đa dạng và quý hiếm. Nếu có dịp ghé thăm khu vườn Quốc gia này, du khách đừng quên list địa điểm bao gồm: Động Puông, Đảo Bà Goá, Thác Đầu Đẳng, Ao Tiên, Hồ Ba Bể, Động Hua Mạ, Hang Thẳm Phầy.
Thái Nguyên
Từ tháng 1 đến tháng 12
5452 lượt xem
Hồ Ba Bể là khu du lịch sinh thái nổi tiếng của vùng Đông Bắc Việt Nam với nhiều phong cảnh kỳ thú và đa dạng về sinh học. Đến với Hồ Ba Bể, du khách sẽ được đắm mình trong cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp, được thưởng thức những món ăn truyền thống, được khám phá bản sắc văn hóa đặc sắc của đồng bào dân tộc nơi đây… Hồ Ba Bể cách thành phố Bắc Kạn 70km về phía Tây Bắc, nằm ở trung tâm Vườn Quốc gia Ba Bể, thuộc xã Nam Mẫu, huyện Ba Bể; phía Đông Bắc giáp xã Cao Trĩ và Khang Ninh; phía Đông Nam giáp xã Nam Cường và xã Đà Vị, huyện Na Hang, tỉnh Tuyên Quang. Đây là một trong những hồ nước ngọt tự nhiên lớn nhất Việt Nam. Năm 1995, Hồ Ba Bể đã được Hội nghị Hồ nước ngọt thế giới tổ chức tại Mỹ công nhận là một trong 20 hồ nước ngọt đặc biệt của thế giới cần được bảo vệ. Hồ được hình thành cách đây khoảng 200 triệu năm về trước do một biến động địa chất lớn, làm sụt lún các dãy núi đá vôi tạo thành, được bao bọc bởi các dãy núi đá vôi xen lẫn sa thạch cổ và các cánh rừng nguyên sinh. Địa chất và địa mạo của khu vực Hồ hết sức phức tạp dẫn đến sự tạo thành các phong cảnh đẹp ngoạn mục với cấu trúc địa chất và đất đai có một không hai, điều đó kéo theo sự hình thành của nhiều hệ sinh thái khác nhau. Qua khảo sát cho thấy sự pha trộn phức tạp của các hệ sinh thái Các-xtơ (hiện tượng phong hóa đặc trưng của những miền núi đá vôi bị nước chảy xói mòn) điển hình và hệ sinh thái phi Các-xtơ trong sự hài hòa với các hệ sinh thái sông hồ. Sự đa dạng về địa chất và sinh học như vậy khó có thể bắt gặp ở các nơi khác trên thế giới. Hồ Ba Bể nằm ở cánh cung sông Gâm, địa hình gồ ghề và cắt xé bởi các ngọn núi cao từ 1.400m đến 1.600m và xen kẽ là các thung lũng. Hồ được nước của hai con sông chảy vào là sông Chợ Lèng và sông Nam Cường rồi chảy ra sông Năng, đổ xuống thác Đầu Đẳng. Hồ Ba Bể được hợp thành từ 03 hồ có tên là Pé Lèng, Pé Lù và Pé Lầm. Hồ có chiều dài hơn 08km, nơi rộng nhất là 02km, diện tích mặt nước khoảng 500ha, độ sâu trung bình 20m, có những nơi sâu đến 35m, có nhiều loài thủy vật và cá nước ngọt sinh sống, trong đó có nhiều loài đặc biệt quý hiếm được ghi vào sách đỏ Việt Nam như cá Chép Kình, cá Rầm Xanh, cá Chiên… Nước Hồ Ba Bể trong xanh, quanh năm mát mẻ, toàn cảnh hồ như một bức tranh thủy mặc, in đậm bóng núi, lồng lộng mây trời, nhìn như một chiếc gương khổng lồ phản chiếu những dãi núi uốn lượn vùng cung ẩn hiện trên mặt nước. Trên mặt Hồ có nhiều đảo nhỏ xinh đẹp như Đảo Bà Góa, đảo An Mạ… Xung quanh Hồ là các bản nhà sàn của người Tày. Sau một ngày dạo chơi trên Hồ, du khách có thể dừng chân ở những nơi này để cùng cảm nhận cuộc sống ấm áp, đậm tình mến khách của bà con dân bản. Khi lựa chọn nghỉ ngơi trên những ngôi nhà sàn rộng rãi và thoáng mát, du khách sẽ được thưởng thức những món ăn truyền thống của người dân miền núi, nhấp chén rượu thơm mùi ngô nếp, hòa mình vào những khúc đàn tính, điệu then, câu sli, slượn, được nghe sự tích Hồ Ba Bể với truyền thuyết về Đảo Bà Góa, thuyền độc mộc… Hồ Ba Bể khoác trên mình sự hùng vĩ của núi rừng, và một nét duyên dáng, mềm mại với làn nước hòa quyện cùng trời đất, núi rừng bao quanh, lúc xanh rêu, lúc xanh lam, khi lại lẫn sắc vàng của bóng cây, khi lại sắc trắng của những đám mây… Nếu một lúc nào đó bạn cần chút bình yên, cần sự tĩnh lặng thì hãy tới Ba Bể. Nơi đó sẽ không làm bạn thất vọng. Ba Bể như một viên ngọc bích giữa núi đồi Đông Bắc, thật trong lành, tinh khiết và thanh tao.
Thái Nguyên
Từ tháng 1 đến tháng 12
5591 lượt xem