Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch Travelviet
Tải ứng dụng Travelviet
Nếu bạn muốn tìm hiểu về những di tích lịch sử tại Khánh Hòa, hãy cùng 63S Travel khám phá danh sách 20+ di tích nổi bật tại thành phố này. Những di sản văn hóa này đã tồn tại qua hàng trăm năm, chứng kiến bao thăng trầm của lịch sử dân tộc. Khi đến thăm, bạn sẽ có cơ hội sâu sắc hơn để hiểu về quá khứ hào hùng của Việt Nam.
Dưới đây là list các di tích lịch sử tại Khánh Hòa nổi tiếng và hấp dẫn du khách đến khám phá. Cùng lưu lại để có một chuyến du lịch thật thú vị và đáng nhớ tại thành phố biển xinh đẹp này.
Am Chúa tọa lạc trên ngọn đồi Đại An, là nơi thờ Thánh Mẫu Thiên Y A Na, vị thần bảo trợ và truyền dạy cho dân chúng cách làm ăn sinh sống. Tín ngưỡng thờ Thiên Y A Na có nguồn gốc từ tục thờ Bà Ponagar của người Chăm, sau đó được người Việt chuyển thể thành truyền thuyết về Thiên Y A Na giáng trần tại núi Đại An và hiển thánh ở Tháp Bà Nha Trang. Hiện nay, câu nói "Am Chúa hiển nhân, Tháp Bà hiển thánh" vẫn được lưu truyền ở Khánh Hòa, khẳng định mối liên kết thiêng liêng giữa hai di tích này.
Từ Am Chúa, bạn sẽ cảm nhận được một sự thoát tục, lòng biết ơn tổ tiên đã chọn nơi này để thờ phụng Thánh Mẫu Thiên Y A Na, người được kính trọng khắp Nam Trung Bộ và Tây Nguyên. Kiến trúc của Am Chúa mang nhiều nét tương đồng với các đình làng ở Khánh Hòa, thể hiện đặc điểm tín ngưỡng của người dân nơi đây.
Am Chúa Nha Trang - Di tích nổi tiếng linh thiêng ở Việt Nam
Các công trình tại Am Chúa bao gồm Tam quan, mộ ông bà Tiều, bia ký, miếu Sơn Lâm, miếu Ngũ Hành và chánh điện, mỗi nơi đều mang một giá trị tâm linh và văn hóa đặc biệt. Trước khi vào cổng Đại An Tam Quan Môn, bạn sẽ phải vượt qua hơn 100 bậc tam cấp lát đá hoa cương để thể hiện lòng thành. Qua cổng, đôi rồng đá uy nghi, được chạm khắc tinh xảo, sẽ chào đón bạn. Cấu trúc của Am Chúa gồm nơi bái đường và chính điện, với các hình tứ linh "Long, Lân, Quy, Phụng" được đắp nổi. Đặc biệt, gian bái đường còn có đôi câu đối bằng chữ Hán kể về sự tích Thánh Mẫu.
Am Chúa là một điểm du lịch tâm linh nổi tiếng ở Nha Trang, với nhiều lễ hội đặc sắc thu hút đông đảo du khách. Đây là nơi lưu giữ những nét văn hóa độc đáo trong đời sống tâm linh của người Khánh Hoà. Nếu có dịp đến Nha Trang, Am Chúa chắc chắn là điểm tham quan không thể bỏ qua.
Chùa Thanh Triều (hay còn gọi là Thanh Sơn) tọa lạc tại làng Thủy Triều, xã Cam Hải Đông, huyện Cam Lâm. Mặc dù không rõ chùa được xây dựng từ khi nào nhưng nơi đây đã trở thành trung tâm tín ngưỡng quan trọng của Phật tử Khánh Hòa.
Choáng ngợp với lối kiến trúc tinh xảo của chùa Thanh Sơn - Khánh Hòa
Ngôi chùa không chỉ là điểm đến linh thiêng mà còn nổi tiếng với lòng nhân ái, là nơi cưu mang trẻ mồ côi và người già neo đơn, không nơi nương tựa. Sự thiện tâm và từ bi của chùa đã làm nên một địa chỉ đáng kính, mang lại hy vọng và sự an ủi cho nhiều mảnh đời bất hạnh.
Cụm di tích lưu niệm nhà bác học Alexandre Yersin bao gồm bốn địa điểm quan trọng:
Thư viện Yersin tại Viện Pasteur, phường Lộc Thọ, thành phố Nha Trang
Chùa Linh Sơn tại xã Suối Cát, huyện Cam Lâm
Mộ Yersin tại Suối Dầu, nay thuộc địa phận xã Suối Cát, huyện Cam Lâm
Nhà làm việc của ông tại Hòn Bà, cách Nha Trang 47km thuộc huyện Cam Lâm.
Bác sĩ Alexandre Yersin đã dành hơn nửa thế kỷ sống và làm việc tại Viện Pasteur Nha Trang, để lại 55 công trình nghiên cứu có giá trị không chỉ cho tỉnh Khánh Hòa mà còn cho cả nhân loại. Ở Khánh Hòa, có ba công trình kỷ niệm công lao của ông, bao gồm thư viện nơi lưu trữ các tư liệu nghiên cứu quan trọng tại Nha Trang và hai công trình khác tại huyện Diên Khánh. Để vinh danh ông, một con đường tại Nha Trang cũng mang tên Yersin. Nếu bạn đam mê y khoa, đây chắc chắn là điểm đến không thể bỏ qua.
Thăm khu tưởng niệm bác sĩ Alexandre Yersin
Khu tưởng niệm Bác sĩ Alexandre Yersin tại xã Suối Cát, huyện Cam Lâm, tỉnh Khánh Hòa là nơi ghi dấu ấn cuộc đời và sự nghiệp y học vĩ đại của ông. Được xây dựng vào năm 1985 trên khu đất rộng hơn 20 ha, khu tưởng niệm lưu giữ nhiều kỷ vật gắn liền với cuộc đời bác sĩ Yersin.
Di tích này được công nhận là Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia vào năm 1990. Đây không chỉ là điểm đến du lịch hấp dẫn mà còn là nơi để du khách tìm hiểu về cuộc đời và sự nghiệp y học vĩ đại của bác sĩ Yersin, đồng thời tri ân những đóng góp to lớn của ông cho nền y học Việt Nam và thế giới.
Dinh Khải Huyền, hay còn được biết đến với biệt danh Biệt thự Rồng hay Dinh thự Rắn, là một tuyệt phẩm kiến trúc độc đáo tại thành phố Nha Trang, được thiết kế hoàn toàn theo những hình ảnh và sự kiện trong cuốn Sách Khải Huyền, có niên đại cách đây gần 2000 năm. Với màu sắc chủ đạo là vàng trắng, Dinh Khải Huyền mang đến cho du khách một cảm giác tôn kính và huyền bí từ ngay khi bước vào.
Dinh Khải Huyền Nha Trang - Kiến trúc độc đáo nơi phố biển
Tọa lạc trên một địa điểm uy nghiêm, Dinh Khải Huyền không chỉ là một công trình kiến trúc mà còn là một biểu tượng của sự công phu và tỉ mỉ. Hàng trăm chi tiết thiết kế tinh xảo như rắn hổ mang, hình ảnh rồng được trang trí khắp nơi từ các đầu cột, ban công cho đến chiếc cầu thang phía sau ngôi nhà, tất cả đều tái hiện lại những linh vật linh thiêng từ Sách Khải Huyền.
Tầng 2 của Dinh Khải Huyền được chia thành khu vực khách sạn, gồm 9 phòng đại diện cho các hành tinh của Hệ Mặt Trời, mỗi phòng được thiết kế độc đáo và tinh tế. Từ Thiên Hoàng Cung đến các bức tranh và trang thiết bị bên trong, mỗi chi tiết đều được bày tỏ sự kính trọng đối với những sự kiện và dự báo trong Sách Khải Huyền.
Bên cạnh nhịp sống ồn ào và náo nhiệt của một phố biển sôi động, du khách có thêm cơ hội thưởng thức một không gian hoàn toàn khác biệt - Làng Cổ Phú Vinh. Với hàng loạt ngôi nhà cổ, làng này mang đến cho du khách những trải nghiệm đầy cảm xúc về kiến trúc miền Trung xưa và hấp dẫn đặc biệt là các du khách quốc tế.
Xuyên không về quá khứ” với ngôi làng cổ Phú Vinh đượm màu thời gian
Khi bước chân vào Làng Cổ Phú Vinh, du khách như lạc vào một thế giới khác, những ký ức xưa cách đây hơn 200 năm hiện lên rất rõ nét. Đường làng xinh đẹp được hai hàng cây cao rợp bóng mát, bên cạnh đó là những cánh đồng lúa xanh mướt kéo dài tận chân trời. Mỗi khi mùa lúa chín, cảnh đồng lúa vàng hoe chói lọi, mùa lúa non thì thắm thiết, tiếng chim hót líu lo rộn ràng, mang đến cho du khách cảm giác bình yên và thư thái như trở về tuổi thơ.
Ở giữa sự ồn ào của thành phố hiện đại, Làng Cổ Phú Vinh vẫn giữ được nét đẹp nguyên thủy của làng quê với những ngôi nhà cổ mang mái ngói âm dương, sàn nhà lát gạch gốm, và những cột nhà gỗ lim đen bóng, trang trí tinh tế với những bức chạm khắc tỉ mỉ. Các bình gốm lớn trang trí trong nhà không chỉ tăng thêm vẻ đẹp sang trọng mà còn phản ánh sự giàu có và sự phong phú về nghệ thuật trang trí của ngôi nhà xưa.
>> Tham khảo thêm: BXH 10 bãi biển đẹp nhất của Việt Nam theo truyền thông nước ngoài giới thiệu
Văn Miếu Diên Khánh (hay còn được biết đến là Văn Miếu Phước Điền) là một công trình kiến trúc với mục đích thờ Đức Khổng Tử - nhà sáng lập đạo Nho tại Trung Quốc và vinh danh những người con xuất sắc của địa phương đã đạt được danh hiệu. Được lập dưới sự chỉ dẫn của vua Gia Long từ năm 1803, Văn Miếu nằm tại xã Phú Lộc, huyện Hòa Châu, ngày nay thuộc khóm Phú Lộc Tây, thị trấn Diên Khánh. Đây là một trong những văn miếu cấp tỉnh lâu đời và ít còn lại ở miền Trung, đóng vai trò quan trọng trong việc giữ gìn và phát triển di sản văn hóa lịch sử của địa phương.
Văn Miếu Diên Khánh - Văn Thánh thờ Khổng Tử đầu tiên tại Khánh Hòa
Khu Văn Miếu đã trải qua nhiều lần tu bổ từ năm 1892, 1904, 1941 cho đến 1959 nhưng vẫn giữ được nét kiến trúc truyền thống. Đặc biệt, hai tấm bia đá từ thời vua Tự Đức (1858) vẫn được bảo tồn tại đây, là điểm sáng giúp ta hiểu rõ hơn về lịch sử, văn hóa và đời sống của người dân Khánh Hòa. Bài minh tại Bái Đường còn ghi lại danh sách các học trò và nhà giáo địa phương từ triều Nguyễn đến thời Tự Đức, thêm phần sắc nét văn chương và học vấn của địa phương.
Được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia từ năm 1998, Văn Miếu Diên Khánh không chỉ là nơi thờ cúng mà còn là điểm đến hấp dẫn du khách, nơi họ có cơ hội khám phá và tìm hiểu về văn hóa, lịch sử của Khánh Hòa qua những công trình kiến trúc vừa cổ kính vừa vững chắc.
Hoàng thành Thăng Long, kinh thành Huế và thành Diên Khánh là 3 ngôi thành cổ còn tương đối nguyên vẹn so với kiến trúc ban đầu ở nước ta. Trong đó, Thành Diên Khánh từng có vị trí chiến lược quan trọng ở Nam Trung Bộ. Từ thời chúa Nguyễn, vùng đất Diên Khánh đã từng là phủ và ngày nay là huyện thuộc tỉnh Khánh Hòa, cách trung tâm Nha Trang 10km về phía Tây và Cam Ranh 35km về phía Bắc.
Khu di tích thành cổ Diên Khánh là bức tranh sống động của những biến cố lịch sử quan trọng của dân tộc Việt Nam. Ban đầu là kinh đô của vương quốc Chăm Pa, sau đó trở thành trung tâm chính trị và quân sự của triều Nguyễn trong suốt 150 năm. Thành được xây dựng vào thế kỷ 18 dưới thời vua Gia Long, theo mô hình kiến trúc Vauban của Pháp, với hình dạng hình lục giác, chu vi hơn 2.500m, tường thành cao 3,5m và rộng 6m. Bên trong thành có nhiều công trình quan trọng như dinh quan, kho tàng, nhà lao, là những bảo tàng văn hoá lưu giữ nhiều giai phẩm lịch sử quý báu.
Thành cổ Diên Khánh - Di tích lịch sử triều Nguyễn thời xưa còn lưu lại
Thành cổ Diên Khánh đã chứng kiến nhiều cuộc chiến tranh ác liệt và là nơi ghi nhận sự hy sinh anh dũng của quân và dân ta trong cuộc bảo vệ Tổ quốc. Được công nhận là Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia từ năm 1988, Diên Khánh không chỉ là minh chứng cho lịch sử hào hùng của dân tộc mà còn là điểm đến du lịch hấp dẫn thu hút du khách trong và ngoài nước, nơi họ có cơ hội khám phá và tìm hiểu vẻ đẹp và giá trị văn hóa của vùng đất này.
Chùa Long Sơn (còn được biết đến với tên gọi chùa Phật Trắng) là một trong những di tích lịch sử nổi tiếng tại Nha Trang. Được xây dựng vào đầu thế kỷ 19, chùa Long Sơn đã từng là trụ sở Phật giáo tỉnh Khánh Hòa và hiện nay là ngôi chùa lớn nhất trong thành phố này. Với vẻ linh thiêng và cảnh quan độc đáo, chùa Long Sơn là điểm đến không thể bỏ qua khi du lịch Nha Trang.
Ngay khi bước vào chùa Long Sơn, du khách sẽ ngỡ ngàng trước vẻ đẹp của tượng Phật Thích Ca Mâu Ni, được đúc từ đồng nặng tới 700kg, và tượng Quan Thế Âm Bồ Tát với nghìn mắt nghìn tay. Tượng Phật nằm dài 7m, cao 5m trên đỉnh đồi chùa Long Sơn, cùng với tháp chuông đồng nặng 1,5 tấn và tượng Kim Thân Phật Tổ cao 14m, là những điểm nhấn ấn tượng không thể không nhắc đến.
Choáng ngợp với vẻ đẹp của bức tượng Phật trắng lớn nhất tại Việt
Dù đã trải qua nhiều lần tu sửa, chùa Long Sơn vẫn giữ được nét uy nghi và tôn nghiêm. Đến thăm chùa Long Sơn, du khách cần lưu ý mặc quần áo lịch sự, kín đáo và tôn trọng không gian linh thiêng của nơi này.
Chùa còn sở hữu nhiều pho tượng Phật, Bồ Tát và các vị La Hán được điêu khắc tinh xảo, mang đậm giá trị nghệ thuật. Với tổng diện tích chánh điện lên đến 1670m2, được thiết kế thoáng mát và tôn nghiêm, chùa Long Sơn là nơi hành lễ và tổ chức các nghi lễ trọng đại vào các ngày lễ âm lịch hàng tháng.
Nhà thờ đá Nha Trang (còn được gọi là nhà thờ Núi) là một trong những di tích lịch sử đặc biệt không thể bỏ qua tại thành phố biển Nha Trang. Nổi bật với lối kiến trúc Gothic đậm chất Pháp, nhà thờ đã từ lâu trở thành biểu tượng văn hóa và tôn giáo của địa phương.
Được xây dựng từ thời kỳ Pháp thuộc, nhà thờ đá Nha Trang vẫn giữ nguyên được vẻ đẹp kiến trúc sang trọng và tinh tế của những ngày đầu khai sơn. Từ đường Thái Nguyên, du khách phải vượt qua 53 bậc tam cấp để tiếp cận với công trình này, hay từ ngã 6, lựa chọn đường lát đá chẻ dẫn lên sân nhà thờ cao khoảng 8m so với mặt đường.
Chiêm ngưỡng tuyệt tác nhà thờ đá Nha Trang
Tọa lạc trên đỉnh đồi Hoàng Lân, nhà thờ đá Nha Trang có bố cục chắc khỏe với các khối đá lập thể, từ đó vươn lên cao tới bầu trời xanh. Điểm cao nhất của nhà thờ là tháp chuông, nơi chứa Thánh Giá, với chiều cao lên đến 38m tính từ mặt đường. Lối kiến trúc này không chỉ thể hiện tính thanh cao mà còn tôn vinh sự cứng cáp và vững chãi của đức tin Công giáo.
Phần trong nhà thờ rộng rãi và thoáng đãng, được chia thành khu vực cung thánh và khu phía sau cung thánh, mang đến không gian trang nghiêm và thanh tịnh. Với những ô cửa kính hình hoa hồng theo phong cách Gothic, nhà thờ đá Nha Trang tự hào là một điểm đến tuyệt vời không chỉ để tín đồ Công giáo cầu nguyện mà còn là nơi lý tưởng cho các bạn trẻ chụp hình cưới hay sống ảo.
Ngoài những đặc điểm kiến trúc nổi bật, nhà thờ còn được trang bị hai chuông đồng nặng nề, treo trên tháp chuông và được chế tạo bởi hãng Bourdon Carillond của Pháp. Đồng hồ to trên tháp cũng là một chi tiết không thể bỏ qua, là cột mốc thời gian quan trọng không chỉ cho cộng đồng địa phương mà còn cho du khách từ khắp nơi.
Với hơn 90 năm lịch sử, nhà thờ đá Nha Trang đã trở thành một biểu tượng kiến trúc và tôn giáo độc đáo, là điểm đến không thể bỏ qua đối với những ai yêu thích và tôn vinh giá trị văn hóa của Việt Nam.
Đền thờ Trần Quý Cáp tại Diên Khánh, Khánh Hòa, là một di tích lịch sử văn hóa mang đậm giá trị tinh thần và ý nghĩa quốc gia. Được xây dựng từ năm 1970, đền thờ nằm bên cầu Sông Cạn, hay còn được biết đến với tên Gò Chết Chém, khẳng định vai trò quan trọng của nhà chí sĩ Trần Quý Cáp trong phong trào Duy Tân.
Với diện tích chỉ khoảng 12m2, đền thờ Trần Quý Cáp có cấu trúc thấp nhỏ, được xây theo lối kiến trúc cổ lầu với bốn mái kích thước bằng nhau. Phía trước đền có hai cột đá với câu đối thể hiện lòng kính phục sâu sắc đối với các bậc tiền nhân. Ngoài việc thờ Trần Quý Cáp, đền còn có bài vị thờ Bình Tây đại tướng Trịnh Phong và Tham tán quân vụ Nguyễn Khanh, nên còn được gọi là Trung Liệt điện.
Ghé thăm đền thờ Trần Quý Cáp nổi tiếng ở Khánh Hòa
Với sự di dời vào năm 2003 để làm thuận tiện cho việc xây dựng lại cầu Trần Quý Cáp và kỷ niệm 350 năm thành lập tỉnh Khánh Hòa, đền thờ vẫn giữ nguyên vẻ đẹp và tính chất lịch sử. Lối kiến trúc hiện đại và tân thời của đền thể hiện sự kết hợp khéo léo giữa truyền thống và hiện đại.
Bên trong đền, mỗi góc mái đều được trang trí hoa văn, hoạ tiết rồng chầu đắp nổi theo lối tân thời. Phía trước đền là một cột cờ cao 3,5m đặt trên bồn nước hình lục giác, hai bên có "Lư vọng liệu" cao tới 1,5m, là nơi thường đốt nhang trong các ngày lễ tế.
Đến đền thờ Trần Quý Cáp, du khách không chỉ cảm nhận được vẻ đẹp kiến trúc độc đáo mà còn được hòa mình vào không khí trang nghiêm, tưởng niệm những anh hùng, những người đã hi sinh vì độc lập tự do dân tộc. Đây là nơi thể hiện lòng biết ơn sâu sắc của cộng đồng địa phương đối với những gương mặt anh hùng đã từng hy sinh cho quê hương.
Đền thờ Trần Quý Cáp đã được công nhận là Di tích Lịch sử Văn hóa cấp Quốc gia từ năm 1991, là niềm tự hào và biểu tượng văn hóa không thể thiếu trong lòng người dân Diên Khánh - Khánh Hòa, gắn bó với lịch sử đấu tranh, xây dựng và bảo vệ đất nước.
>> Hãy đọc: 5 lý do bạn nên trải nghiệm Nha Trang - Viên ngọc ven biển Việt Nam
Viện Hải Dương Học là một trung tâm nghiên cứu chuyên sâu về hải dương học, tài nguyên và môi trường biển, công nghệ nuôi trồng, nguồn lợi động vật và thực vật biển, vật lý hải dương, khí tượng - thủy văn và động lực biển. Nơi đây không chỉ là điểm đến của các nhà khoa học mà còn là điểm dừng chân hấp dẫn cho du khách muốn khám phá và mở rộng kiến thức về không gian biển và các tài nguyên môi trường biển của Việt Nam.
Được khánh thành từ năm 1923 dưới thời thực dân Pháp, với diện tích rộng lớn lên đến 20ha và biểu tượng của nó là Cá Mao Tiên - biểu tượng của Đại Dương. Từ năm 1952, viện đã được quản lý bởi người Việt Nam và thuộc hệ thống chuyên ngành của Trung tâm Khoa học Tự nhiên và Công nghệ quốc gia Việt Nam.
Vị trí của Viện Hải Dương Học tại Nha Trang được lựa chọn với lý do chính là bờ biển ở đây thuộc loại sâu nhất Việt Nam và gần với các tuyến hải vận quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi nhất để nuôi dưỡng, bảo quản và nghiên cứu môi trường sống của sinh vật biển. Vùng biển Nha Trang cũng nổi tiếng với sự đa dạng sinh học, có khí hậu ôn hòa và là nơi giao nhau của hai dòng biển nóng và lạnh, tạo ra môi trường sống lý tưởng cho nhiều loài sinh vật biển. Đây cũng là điểm đến của hàng nghìn sinh vật trong mùa sinh sản và có thảm san hô phong phú.
Bảo tàng của Viện Hải Dương Học bao gồm nhiều khu vực đa dạng như khu nuôi thuần hóa sinh vật biển, rừng ngập mặn nhân tạo, khu tái biến thiên nhiên, khu mẫu sinh vật biển lớn, và các thiết bị nghiên cứu hải dương học, cung cấp tư liệu quan trọng và mật cho công tác nghiên cứu và giáo dục đối với các nhà khoa học và du khách quan tâm.
Miếu Bình tây Đại tướng Trịnh Phong (còn được biết đến với tên gọi Miếu Cây Dầu), là một trong những di tích lịch sử văn hóa nổi bật của vùng đất này. Được công nhận cấp quốc gia từ năm 1991, miếu thờ Trịnh Phong là biểu tượng của tinh thần yêu nước và sự hy sinh anh dũng trong cuộc đấu tranh chống lại thực dân Pháp.
Nằm dưới bóng cây dầu đôi có tuổi đời hơn 200 năm, miếu thờ Trịnh Phong có vị trí hướng về phía Tây, nhìn lên đỉnh Hòn Dung cao ngất. Đây không chỉ là nơi thờ cúng mà còn là nơi mà người dân địa phương biểu tượng hóa lòng kính phục và tri ân đối với một anh hùng dân tộc. Mỗi năm vào ngày Mười sáu tháng Ba âm lịch, miếu tổ chức lễ cúng trọng đại, thu hút rất đông nhân dân trong khu vực đến tham dự.
Ngôi miếu thờ vị tướng quânTrịnh Phong
Di tích Miếu Trịnh Phong có tổng diện tích 639,1m2, với cấu trúc kiến trúc mang đậm nét truyền thống vùng đất Khánh Hòa. Bốn cột chính và các cột phụ được chạm khắc tỉ mỉ, hoa văn và câu đối được sơn son thếp vàng, tạo nên sự trang nghiêm và cổ kính cho không gian miếu thờ. Chính giữa bái đường, có ban thờ đơn giản nhưng trang nghiêm, treo bức hoành phi chạm chữ Hán Nôm "Vạn An Miếu", là biểu tượng cho sự bền vững và an lành cho miếu và cả cộng đồng.
Miếu thờ Trịnh Phong không chỉ là nơi thờ cúng mà còn là niềm tự hào của người dân Khánh Hòa, gắn bó với lịch sử đấu tranh, xây dựng và bảo vệ độc lập dân tộc. Việc bảo tồn và tôn tạo di tích này không chỉ mang tính trách nhiệm mà còn là biểu hiện sâu sắc của lòng biết ơn và tôn kính với những người anh hùng đã hi sinh vì đất nước.
Dưới bóng nắng chói chang của biển Đông, hai bia chủ quyền tại đảo Song Tử Tây và đảo Nam Yết trên quần đảo Trường Sa vẫn vững vàng như những nhân chứng lịch sử thời gian không thể xóa nhòa. Được xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia từ năm 2014, hai bia chủ quyền này không chỉ là niềm tự hào của người dân Việt Nam mà còn là minh chứng về sự vững vàng của chủ quyền quốc gia trên đảo Trường Sa, chấp nhận và tôn trọng bởi cả thế giới.
Di tích Bia chủ quyền trên đảo Song Tử Tây và đảo Nam Yết
Bia chủ quyền tại đảo Song Tử Tây, thuộc xã Song Tử Tây, huyện Trường Sa, tỉnh Khánh Hòa, với đường nét cổ kính được khắc lõm chìm sâu vào thân bê tông, vẫn giữ nguyên vẻ tháp cao và phần thân, trường tồn với thông điệp rõ ràng: "Quần đảo Trường Sa trực thuộc tỉnh Phước Tuy. Phái bộ quân sự thị sát nghiên cứu đến viếng quần đảo này ngày 22 tháng 8 năm 1956 dưới sự hướng dẫn của Hải quân Việt Nam". Còn bia chủ quyền tại đảo Nam Yết, thuộc xã Sinh Tồn, huyện Trường Sa, tỉnh Khánh Hòa, nay chỉ còn lại phần thân, nhưng vẫn khắc ghi rõ ràng sự hiện diện của quân đội Việt Nam trên lãnh thổ này vào năm 1956. Cả hai bia đều là những dấu ấn lịch sử rõ nét, là bằng chứng vững chắc về chủ quyền biển đảo của Việt Nam trước thế giới.
Tọa lạc tại xã Vạn Phú, huyện Vạn Ninh, Đình Phú Cang là một di sản văn hóa và lịch sử vô giá của dân tộc Việt Nam. Ngôi đình này đã được xây dựng vào thế kỷ XVII - XVIII, đánh dấu sự khai khẩn đất đai và việc lập làng của người Việt. Dưới triều Nguyễn, Đình Phú Cang đã được ban cho nhiều sắc phong và vật quý, trong đó có sắc phong Thượng Đẳng thần, ghi nhớ công đức của các vị Thành hoàng làng và chuông cổ.
Với diện tích rộng khoảng 1.700m2, Đình vẫn giữ được nguyên vẹn giá trị văn hóa và lịch sử của cộng đồng người Việt. Kiến trúc của đình thể hiện rõ nét phong cách làng quê Việt Nam truyền thống, với mái ngói vảy cá, sân lát gạch và bao quanh là cây cối xanh mướt.
Gian chính có diện tích lớn hơn 70m2, kết cấu theo mô hình đình làng truyền thống, với 16 cột gỗ tứ trụ phân bố đều nhau. Phía trước cửa đình, những hoa văn tinh xảo và cầu kỳ được khắc trên gỗ, với tấm biển "Phú Cang Đình" đặt giữa lòng đình.
Đình Phú Cang thờ các vị thành hoàng với danh hiệu Dục Bảo Trung Hưng Linh Phò, bao gồm cả bà mẹ xứ sở Thiên Y A Na, vị thần được cư dân miền Nam Trung Bộ tôn kính và thờ phụng. Nơi đây còn lưu giữ thời vị của phó tướng, tổng trấn Trần Đường, người đã dẫn dắt nhân dân tham gia phong trào Cần Vương chống Pháp vào cuối thế kỷ XIX. Trong thời kỳ phong kiến, Đình Phú Cang đã nhận được nhiều sắc phong và hiện vật quý giá từ các vua Nguyễn, minh chứng cho vai trò quan trọng của nó trong lịch sử kháng chiến chống lại sự xâm lược của quân Pháp.
Bảo tàng tỉnh Khánh Hòa, tọa lạc tại số 16 Trần Phú, không chỉ là một điểm tham quan hấp dẫn ở Nha Trang mà còn là nơi lưu giữ và trưng bày hơn 10.000 hiện vật và 5.000 tư liệu hình ảnh phong phú từ các thời kỳ lịch sử của tỉnh Khánh Hòa và đặc biệt là thành phố Nha Trang. Bảo tàng là một kho tàng văn hóa đầy ấn tượng với những đồng tiền cổ từ thế kỷ IX đến XVIII, những trống đồng có niên đại hơn 2000 năm, và những vũ khí kháng chiến chống lại Pháp và Mỹ.
Mặc dù chỉ có hai phòng trưng bày với tổng diện tích hơn 200m², bảo tàng vẫn thu hút và gây ấn tượng mạnh với du khách bởi sự đa dạng và giá trị của các hiện vật quý giá. Những hiện vật này là kết quả của những cuộc khai quật và nghiên cứu chuyên sâu trong suốt 20 năm qua tại Khánh Hòa.
Ngay khi bước vào bảo tàng, du khách sẽ bắt gặp bia đá Võ Cạnh, một tấm bia được chế tác từ đá và có chữ viết bằng chữ Phạn, có niên đại từ thế kỷ II sau Công Nguyên, được khai quật tại xã Vĩnh Trung, Nha Trang. Trung tâm của bảo tàng là bia đá Cam Thịnh Đông, thị xã Cam Ranh, nơi du khách có thể chiêm ngưỡng những tác phẩm nghệ thuật đá quý từ thời Champa và những hiện vật quan trọng khác như đàn đá Khánh Sơn - một loại nhạc cụ độc đáo của người Rắc Lây từ thời cổ đại được phát hiện lại vào năm 1978.
Bảo tàng tỉnh Khánh Hòa không chỉ là nơi để khám phá những di sản văn hóa lâu đời mà còn là cửa sổ mở ra cho du khách hiểu rõ hơn về sự phong phú và đa dạng của lịch sử văn hóa nơi đây, là điểm dừng chân thú vị không thể bỏ qua khi khám phá Nha Trang.
Phủ Đường Ninh Hòa chính là một công trình kiến trúc lịch sử được xây dựng từ năm 1820 dưới thời nhà Nguyễn, thể hiện rõ nét đẹp của kiến trúc cổ truyền của người Việt Nam. Ngôi phủ gồm một gian chính hai chái và một số phòng phụ, với tổng thể được xây dựng theo mô hình nhà truyền thống vùng đồng bằng Khánh Hòa, bao gồm ba gian và hai chái.
Khám phá công trình kiến trúc lịch sử Phủ Đường Ninh Hòa
Nơi đây đã chứng kiến những sự kiện lịch sử quan trọng của dân tộc. Vào ngày 16 – 7 – 1930, hơn 1.000 người dân từ huyện Tân Định (nay là Ninh Hòa) đã tổ chức cuộc biểu tình, đấu tranh chống lại sự cai trị của thực dân và phong kiến, đòi hỏi giảm sưu thuế cao và ủng hộ phong trào Xô-viết Nghệ Tĩnh. Tại Phủ Đường, Tri phủ Đinh Bá Cẩn đã ký vào bản bãi bỏ các sắc thuế, đánh dấu một bước ngoặt trong cuộc đấu tranh chống áp bức.
Kiến trúc của Phủ Đường không chỉ mang đậm nét cổ kính mà còn thể hiện sự trang nghiêm và giá trị nghệ thuật cao, là một biểu tượng của sự hòa hợp và vẻ đẹp văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam.
Dinh Bảo Đại (còn được biết đến với tên gọi Biệt thự Cầu Đá) là nơi vua Bảo Đại cùng hoàng hậu Nam Phương tới nghỉ ngơi khi đến thăm thành phố biển Nha Trang. Tọa lạc trên một ngọn đồi nhô ra biển, đây là một trong những di tích lịch sử đặc biệt của Nha Trang. Với diện tích rộng lớn khoảng 12 ha, Dinh Bảo Đại bao gồm 5 tòa biệt thự riêng biệt được xây dựng vào năm 1923 trên núi Cảnh Long (hay còn gọi là núi Chụt), một địa điểm nổi tiếng với phong cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp.
Mỗi tòa biệt thự tại Dinh Bảo Đại mang tên gọi của cây trồng xung quanh như Les Agaves (Xương Rồng), Les Frangipaniers (Bông Sứ), Les Bougainvilliers (Bông Giấy), Les Flamboyants (Phượng Vĩ), Les Bada Miners (cây Bàng), tạo nên không gian sống khác biệt và đầy sắc màu. Với kiến trúc lấy cảm hứng từ Pháp, các ngôi biệt thự hài hòa với cảnh quan thiên nhiên xung quanh, mang đến một vẻ đẹp thanh lịch và sang trọng.
Tọa lạc bên cạnh Viện Hải Dương Học nổi tiếng của Nha Trang, Dinh Bảo Đại được ví như một con rồng xanh ôm trọn biển của Nha Trang. Từ đỉnh đồi, bạn có thể ngắm nhìn toàn cảnh thành phố biển này, với biển xanh ngút ngàn và những dải cát trắng mịn màng.
Lăng Bà Vú (còn được gọi là Lăng Nhũ Mẫu), là một trong những di tích lịch sử văn hóa nổi tiếng cấp quốc gia, thu hút đông đảo du khách bởi giá trị lịch sử và kiến trúc độc đáo. Được xây dựng vào đầu thế kỷ 19 dưới thời vua Gia Long, như một biểu tượng của lòng biết ơn sâu sắc đối với người phụ nữ có công lớn là bà Nguyễn Thị Hoàn.
Trong một lần Nguyễn Phúc Ánh (sau này là vua Gia Long) đang bị đuổi theo bởi quân Tây Sơn, anh đến thôn Mỹ Hiệp, trong tình trạng đói khát và mệt mỏi, bà Nguyễn Thị Hoàn đã giúp đỡ anh bằng cách cung cấp thức ăn, nước uống và thuốc thang. Đây được coi như sự cứu giúp quan trọng, giúp vua Gia Long thoát khỏi nguy hiểm. Bà Nguyễn Thị Hoàn sau này được vua Gia Long tôn kính bằng danh hiệu "Nhũ Mẫu" (mẹ nuôi), và lăng mộ được xây dựng để tưởng nhớ công ơn to lớn của bà.
Lăng Bà Vú Nha Trang - Lăng Thờ Nhũ Mẫu của vua Gia Long
Khu lăng được xây dựng theo kiến trúc nguy nga, tráng lệ, với nhiều lớp thành bao bọc. Lớp thành ngoài cùng có chu vi hơn 200m, bên trong có hồ nước hình chữ nhật rộng rãi. Tiếp theo là lớp thành thứ hai với miếu thờ Bà Chúa Thai San và 18 vị La Hán. Lớp thành trong cùng chứa mộ phần của Bà Nhũ Mẫu, được xây dựng theo kiểu nhà ba gian, hai chái. Kiến trúc lăng mang đậm dấu ấn văn hóa Champa và Việt Nam, với các hoa văn trang trí tinh xảo, thể hiện sự tôn kính và biết ơn đối với người có công.
Di tích địa điểm lưu niệm Tàu C235 là nơi ghi lại những câu chuyện cảm động về sự hy sinh anh dũng của Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, Liệt sĩ Nguyễn Phan Vinh và các đồng đội trên chiếc tàu này, biến chúng thành huyền thoại gắn liền với lịch sử và văn chương dân tộc.
Di tích Địa điểm lưu niệm tàu C235 - Địa chỉ đỏ về nguồn cho thế hệ trẻ
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vĩ đại của dân tộc Việt Nam, để hỗ trợ vũ khí và trang bị cho chiến trường miền Nam, theo Chỉ thị của Bộ Chính trị, Tổng Quân ủy Trung ương đã thành lập Đoàn 759, tiền thân của Đoàn 125 tổ chức đường vận chuyển trên biển, được biết đến với tên gọi là "Đường Hồ Chí Minh trên biển". Đây là một trong những nhiệm vụ chiến lược vô cùng quan trọng trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam.
Để tiếp tế cho quân và dân trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, Đoàn 125 đã lựa chọn 4 tàu, trong đó có Tàu C235, để thực hiện nhiệm vụ. Chiếc tàu này được cấp bảy ngày cửa nay còn nhớ xưa.
Tháp Bà Ponagar (còn gọi là Yang Po Inư Nagar) là một ngôi đền Chăm Pa nằm trên đỉnh một ngọn đồi nhỏ cao khoảng 10-12 mét so với mực nước biển, tại cửa sông Cái (sông Nha Trang), thuộc phường Vĩnh Phước, thành phố Nha Trang, Khánh Hòa. Được xây dựng từ khoảng thế kỷ 7 đến thế kỷ 13 dưới triều đại vua Po Nagar Dara Vijaya, Tháp Bà Ponagar là biểu tượng kiến trúc Chăm Pa lớn nhất Việt Nam hiện nay.
Tháp bà Ponagar Nha Trang - di sản văn hóa Chăm Pa nổi tiếng tại Khánh Hòa
Di tích Tháp Bà Ponagar đã được công nhận là Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia từ năm 1979 và là Di sản văn hóa thế giới tiềm năng của UNESCO. Nó là nơi thờ nữ thần Ponagar, vị thần tối cao trong tín ngưỡng của người Chăm, kết nối với truyền thuyết về người Mẹ xứ sở Chăm và nữ thần Thiên Y Ana của dân tộc Việt ở miền Trung từ cuối thế kỷ XVII.
Về mặt kiến trúc, quần thể tháp gồm 3 tầng chính, mỗi tầng có nhiều tháp nhỏ với các vị trí thờ phụng khác nhau. Tháp chính cao 28 mét, được xây dựng bằng gạch nung và đá sa thạch, mang đậm dấu ấn kiến trúc Chăm Pa với các chi tiết trang trí tinh xảo như linga, yoni, tượng thần và các hoa văn truyền thống. Khu di tích còn lưu giữ nhiều hiện vật quý giá như tượng thần, đồ trang sức, bia ký, góp phần làm sáng tỏ lịch sử và văn hóa Chăm Pa.
Tháp Bà Ponagar không chỉ là một địa điểm lưu niệm và thờ phụng của người Chăm mà còn là điểm đến thu hút đông đảo du khách mỗi năm, khám phá vẻ đẹp và giá trị văn hóa sâu sắc của dân tộc Chăm Pa.
Chùa Từ Vân, được biết đến với biệt danh là Chùa San Hô hay Chùa Ốc, là một trong những công trình kiến trúc độc đáo với các tòa tháp và vườn hoa được xây dựng từ những viên đá san hô và vỏ sò, vỏ ốc. Các nhà sư đã tự tay thiết kế và xây dựng những công trình này, tạo ra không gian yên bình và lạ mắt cho chùa Từ Vân.
Bước vào Chùa Từ Vân, bạn sẽ ngay lập tức cảm nhận được sự tỉ mỉ và nghệ thuật từ các con ốc biển, mỗi chi tiết đều tỏa sáng như một minh chứng rõ ràng cho công sức nhiều năm xây dựng và hoàn thiện. Chùa được xem như một biểu tượng của sự tận tụy và sự hướng nội của các nhà sư, với lòng tin mang Phật pháp trong tâm hồn.
Các công trình tại Chùa Từ Vân được thi công bằng phương pháp thủ công, qua từng năm tháng dài. Điều này cho thấy rằng, từng viên đá san hô, từng vỏ sò, từng vỏ ốc đều mang trong mình một phần tâm trí và tâm huyết của những người làm chùa. Đây không chỉ là một công trình kiến trúc nổi bật mà còn là một tuyên ngôn về sự kính trọng và sự kết nối tâm linh giữa con người và thiên nhiên.
Tổng hợp 20+ di tích lịch sử tại Khánh Hòa được 63S Travel chia sẻ trên sẽ giúp bạn có một chuyến du lịch thật kỳ thú tại nơi đây. Hãy thêm danh sách này vào trong kế hoạch của bạn để có một chuyến du lịch thật tuyệt vời nhé!
Khánh Hòa 2775 lượt xem
Ngày cập nhật : 17/07/2024
Trải dài trên vịnh biển đẹp nhất thế giới, Vinpearl Nha Trang là quần thể nghỉ dưỡng và điểm đến hấp dẫn hiện nay. Hệ thống Vinpearl tại Nha Trang sở hữu hệ thống khách sạn & resort sang trọng, đẳng cấp, công viên giải trí VinWonders Nha Trang, sân golf cùng hệ sinh thái dịch vụ tất cả trong một, đáp ứng trọn vẹn nhu cầu từ nghỉ dưỡng, ẩm thực, vui chơi giải trí, mua sắm đến hội họp chuyên nghiệp. Nha Trang được đánh giá là vịnh biển đẹp bậc nhất thế giới với hơn 300 ngày nắng đẹp trong năm. Do đó, bạn có thể lựa chọn cho chuyến hành trình khám phá Vinpearl Nha Trang vào bất cứ thời điểm nào trong năm. Tuy nhiên, mùa khô từ tháng 1 đến tháng 9 vẫn là thời gian lý tưởng nhất để đến thành phố biển. Trong đó, từ tháng 2 đến tháng 5, Nha Trang có tiết trời mát mẻ phù hợp cho những chuyến du lịch nghỉ dưỡng. Từ tháng 6 đến tháng 8, thời tiết nhiều nắng, du lịch Nha Trang thích hợp cho các hoạt động tắm biển, chơi moto nước, dù bay… Để đến Nha Trang, bạn có thể chọn di chuyển bằng phương tiện máy bay hoặc xe khách. Sau đó, bạn sẽ đến cảng Vinpearl Nha Trang để có thể đi tới tổ hợp nghỉ dưỡng vui chơi Vinpearl Nha Trang bằng cano hoặc tàu thủy cao tốc. Khi đến đảo Hòn Tre, bạn sẽ di chuyển bằng hệ thống xe điện của Vinpearl Nha Trang để đến khu nghỉ dưỡng và các địa điểm vui chơi. Là điểm du lịch nghỉ dưỡng biển hàng đầu thế giới, Vinpearl Nha Trang mang đến cho du khách nhiều sự lựa chọn về nơi lưu trú. Đó là hệ thống khách sạn, resort nghỉ dưỡng đẳng cấp với không gian sang trọng, hiện đại và đầy đủ tiện nghi. Vinpearl Resort Nha Trang sở hữu vẻ đẹp Á Đông thuần khiết với kiến trúc Indochine sang trọng. Khu nghỉ dưỡng tọa lạc trên đảo Hòn Tre cạnh bãi biển tự nhiên với cát trắng nắng vàng. Tại đây bạn có thể đắm mình trong làn nước xanh mát của hồ bơi rộng lớn, lặn ngắm san hô và chiêm ngưỡng vẻ đẹp muôn sắc của các loài cá. Nổi bật trong quần thể nghỉ dưỡng Vinpearl Nha Trang, Vinpearl Resort & Spa Nha Trang Bay sở hữu kiến trúc hình cánh cung hiện đại và duyên dáng trải dài trên bờ biển tuyệt đẹp cùng cát trắng và biển xanh. Khu nghỉ dưỡng có tầm nhìn mỹ lệ và sống động nhất hướng từ giường ngủ ra toàn cảnh vịnh Nha Trang. Vinpearl Resort & Spa Nha Trang Bay được giải thưởng danh giá World Travel Award vinh danh là Khu nghỉ dưỡng biển hàng đầu Việt Nam vào năm 2018. Tiện ích đặc biệt hấp dẫn mà resort mang lại cho du khách là những chòi spa với các liệu trình thư giãn, chăm sóc cơ thể. Vinpearl Luxury Nha Trang là nơi lưu trú mang đến cho du khách một chốn bình yên của tâm hồn với từng giây phút trôi qua thật an yên bên người yêu thương. Khu nghỉ dưỡng tọa lạc bên bờ biển thiên đường với 84 căn biệt thự xinh đẹp giữa khu vườn nhiệt đới tươi mát. Ngoài ra còn nhiều điểm nghĩ dưỡng khác. Đến Vinpearl Nha Trang, du khách có thể thưởng thức các bữa sáng, trưa, tối tại các nhà hàng trong mỗi khách sạn, resort lưu trú. Ngoài ra, bạn có thể trải nghiệm những hương vị rất riêng trong không gian độc đáo, tráng lệ trong hệ thống nhà hàng của Vinpearl. Đến Vinpearl Nha Trang, bạn đừng bỏ lỡ hành trình vui chơi tại công viên VinWonders với 6 phân khu trò chơi bao gồm gần 100 hoạt động giải trí phong phú. Khu vui chơi tọa lạc trên đảo Hòn Tre với diện tích hơn 50ha. Ngoài ra còn rất nhiều trải nghiệm hấp dẫn khác như: Vinpearl Diving Club Nha Trang, Vinpearl Golf Nha Trang và chương trình biểu diễn nghệ thuật hoành tráng…đang chờ đợi bạn khám phá.
Khánh Hòa 2348 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Với bề dày lịch sử hơn một thế kỷ, Viện Hải Dương Học Nha Trang được thành lập bởi người Pháp vào năm 1923 tại thành phố biển xinh đẹp này. Với môi trường ôn hòa và đa dạng sinh vật biển phong phú, đây là nơi chuyên nghiên cứu về đại dương và đồng thời là điểm đến lý tưởng cho các du khách muốn tìm hiểu về văn hóa, lịch sử và đặc sản biển của vùng đất này. Bảo tàng Hải dương học thuộc Viện Hải Dương Học Nha Trang cũng là một trong những điểm tham quan không thể bỏ qua tại thành phố Nha Trang. Viện Hải Dương Học Nha Trang là viện nghiên cứu lớn nhất Đông Nam Á về đời sống động thực vật biển, được thành lập vào đầu thế kỷ XX bởi các nhà khoa học Pháp. Nơi đây được chọn vì có vị trí địa lý thuận lợi và điều kiện tự nhiên tối ưu cho các sinh vật biển sinh sống và phát triển. Bảo tàng của Viện Hải Dương học sở hữu một bộ sưu tập đồ sộ, đặc trưng cho hệ sinh thái biển với khoảng 4.000 loài sinh vật và hơn 20.000 mẫu vật được lưu trữ vô cùng cẩn thận tại đây. Bên cạnh khu vực trưng bày tiêu bản, viện còn sở hữu các khu vực nuôi giữ, thuần hóa và bảo tồn nhiều loài sinh vật biển đa dạng và độc đáo khác. Chắc chắn sẽ là một trải nghiệm thú vị cho các bạn yêu thích hải dương học và muốn khám phá thế giới đại dương đầy bí ẩn. Bước vào khu thủy cung của Viện Hải Dương Học Nha Trang, bạn sẽ được mê hoặc bởi hơn 10.000 cá thể thuộc hơn 300 loài sinh vật biển đa dạng và phong phú. Đặc biệt, trong số đó có nhiều loài được xếp vào danh sách đỏ của IUCN như cá mập, rùa biển, san hô và mực khổng lồ. ừ những con cá nhỏ bé đáng yêu đến những con cá mập khổng lồ, từ những chiếc vỏ sò lấp lánh đến những tảng san hô tuyệt đẹp, tất cả đều được tái tạo một cách chân thực và sống động trong khu thủy cung này. Nếu như thủy cung là nơi thu hút mọi tầng lớp khách tham quan bởi vẻ đẹp sinh động của các sinh vật biển thì khu trưng bày đa dạng sinh vật biển được xem là nơi tạo nên giá trị và nét đặc trưng cho bảo tàng. Bước chân vào Bảo Tàng Hải Dương Học, bạn sẽ được đắm mình trong thế giới đầy kì diệu của đại dương. Với hơn 23.000 mẫu vật của 5.000 loài sinh vật biển được sưu tầm và gìn giữ từ nhiều năm nay, khu bảo tàng sinh vật biển trở thành nơi "lưu trữ bộ mẫu sinh vật biển lớn nhất" được VietKings công nhận. Tại đây, bạn sẽ được chiêm ngưỡng những sinh vật hiếm, xem các loài san hô tuyệt đẹp và tìm hiểu về hệ sinh thái đại dương một cách chân thực nhất. Một lần ghé thăm khu bảo tàng này, bạn sẽ không chỉ tìm thấy niềm đam mê với đại dương mà còn thu thập được một lượng kiến thức vô giá về sự đa dạng và phong phú của hệ sinh thái biển. Khi đến thăm quan Viện Hải Dương học Nha Trang bạn cần lưu ý những điểm sau. Khi tham quan Viện Hải Dương Học, bạn nên đến sớm để có nhiều thời gian khám phá toàn bộ khu vực của viện. Nên chuẩn bị một bộ quần áo và giày thoải mái để có thể di chuyển và tham quan một cách dễ dàng. Bạn cũng nên mang theo một túi để đựng các vật dụng cá nhân như nước uống, khăn giấy và máy ảnh. Nếu bạn định đi tham quan ngoài biển hoặc lặn ngắm san hô, hãy đăng ký trước và tham khảo kỹ các hướng dẫn của nhân viên để đảm bảo an toàn. Các khu vực trong viện có thể đông đúc vào cuối tuần hoặc các ngày lễ, nên bạn nên lên kế hoạch và đặt vé trước để tránh tình trạng chật chội hoặc hết vé.
Khánh Hòa 2713 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Khung cảnh tại đảo Hòn Mun là một sự kết hợp hài hòa giữa màu xanh bao la của biển, và màu xanh lá mát mắt của cây rừng. Tất cả tạo nên một khung cảnh thiên nhiên thoáng đãng và vô cùng bình yên. Hòn Mun còn là nơi sở hữu rất nhiều loại san hô, có tới hơn 2000 loài san hô cùng 1500 loài sinh vật biển, đây còn là khu bảo tồn sinh vật biển duy nhất tại Việt Nam. Theo quỹ Động vật hoang dã thế giới (WWF) Hòn Mun là đảo có đa dạng sinh học biển bậc nhất tại VIệt Nam. Với tổng diện tích 160km2 đảo Hòn Mun tọa lạc ở phía Đông Nam của đảo Bồng Nguyên, cách thành phố biển Nha Trang khoảng 14km. Nơi đây cách cảng cầu Đá 10km về phía Nam, là một trong những hòn đảo nổi tiếng nhất vùng biển Khánh Hòa, và cũng là một trong những địa điểm du lịch Nha Trang nổi tiếng nhất. Không chỉ sở hữu khung cảnh thiên nhiên ấn tượng với màu xanh của biển cả và đất trời. Mà đây còn là địa danh nổi tiếng sở hữu hệ sinh thái biển vô cùng phong phú. Tên gọi đảo “Hòn Mun” được đặt theo đặc điểm của màu đá tại đảo, với màu đá đen tuyền tựa gỗ mun tại đây, nó đã tạo nên sự khác biệt và là sự hình thành của tên gọi của đảo. Đến đây bạn sẽ nhìn thấy những vách đá dựng đứng, hay những mỏm đá nhô cao nổi bật giữa nền trời xanh của biển. Tạo nên sự ấn tượng và độc đáo không nơi này sánh bằng. Nha Trang được thiên nhiên ưu ái bởi khí hậu ôn hòa, với thời tiết không quá khắc nghiệt, bạn có nhiều khoảng thời gian lý tưởng để tham quan đảo. Trừ những ngày mưa bão thì hầu như bạn có thể ghé thăm Hòn Mun dễ dàng. Theo kinh nghiệm du lịch Hòn Mun Nha Trang, thời điểm lý tưởng nhất để du lịch Nha Trang cũng như ghé thăm Hòn Mun là vào khoảng thời gian từ tháng 7 đến tháng 9 hằng năm. Lúc này thời tiết Nha Trang có nắng đẹp, nước biển trong, mát mẻ, là thời điểm tuyệt vời để ngắm đại dương trong những chuyến lặn biển. Đảo Hòn Mun còn khá hoang sơ, các dịch vụ chưa phát triển. Vì thế, bạn rất khó tìm được những nhà hàng, quán ăn trên đảo. Để thưởng thức những món ngon, du khách thường mua hải sản từ những tàu cá của ngư dân địa phương và nhờ họ chế biến sẵn. Hoặc bạn cũng có thể mua thức ăn, mượn bếp, lò để tự chế biến món ngon theo cách của mình. Cùng bạn bè tổ chức những buổi tiệc nướng, với không gian biển cả bình yên thật tuyệt vời. Hòn Mun Nha Trang là một trong những thiên đường ngắm cảnh và lặn biển đẹp nhất Việt Nam. Là địa điểm rất đáng để bạn trải nghiệm, chắc chắn sẽ để lại nhiều ấn tượng tốt đẹp với bạn. Với nhiều tiềm năng phát triển, hứa hẹn sẽ trở thành một địa điểm du lịch hàng đầu Nha Trang.
Khánh Hòa 2200 lượt xem
Tháng 11 đến tháng 4
Bãi biển nằm tại xã Đại Lãnh, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa, ngay bên cạnh quốc lộ 1A, cách trung tâm thành phố Nha Trang khoảng 80km về hướng Bắc. Phong cảnh Đại Lãnh rất đẹp nhờ thiên nhiên ban tặng cho một bãi biển cát trắng chảy dài, có độ thoải lớn nên du khách có thể bơi lặn xa bờ. Đặc biệt, địa điểm du lịch ở Nha Trang này có nước biển xanh biếc, nhìn thấy được tận đáy và còn nguyên vẻ hoang sơ, sạch sẽ. Kế bên là một nguồn nước ngọt chảy ra biển quanh năm không cạn. Bãi biển Đại Lãnh được ví như nàng công chúa ngủ quên giữa đại dương mênh mông bởi ít người dân sinh sống tại đây, khung cảnh xung quanh khá yên bình, tĩnh lặng. Mặc dù, năm 2010, một công ty du lịch đã đầu tư xây dựng khu resort tại đây nhưng nơi này vẫn hiện lên như một bãi biển hoang sơ kỳ thú. Đó lại chính là điều thú vị dành cho những du khách muốn tìm không gian để nghỉ ngơi sau những tháng ngày bồn bề, làm việc vất vả. Đặc biệt, với không gian thoải mái, thoáng mát, trong lành, bạn cũng có thể đến đây cùng gia đình, bạn bè để vui chơi, tổ chức những trò chơi tập thể. Một trong những thú vui của du khách khi đến thăm Đại Lãnh là theo chân những người gác đèn hoặc ngư dân đi săn cá chình trên biển. Loài cá này từng được ví như những con thuồng luồng của đại dương. Cá chình thường trú ngụ ở những nơi có địa thế hiểm hóc, nước cuộn chảy xiết, nơi hốc đá sâu và tối. Cá chình có 3 loại là chình dừa (màu vàng), chình đen và chình bông (màu đốm đen trắng). Việc săn cá chình rất khó nhưng đối với những khách tham quan ưa cảm giác mạo hiểm, đây sẽ là cơ hội để thử sức mình khám phá biển khơi. Mặc dù còn mang vẻ đẹp hoang sơ vốn có nhưng ngày nay, du khách đã có thể tìm thấy nhà hàng, khách sạn phục vụ việc ăn uống, nghỉ dưỡng của mình một cách nhanh chóng, dễ dàng hơn. Những khu này được xây dựng xung quanh bãi biển, chỉ cần đi một đoạn ngắn, bạn và người thân sẽ tìm được một địa điểm lý tưởng để nghỉ ngơi. Bãi biển Đại Lãnh được xem là bãi biển đẹp nhất miền trung và cả nước. Đối với một địa điểm du lịch lý tưởng như vậy, Nha Trang không thể không khai thác, phục vụ ngành du lịch. Do đó trong tương lai không xa, bãi biển sẽ được quy hoạch theo hướng tập trung để thúc đẩy phát triển du lịch của địa phương hơn nữa nhằm khai thác tất cả lợi thế nơi đây, đưa Đại Lãnh trở thành điểm đến du lịch Nha Trang không thể bỏ lỡ cho du khách.
Khánh Hòa 2378 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Dốc Lết Nha Trang hay còn được gọi Dốc Lếch, thuộc địa phận phường Ninh Hải, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa, Việt Nam. Bờ biển Dốc Lết trải dài với những bãi cát trắng cao, ngăn cách đất liền với biển là hàng dương xanh rì trong gió. Cách trung tâm thành phố Nha Trang chừng 49 km về phía Nam Dốc Lết nổi tiếng là một điểm du lịch Nha Trang lý tưởng vào dịp hè, rất thích hợp với những ai muốn có kỳ nghỉ dưỡng bên bãi biển nguyên sơ. Có nhiều cách giải thích cho cái tên Dốc Lết, nhiều du khách lần đầu nghe đến tên gọi này đã không khỏi tò mò về lý do, câu chuyện của nó. Đến thăm Dốc Lết bạn bắt buộc phải vượt qua những dốc cát lớn, cao để ra tới bờ biển, do địa hình có những đụn cát cao đó mà mỗi lần di chuyển như có bức tường rào tự nhiên bằng cát chắn ngang, làm chậm mỗi bước đi của bạn, mỗi khi cát lún sâu như níu bước chân trở nên khó cất bước. Mỗi lần đi bộ qua Dốc Lết cảm giác sau đó như chỉ muốn “lết” đi vì quá mệt. Tuy vất vả nhưng sau đó bạn sẽ được đền đáp xứng đáng khi vượt qua dốc cát, tới bờ biển gặp gió phả vào từng cơn nhẹ nhàng như bừng tỉnh sau giấc ngủ hè oi ả. Sóng biển vẫy chào mừng “kỳ tích” vượt qua những đụn cát vừa cao vừa dốc. Hiện nay đa phần các con Dốc cát tự nhiên dần được san phẳng bớt để thuận tiện cho việc đi lại, di chuyển phục vụ cho mở rộng dịch vụ du lịch. Thậm chí bạn có thể bắt gặp người dân địa phương đi xe gắn máy dọc bờ biển, vì cát được san phẳng và rất lì lối đi. Dù có nhiều cách giải thích cái tên Dốc Lết khác nhau nhưng tựu chúng đều bắt nguồn từ lý do địa hình và tính chất thổ những nơi đây. Tìm hiểu về cái tên Dốc Lết khá là thú vị, bạn có thể bắt gặp nhiều câu chuyện khác nhau từ người dân địa phương khi nói về tên gọi này. Dốc Lết Nha Trang thuộc tiểu vùng khí hậu đồng bằng ven biển, mang đặc trưng của khí hậu nhiệt đới gió mùa và chịu tác động của thời tiết gió biển nên khí hậu quanh năm ôn hòa. Nhiệt độ trung bình hàng năm là 26,6 độ C. Mùa mưa chủ yếu tập trung vào tháng 10 và tháng 11, lượng mưa trung bình vào khoảng 1350 mm/năm. Số giờ nắng khá cao, khoảng 2482 giờ/năm. Khoảng thời gian đẹp nhất để đến với Dốc Lết là từ tháng 1 đến tháng 9, khi này nhiều nắng, đôi khi kết hợp với gió Tây Nam nên cảnh vật rất thông thoáng, khô ráo. Tháng 10 đến tháng 12 là thời điểm có gió mùa đông bắc, đi du lịch vào thời điểm này chỉ ngắm cảnh là chủ yếu vì nước biển Dốc Lết lạnh buốt không thể tiến hành các hoạt động vui chơi ven bờ biển hay dưới nước. Tất nhiên bạn không thể tắm trên bãi biển vào mùa này vì nước rất lạnh. Nếu đi Dốc Lết vào tháng 4 âm lịch, ở Ninh Diêm gần đó có lễ hội Cúng Đình khá thú vị có nhiều tục lệ để tìm hiểu và tham gia. Nếu đi vào dịp này sẽ rất thú vị. Mỗi lần đi vào các thời điểm khác nhau là một lần trải nghiệm hoàn toàn mới. Bãi biển Dốc Lết hiện ra với một vẻ đẹp tinh khôi phủ bởi lớp cát trắng tinh khiết làm nao lòng bất cứ du khách nào khi tới đây. Dốc Lết vẫn còn khá nguyên sơ, hàng cây xanh rậm rạp bao ven biển, nước biển xanh ngắt trong như ngọc, màu xanh mà các bãi biển phía bắc ít khi có. Nước biển trong xanh đến mức có thể nhìn thấy cả cá nhỏ bơi bên dưới và từng hạt cát long lanh cuộn theo dòng nước. Biển Dốc Lết rất yên tĩnh do được một loạt các đồi xung quanh che chắn, làm cho mặt biển rất bình yên ít khi có gió lớn. Đa số các đồi còn giữ được rừng cây nguyên sinh xanh mướt một màu tạo cảm giác gần gũi thiên nhiên. Bãi biển Dốc Lết trải dài khoảng 8 km, không như các bãi biển khác, đáy biển Dốc Lết thoải dần ra xa bờ, mực nước ra xa không cao, cách xa bờ đến 100 m nhưng mực nước chỉ khoảng ngang ngực. Thường các bãi biển khi ra càng xa nước càng sâu nhưng do được bồi đắp bởi cát nên đi mãi vẫn cứ thấy “đáy”. Một điểm nữa, nếu đem theo trẻ nhỏ bạn thoải mái cho chúng vui chơi trên bãi tắm cạn, sở dĩ gọi là bãi tắm cạn vì mực nước rất thấp, trẻ con và người không biết bơi đều tắm được, không lo bị đuối nước. Cát trắng mịn như làn da thiếu nữ, vỗ về nhịp nhàng bởi những gợn sóng trắng. Sóng biển không quá dữ, nước trong xanh nhưng rất mặn thử một ngụm là biết liền. Khu rừng phi lao mênh mông, xanh ngắt rì rào trong gió như tạo ra một bức tường tự nhiên bằng cây xanh tạo cảm giác dịu mát. Sau khi tắm biển, đeo kính râm dạo bước chân trần dưới rặng phi lao, từng bước chân đặt lên cát mịn mang đến cảm giác nhẹ nhàng như đang được mát xa từng huyệt đạo dưới lòng bàn chân. Phóng tầm mắt xa là một màu xanh, đón từng tia nắng chiếu qua tán cây râm mát đem đến cho bạn cảm giác êm ái khó tả. Một bãi biển tuyệt đẹp với lớp cát trắng tinh khiết, màu nước xanh trong, nhìn rõ những hạt cát trắng dưới đáy. Nơi đây sẽ là một điểm lý tưởng giúp bạn bỏ lại những căng thẳng, buồn phiền phía sau và tận mở rộng tâm hồn đón nhận một kỳ nghỉ tuyệt vời cùng Dốc Lết Nếu muốn mục sở thị trực tiếp cái tên “Dốc Lết” bạn hãy đi chuyển lên khu đồi cát để được thử cảm giác trượt cát từ trên đỉnh xuống. Tin rằng cảm giác này chỉ có khi bạn lên đồi cát. Thân mình dính đầy cát, cát trong tai, cát trong tóc, thậm chí ngậm cát trong miệng vì trò trượt cát. Không gian nơi đây đem đến cho bạn cảm giác tự do, tự tại hơn bao giờ hết, phơi mình dưới nắng vàng, thả mình trong biển xanh, thị giác như ngập trong khung cảnh mộng mơ, tâm trí đầy khơi gợi, không gian thoáng đãng, gần gũi thiên nhiên, mọi giác quan mở hết cỡ để cảm nhận từng khoảnh khắc.
Khánh Hòa 2292 lượt xem
Từ tháng 5 đến tháng 8
Tháp Bà Ponagar là ngôi đền nằm trên đỉnh một ngọn đồi nhỏ cao khoảng 50 mét so với mực nước biển, còn gọi là núi Tháp Bà nơi cửa sông Cái, cách trung tâm thành phố Nha Trang khoảng 2 km về phía bắc. Tổng thể kiến trúc của Ponagar gồm 3 tầng, đi từ dưới lên trên. Ở tầng thấp, ngang mặt đất bằng là ngôi tháp cổng mà nay không còn nữa. Từ đấy có những bậc thang bằng đá dẫn lên tầng giữa. Ở tầng giữa gọi là Mandapa (tức là nhà khách, nhà tĩnh tâm) dành cho khách hành hương nghỉ ngơi, chuẩn bị lễ vật. Mandapa dài 20m, rộng 15m, gồm 4 hàng cột hình bát giác (bao gồm 10 cột lớn và 12 cột nhỏ). Trên thân các cột lớn có các lỗ mộng, khoét sâu vào thân cột, đối xứng ngang bằng với đỉnh của các cột nhỏ. Tầng trên cùng là nơi các ngọn tháp toạ lạc. Những ngôi tháp được xây dựng theo kiểu Chăm, gạch xây rất khít mạch, không nhìn thấy chất kết dính. Tháp thờ chính ở dãy trước khá lớn và cao khoảng 23 mét, là tháp Ponagar. Tháp có 4 tầng, mỗi tầng đều có cửa, tượng thần và hình thú bằng đá. Bên trong là tượng nữ thần (cao 2,6 m) tạc bằng đá hoa cương màu đen (trước đó là gỗ trầm hương, và xa hơn nữa là bằng vàng) ngồi trên bệ đá uy nghiêm hình đài sen, lưng tựa phiến đá lớn hình lá bồ đề. Đây là một kiệt tác về điêu khắc Chămpa, là sự kết hợp hài hòa giữa kỹ thuật tượng tròn và chạm nổi. Trên đỉnh tháp có tượng thần Shiva cỡi ngưu thần Nandin và các tượng linh vật. Tháp Bà Ponagar là công trình tiêu biểu cho nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc dân tộc Chăm. Kỹ thuật xây dựng giai đoạn từ thế kỷ thứ VIII đến XIII cho đến nay vẫn là điều bí ẩn dù nhiều nhà nghiên cứu đã vào cuộc, nhiều công trình khoa học đã được thực hiện. Người ta vẫn chưa hiểu được người Chăm đã làm cách nào để những viên gạch với kích cỡ 20x20cm cứ chồng khít lên nhau mà không cần bất kỳ một chất kết dính nào. Đó là nét độc đáo khiến du khách thêm phần yêu thích ngôi đền tháp này. Về kỹ thuật, tất cả tháp này được xây bằng gạch và trang trí nghệ thuật bằng các chất liệu đá - gốm, nội dung thể hiện cũng gắn liền với các vị thần được thờ ở đây. Các tác phẩm điêu khắc bằng đá thể hiện các chủ đề khác nhau theo tôn giáo Bà-la-môn, như các pho tượng tròn (hiện đang trưng bày tại Viện Bảo tàng tỉnh Khánh Hòa) gắn liền với khu đền tháp tạo thành mảng kiến trúc nghệ thuật tuyệt mỹ. Vào những ngày lễ vía Bà hàng năm (từ 20 đến 23 tháng 3 âm lịch), tháp Bà Ponagar đón hàng vạn khách du lịch hành hương cũng như người dân trong vùng về dự lễ hội nhằm để tưởng nhớ công ơn của Thiên Y Ana Thánh Mẫu (người Chăm gọi là Po Inư Nagar), người mẹ xứ sở đã có công dạy người dân cách làm ăn, sinh sống. Trong sử sách cũng như tiềm thức của người Chăm, vai trò của nữ thần Po Inư Nagar đặc biệt quan trọng và đó là biểu tượng người phụ nữ duy nhất được tôn thờ độc lập. Mọi người tin Po Inư Nagar là vị thần đầy quyền năng, sáng tạo… Mẹ xứ sở không chỉ nâng đỡ người Chăm từ những bước đi đầu tiên thời lập quốc mà luôn luôn dẫn dắt đời sống tinh thần của từng gia đình cũng như cả cộng đồng. Theo các nhà nghiên cứu, khoảng từ giữa thế kỷ XVII đến nay, nghi lễ thờ cúng Mẹ xứ sở được người Chăm và người Kinh tổ chức chu đáo tại Tháp Bà Ponagar. Năm 1653, những người dân Việt từ phía Bắc, theo chúa Nguyễn vào phương Nam mở cõi, dừng chân bên cửa sông Cái (Nha Trang), tạo lập nên làng mạc, xóm thôn… Và, chính họ đã mang theo phong tục thờ cúng Mẫu của người Kinh ở đồng bằng Bắc bộ vào đây. Hàng năm, cứ đến ngày 20 tháng 3 âm lịch, người Chăm, người Kinh ở khắp nơi, mang theo lễ vật, hành hương về Tháp Bà Ponaga Nha Trang, thành tâm bày tỏ lòng biết ơn đối với một người phụ nữ đã có công chỉ dạy dân lành biết cách làm ăn, sinh sống bằng nghề nông. Các nghi lễ chính của lễ hội Tháp Bà Ponagar gồm lễ mục dục (tắm tượng), lễ tế gia quan (lễ thay y) diễn ra vào giờ Ngọ ngày 20 tháng 3 âm lịch, tiếp đến là lễ tế sanh, dâng cúng đồ tế, múa bóng mời thiên y thánh mẫu và các bậc thần linh về dự lễ. Theo nghi thức, lễ cúng thánh mẫu thường mở đầu bằng lễ khai kinh cầu quốc thái dân an. Lễ tế sanh bắt đầu vào giờ Tý, đêm 22 âm lịch do các bô lão thực hiện, sau đó lễ cầu cúng chính thức diễn ra vào lúc 4 giờ sáng ngày hôm sau... Những bài múa nổi tiếng của dân tộc Chăm như Apsara, bến nước tình yêu, tình láng giềng... cùng tiếng khèn Saranai, trống ghi-năng vui nhộn làm say đắm bao lòng người du khách.
Khánh Hòa 1990 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Văn miếu Diên Khánh tọa lạc tại khóm Phú Lộc Tây, thị trấn Diên Khánh, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa. Văn miếu là nơi thờ Đức Khổng Tử, người sáng lập Nho Giáo và những bậc hiền triết là học trò của Ngài; đồng thời cũng là nơi sinh hoạt của giới nho sĩ, khoa mục ở địa phương, tôn vinh những người đỗ đạt thành danh trong các kỳ khoa bảng. Năm 1803, vua Gia Long ra chỉ dụ lập Văn Miếu tại xã Phú Lộc, huyện Hoà Châu - thị trấn Bình Hoà, nay thuộc khóm Phú Lộc Tây - thị trấn Diên Khánh - tỉnh Khánh Hoà. Văn Miếu được xây dựng với quy mô lớn từ năm 1853 và đến năm sau thì cơ bản hoàn thành: phía trước có nhà bi đình, chính giữa có tòa tiền đường và chánh đường cao rộng, làm bằng gỗ xây tường gạch bao, các cột kèo được chạm trổ sơn son thếp vàng đẹp đẽ, uy nghiêm. Văn miếu Diên Khánh được xây trên một khu đất rộng, bằng phẳng, với tổng diện tích 1.500m2. Khi khởi dựng, Văn miếu có các công trình kiến trúc: miếu Chính và miếu Khải Thánh, được lợp bằng cỏ tranh. Năm 1849, Văn miếu được tu bổ hệ mái, thay mái tranh bằng mái ngói và dựng thêm Tả vu, Hữu vu, Khải miếu, Quan cư, Từ miếu… với quy mô rất bề thế, vững chắc. Năm 1959, Văn miếu được xây dựng lại trên nền cũ ở thôn Phú Lộc, nhưng quy mô nhỏ hơn, bao gồm: Nghi môn ngoại và tường thành; Nghi môn nội ; nhà bia (Thạch Bi đình); sân miếu; cột cờ; nhà Đông, nhà Tây (Tả Vu – Hữu Vu); Bái đường; Chánh tẩm. Về cơ bản kết cấu gian Chánh tẩm và Bái đường đưa từ Văn chỉ Phước Điền chuyển về, xây dựng thêm Tả vu, Hữu vu theo kiểu nhà cấp bốn ba gian. Tường vách xây bằng gạch thẻ, không có chái. Mái lợp ngói âm dương, sau này trùng tu thay bằng ngói Tây; hệ cửa gỗ đóng theo kiểu ván bưng, thay kiểu thượng song hạ bản cổ xưa; không phục dựng lại Khải miếu, Quan cư và Từ miếu. Hiện tại, Văn Miếu chỉ còn giữ được 2 tấm bia đá thời Tự Đức 11 (1858) giúp ta hiểu biết hơn về lịch sử, văn hoá, sinh hoạt của nhân dân Khánh Hoà và quá trình hoàn thiện khu Văn Miếu năm 1854. Ngoài ra còn có một Bài minh ở Bái Đường nói rõ hơn về sự đỗ đạt của các vị văn võ, khoa bảng, hào mục, chức sắc và các học sinh địa phương từ đầu triều Nguyễn đến thời Tự Đức. Với bề dày lịch sử, khu Văn Miếu mang giá trị to lớn về quá trình học tập, tiếp nhận tri thức và biểu hiện sự tôn sư trọng đạo, làm phong phú thêm kho tàng di sản văn hoá dân tộc. Di tích Văn miếu Diên Khánh được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích Quốc gia ngày 15/10/1998. Nguồn: Sở văn hoá thể thao tỉnh Khánh Hoà
Khánh Hòa 3583 lượt xem
Lăng Bà Vú (còn gọi là Lăng Nhũ Mẫu) tọa lạc tại tổ 9, phường Ninh Hiệp, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa. Lăng Bà Vú là nơi chôn cất người phụ nữ đã có công giúp chúa Nguyễn Phúc Ánh (sau này là vua Gia Long) qua cơn hoạn nạn lúc giao tranh với nhà Tây Sơn. Công trình do vua chỉ đạo xây dựng theo kiến trúc lăng tẩm để đền ơn đáp nghĩa nên dân gian gọi là lăng. Ngược dòng lịch sử, từ năm 1775 trở đi, Khánh Hòa là vùng đất thường xuyên xảy ra việc tranh chấp giữa quân Tây Sơn và quân Chúa Nguyễn. Sách Đại Nam thực lục của Quốc sử quán triều Nguyễn ghi chép: Nguyễn Ánh đã 5 lần đem quân ra đánh chiếm phủ Bình Khang (Khánh Hòa ngày nay) và trong tất cả những lần đó, Nguyễn Ánh đều bị quân Tây Sơn đánh cho tan tác, bị đuổi chạy khắp nơi, điển hình như trận thủy chiến ở khu vực Hòn Thị (1784). Khi giao tranh với nhà Tây Sơn, Nguyễn Ánh nhiều lần thất bại phải kéo tàn quân bỏ chạy, trong một lần khi chạy đến làng Mỹ Hiệp thì lương thực cạn kiệt, trong mình lại đang bị bệnh, quân lính vừa đói vừa kiệt sức…tình thế vô cùng nguy khốn. Trong đêm tối, Nguyễn Ánh cùng đoàn tùy tùng đến gõ cửa nhà một người dân để xin bát cơm đỡ dạ. Chủ nhà (tương truyền là bà Trương Thị Tiềm) động lòng trắc ẩn nên mời Nguyễn Ánh và đám tùy tùng vào nhà nghỉ ngơi. Sau đó, bà cho người giúp việc giết heo làm thịt, nấu cơm đãi tất cả mọi người, đồng thời cung cấp thêm lương thực để đi đường. Riêng đối với Nguyễn Ánh, ngoài việc lo thuốc men chu đáo, bà còn cho người vắt sữa bò cho ông uống để mau phục hồi sức khỏe. Nhờ sự chăm sóc tận tình và đối đãi tử tế ấy mà Nguyễn Ánh sớm lành bệnh, tướng sĩ dần dần phục hồi sức khỏe để tiếp tục kéo quân về phương Nam. Sau khi Nguyễn Ánh thống nhất giang sơn, lên ngôi Hoàng đế và lấy hiệu là Gia Long (1802-1819). Nhớ lại ơn người cứu giúp năm xưa, vua sai người về làng Mỹ Hiệp đưa bà cụ ra kinh đô phụng dưỡng. Tuy nhiên, khi sứ giả tới nơi thì bà cụ đã mất. Để tỏ lòng tri ân, vua Gia Long truy phong cho bà danh hiệu “Nhũ Mẫu” (người Vú nuôi). Đồng thời, vua ra lệnh cho bộ Công cử một số thợ giỏi đang xây dựng cung điện nhà vua ở kinh đô lúc bấy giờ vào Mỹ Hiệp phối hợp với thợ địa phương xây dựng lăng mộ cho người Vú nuôi theo quy cách lăng tẩm của hoàng tộc. Khu lăng mộ được xây dựng trong hai năm, từ năm 1802 đến năm 1804 hoàn thành. Buổi lễ khánh thành được tổ chức cúng rất lớn và do quan đầu tỉnh trực tiếp làm chủ lễ. Bên cạnh đó, vì bà không có con cháu để nhang khói và tế tự, vua còn cấp ruộng đất cho bà con trong vùng cày cấy không phải nộp thuế để lo cúng giỗ của Bà (truyền khẩu là ngày 16 tháng Chạp). Hàng năm, cứ đến ngày giỗ của Bà, chức sắc và dân làng tập trung làm lễ giỗ rất trọng thể, đủ lễ nhạc như các lăng tẩm ở triều đình. Từ đó, việc nhang khói, cúng tế ở lăng Bà Vú vẫn do quan Tuần Vũ Khánh Hòa đến làm chủ lễ theo lệ Xuân Thu nhị kỳ. Ngày nay, Ban quản lý di tích cùng chính quyền và nhân dân địa phương vẫn tổ chức lễ giỗ Bà Vú vào ngày 16 tháng Chạp hàng năm. Lăng Bà Vú là một Di sản văn hóa được Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng là Di tích lịch sử - văn hóa Quốc gia ngày 12/02/1999. Di tích không chỉ có ý nghĩa về mặt đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” mà còn có giá trị rất lớn về mặt kiến trúc nghệ thuật phản ánh sự tài hoa của các nghệ nhân dưới triều nhà Nguyễn cách đây hơn hai thế kỷ. Nguồn: Trung tâm bảo tồn di tích tỉnh Khánh Hoà
Khánh Hòa 3181 lượt xem
Đền Trần Quý Cáp tọa lạc tại tổ 5, thị trấn Diên Khánh, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa. Trần Quý Cáp tự là Thích Phu, hiệu Thái Xuyên, sinh năm 1870 tại thôn Thai La, làng Bất Nhị, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Trần Quý Cáp khi nhỏ là người thông minh, học giỏi, ham hiểu biết và là người có chí khí lớn. Trần Quý Cáp sinh ra và lớn lên trong bối cảnh xã hội Việt Nam đầy biến động. Ngay từ khi 13 tuổi ông đã chứng kiến đám tang của Tổng đốc Hoàng Diệu, khi thành Thăng Long thất thủ (1882); ba năm sau ông lại chứng kiến một biến động chính trị to lớn, đó là phong trào Cần Vương yêu nước do các văn thân ở quê ông lãnh đạo nhân dân đứng lên theo hịch Cần Vương của vua Hàm Nghi, kêu gọi mọi người đứng lên đánh Pháp. Năm 1904 ông đi thi và đậu tiến sĩ cùng với Huỳnh Thúc Kháng, (hiện nay còn bia đề danh tiến sĩ tại triều đình Huế). Lúc này ở nước ta nền Hán học thoái trào, nền Tân học bắt đầu khởi xướng. Trần Quý Cáp thường xuyên qua lại với cụ Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu nghiên cứu những sách báo mới, nắm bắt những tư tưởng tiến bộ và ông tự xác định trách nhiệm của mình là đề cao tân học, thông qua cải cách giáo dục để nâng cao dân trí, ý thức dân quyền, tự lực tự cường dân tộc. Tại Quảng Nam, Phan Bội Châu đã cùng với các đồng chí của mình trong đó có Trần Quý Cáp sáng lập ra tổ chức “Duy Tân hội” – một tổ chức tiền cách mạng, nó đánh dấu sự phân hóa của tầng lớp trí thức tại Việt Nam. Duy Tân hội đã chọn lọc nhiều thanh niên ưu tú để đưa đi học ở Trung Quốc, Nhật Bản…học tập ở tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, quân sự… làm nòng cốt cho phong trào cách mạng nước nhà sau này. Năm 1906 ông được xung là Giáo thọ huyện Tân Định, phủ Ninh Hòa (nay là huyện Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa). Ông là đại diện những nhà ái quốc cách mạng trong phong trào Duy Tân, cổ súy cho phong trào kháng chiến chống Pháp ở miền Trung. Ông cùng một số người thành lập hội nông học, hội thương, trường học… Là người có tài thao lược, giỏi trong việc vận động nhân dân, được mọi người đánh giá cao về tài năng, đức độ. Vì vậy thực dân Pháp và bọn quan lại phong kiến biết được vai trò quan trọng của ông trong giới sĩ phu và quần chúng lao động. Ông đã mở các lớp Tân học, rước thầy dạy chữ Quốc ngữ, chữ Pháp ngay trong trường Phủ. Bọn quan lại ở đây rất căm tức và tìm mọi cách hãm hại ông, chúng bắt ông giữa lúc ông đang dạy học, về giam tại nhà lao Thành Diên Khánh – lúc đó là thủ phủ của Khánh Hòa. Ngày 15/6/1908, sau khi bị bắt hai tháng ông bị tuyên “trảm nêu” tại Cầu Sông Cạn (nay là cầu Trần Quý Cáp). Nhân dân Khánh Hòa thương tiếc ông, cảm phục tấm lòng trung nghĩa của ông đã hưởng ứng đấu tranh xây đền thờ Trần Quý Cáp vào năm 1970. Trần Quý Cáp mặc dù không phải là người sinh ra và lớn lên trên đất Khánh Hòa nhưng cuộc đời ông và sự nghiệp của ông gắn với mảnh đất này. Cuộc đời và sự nghiệp của một danh nhân như ông không thuộc về riêng một ai, mà ông thuộc về Tổ quốc, về nhân dân Việt Nam anh hùng! Đền được xây dựng trong khuôn viên Trung tâm Văn hóa - Thể thao và Sân vận động Trần Quý Cáp của huyện Diên Khánh, nhằm nâng cao giá trị di tích, tôn vinh truyền thống văn hóa, gắn kết các hoạt động văn hóa truyền thống với hoạt động văn hóa, thể thao. Đền Trần Quý Cáp đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng là di tích Quốc gia, ngày 30/8/1991. Nguồn: Sở văn hoá thể thao tỉnh Khánh Hoà
Khánh Hòa 2757 lượt xem
Thành cổ Diên Khánh nằm trên đường Lý Tự Trọng, khóm Đông Môn, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa. Đây là nơi đã diễn ra nhiều sự kiện lịch sử quan trọng của dân tộc ta thời Nhà Nguyễn. Thành cổ Diên Khánh nằm trên diện tích khoảng 36.000m2; gồm 6 đoạn tường thành chạy uốn khúc theo hình lục giác, dài khoảng 2.694m, xây cao khoảng 3,5m. Thành Diên Khánh được xây dựng vào năm 1793 dưới thời chúa Nguyễn Phúc Ánh. Sau khi nhà Tây Sơn suy yếu, Nguyễn Ánh cùng Võ Tánh và Nguyễn Văn Trương đã xây dựng Diên Khánh thành một căn cứ vững chắc. Hoàng tử Cảnh đã trực tiếp trông coi công cuộc xây dựng thành với hơn 3000 nhân lực từ Bình Thuận và Thuận Thành, chỉ sau hơn một tháng thì thành được xây xong. Khi xây xong, thành Diên Khánh do hoàng tử Cảnh và Bá Đa Lộc chỉ huy trấn giữ. Trước đây trong thành có hoàng cung, bên trái là dinh Tuần Vũ, phía sau là dinh Án Sát, sâu trong phía sau nữa là dinh Lãnh Binh, phía dưới là dinh Tham Tri, ngoài ra còn có nhà kho, nhà lao kiên cố. Thành cổ Diên Khánh được đắp trên một khu đất trống, có hình dáng nhô cao giống như lưng con rùa - linh vật tượng trưng cho sự trường tồn và vững chắc. Thành có hệ thống hào sâu bên ngoài và hai bậc thang bên trong dùng làm đường lên xuống. Các góc thành được đắp nhô ra ngoài để dễ dàng quan sát, mỗi góc có một khoảng đất rộng dùng làm chỗ trú quân với một ụ đất cao khoảng 2m để đặt súng đại bác, gọi là pháo đài góc - đặc điểm nổi bật của kiến trúc quân sự theo kiểu Vauban. Trên thành được trồng nhiều tre và cây gai để tăng độ vững chắc và tạo thành một hàng rào phòng ngự theo truyền thống của người Việt. Hệ thống hào bên ngoài thành có độ sâu từ 3m đến 5m, rộng hẹp không đều tùy theo địa hình. Dưới lòng hào thường xuyên có nước và nhiều chướng ngại vật. Phía ngoài hào có đường hào ngoại. Để vào trong thành phải đi qua cầu bắc qua hào nước. Ban đầu, thành Diên Khánh có 6 cửa (cổng), nhưng 2 cửa Tả và cửa Hữu đã bị lấp năm 1823, đến nay chỉ còn 4 cửa Ðông - Tây - Tiền (Nam) - Hậu (Bắc). Các cổng của thành được xây bằng gạch nung và trát vôi vữa tạo thành hình khối dài khoảng 15m. Các cổng có vòm cuốn ở giữa, rộng 2,88m và cao 2,44m, có lối đi phía dưới. Mặt ngoài cổng xây thẳng đứng, mặt trong xây tường gạch cao 1,7m dài 5m. Đường đi trên bờ thành rộng 5,35m. Hai bên cổng xây bậc cấp rộng 3m để đi lên phía trên cổng thành. Phía trên cổng thành có lầu tứ giác và bốn cửa ở bốn hướng, trên cùng là cổ lầu có mái uốn cong lợp ngói âm dương. Cổ lầu cao 4,1m so với nền. Hai bên lầu tứ giác có lan can cao 0,85cm. Nối liền với bốn cổng là hệ thống tường thành đắp bằng đất thoai thoải phía bên trong, thẳng đứng phía bên ngoài. Ngày nay các đoạn tường bằng đất không còn nối liền mạch như xưa. Tổng chiều dài tường thành bằng đất hiện nay dài khoảng 1.656m, cao 3m và bề mặt rộng 5m. Qua hơn 200 năm lịch sử, Thành Cổ Diên Khánh đã trải qua nhiều biến động thăng trầm. Để bảo tồn giá trị lịch sử, văn hóa của di tích này, ngày 16/11/1988, Bộ Văn Hóa quyết định xếp hạng nơi đây là di tích lịch sử - văn hóa Quốc Gia. Trải qua sự tàn phá theo thời gian, Thành cổ Diên Khánh ngày nay đã mất nhiều đoạn tường và hào. Năm 2003, Thành Diên Khánh đã được trùng tu, sơn sửa bốn cổng và gia cố những nơi bị nứt tường do mưa. Năm 2010 thành được tỉnh triển khai tu bổ và bảo vệ các khu vực xung quanh. Cuối năm 2014 thì nơi đây được xây dựng thành phố đi bộ và phục hồi các công trình có giá trị lịch sử để phục vụ du lịch. Nguồn: Sở văn hoá thể thao tỉnh Khánh Hoà
Khánh Hòa 2704 lượt xem
Khu di tích Tháp Bà Ponagar toạ lạc trên đỉnh một ngọn đồi đá hoa cương sát cửa sông Cái tại phường Vĩnh Phước, TP Nha Trang (Khánh Hoà). Đây là một trong những quần thể kiến trúc tiêu biểu của nền văn hoá Chăm Pa và gần như còn nguyên vẹn qua thời gian... Tổng thể kiến trúc Tháp Bà Ponagar bao gồm 3 cấp, trong đó, cấp thấp nhất nằm ngang bằng mặt đất là ngôi tháp cổng. Cấp thứ 2 có mặt bằng rộng là 2 hàng 10 cột lớn, cùng hai bên là 2 hàng 12 cột nhỏ xung quanh. Chính giữa đặt một bàn thờ, nơi từng diễn ra các hoạt động múa hát của người Chăm cổ vào mỗi dịp hội hè, lễ, Tết. Đây cũng là nơi được gọi là Mandapa với ý nghĩa là nhà khách, dành cho khách hành hương nghỉ ngơi, chuẩn bị lễ vật và sửa soạn trang phục trước khi làm lễ chính thức ở trên tháp. Cấp trên cùng gồm 4 tháp: Tháp chính (còn gọi là dinh Bà, thờ nữ thần Ponagar, tiếng Chăm có nghĩa là Mẹ xứ sở), tháp giữa (dinh Ông), tháp đông (dinh Cố), tháp Tây Bắc (dinh Cô, dinh Cậu). Ở đây, nổi bật nhất là Tháp Bà Ponagar với bốn tầng, tượng trưng cho sắc đẹp, nghệ thuật và sự sáng tạo, bên trong có tượng nữ thần cao 2,6 mét, tạc bằng đá hoa cương màu đen, ngồi trên bệ đá uy nghiêm hình đài sen, lưng tựa phiến đá lớn hình lá bồ đề. Đây là một kiệt tác về điêu khắc Chăm Pa, là sự kết hợp hài hoà giữa kỹ thuật tượng tròn và chạm nổi. Các tháp khác thờ thần Shiva, thần Sanhaka và thần Ganeca. Tháp Bà Ponagar là di tích lịch sử - văn hoá, là công trình tiêu biểu cho nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc dân tộc Chăm trên đất Việt. (Tên gọi Tháp Ponagar được dùng để chỉ chung cho cả công trình kiến trúc này nhưng thực chất nó là tên của ngọn tháp lớn nhất, cao gần 23m). Các tháp ở đây đều được xây bằng gạch, trang trí nghệ thuật bằng chất liệu đá - gốm, nội dung thể hiện gắn liền với các vị thần được thờ. Đặc biệt nhất là những viên gạch xây chồng khít lên nhau mà không cần bất kỳ một loại chất kết dính nào, đây là bí ẩn mà cho đến nay các nhà nghiên cứu vẫn chưa khám phá ra được người Chăm đã làm thế nào để được như vậy. Hàng năm, cứ vào ngày lễ vía Bà (từ 20 đến 23 tháng 3 âm lịch), Khu di tích Tháp Bà Ponagar lại đón hàng vạn du khách tới hành hương. Lễ hội Tháp Bà Ponagar được coi là một trong những lễ hội lớn nhất khu vực Nam Trung bộ và Tây Nguyên. Các nghi lễ chính của lễ hội gồm lễ mục dục (tắm tượng), lễ tế gia quan (lễ thay y) diễn ra vào giờ Ngọ ngày 20-3 (âm lịch), tiếp đến là lễ tế sanh, dâng cúng đồ tế, múa bóng mời Thiên y Thánh mẫu và các bậc thần linh về dự lễ. Theo nghi thức, lễ cúng Thánh mẫu thường mở đầu bằng lễ khai kinh cầu quốc thái dân an. Lễ tế sanh bắt đầu vào giờ Tý đêm 22-3 (âm lịch) do những người cao tuổi thực hiện, sau đó lễ cầu cúng chính thức diễn ra vào lúc 4 giờ sáng ngày hôm sau. Việc hành lễ do chánh lễ, bồi tế, đông hiến, tây hiến và đội học trò thực hiện, lần lượt dâng rượu, dâng trà, đọc văn tế rất cung kính, tôn nghiêm. Sau cùng, từng đoàn người đại diện cho các pa-lei, thôn, xóm đến hành lễ… Một trong những di sản văn hoá phi vật thể độc đáo nhất trong lễ hội vía Bà ở Tháp Bà Ponagar là múa bóng ca ngợi công đức, bày tỏ lòng biết ơn “Mẹ xứ sở”. Các nhà nghiên cứu lịch sử văn hoá nhận định, khoảng từ giữa thế kỷ XVII đến nay, nghi lễ thờ cúng Mẹ xứ sở được người Chăm và người Kinh tổ chức chu đáo tại Tháp Bà Ponagar. Khoảng năm 1653, những lưu dân Việt từ ngoài Bắc, theo chúa Nguyễn vào phương Nam mở cõi, đã dừng chân bên cửa sông Cái (Nha Trang), tạo lập nên làng mạc, xóm thôn… Và chính họ đã mang theo phong tục thờ cúng Mẫu của người Kinh ở vùng châu thổ đồng bằng Bắc Bộ vào đây. Theo thời gian và xu thế phát triển của xã hội, nghi thức lễ hội hiện nay đã có nhiều thay đổi; nhưng dù thế nào, trong ngày lễ trọng, người Kinh vẫn náo nức tổ chức hàng trăm đoàn múa bóng, dâng hoa quả, múa quạt và người Chăm thì tưng bừng vỗ trống ghinăng, paranưng, thổi kèn saranai, say sưa kéo đàn kanhi và hát dân ca… Cả những bữa ăn chung của hàng trăm người, hoan hỉ nói cười, chan hoà niềm vui thái bình, no ấm… Lễ hội Tháp bà Ponagar đã được Bộ VH,TT và DL công nhận là Di sản văn hoá phi vật thể của quốc gia. Để bảo tồn, phát huy giá trị cũng như giới thiệu rộng rãi những nét văn hoá độc đáo của người Chăm đến với du khách, Ban Quản lý Khu di tích Tháp Bà Ponagar đã tổ chức một số vũ công, nhạc công, nghệ nhân của dân tộc Chăm đến đây hàng ngày biểu diễn dệt thổ cẩm, các vũ điệu Chăm... Hiện nay, mỗi ngày Tháp Bà Ponagar thu hút hàng ngàn du khách tới tham quan. Nguồn: Cục du lịch quốc gia Việt Nam
Khánh Hòa 2674 lượt xem
Hai bia chủ quyền trên đảo Song Tử Tây và đảo Nam Yết là một trong những dấu tích cổ xưa trên quần đảo Trường Sa được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia. Cùng với quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa có ý nghĩa là cột mốc tiền tiêu trên biển Đông của Tổ quốc. Trường Sa nằm phía Đông Nam quần đảo Hoàng Sa, với hơn 100 hòn đảo nổi và chìm, đá, cồn cát, san hô và bãi san hô, dàn trải trên một vùng biển từ đông sang tây khoảng 800km. Quần đảo chiếm một diện tích biển khoảng 160.000km2 đến 180.000km2. Đảo gần nhất là đảo Đá Lát, nằm phía tây đảo Trường Sa, cách vịnh Cam Ranh gần 250 hải lý (450km về phía đông), cách đảo Hải Nam (Trung Quốc) trên 600 hải lý. Các đảo có độ cao trung bình so với mặt nước biển từ 3 mét đến 5 mét. Đảo có diện tích lớn nhất là đảo Ba Bình rộng khoảng 0,6km, sau đó đến các đảo Song Tử Tây, Trường Sa, Nam Yết, Sinh Tồn … Trước đây, Trường Sa có tên gọi là Đại Trường Sa, hay Vạn Lý Trường Sa được ghi trong sách Phủ biên tạp lục – quyển sách nổi tiếng của nhà bác học Lê Quý Đôn viết năm 1776 . Bia chủ quyền đảo Song Tử Tây thuộc xã Song Tử Tây, huyện Trường Sa, tỉnh Khánh Hoà. Bia chủ quyền đảo Nam Yết thuộc xã Sinh Tồn, huyện Trường Sa, tỉnh Khánh Hoà. Các chữ trên thân các bia được khắc lõm chìm vào trong, có nội dung được ghi: “Quần đảo Trường Sa trực thuộc tỉnh Phước Tuy. Phái bộ quân sự thị sát nghiên cứu đến viếng quần đảo này ngày 22 tháng 8 năm 1956 dưới sự hướng dẫn của Hải quân Việt Nam”. Các chữ trên thân bia được khắc lõm chìm vào trong, với nội dung: “Quần đảo Trường Sa trực thuộc tỉnh Phước Tuy. Trải qua thời gian cùng những biến động của lịch sử, đến nay chỉ có đảo Song Tử Tây và đảo Nam Yết còn tồn tại bia chủ quyền và đó cũng là 2 bia cũ nhất còn được bảo tồn ở quần đảo Trường Sa hiện nay. Hiện nay, bia chủ quyền tại đảo Song Tử Tây còn khá nguyên vẹn, gồm phần tháp và thân bia; bia chủ quyền tại đảo Nam Yết chỉ còn phần thân. Hai bia chủ quyền này đã được UBND tỉnh Khánh Hòa xếp hạng di tích cấp tỉnh ngày 3/11/2011. Năm 2012, Sở VHTTDL tỉnh Khánh Hòa đã có văn bản đề nghị Bộ VHTTDL công nhận cụm bia chủ quyền nói trên là Di tích lịch sử cấp quốc gia. Ghi nhận những giá trị lịch sử tiêu biểu của di tích và góp phần khẳng định chủ quyền ở quần đảo Trường Sa, ngày 13/6/2014 Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã xếp hạng di tích Bia chủ quyền quần đảo Trường Sa tại đảo Song Tử Tây và đảo Nam Yết là di tích lịch sử Quốc gia. Việc công nhận 2 bia chủ quyền trên đảo Trường Sa là Di tích lịch sử cấp quốc gia không chỉ là lời khẳng định chủ quyền biển đảo của Việt Nam, mà 2 bia này cũng là bằng chứng có giá trị trong việc chứng minh chủ quyền của đất nước ta với thế giới. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Khánh Hòa
Khánh Hòa 2632 lượt xem
09 , Hoàng Diệu, Thành Phố Nha Trang, Khánh Hòa, Việt Nam
Hiệp hội du lịch Khánh Hòa
Chỉ từ : Liên hệ
Giảm giá 0% Travelviet VIP
Giá cuối cùng : Liên hệ
Đảo Hòn Tre, Thành Phố Nha Trang, Khánh Hòa, Việt Nam
Hiệp hội du lịch Khánh Hòa
Chỉ từ : Liên hệ
Giảm giá 0% Travelviet VIP
Giá cuối cùng : Liên hệ
5a Ngô Thời Nhiệm Tân Lập, Nha Trang 650000 Việt Nam
Hiệp hội du lịch Khánh Hòa
Giảm giá 5% Travelviet VIP
Sheraton Nha Trang Hotel & Spa, 26-28 Trần Phú, Lộc Thọ, Nha Trang
Hiệp hội du lịch Khánh Hòa
Giảm giá 10% Travelviet VIP
83 Nguyễn Thị Minh Khai, Phước Hoà, Nha Trang, Khánh Hòa
Hiệp hội du lịch Khánh Hòa
Giảm giá 5% Travelviet VIP
Citadines Bayfront, 62 Trần Phú, Lộc Thọ, Nha Trang, Khánh Hòa
Hiệp hội du lịch Khánh Hòa
Giảm giá 10% Travelviet VIP
144 Võ Trứ, Tân Lập, Nha Trang, Khánh Hòa
Hiệp hội du lịch Khánh Hòa
Giảm giá 10% Travelviet VIP