Phú Thọ được mệnh danh là đất Tổ, không chỉ nổi bật với cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp mà còn là nơi lưu giữ các di tích lịch sử có giá trị văn hóa sâu sắc. Với những công trình văn hóa mang đậm dấu ấn lịch sử, nơi đây là địa chỉ lý tưởng để khám phá những câu chuyện về công lao dựng nước và giữ nước của cha ông. Cùng 63Stravel khám phá 15 di tích lịch sử tại Phú Thọ qua bài viết dưới đây!
Dưới đây là danh sách các di tích lịch sử tại Phú Thọ nổi tiếng lâu đời, du khách có thể ghé đến trải nghiệm và khám phá.
Đình Đào Xá là di tích lịch sử gắn liền với truyền thuyết về Hùng Hải Công - em trai vua Hùng, người có công khai phá đất đai và trị thủy. Được xây dựng từ thời Lê Trung Hưng, đình trải qua nhiều lần trùng tu, đặc biệt là vào năm 1930, để lại dấu ấn kiến trúc độc đáo kết hợp giữa phong cách Hậu Lê và Nguyễn.
Nét cổ kính ở quần thể di tích làng Đào Xá
Nơi đây không chỉ thờ Hùng Hải Công và ba con trai của ông mà còn là minh chứng cho sự linh thiêng với các câu chuyện lịch sử như sự tích Lý Thường Kiệt cầu đảo tại đây để thắng quân Tống. Kiến trúc đình Đào Xá với ba tòa, những chi tiết chạm khắc tinh xảo như "Tứ linh", hoa cúc và các đề tài nông nghiệp, mang đậm bản sắc văn hóa dân gian và sự kính trọng đối với tổ tiên.
Đền thờ Đức Quốc Tổ Lạc Long Quân tọa lạc tại khu di tích Đền Hùng, là một công trình kiến trúc độc đáo. Được xây dựng mới với các họa tiết trang trí lấy cảm hứng từ văn hóa trống đồng Đông Sơn như hình ảnh người giã gạo và chim Lạc.
Kiến trúc đền gồm nhiều hạng mục nổi bật như đền chính, cổng, trụ biểu, phương đình, tả vu, hữu vu và lầu hóa vàng. Tất cả đều mang đậm dấu ấn của kiến trúc truyền thống với các chất liệu như gỗ, đá, và gạch Bát Tràng.
Thăm đền thờ Quốc Tổ Lạc Long Quân Phú Thọ
Đặc biệt, pho tượng Đức Quốc Tổ Lạc Long Quân được đúc bằng đồng, nặng 1,5 tấn, cao 1,98m, cùng với hai tượng tướng lĩnh hầu cận, tạo nên một không gian thờ cúng uy nghi, trang trọng. Đền thờ không chỉ là nơi tri ân công đức các Vua Hùng mà còn là điểm đến ý nghĩa, thể hiện lòng tôn kính và đạo hiếu của con dân đất Việt.
Cụm di tích Đình, đền, miếu Hạ nằm trên khu đất bằng phẳng, thoáng đãng thuộc xã Hương Nha, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ, là nơi thờ Nữ tướng Xuân Nương và Thập bộ Thần quan - những người có công giúp Hai Bà Trưng đánh bại Tô Định. Di tích gồm ba công trình chính: Đình Hạ, Đền Hạ (Miếu Ông) và Miếu Hạ (Miếu Bà), mỗi công trình đều mang những đặc trưng kiến trúc và nghệ thuật riêng biệt, thể hiện rõ dấu ấn của thời kỳ Nguyễn.
Đình Hạ có kiến trúc chữ Đinh với 5 gian, 2 trái, được kết cấu bằng 16 cột gỗ vững chãi, các mảng trang trí nghệ thuật tinh xảo, nổi bật với đề tài “Tứ linh” (Long, Ly, Quy, Phượng).
Đền Hạ xây dựng trên gò đất cao, có kiến trúc kiểu chữ Nhất, với 5 gian thờ dọc, nhiều chi tiết chạm khắc nghệ thuật tinh tế như hình mặt hổ phù, đầu rồng chầu vào nhau.
Miếu Hạ dù nhỏ hơn, cũng thể hiện sự tỉ mỉ trong thiết kế, với các chi tiết chạm khắc cầu kỳ trên cột và xà rồng.
Cụm di tích này không chỉ có giá trị về mặt lịch sử mà còn là một kho tàng nghệ thuật, lưu giữ nhiều hiện vật quý như sắc phong, ngọc phả, các cỗ ngai, kiệu, cùng những bộ đồ thờ tinh xảo, tạo nên một không gian văn hóa tâm linh đậm đà bản sắc dân tộc.
Đầm Vân Hội là điểm đến huyền bí giữa lòng núi rừng Phú Thọ như một bức tranh thiên nhiên thơ mộng của miền Bắc. Tại đây, bạn có thể ngả mình thư giãn trên thảm cỏ mượt mà, tận hưởng sự tĩnh lặng tuyệt đối, nơi mà mọi ồn ào dường như biến mất, nhường chỗ cho không gian yên bình của Đầm Vân Hội.
Đầm Vân Hội - "Lá phổi xanh" nơi cửa ngõ vùng Tây Bắc
Khung cảnh nơi này là sự giao hòa hoàn hảo giữa núi non hùng vĩ và mặt hồ phẳng lặng, mênh mông. Những âm thanh thiên nhiên như tiếng chim hót, tiếng cuốc kêu vọng từ xa, hay tiếng mái chèo khua nhẹ trên mặt nước làm bạn cảm nhận được sự sống động nhưng cũng đầy thanh tịnh của đất trời nơi đây. Đầm Vân Hội không chỉ là một điểm đến, mà là một trải nghiệm sống chậm giữa thiên nhiên tươi đẹp.
Đền Mẫu Âu Cơ Phú Thọ là một địa điểm du lịch tâm linh nổi tiếng, thu hút du khách bởi truyền thuyết và nét văn hóa đặc sắc. Nằm ở xã Hiền Lương, huyện Hạ Hòa, đền được xây dựng từ thời Hậu Lê và là nơi tưởng niệm Mẫu Âu Cơ – mẹ của 100 người con, trong đó 50 người theo mẹ lên đất liền, còn người con cả trở thành Hùng Vương.
Ngôi đền nổi bật với kiến trúc cổ kính, bao gồm pho tượng Âu Cơ trang nghiêm và nhiều cổ vật quý giá. Hàng năm, lễ hội Đền Mẫu Âu Cơ diễn ra vào dịp Tết Nguyên Đán, thu hút đông đảo du khách đến tham gia và cầu may mắn.
Căn cứ Tiên Động là nơi ghi dấu một phần quan trọng trong cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Quang Bích – vị lãnh tụ có tầm nhìn sâu rộng và bản lĩnh kiên cường. Là một văn thân "trung quân, ái quốc", ông đã từ bỏ vinh hoa, chấp nhận sống trong cảnh thiếu thốn và gian nan để cùng nghĩa quân xây dựng căn cứ kháng chiến nơi vùng rừng núi hiểm trở.
Căn Cứ Tiên Động Đền Ngô Quang Bích Xếp hạng Di tích cấp quốc gia
Chính tại đây, với hiểu biết chiến lược và kinh nghiệm trận mạc dày dặn, Nguyễn Quang Bích đã tận dụng lợi thế địa hình, xây dựng một hệ thống phòng thủ kiên cố, biến Tiên Động thành một căn cứ vững chắc, chống lại những đợt tấn công dữ dội của quân Pháp. Căn cứ này không chỉ là một di tích lịch sử mà còn là minh chứng hùng hồn cho tài năng quân sự và lòng quả cảm của ông.
>> Xem thêm: [Tổng hợp] Khám phá 15+ điểm du lịch tại Phú Thọ đáng trải nghiệm
Đền Lăng Sương gắn liền với thời đại Hùng Vương dựng nước và giữ nước, là một ngôi đền cổ kính đầy linh thiêng. Nơi đây không chỉ nổi bật với các cổ vật quý giá như Ngọc Ấn, Ngọc Phả mà còn lưu giữ nhiều di tích đặc sắc như phiến đá quỳ, giếng Thiên Thanh, hòn đá nén bụng và âu nước tắm.
Đặc biệt, phiến đá quỳ vẫn còn in rõ dấu vết của Mẫu Đinh Thị Đen - người đã quỳ khi sinh ra Thánh Tản Viên Sơn, tạo nên một dấu ấn thiêng liêng khó phai. Giếng Thiên Thanh dù chỉ sâu 3m, luôn giữ được sự trong vắt và đầy nước quanh năm, càng làm nổi bật sự huyền bí của ngôi đền.
Kiến trúc của Đền Lăng Sương, với mái ngói thâm nâu vững chãi, không chỉ là một di tích lịch sử mà còn là một bảo vật văn hóa, thu hút du khách đến tham quan, chiêm bái, đặc biệt là khi nghe kể về những huyền tích xung quanh Đức Thánh. Được xếp hạng di tích quốc gia từ năm 2005, Đền Lăng Sương hiện nay vẫn giữ được vẻ cổ kính, cùng với không gian rộng rãi, là nơi diễn ra các lễ hội hấp dẫn vào ngày 15 tháng Giêng và ngày 25 tháng 10 âm lịch, thu hút đông đảo du khách và người dân tham gia các trò chơi dân gian đặc sắc.
Đình Lâu Thượng là một trong những ngôi đình có giá trị lịch sử và văn hóa đặc biệt, được xây dựng từ thời Hùng Vương và giữ gìn nhiều di sản quý báu. Với kiến trúc hình chữ Đinh, ngôi đình bao gồm một tòa đại bái 5 gian và phần hậu cung 3 gian, dài 28m và rộng 22m.
Đình Lâu Thượng- Di tích lịch sử văn hóa nổi bật của tỉnh Phú Thọ
Được xây dựng vào thời Hậu Lê (1427-1789), Đình Lâu Thượng không chỉ nổi bật với vẻ đẹp kiến trúc, mà còn mang đậm dấu ấn văn hóa dân gian qua những bức chạm tinh xảo, mô tả các tích truyện về Cao Sơn Đại Vương, Quý Minh Đại Vương và Hai Bà Trưng. Những hình ảnh như "Lưỡng long chầu nguyệt", "Quần long hội tụ" hay "Mẫu long huấn tử" không chỉ thể hiện tài nghệ điêu khắc tuyệt vời mà còn phản ánh tinh thần yêu nước, lòng tôn kính đối với các bậc tiền nhân.
Khuôn viên đình còn có Miếu Vật, nơi gắn liền với truyền thuyết Tản Viên Sơn Thánh rèn quân, càng làm tăng thêm sự linh thiêng và huyền bí của di tích. Với những giá trị lịch sử, văn hóa và nghệ thuật đặc sắc, Đình Lâu Thượng đã được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia vào năm 1975.
Làng cổ Hùng Lô nằm yên bình bên bờ sông Lô thơ mộng, cách trung tâm thành phố Việt Trì chỉ khoảng 5km, là một trong những điểm đến không thể bỏ qua với những di tích lịch sử và văn hóa đặc sắc. Quần thể di tích Đình Hùng Lô (hay Đình Xốm) tọa lạc trên diện tích 5000m², gắn liền với truyền thống của trang Khả Lãm cổ xưa, hiện nay thuộc xã Hùng Lô.
Đình làng Hùng Lô được xây dựng vào thời Hậu Lê dưới triều vua Lê Hy Tông, là một bảo tàng sống của nền văn hóa nghệ thuật dân gian, nơi lưu giữ các giá trị tinh thần của cộng đồng qua các thế hệ. Khu đình bao gồm tòa Đại Đình, Phương đình, Lầu chuông, Lầu trống và nhà Tiền Tế, tất cả đều được làm từ các loại gỗ quý như Đinh, Lim, Sến, Táu, thông mật, và mít, với mái lợp ngói mũi hài truyền thống.
Những tác phẩm điêu khắc nghệ thuật tinh xảo trên gỗ và gốm tại tòa Đại Đình không chỉ thể hiện tay nghề điêu luyện mà còn phản ánh vẻ đẹp văn hóa đặc trưng của thời kỳ Hậu Lê. Khi đến thăm, du khách không chỉ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp kiến trúc độc đáo mà còn cảm nhận được hồn cốt văn hóa dân gian vẫn còn vẹn nguyên qua từng công trình.
Khu di tích Tượng đài chiến thắng sông Lô tọa lạc trên đỉnh núi Đồn, bao trùm một diện tích rộng lớn lên đến 19.300 m², với phần tượng đài chính chiếm 2.000 m². Được xây dựng với mục tiêu tưởng niệm chiến công oanh liệt, di tích này có quy hoạch tinh xảo, với mặt bằng kè đá được xây dựng hình cánh cung vươn cao về phía trước. Đứng trên tượng đài, du khách có thể chiêm ngưỡng toàn cảnh vùng đất rộng lớn, nơi hai dòng sông Chảy và sông Lô hòa quyện vào nhau, tạo nên một cảnh quan hùng vĩ.
Tượng đài gồm hai phần: Đài và Tượng. Đài cao 26m, vững chãi như một biểu tượng của sức mạnh và niềm tự hào dân tộc, trong khi tượng tập thể cao 7m, được làm bằng bê tông cốt thép sơn màu đồng, khắc họa hình ảnh 5 chiến sĩ ưu tú, đại diện cho các lực lượng đã anh dũng chiến đấu, góp phần làm nên chiến thắng lịch sử sông Lô. Xung quanh đài là 8 bức phù điêu sống động, mô tả các chiến thắng vĩ đại trong trận đánh sông Lô và khắc họa đậm đà hình ảnh của con người và truyền thống Đoan Hùng.
Tượng đài chiến thắng sông Lô – Bản hùng ca bất diệt
Ở giữa sườn núi Đồn là một nhà trưng bày hiện vật, tái hiện những chiến tích oai hùng của trận đánh, phục vụ cho công tác nghiên cứu và giáo dục truyền thống yêu nước, đón tiếp khách tham quan trong và ngoài nước. Sự kiện chiến thắng sông Lô, diễn ra vào ngày 24/10/1947, không chỉ đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, mà còn mở ra một loạt chiến thắng lớn của quân và dân Việt Bắc. Những chiến sĩ, dân quân trong trận chiến lịch sử này đã sáng tạo chiến thuật độc đáo, như việc sử dụng "thủy lôi" chế tạo từ quả bưởi, khiến quân Pháp hoang mang và thất bại thảm hại.
Tượng đài chiến thắng sông Lô được khánh thành vào năm 1987 nhân dịp kỷ niệm 40 năm chiến thắng. Là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia, ghi dấu chiến công lừng lẫy của quân và dân Phú Thọ, đồng thời là nơi giáo dục lòng yêu nước, truyền thống đấu tranh kiên cường cho các thế hệ mai sau.
Đình Thạch Khoán thờ Tản Viên Sơn Thánh - vị thần biểu tượng cho sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc. Đình cũng thờ ba công chúa của Vua Hùng cùng các vị thổ tù họ Đinh, những người có công giúp vua Lê Thái Tổ đánh giặc Minh.
Đình được xây dựng vào đầu thế kỷ XX mang hình chữ "Nhất", với 5 gian và hai dĩ, hướng về núi Ba Vì. Cổng đình được hoàn thành trong khoảng thời gian 1930-1940 và qua nhiều lần trùng tu, vẫn bảo tồn được những hoành phi, sắc phong quý giá. Năm 2001, đình được công nhận là Di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia.
Quần thể lộc vừng tại Gò Thờ, xã Chương Xá, huyện Cẩm Khê, được công nhận là cây di sản, là điểm đến không thể bỏ qua khi đến Phú Thọ. Cách trung tâm tỉnh khoảng 40km, quần thể này tạo nên một khung cảnh huyền bí như một khu rừng rậm rạp, ẩn chứa vẻ đẹp thiên nhiên hoang sơ.
Đẹp ngỡ ngàng quần thể lộc vừng trăm tuổi ở Phú Thọ
Theo Hội bảo vệ thiên nhiên và môi trường Việt Nam, quần thể lộc vừng có hơn 80 cây, nằm trên một quả gò rộng chỉ khoảng 500m², ở vùng đầm Láng Chương (hay còn gọi là gò Vình). Mặc dù không có tài liệu chính thức ghi chép cụ thể, nhiều người tin rằng những cây lộc vừng ở đây đã tồn tại hơn 1.000 năm, chứng kiến bao đổi thay của đất trời.
Đền Tam Giang tọa lạc bên bờ tả ngạn ngã ba sông Hồng, sông Lô và sông Đà, là một di tích lịch sử văn hóa quan trọng của Phú Thọ. Nơi đây không chỉ có đền Tam Giang mà còn là cụm di tích thống nhất, bao gồm đền Mẫu, chùa Đại Bi và tượng đài Chiêu Văn Vương.
Cụm di tích Đền Tam Giang chùa Đại Bi Phú Thọ - Chốn linh thiêng nơi 3 con sông gặp nhau
Đền thờ ba vị thần: Thổ Lệnh Cao quan Bạch Hạc Đại Vương, Thánh Mẫu Quách A Nương, và Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật. Kiến trúc của đền được xây dựng theo lối Bắc Bộ với mái cong, trang trí tỉ mỉ và sang trọng. Điểm đặc biệt của đền là các hiện vật lịch sử, trong đó có chuông đồng cổ và dấu chân thần Thổ Lệnh, thu hút hàng nghìn du khách đến tham quan mỗi năm.
>> Xem thêm: Đi du lịch tại Phú Thọ thì mua gì về làm quà?
Miếu Lãi Lèn nằm ở xã Kim Đức, huyện Phù Ninh, Phú Thọ, là ngôi miếu cổ gắn liền với sự hình thành và phát triển của điệu hát Xoan. Theo truyền thuyết, miếu được lập để tưởng nhớ công ơn Vua Hùng truyền dạy hát Xoan cho trẻ em làng Kim Đức.
Miếu Lãi Lèn - Di tích gốc phát tích di sản văn hóa phi vật thể hát Xoan Phú Thọ
Miếu có kiến trúc truyền thống với mái cong và chạm khắc tứ linh. Nơi đây không chỉ là điểm đến du lịch mà còn là trung tâm tín ngưỡng thờ Tam vị Thánh Vương và bảo tồn văn hóa Hùng Vương. Miếu Lãi Lèn là nơi thu hút du khách đến tham gia lễ hội hàng năm và tìm hiểu về di sản văn hóa đặc sắc của vùng đất Tổ.
Đền Tiên là nơi thờ Thủy Tổ Quốc Mẫu - người mẹ sinh thành Lạc Long Quân và bà nội các Vua Hùng. Ngôi đền cổ kính này không chỉ là nơi ghi dấu truyền thuyết về Hoàng hậu của Vua Kinh Dương Vương, mà còn là điểm đến tâm linh quan trọng trong hành trình trở về cội nguồn dân tộc. Được xây dựng tại ngã ba sông Hồng, Lô và Đà, đền Tiên tựa lưng vào núi, phía trước là nơi tụ thủy, mang đậm linh khí của đất trời.
Kiến trúc đền Tiên nổi bật với lối xây dựng theo hình chữ "Đinh", mái ngói mũi hài với những họa tiết rồng chầu trống đồng, tạo nên vẻ đẹp cổ kính nhưng không kém phần tinh tế. Đi vào bên trong, du khách sẽ cảm nhận được không gian trang nghiêm, với các hoa văn trống đồng, hoành phi, câu đối và các tượng thờ thể hiện khí phách của thời Hùng Vương.
Đặc biệt, bức phù điêu phía sau tượng thờ Quốc Mẫu khắc họa cảnh làng quê Việt, mang lại cảm giác bình yên và đậm đà bản sắc dân tộc. Lễ hội đền Tiên diễn ra vào ngày sinh và ngày hóa của Quốc Mẫu, thu hút nhiều du khách và tín đồ về tham dự, tưởng nhớ công ơn của Người.
Vườn Quốc gia Xuân Sơn nằm tại huyện Tân Sơn, Phú Thọ, là một khu sinh thái độc đáo với địa hình núi đá vôi đặc trưng. Với diện tích hơn 15.000 ha, đây là một trong những khu bảo tồn quan trọng nhất của Việt Nam, được mệnh danh là "lá phổi xanh" của vùng đất Tổ.
Với hệ sinh thái rừng nguyên sinh phong phú, nơi đây sở hữu một sự đa dạng sinh học ấn tượng, bao gồm 365 loài động vật. Trong đó, có nhiều loài quý hiếm như gấu, hổ và vượn, cùng với 726 loài thực vật, trong đó nhiều loài nằm trong Sách đỏ Việt Nam và Thế giới.
Vườn quốc gia Xuân Sơn – điểm du lịch xanh không thể bỏ qua khi tới Phú Thọ
Vườn Quốc gia Xuân Sơn không chỉ nổi bật với sự phong phú của động thực vật mà còn sở hữu những cảnh quan thiên nhiên tuyệt đẹp. Ba đỉnh núi cao trên 1.000m, như núi Voi, núi Ten và núi Cẩn, được bao quanh bởi hàng trăm hang động kỳ bí và những thác nước hùng vĩ. Các con suối như suối Lấp và suối Thang cùng những thác nước cao trên 50m tạo nên một khung cảnh vừa hoang sơ, vừa thơ mộng, hòa quyện hoàn hảo với màu xanh của rừng già.
Không chỉ có thiên nhiên tươi đẹp, Xuân Sơn còn là nơi sinh sống của các dân tộc thiểu số giữ gìn được bản sắc văn hóa đặc trưng như trang phục truyền thống, lễ hội và các nghề thủ công truyền thống như đan lát, thêu thổ cẩm, dệt vải. Những nét đẹp văn hóa này góp phần làm nên vẻ đẹp riêng biệt, khiến Xuân Sơn trở thành điểm đến hấp dẫn cho những ai yêu thích khám phá thiên nhiên và văn hóa.
Đền Du Yến hay còn gọi là Đền Mẫu, tọa lạc tại khu Bổng Châu Thượng, nay thuộc khu 2, xã Chí Tiên, huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ. Được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận là di tích kiến trúc - nghệ thuật quốc gia vào năm 1993, đền Du Yến là một công trình lịch sử, gắn liền với truyền thuyết về Ngọc Loan công chúa - một nữ tướng tài ba đã giúp Hai Bà Trưng đánh đuổi quân xâm lược.
Đền nằm trên đồi Bạch Hổ, cao khoảng hai chục mét so với mặt ruộng, với thế đất tựa chiếc yên ngựa, nối với gò Sơn Ngọc. Phía trước đền là dòng sông Hồng rộng lớn, phía sau là khu đất bao quanh hồ sen, với các đồi Bá Nang và Phượng Hoàng tạo thành thế tả thanh long, hữu bạch hổ, theo quan niệm phong thủy, đây là thế đất cát lợi dành cho các bậc đế vương.
Theo truyền thuyết, ngôi đền có từ đầu thế kỷ I, ban đầu chỉ là một miếu thờ đơn sơ, nhưng qua thời gian, đã được xây dựng và trùng tu thành một công trình khang trang với tòa tiền tế 5 gian, tòa hậu cung 3 gian như hiện nay. Trong đền hiện còn lưu giữ nhiều hiện vật quý giá như các pho tượng gỗ tạc tinh xảo, ngai thờ, kiệu bát cống, đồ chấp kích, bát bửu, thể hiện giá trị nghệ thuật và văn hóa truyền thống của dân tộc.
Đền Hùng nằm tại Phú Thọ, là một trong những điểm du lịch văn hóa nổi bật, thu hút du khách trong và ngoài nước, đặc biệt vào ngày Giỗ tổ Hùng Vương (mùng 10 tháng 3 Âm lịch). Nơi đây thờ các vua Hùng, những vị tổ tiên có công dựng nước và là nơi hành hương của những người con đất Việt.
Đền Hùng - Chốn linh nghiêm nguồn cội của dân tộc
Khu di tích với địa thế hùng vĩ, có 4 đền, 1 chùa và 1 lăng, bao quanh là cảnh thiên nhiên tươi đẹp. Đền Hùng không chỉ là di sản văn hóa quan trọng mà còn là minh chứng cho truyền thống lịch sử lâu đời của dân tộc Việt Nam.
Các di tích lịch sử tại Phú Thọ không chỉ là những địa danh thiêng liêng mà còn là những minh chứng sống động cho nền văn hóa, lịch sử của dân tộc Việt Nam. Từ Đền Hùng đến các di tích khác, mỗi điểm đến đều mang trong mình giá trị lịch sử và văn hóa đặc biệt. Hy vọng bài viết này sẽ là nguồn cảm hứng và cẩm nang hữu ích cho bạn trong hành trình khám phá vùng đất tổ Phú Thọ đầy tự hào và ý nghĩa.
Phú Thọ 7219 lượt xem
Ngày cập nhật : 08/11/2024
Để đến khu du lịch Đại Lải, bạn nên đi vào mùa hè, khoảng thời gian từ tháng 4 đến tháng 9. Đây là lúc thích hợp để đi tránh nóng, Đại Lải sẽ có nắng đẹp vào ban ngày và se se lạnh vào ban đêm, không khí luôn được điều hoà vì xung quanh có rất nhiều rừng xanh bao bọc, cực kì thích hợp với các hoạt động vui chơi ở đây như đua thuyền, đạp vịt, du thuyền quanh hồ. Đại Lải cách Hà Nội khoảng 60km nên có thể đi đến đây bằng ô tô hoặc xe máy khá dễ dàng và thuận tiện. Nếu xuất phát từ Hà Nội, bạn đi theo hướng quốc lộ 2, sau khi đi qua điểm soát vé Thăng Long-Nội Bài, đến ngã tư đầu tiên thì rẽ trái, đến chặng Xuân Hoà thì rẽ phải rồi đi thẳng tiếp khoảng 10km là đến nơi. Vì khoảng cách cũng không xa nên bạn có thể đi bằng xe máy, nhưng cần chú ý trên đường đi để đảm bảo an toàn cho bản thân. Hồ Đại Lải rộng 525 ha, xung quanh bát ngát màu xanh của cả một rừng cây phòng hộ. Từ bãi tắm dưới hồ có thể lên đỉnh núi Thằn Lằn ở phía nam để ngắm cảnh từ trên cao, xa xa là dãy núi Tam Đảo huyền ảo. Bên cạnh đó, du khách có thể đi thăm những làng bản của người Sàn Dìu để khám phá thêm về phong tục tập quán, thưởng thức các món ăn dân tộc vô cùng đặc sắc và thú vị. Đảo Ngọc, hay còn có tên gọi khác là đảo Chim, nằm giữa lòng hồ Đại Lải là nơi tụ họp của hàng trăm loài chim khác nhau từ khắp nơi bay về, khiến cho nơi đây giống như một bức tranh thiên nhiên đầy sống động mà hiếm nơi nào có được. Đến Đại Lải, bạn có thể tham gia vào rất nhiều những hoạt động thú vị ngoài trời như tắm hồ, đạp vịt, đi thuyền tới tham quan các đảo xung quanh hồ Đại Lải, ngắm cảnh chụp hình và đến thăm vùng rừng núi xanh mát. Các bạn sẽ có những trải nghiệm khó quên khi được vẫy vùng trong làn nước mát hay vừa thảnh thơi đạp vịt vừa ngắm cảnh non nước mây trời. Vì du lịch Đại Lải Vĩnh Phúc gần đây rất phát triển nên các nhà nghỉ cũng mọc lên khá nhiều. Để tìm kiếm một nơi ở lại qua đêm dịch vụ tốt, giá cả hợp lí cũng không quá khó khăn, tuy nhiên bạn nên đặt phòng trước vì rất dễ bị hết phòng. Đặc biệt gần đây có khu resort Flamingo Đại Lải cũng được rất nhiều người ưa chuộng vì sự kết hợp giữa cảnh sắc thiên nhiên với kiến trúc do con người sáng tạo. Ngoài những đồ ăn ngon còn có các dịch vụ, trò chơi vô cùng hấp dẫn. Bạn được tận hưởng mọi thứ theo chuẩn khách sạn 5 sao và hơn thế nữa : hồ bơi, bida, tenis, sân golf, thuyền, vườn… tuy nhiên giá cả cũng khá cao so với những nơi nghỉ ngơi khác.
Phú Thọ 4822 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Đền Hùng là nơi thờ cúng 18 đời vua Hùng Vương và tôn thất của nhà vua, những người đã có công dựng nước, được xem là Tổ tiên của dân tộc Việt Nam. Xưa kia vùng đất này là kinh đô của nước Văn Lang, được bao bọc bởi hai dòng sông và những dãy núi non trùng điệp. Chính địa thế đó đã khiến nơi đây có nhiều sông ngòi, ao hồ, núi đồi và phù sa màu mỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho con người định canh định cư, đồng thời cũng dễ dàng phòng thủ, hoặc rút lui trong trường hợp xảy ra xung đột. Theo các tài liệu khoa học, quần thể Đền Hùng bắt đầu được xây dựng trên núi Hùng từ thời vua Đinh Tiên Hoàng (năm 968 – 979). Sau đó, đến khoảng thế kỷ XV, dưới thời Hậu Lê, toàn bộ khu di tích được xây dựng hoàn chỉnh theo quy mô như hiện nay. Đền Hùng có tổng diện tích 845 ha với 4 ngôi đền, 1 ngôi chùa, 1 lăng cùng nhiều hạng mục kiến trúc khác, phân bố từ chân núi lên đến đỉnh núi, hài hòa với tổng thể cảnh quan hùng vĩ. Qua thời gian, nhiều di tích trong quần thể Đền Hùng đã được tôn tạo và xây dựng bổ sung nhưng vẫn giữ được nét cổ kính, nghiêm trang. Suốt hàng ngàn năm qua, Đền Hùng Phú Thọ là biểu tượng linh nghiêm, tôn kính, gắn liền với đời sống văn hóa tín ngưỡng của dân tộc. Lễ Giỗ tổ Hùng Vương được tổ chức vào mùng 10 tháng 3 Âm lịch hàng năm đã đi vào tiềm thức mỗi người Việt Nam với câu ca dao “Dù ai đi ngược về xuôi – Nhớ ngày Giỗ Tổ mồng mười tháng ba”. Hàng năm đến ngày này, hàng triệu người Việt Nam thuộc các thế hệ “con Rồng cháu Tiên” lại nô nức về với đất Tổ để dâng hương tại Đền Hùng nhằm bày tỏ lòng thành kính tri ân đến Tổ tiên, nhớ về cội nguồn dân tộc và cầu mong bình an, sức khỏe cùng những điều tốt đẹp. Với giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học đặc biệt, Đền Hùng được xếp hạng là khu di tích quốc gia đặc biệt theo Quyết định số 1272/QĐ-TTg, ngày 12/8/2009 của Thủ tướng Chính phủ. Có thể nói, Đền Hùng là nơi hội tụ những giá trị văn hóa tâm linh sâu sắc của cộng đồng dân tộc Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử. Điều này thể hiện hết sức cụ thể, sinh động thông qua tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và lễ hội Đền Hùng. Lễ hội Đền Hùng là lễ hội lớn ở Việt Nam mang tầm vóc quốc gia, thu hút sự quan tâm của tất cả những người Việt Nam chảy trong mình dòng máu “con Rồng cháu Tiên”, dù đang sống trong nước hay ở nước ngoài. Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương từ năm 2012 chính thức được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại nhờ những giá trị độc đáo và riêng biệt. Đây là dấu mốc quan trọng và vinh dự to lớn không chỉ với người dân đất Tổ mà còn với cả dân tộc.
Phú Thọ 5817 lượt xem
Tháng 2 đến tháng 4
Từ xa xưa, thờ Mẫu đã trở thành nét đẹp tiêu biểu trong văn hóa của người Việt. Nhiều nhà sử học cho rằng, mỹ tục này xuất phát từ mảnh đất Hiền Lương (huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ), nơi có đền thờ Tổ Mẫu Âu Cơ. Dưới tán lá sum suê của cây đa cổ thụ, không biết bao nhiêu thế hệ con cháu Lạc Hồng đã từng dâng hương tỏ lòng thành kính với mẹ Âu Cơ và kể cho nhau nghe truyền thuyết về người mẹ vĩ đại của dân tộc. Tục truyền rằng, ngày nàng Âu Cơ chào đời ở động Lăng Xương (nay thuộc huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ) có mây lành che chở, hương thơm tỏa ngát khắp không gian. Lớn lên, nàng xinh đẹp, thông minh hơn người, chăm đọc chữ, giỏi đàn sáo, lại tinh thông âm luật. Sau khi kết duyên với Lạc Long Quân – con trai của Kinh Dương Vương, nàng Âu Cơ sinh hạ một bọc trứng, nở thành một trăm người con. Một ngày, thấy các con đã lớn khôn, Lạc Long Quân nói với mẹ Âu Cơ: “Ta là giống Rồng, nàng là giống Tiên, tuy khí âm dương hợp lại mà thành trăm con, nhưng chung hợp thật khó vì dòng giống bất đồng”. Nói xong, Lạc Long Quân dẫn 50 con xuống biển. Mẹ Âu Cơ đưa 50 con lên non, đi đến đâu cũng thu phục nhân tâm, khai phá rừng hoang. Một ngày, đi qua Hiền Lương, nơi có núi cao, đồng rộng, sông dài, Mẹ liền cho khai hoang, dạy dân cấy lúa, trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải. Khi trang ấp đã tươi đẹp, Mẹ vội vã đi đến vùng đất mới. Sau này, mẹ Âu Cơ trở về Hiền Lương, gắn bó suốt phần đời còn lại với nơi này. Ngày 25 tháng chạp năm Nhâm Thân, mẹ Âu Cơ bay về trời, để lại dưới gốc đa dải yếm lụa. Ở đó, nhân dân đã dựng lên ngôi miếu thờ phụng, đời đời tưởng nhớ Quốc Mẫu. Đền thờ Tổ Mẫu Âu Cơ chính thức được xây dựng dưới triều vua Lê Thánh Tông (1442 – 1497). Thần tích của đền ghi lại rằng, ngôi đền nằm ẩn dưới gốc đa cổ thụ, mặt quay về hướng chính nam, bên tả có giếng Loan, bên hữu có giếng Phượng, phía trước có núi Giác đẹp như một án thư, sau lưng sông Hồng uốn khúc như rồng thiêng bao bọc. Trải qua hơn năm thế kỷ, đền Mẫu xuống cấp nghiêm trọng. Năm 1998, Đảng bộ và nhân dân Hiền Lương tiến hành trùng tu ngôi đền. Ngôi đền không rộng lớn, đồ sộ nhưng lại được đánh giá cao về mặt nghệ thuật. Khách tham quan có thể tìm thấy ở đây nhiều di vật như tượng Tổ Mẫu Âu Cơ, tượng Đức Ông Đột Ngột Cao Sơn hay các bức chạm tinh tế trên cửa võng, xà ngang, diềm chung quanh cửa thượng cung. Hiện nay, đền chính có bố cục theo kiểu chữ Đinh với ba gian hậu cung và năm gian đại bái. Đền thờ Mẫu Âu Cơ kết hợp với chùa Linh Phúc tạo thành một quần thể di tích có sức hút đặc biệt với du khách thập phương. Bà Nguyễn Thị Tuyết Mai, Trưởng Ban Quản lý Khu di tích Đền Mẫu Âu Cơ cho biết: “Được sự đồng ý của chính quyền, chúng tôi đang nhanh chóng khôi phục đình thờ Đức Ông Đột Ngột Cao Sơn (người con thứ hai của Mẫu) nằm cách đền Mẫu 500m về phía đông để đáp ứng nhu cầu tham quan, tín ngưỡng của nhân dân”.
Phú Thọ 3822 lượt xem
Tháng 2 đến tháng 5
Cách Đền Mẫu Âu Cơ 8km, điểm du lịch Ao Giời - Suối Tiên nằm trên núi Nả thuộc xã Quân Khê, huyện Hạ Hoà. Đây là điểm du lịch với vẻ đẹp hoang sơ, có không khí trong lành, mát mẻ, thích hợp với những du khách ưa khám phá. Theo truyền thuyết, sáng ngày 7 tháng giêng, Mẹ Âu Cơ đã đi về hướng Tây lên núi Nỏ, sau này gọi là núi Nả gặp một khe đá, Mẹ đi ngược theo triền đá gặp một bầy tiên nữ đem xiêm váy xuống cho Mẹ thay và đón Mẹ về trời theo lệnh của Ngọc Hoàng. Dòng nước Mẹ tắm chảy xuống chân núi, tạo thành một con suối, người đời sau gọi là Ao Giời- Suối tiên và ai được tắm ở Ao Giời - Suối Tiên trong 3 năm sẽ có làn da trắng mịn như ngọc, khuôn mặt sáng đẹp như trăng rằm. Đường tới Ao Giời - Suối Tiên hai bên có rất nhiều đỉnh núi lớn, nhỏ trong đó núi Nả cao vượt lên so với những ngọn núi xung quanh. Du khách tới thăm quan có thể đi theo 2 ngả chính để đi thăm Ao Giời, Giếng Bụt, Vực Xanh, Động Tiên, động Không đáy, Thác Bàn cờ, Cánh Tiên. Suối Tiên bắt nguồn từ trên núi Nả, chảy qua các khe đá như dải lụa trắng bạc, vắt ngang sườn núi, nổi bật giữa màu xanh mượt mà của núi rừng xen lẫn màu xanh của mây trời, tạo nên khung cảnh vừa thơ mộng vừa gần gũi. Nước chảy từ trên núi Nả qua nhiều tầng thác xuống dòng suối trong vắt. Lòng suối dày kín lớp sỏi đá và cát vàng làm cho nước suối được thanh lọc tinh khiết, trong vắt, lấp lánh ánh mặt trời phản chiếu. Đầu nguồn của con suối có Giếng Tiên, từ đáy giếng, dòng nước phun lên mát lạnh, ngọt ngào tạo thành Suối Tiên. Suối Tiên quanh co chảy qua nhiều tầng, bậc tạo nên nhiều thác nước thẳng đứng. Suốt chiều dài con suối có rất nhiều thác nước, một số thác cao 20m, ngày đêm tung bọt trắng xóa, trong đó có thác Bàn Cờ, Cánh Tiên là những thác đẹp nhất. Hai bên suối được phủ một màu xanh dày đặc của các loài cây nhiệt đới, chen chúc nhau tầng tầng, lớp lớp. Khung cảnh hoang sơ, không khí trong lành tạo nên hệ động thực vật phong phú ở Ao Giời, Suối Tiên. Dưới chân các thác nước cao là những phiến đá khổng lồ, trải qua thời gian dài bị xói mòn, đã thành những chiếc ao nhỏ mà đáy ao là cả một phiến đá, làm nên vẻ đẹp riêng có ở nơi đây. Ao Giời - Suối Tiên còn nguyên dạng hoang sơ, có tiềm năng du lịch dồi dào, có thể phát triển các loại hình leo núi, cắm trại, nghỉ dưỡng và nghiên cứu khoa học bởi hệ thực vật ở đây rất đa dạng và phong phú. Hiện nay, đường vào điểm du kịch này đã được trải nhựa, thuận tiện cho du khách có những trải nghiệm thú vị tại nơi đây.
Phú Thọ 4009 lượt xem
Tháng 3 đến tháng 11
Theo kinh nghiệm du lịch vườn quốc gia Xuân Sơn, đi du lịch ở đây vào thời gian nào cũng hợp lý bởi mỗi mùa có mỗi vẻ đẹp khác nhau. Vào mùa khô, con đường dễ đi, có thể hạn chế được nhiều rủi ro hơn, phong cảnh tươi mát hơn và thuận lợi cho việc đi chơi hơn. Nhưng vào mùa mưa, mặc dù đường vào vườn quốc gia Xuân Sơn có thể hơi khó đi nhưng du khách sẽ được chiêm ngưỡng dòng thác chảy rì rào, kì vĩ và mạnh mẽ hiếm hoi. Tùy vào nhu cầu sử dụng của mỗi người mà lượng đồ dùng mang theo có thể nhiều ít khác nhau. Vì ở gần điểm du lịch này không có nhiều quán tạp hóa hay nơi cung cấp dịch vụ tiêu dùng nên du khách phải chủ động mang theo áo quần, vật dụng cá nhân, đồ ăn(bánh kẹo, mì tôm, sữa…), giày dép..vv… Nếu cẩn thận hơn hãy mang theo sạc pin dự phòng của điện thoại hoặc máy ảnh. Khi đến Vường quốc gia Xuân Sơn, Đầu tiên, chúng ta phải kể đến: Hang Na, Hang Lạng, Hang Lun, hang Thiên Nga, hang Thổ Thần với nhiều cảnh đẹp hoang dã, mát mẻ, gần gũi với con người nhưng không kém phần kì ảo, huyền bí. Tiếp đó là thăm các bản làng ở vườn quốc gia Xuân Sơn để tìm hiểu văn hóa, cuộc sống nguyên sơ, dung dị, những tập tục độc đáo của người dân nơi đây. Cùng họ trải nghiệm những công việc hằng ngày như đan lát đồ dùng, dệt thổ cẩm hay ủ men nấu rượu, đánh bắt cá ở những con suối gần bản..vv…đảm bảo những hoạt động này sẽ không kém phần hấp dẫn, thú vị. Sau đó, bạn hãy dạo quanh chợ một vòng, trong chợ bày bán nhiều mặt hàng của người dân tộc để bạn có thể tha hồ lựa chọn những đồ vật ý nghĩa làm quà cho bạn bè, người thân hoặc sử dụng vào nhu cầu của mình. Nếu đi về trong ngày thì bạn có thể chủ động ăn uống, tự mang theo đồ ăn nhanh. Nếu không, bạn phải di chuyển đến thị trấn Tân Sơn hoặc TP Việt Trì để thưởng thức những món ăn ngon ở Phú Thọ. Một số món ăn có thể gợi ý đó là: Thịt chua Phú Thọ, thịt chó Phú Thọ, canh rau sắn hầm chân giò…vv…. Giá cả ở các quán ăn hay nhà hàng ở Phú Thọ đều rất bình dân, tuyệt đối không có tình trạng chặt chém để thu lợi.
Phú Thọ 3663 lượt xem
Tháng 3 đến tháng 8
Đồi chè Long Cốc hay ốc đảo chè Long Cốc là một địa điểm du lịch nằm ở xã Long Cốc, huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ. Cách Hà Nội chừng 125 km, Long Cốc là tập hợp của hàng trăm quả đồi bát úp nằm nối tiếp nhau. Diện tích đồi chè lên đến 677 ha, phần diện tích chè có thể thu hoạch là 610 ha. Là điểm tham quan, du lịch mới của tỉnh Phú Thọ, nơi đây thu hút du khách bằng quang cảnh nên thơ, đẹp như tranh vẽ. Không chỉ được ngắm nhìn những đồi chè xanh mướt trải dài, uốn lượn, du khách đến Long Cốc còn có cơ hội tìm hiểu về những giống chè chất lượng cao như LDP1, LDP2, PH1, PH8… Ngoài ra, đây cũng là dịp tuyệt vời để bạn thưởng thức các loại chè Shan Tuyết và chè Bát Tiên đặc sản. Với thắng cảnh trời ban và khí hậu ôn hoà, Long Cốc là điểm đến mà bạn có thể ghé thăm vào bất kỳ thời điểm nào trong năm. Thời điểm lý tưởng nhất để đi du lịch đồi chè Long Cốc là từ tháng 3 – tháng 12 hàng năm. Lúc này, chè lên xanh mát phủ kín cả ngọn đồi, tạo thành những tấm thảm xanh đầy sức sống. Từ tháng 12 trở đi là thời gian “ngủ đông” của chè, đồi chè trở nên đa dạng đường nét và hình khối, kích thích trí tưởng tượng của người nhìn. Nếu muốn có những bức ảnh đẹp, du khách nên đến đây vào buổi sáng sớm, đẹp nhất khoảng đầu hè. Bấy giờ, toàn bộ không gian sẽ chìm trong màn sương mờ ảo, len lỏi chút nắng nhẹ đầu ngày. Trong không khí ấy, vạn vật xung quanh bỗng nhiên đẹp và bình yên đến lạ. Được mệnh danh là “Vịnh Hạ Long của vùng trung du”, Long Cốc là một trong những đồi chè đẹp nhất ở Việt Nam. Sở hữu vô vàn tiềm năng để phát triển du lịch, nơi đây không thiếu những trải nghiệm thú vị chờ bạn khám phá. Đồi chè bát úp Long Cốc có tổng diện tích hơn 600 ha, đặc trưng bởi cảnh quan xanh mướt, đẹp như tranh vẽ. Các quả đồi nhấp nhô, chạy dài nối tiếp nhau đến tận chân trời, hệt như những chiếc bát khổng lồ úp ngược. Điểm xuyết trên bức tranh thiên nhiên hùng vĩ ấy là hình ảnh của những công nhân hái chè, lưng đeo gùi tre, đầu đội nón lá, đẹp đến nao lòng. Đẹp nhất ở đồi chè Long Cốc Phú Thọ là đồi chè Đội 3 và Đội 5. Đây là 2 đồi chè nằm ở vị trí cao nhất trong hệ thống đồi ở Long Cốc. Từ đây, bạn có thể phóng tầm mắt ra xa, ngắm nhìn toàn bộ cảnh quan đồi chè tươi tốt. Mỗi đợt giao mùa từ thu sang đông, sương mù lại bao phủ dày đặc khắp ngọn đồi, tạo thành khung cảnh nên thơ, huyền hoặc. Đến lúc lập đông, mây trời ùa về hoà quyện cùng sương che kín lối đi, ấn tượng vô cùng. Sắc xanh trải dài của ốc đảo chè Long Cốc là background check – in siêu xinh dành cho các tín đồ “sống ảo”. Bình minh là thời điểm lý tưởng nhất để bạn chụp hình đồi chè. Lúc này, đồi chè còn ngủ vùi dưới màn sương, sương sớm đọng lại trên lá, tạo nên một cảnh sắc như mơ như thực, đẹp tựa chốn bồng lai tiên cảnh. Một trong những trải nghiệm thú vị nhất khi đến với thủ phủ chè xanh Long Cốc là thưởng thức các món ăn đặc sản nơi đây. Ghé thăm mảnh đất này, du khách nhất định phải thử qua list món ăn sau: Thịt chua Thanh Sơn, Bánh tai, Trám om cá, Xáo chuối,... và nhiều món ngon khác.
Phú Thọ 3949 lượt xem
Từ tháng 3 đến tháng 12
Đền Bắc Cung (tên gọi nôm là đền Thính) thuộc xã Tam Hồng, huyện Yên Lạc là một trong bốn cung đền lớn ở quanh vùng núi Ba Vì và châu thổ sông Hồng thờ đức thánh Tản Viên. Các đền: Tây cung, Nam cung, Đông cung ở bên kia sông Hồng thuộc địa phận Sơn Tây, đây là bốn cung đền được nhân dân xây dựng và bảo tồn tương đối cẩn thận. Đền tọa lạc giữa cánh đồng màu mỡ trên khu đất rộng 10.000m2 tựa mình bên những con kênh uốn lượn, bao quanh là làng mạc trù phú, dân cư đông đúc. Hai bên tả mạc, hữu mạc đứng uy nghi và trầm mặc bao lấy khu sân gạch rộng lớn, trông lên một công trình kiến trúc độc đáo. Đền Thính được khởi dựng cách đây 20 thế kỷ trên nền một ngôi miếu nhỏ thờ đức thánh Tản, nơi trước đó ông đã cho quân nghỉ lại trong một lần vi hành giúp dân khai điền trị thủy. Thần phả truyền lại rằng: Đức thánh Tản (tục vẫn gọi là Sơn Tinh) húy là Nguyễn Tuấn, sinh ngày 15 tháng Giêng năm Đinh Hợi tại động Lăng Xương, xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ. Người mồ côi cha từ nhỏ, ở với mẹ và hai anh em họ là Nhuyễn Hiển, Nguyễn Sùng. Hàng ngày, ba anh em vượt sông Đà, sang vùng núi Ba Vì phát rẫy làm nương, tìm kế sinh nhai. Nơi đây, Nguyễn Tuấn đã gặp bà chúa Thượng ngàn, được bà nhận làm con nuôi và ban cho chiếc gậy đầu tử đầu sinh cùng nhiều phép thuật để cứu nhân độ thế. Sau khi chiến thắng Thủy tinh và cưới được công chúa Ngọc Hoa, Người đã từ chối ngôi báu mà Vua Hùng muốn trao, cùng hai em du ngoạn khắp nơi, giúp dân khai điền, trị thủy và được nhân dân nơi nơi tôn kính. Khi đi ngang qua vùng Tam Hồng, Người đã cho quân nghỉ chân, dạy dân trồng lúa, đánh cá…Sau khi ông đi, dân làng kéo tới nơi Đức Thánh nghỉ chân và thấy ở đó còn sót lại một số gói thính nên sau này, đền có tên gọi là đền Thính. Cũng có sự tích lại kể rằng: khi cho quân nghỉ lại nơi đây, đức Thánh Tản đã dậy dân làm thịt Thính nên dân gian mới gọi tên đền như vậy. Từ một ngôi miếu nhỏ, đến đời vua Lý Thần Tông (1072-1128) miếu được xây lại thành đền lớn. Đây là nơi vua đến cầu thọ. Đời Vua Minh Mạng (1820-1840) đền lại được tu sửa nhiều lần. Đến đời vua Thành Thái, Tri huyện Yên Lạc cử bần tăng Thanh Ất trùng tu lại đền, công trình kéo dài đến đời Khải Định thứ 6 mới xong (1900-1921). Trải qua bao thăng trầm, đền tiếp tục được nhân dân địa phương gìn giữ và bảo tồn. Ngày 21/1/1992 đền được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích lịch sử văn hoá. Hàng năm, lễ hội đền Thính được mở từ ngày mùng 6 tháng Giêng đến hết ngày 20 tháng Giêng âm lịch. Lễ hội gồm phần lễ tế, rước kiệu của các làng trong và ngoài xã cùng rất nhiều trò chơi dân gian sẽ được tổ chức. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Vĩnh Phúc
Phú Thọ 5477 lượt xem
Chùa Báo Ân, tên chữ đầy đủ trong thư tịch cổ là Báo Ân Thiền Tự hay Tự Già Báo Ân, tên dân gian thường gọi là chùa Cấm, trước thuộc xã Tháp Miếu, tổng Bạch Trữ, huyện Yên Lãng, tỉnh Phúc Yên, nay thuộc phường Trưng Nhị, thành phố Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc. Chùa được xây dựng vào thế kỷ XII thời vua Lý Cao Tông (1176-1210). Đây là một trong số ít ngôi chùa có niên đại khởi dựng từ thời Lý đến ngày nay. Chùa làm trên một quả đồi cao, cây cối xum xuê, bốn bề lộng gió, phong cảnh đẹp, tĩnh tại, đậm chất u tịch chốn thiền tôn. Xưa khu vực này gọi là núi Tiêu Dao, tục gọi là rừng Cấm có lẽ do vậy mà chùa nổi tiếng với tên gọi chùa Cấm. Theo văn bia, ngọc phả thì chùa đã có từ lâu, đến thế kỷ XII, thái tử con vua Lý Cao Tông đã cúng hơn trăm mẫu ruộng, hai nghìn quan tiền để tu bổ chùa, còn công đức 700 quan tiền để làm tiệc cúng dàng. Giao cho võ tướng họ Nguyễn trực tiếp chỉ đạo, vận động quyên góp công đức tu sửa chùa. Kết quả là chùa được trùng tu xong với “bảy gian san sát vừa xây, cột sơn hoa thắm, màu ngọc tươi chiếu rọi, cung cao điện báu, ánh nhật nguyệt chói ngời sáng láng, tượng phật huy hoàng, tòa sen đĩnh đạc, chuông to gác phượng, khánh quý khám rồng, vẻ lộng lẫy uy nghi rõ rệt…”. Võ tướng họ Nguyễn còn công đức một nghìn quan tiền để mua hơn một trăm mẫu ruộng cúng cho chùa làm ruộng oản. Đến thế kỷ XIV đời vua Trần Anh Tông, chùa Báo Ân lại được công chúa Hưng Nương cấp nhiều tiền của tu bổ, tôn tạo. Để ghi nhớ công đức của ngài, như nhiều ngôi chùa khác trong vùng, nhân dân đã lập điện thờ Hưng Nương công chúa ở trong chùa. Trải qua những biến cố thăng trầm của thời gian cả nghìn năm lịch sử, đến nay chùa Báo Ân vẫn còn tại khuôn viên cũ nhưng đã có nhiều thay đổi. Các tòa kiến trúc cổ như: tiền đường, thiêu hương, thượng điện, nhà tổ, điện thờ công chúa Hưng Nương và điện thờ mẫu do xuống cấp nên đã dỡ bỏ. Hiện nay chùa đã được tôn tạo, xây dựng lại với quy mô lớn, kiến trúc bằng bê tông cốt thép, mái lợp ngói mũi. Trong chùa còn lưu giữ được những di vật, cổ vật có giá trị như: tượng pháp, khám thờ, chuông đồng, bia đá. Trong đó, tiêu biểu nhất là bia đá “Báo Ân thiền tự bi ký” (bài ký bia chùa Báo Ân). Cho đến nay, theo các số liệu rà soát, khảo sát, thống kê, đây là văn bia triều Lý duy nhất còn lại trên địa bàn tỉnh. Văn bia được khắc vào tháng Chạp năm Trị Bình Long Ứng (1209) và được khắc lại về sau, có lẽ là vào cuối thế kỷ XVIII, đặt tại chùa Báo Ân. Bia được nhiều nhà nghiên cứu đề cập đến và công bố trong Thơ văn Lý Trần (Nxb KHXH, H.1977) và Văn bia thời Lý (Nxb ĐHQGHN, H.2010). Đây là tấm bia mang niên đại cổ nhất Vĩnh Phúc và là một trong 18 tấm bia thời Lý còn lại đến nay ở nước ta. Bia cao 1,4m, rộng 0,85m, dày 0,14m, đặt trên lưng rùa đá mai trơn, đầu nhô lên, chân bốn móng choãi ra bốn phía. Bia khắc cả hai mặt với 50 dòng gồm 1498 chữ Hán - Nôm, nét chữ sắc sảo theo lối chữ trân thời Lý, rất đẹp. Nội dung bài ký do Ngụy Tư Hiền soạn với lối văn biền ngẫu, đăng đối, súc tích, Cuối bài ký là một bài minh viết theo lối kệ nhà phật. Nội dung văn bia miêu tả cảnh chùa Báo Ân ở thế kỷ XII hết sức lộng lẫy, huy hoàng, ghi lại công đức tu sửa chùa của thái tử Sâm con vua Lý Cao Tông và võ tướng họ Nguyễn cùng phật tử, nhân dân nơi đây. Theo Nguyễn Hữu Mùi (Nghiên cứu Văn bia Vĩnh Phúc, 2013), mặc dù văn bia còn đậm sự khoa trương, nhưng đã hiện lên rõ ràng hình ảnh của một ngôi chùa thời Lý: chùa chỉ do một người bỏ công đức trùng tu, quy mô chùa bề thế, trong chùa có tượng phật, đài sen, ngoài chùa có chuông, có khánh; chùa sở hữu nhiều ruộng đất và có Hội Thiền Thích Giáo (một dạng hội phật tử, ban hộ tự) để quản lý chốn thiền môn. Căn cứ vào văn bia này có thể thấy, việc xây dựng, trùng tu chùa chiền diễn ra trên đất Vĩnh Phúc đã có từ thời Lý. Việc xây dựng, trùng tu chùa chiền được triều đình khuyến khích chứ không cấm cản và giao cho tầng lớp quan lại, quý tộc đứng ra chủ trì, tổ chức. Việc xây dựng, trùng tu chùa chiền còn được xem như một sự kiện trọng đại trong đời sống tinh thần của nhân dân, thu hút cả vùng, thậm chí cả nước cùng tham gia công đức. Điều đó chứng tỏ trong sự phát triển cực thịnh của Phật giáo thời Lý, địa bàn Vĩnh Phúc cũng là một trung tâm thịnh hành của tôn giáo này. Điều đặc biệt là trong số gần 1500 chữ trên bia, có xen lẫn những chữ Nôm, những chữ Nôm này để ghi tên người và tên đất. Có nhận định cho rằng, đây là một trong những chứng tích chữ Nôm xưa nhất được tìm thấy ở Việt Nam. Trước văn bia này, dấu vết một vài chữ Nôm chỉ mới được tìm thấy ở hai nơi: trên quả chuông chùa Vân Bản, Hải Phòng (năm 1076), trong bài bi ký ở chùa xã Hương Nộn, huyện Tam Nông tỉnh Phú Thọ (năm 1173). Chùa Báo Ân được xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh năm 1995. Trong giai đoạn 2021 - 2025, tỉnh Vĩnh Phúc có dự kiến xây dựng hồ sơ khoa học để đề nghị công nhận Bảo vật quốc gia đối với bia chùa Báo Ân và nâng cấp xếp hạng di tích cấp quốc gia đối với di tích chùa Báo Ân, đây là những hoạt động nhằm tăng cường hơn nữa công tác quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị di sản. Nguồn: Chùa Báo Ân Vĩnh Phúc
Phú Thọ 4991 lượt xem
Tháp Bình Sơn (Tháp Then, Tháp chùa Then, Tháp chùa Vĩnh Khánh) thuộc thị trấn Tam Sơn, huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc; là một kiến trúc Phật giáo mang dấu ấn của một giai đoạn khá dài (khoảng từ thế kỷ XIV tới XVI). Tháp Bình Sơn - Chùa Vĩnh Khánh toạ lạc trên một gò đất cao và rộng rãi, diện tích khu vực khoanh vùng bảo vệ là 17.200m2, bao gồm: Tháp Bình Sơn, tòa Tam bảo cũ, Tam bảo mới, giếng mực, nhà khách, hồ sen, cổng, các công trình phụ trợ. 1. Tháp Bình Sơn Tháp hiện nay cao 16,5 mét, (chỉ còn 11 tầng và 1 tầng bệ vì phần chóp của tháp đã bị vỡ), được cấu tạo với bình đồ hình vuông nhỏ dần về ngọn, với cạnh của tầng dưới cùng là 4,45 mét, cạnh của tầng thứ 11 là 1,55 mét. Toàn bộ ngôi tháp được xây bằng gạch nung không tráng men. Từ bệ tháp đến hết tầng 2, có chiều cao dưới 6 mét hoa văn hoàn chỉnh nhất. Ở hai tầng này có họa tiết trang trí kỹ lưỡng với hàng hoa cúc, cánh sen, lá đề, hoa mặt nhẵn, rồng chạm nổi, cùng mô típ "sư tử hí cầu"… Từ tầng thứ ba trở lên, trang trí vẫn còn, nhưng càng lên cao, chiều ngang mặt tháp càng bị thu hẹp, thì trang trí cũng giảm dần. 2. Toà Tam bảo cũ: được đại trùng tu năm 1976, dạng chữ Đinh, có diện tích 131,5 m2, bao gồm Tiền đường 5 gian , Hậu cung 3 gian . Đặc biệt công trình có 2 cột đồng trụ phía trước, đua ra 6m, tạo như tay ngai. Hệ thống tượng thờ tại đây chủ yếu được làm bằng đất phủ sơn, niên đại cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, một vài tượng có niên đại thế kỷ XX. 3. Tam bảo mới: được xây dựng năm 2012, trên nền nhà tam bảo cũ, hình thức kiến trúc mang phong cách thiền viện. 4. Giếng Mực: tương truyền vị trí này xưa kia là đế của một ngôi tháp cổ màu xanh, khi tháp cổ này biến mất để lại một hố sâu hình giếng tròn. 5. Nhà khách: mới được xây dựng năm 2012, diện tích 283,5m2 có mặt bằng chữ nhất, kiến trúc đao mái, phù hợp với kiến trúc cổ truyền thống. 6. Hồ sen: nằm ở vườn trước tháp Bình Sơn, hiện đang trồng sen 7. Cổng vào khu di tích: gồm 4 cột trụ xây gạch, gắn 2 cánh cổng sắt ở lối chính giữa, hai lối bên rào tạm bằng cây, tre mang tính chất là cổng bảo vệ. 8. Một số trang trí của Tháp Bình Sơn Sư tử hý cầu: một trong những đồ án gây thắc mắc cho các nhà nghiên cứu là "sư tử hý cầu”, vì nó khác xa những con "sấu đớp ngọc" đội toà sen ở các bệ Phật thời Lý. Rồng: có sừng, uốn trong “ổ”, đầu quay vào giữa vòng tròn, thân không cuộn khúc mà lượn thành hình sin, do đó không "thắt túi", chân đạp ra ngoài, hoặc vắt qua thân để đạp ra ngoài, sống lưng hình “răng cưa” một chân trước đưa lên nắm "tóc"... Một số chi tiết vừa nêu phảng phất bóng dáng những con rồng cuối Trần, nhưng các chi tiết khác lại không cho phép quy con rồng trên tháp Bình Sơn vào một kiểu thức nhất định nào cả. Điều quan trọng hơn là rồng Bình Sơn thường đưa chân trước lên nắm tóc, trong một tư thế ngộ nghĩnh, rất nghịch ngợm, do đó khá "dân gian": trong trường hợp này, nó đã mang phong cách của mô - típ rồng vuốt râu thời hậu Lê. Lá đề: là một loại hình tương đối phổ biến, với những hoạ tiết hàm nhiều ý nghĩa. "Lá đề” Bình Sơn thuộc nhiều kiểu thức, nhưng kiểu nào cũng đơn giản, không thực trau chuốt như "lá đề" thời Lý. Hoa cúc dây: đã có từ thời Lý dưới dạng uốn thành khung tròn, lòng khung chứa gọn các đồ án trang trí khác. Thời Trần kế thừa bố cục ô tròn đó. Đấu ba chạc (con sơn): một điểm đáng quan tâm là đấu này đã thấy xuất hiện từ thời Lý (Tháp Chương Sơn, Nam Định) chúng càng phổ biến hơn ở dưới thời Mạc (Đình Tây Đằng, Ba Vì, Hà Nội). Tháp Bình Sơn có nhiều nét độc đáo cả về kiến trúc nghệ thuật, mỹ thuật, kỹ thuật xây dựng. Tháp Bình Sơn không những có giá trị về kiến trúc nghệ thuật, mà còn có giá trị mỹ thuật cao được gọi là “Hòn ngọc báu của kho tàng dân tộc”, trên các hòn gạch có rất nhiều loại hoa văn trang trí, chỗ hình tròn, chỗ lượn vòng tròn, chỗ sâu, nông, chỗ đậm… chứng tỏ bàn tay người thợ vô cùng điêu luyện. Tháp Bình Sơn là một công trình có kiến trúc độc đáo, theo đánh giá của người Pháp đây là một cây tháp đẹp nhất xứ Bắc Kỳ. Hiện nay, Lễ hội tại Khu di tích Tháp Bình Sơn - Chùa Vĩnh Khánh được địa phương tổ chức vào ngày 15 tháng Giêng hàng năm, gọi là “Lễ hội chùa tháp”, bao gồm những nghi thức: rước kiệu, lễ cầu nguyện cho mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an và những chương trình văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao, trò chơi dân gian (cờ tướng, cờ người, chọi gà...) Tháp Bình Sơn (huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc) được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt ngày 23/12/2015 . Nguồn: Cục di sản văn hoá
Phú Thọ 4424 lượt xem
Đền thờ Trần Nguyên Hãn, còn gọi là đền Tả Tướng hay đền Thượng là một công trình kiến trúc nghệ thuật được xây dựng vào thời Hậu Lê cách đây trên 200 năm. Di tích này gắn liền với thân thế và sự nghiệp của anh hùng dân tộc Trần Nguyên Hãn. Ông vốn xuất thân dòng dõi vương tộc nhà Trần và là một vị tướng tài đức song toàn, có công lớn giúp Lê Lợi đánh tan quân xâm lược nhà Minh, giành thắng lợi trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Đền ở thôn Đa Cai, xã Sơn Đông, Huyện Lập Thạch. Đền thờ Trần Nguyên Hãn Tả Tướng Quốc, phò Lê Lợi diệt giặc Minh giải phóng đất nước thế kỷ XV. Đền được xây dựng trên một thế đất bằng phẳng, rộng cao, tương truyền chính là nơi đặt Phủ đệ cũ của Trần Nguyên Hãn. Đền được cấu trúc theo kiểu chữ “Đinh”, xung quanh có tường bao bọc tạo thành khuôn viên chữ “điền” vuông vắn. Các công trình xây dựng gồm 3 phần: Cổng đền, nhà tiền tế, hậu cung. Từ khi xây dựng đến nay, đền đã được tu sửa nhiều lần và xây dựng thêm, chủ yếu vào đời Nguyễn. Nghệ thuật kiến trúc mang phong cách thời Nguyễn: Đục trơn bào nhẵn, trang trí đơn giản. Liên quan tới di tích tương truyền còn có 2 vật cổ: Thanh Gươm và phiến đá mài gươm. Chuyện kể rằng: Trong thời kỳ giặc Minh thống trị nước ta, Trần Nguyên Hãn mới bước vào tuổi thanh xuân. Vì cha mẹ lên khai hoang lập trại ở địa đầu trang Sơn Đông, nên ngày ngày Trần Nguyên Hãn vẫn đi cày, đi cuốc. Trong một lần đi cày ở nương Gò Rạch, Trần Nguyên Hãn cày lên một thanh sắt dài như gươm. Đêm đêm ông đem gươm ra mài ở một hòn đá lớn bên bờ ao Son, vì vậy hòn đá đó có tên là đá mài gươm, hòn đá có một vết lõm trông tựa như vết chém tương truyền đó là vết chém thử gươm của Trần Nguyên Hãn. Thanh gươm được Trần Nguyên Hãn mang bên người, tình cờ Trần Nguyên Hãn được một ông chủ bè ở cửa sông Phú Hậu tặng một thanh gỗ hình chuôi gươm vớt ở dưới lòng sông, khi cắm lưỡi gươm vào thì vừa khít, thanh gươm từ đó công hiệu. Thanh gươm huyền thoại ấy đã gắn liền với những chiến tích lẫy lừng của vị công thần khai quốc thứ nhất triều Lê. Tương truyền, về sau Tôn Thất Thuyết đã mượn thanh gươm ấy đem đi Cần Vương chống Pháp. Còn phiến đá, sau một thời gian dài bị phù sa sông Lô lấp, ngày 12/1/1998 nhân dân thôn Đa Cai tìm thấy ở độ sâu 2m nghiêng về phía ao sen, chiều dài khoảng 2,49m, chiều rộng khoảng 1,6m, bề dày khoảng 0,4m và nặng khoảng 2 tấn. Phiến đá cổ tích này được chính quyền và nhân dân xã Sơn Đông trục vớt lên, chuyển về đặt trong khuôn viên đền thờ Tả Tướng Quốc để mọi người cùng chiêm ngưỡng dấu tích còn lại của người anh hùng thủa trước. Năm 1984, Bộ Văn hóa xếp hạng di tích lịch sử đền thờ Tả Tướng quốc Trần Nguyên Hãn là Di tích quốc gia. Hằng năm, vào những dịp kỷ niệm ngày sinh và ngày mất của ông, nhất là vào dịp đầu Xuân, nhân dân trong vùng và khắp nơi trong cả nước thường về đây dâng hương tưởng nhớ công lao của người Anh hùng dân tộc. Nguồn: Báo điện tử Vĩnh Phúc
Phú Thọ 4349 lượt xem
Chùa Hoa Dương ở xã Tuân Lộ, tổng Tuân Lộ, huyện Bạch Hạc, phủ Tam Đới, trấn Sơn Tây. Nay là thôn Thượng, xã Tuân Chính, huyện Vĩnh Tường. Chùa được xây dựng vào năm Chính Hoà thứ nhất (Canh Thân 1680), đời vua Lê Hy Tông Duy Hiệp. Chùa Hoa Dương được xây dựng thời Hậu Lê, năm 1680, còn lại cho đến ngày nay là một di tích có kiến trúc khá đồ sộ, nguy nga, mặt bằng hình chữ “công” gồm 3 toà chính: Tiền đường (7 gian), thượng điện (4 gian) và nhà tổ (5 gian), tổng diện tích 262m2 cùng 2 nhà hành lang gồm 20 gian với diện tích 196m2, phía trước sân còn cây Bồ Đề cổ thụ trăm năm tuổi và các loài cây: Đại, Ngâu, Lan, Sấu tạo nên không khí thâm nghiêm, u tịch nơi cửa thiền. Về kiến trúc: Kết cấu bộ vì theo kiểu thức “chồng rường giá chiêng”, hệ thống cột chịu lực đều bằng gỗ lim to, chu vi cột 1,5m và đều được kê trên chân đá tảng vuông, to mỗi chiều 75cm để chống mối và chống ẩm. Về mỹ thuật: Giá trị nổi bật của chùa Hoa Dương là nghệ thuật điêu khắc, được biểu hiện ở hệ thống tượng tròn và các tác phẩm điêu khắc gỗ (y môn, tranh kệ, hoành phi, câu đối). Đó là các lớp tượng cơ bản, đại diện chung cho hệ thống tượng được bài trí trong một ngôi chùa thờ phật theo phái Đại thừa ở miền Bắc Việt Nam, gồm các lớp: Bộ tượng Tam thế phật, Di Đà tam tôn phật, Thích ca cửu long, tứ Bồ tát, tứ Thiên vương, tượng Đức ông, Thánh hiền, Hộ pháp phật và tượng phật Tổ. Tất cả các pho tượng phật đều được tạo từ gỗ mít già, nguyên lõi, kỹ thuật công phu, tỉ mỉ, nghệ thuật sáng tạo, điêu luyện, thể hiện khả năng tư duy thẩm mỹ nghệ thuật cao và hoà nhuyễn trong nhận thức giá trị tuyệt đối “không” của phật pháp. Giá trị chân, thiện, mỹ của đạo phật bắt nguồn từ những chân lý giản đơn của cuộc sống thường nhật qua hàng nghìn năm tu luyện, bồi dưỡng, lưu truyền đã trở thành một bộ phận cơ bản của tâm hồn Việt Nam, tâm hồn nghệ sỹ khi thổi hồn cho các pho tượng hoặc từ gỗ, đá, hay đất mà trở nên lung linh, huyền ảo nhưng rất thực trước mỗi người khi bước chân vào chùa chiêm bái phật. Các tác phẩm điêu khắc gỗ có: 8 bức y môn (biển hoành) đều chung kích thước (dài 3,0m rộng 0,6m) được chạm nổi, sơn son thếp vàng các đề tài thiên nhiên: Hoa lá, vân mây, cổ thụ, chim muông vô cùng gần gũi, tự nhiên và sống động, chính giữa đục các “đại tự” mang ý nghĩa tụng ca, răn dạy, đan xen giữa phật pháp và triết lý Nho học. 8 bức “tranh Kệ” khắc các bài kệ bằng chữ Hán với nội dung về phong cảnh thiên nhiên và những đề tài liên quan đến việc hoằng dương phật pháp, là những thi ca tuyệt hảo lồng trong tác phẩm điêu khắc tài ba, trên nền của kỹ thuật chạm khắc, trang trí phóng khoáng, bố cục hài hoà, sơn thếp đẹp, xứng đáng là di sản cho muôn đời hậu thế chiêm ngưỡng và ngẫm suy. 8 bộ hoành phi, câu đối sơn son thếp vàng, câu chữ chuẩn chỉnh, ngay ngắn, ý tứ sâu xa, ngữ nghĩa bao trùm, chân tâm, chân thiện. Cùng với các di vật cổ: Chuông đồng, cây hương, bia đá,.đồng thời là những tư liệu văn tự cổ trên đá lưu mãi để muôn đời hậu thế, thập phương du khách, tăng ni phật tử tìm cơ hội đến chiêm bái nơi cảnh thiền ẩn lặng dấu quê. Chùa Hoa Dương có lịch sử trên 300 năm tuổi. Chùa được xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 12/12/1994. Nguồn: Cổng thông tin giao tiếp điện tử Vĩnh Phúc
Phú Thọ 4295 lượt xem
Hương Canh vốn là tên một xã của huyện An Lãng, trấn Sơn Tây đời Hậu Lê, rồi được lấy làm tên tổng thời Nguyễn và tên của thị trấn ngày nay - thị trấn Hương Canh (thuộc huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc). Theo dân gian, Hương Canh còn được gọi là Tam Canh bởi đây là tên chung của ba làng Canh gồm: Hương Canh, Ngọc Canh, Tiên Canh. Địa danh Hương Canh còn có tên nôm cổ là Kẻ Cánh. Tên gọi này bắt nguồn từ giống lúa của địa phương, thứ lúa có hai tia nhọn ở hai bên hạt thóc. Người ta gọi hai tia nhọn ấy là CÁNH và hạt thóc có tên là GIÉ CÁNH được lấy chữ CÁNH làm danh xưng của làng. Ban đầu ở đây mới có một làng Hương Canh, dần dần dân số phát triển mới tách thêm làng lấy tên là Ngọc Canh - nơi có thứ lúa Gié Cánh, hạt gạo đẹp như ngọc. Sau cùng, khi cả hai làng Hương Canh (lúa Cánh thơm), Ngọc Canh (lúa Cánh đẹp) cư dân đông đúc, mới mở rộng sang phía Tây và Tây Bắc thêm một làng nữa và lấy tên là Tiên Canh với nghĩa “lúa Cánh sớm”. Ba ngôi đình của ba làng Hương Canh, Ngọc Canh và Tiên Canh đều được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa quốc gia và hiện đang trong quá trình lập hồ sơ đề nghị xếp hạng cấp quốc gia đặc biệt. Các đình tọa lạc tại vị trí cách nhau từ 50m đến 100m, tạo thành quần thể di tích hoành tráng, kề sát quốc lộ 2A, thuận lợi cho tham quan, du lịch và hành hương. Về các nhân thần được thờ, theo truyền tụng của nhân dân địa phương, sau khi đánh bại quân Nam Hán xâm lược, Ngô Quyền lên làm vua, đóng đô ở Cổ Loa (nay thuộc Hà Nội). Đất nước đã độc lập, hòa bình nhưng Ngô Quyền vẫn không quên đề cao cảnh giác, luyện tập binh mã để phòng giặc. Bấy giờ săn bắn cũng là một hình thức tập trận, nên có lần Ngô Quyền đã cử hai con là Ngô Xương Ngập và Ngô Xương Văn cùng vị tướng thân cận Đỗ Cảnh Thạc mang quân đi tập trận dưới hình thức đi săn. Họ đã hành quân qua Hương Canh, đóng doanh trại tại một gò đất giữa đồng, nhân dân gọi là Gò Ngự. Để ghi lại dấu thiêng và tri ân các vị anh hùng nhà Ngô, nhân dân Hương Canh đã lập ở Gò Ngự một ngôi miếu để thờ các vị, theo quan niệm “sinh vi tướng, tử vi thần” (sống là tướng giỏi - chết là thần thiêng). Đến thời Hậu Lê, nhân dân ba làng Hương Canh, Ngọc Canh và Tiên Canh lại xây dựng mỗi làng một ngôi đình, rước thần hiệu về thờ ở đình và hàng năm đều mở hội, tế lễ như hiện nay. 1.Đình Hương Canh Được hình thành sớm nhất nên làng Hương Canh xây dựng đình trước hai làng còn lại. Tuy không to hơn đình Ngọc Canh và đình Tiên Canh, nhưng đình Hương Canh được gia công, thể hiện nhiều hơn về trang trí, chạm trổ. Đình tọa lạc ở phía Nam thị trấn Hương Canh, mặt tiền hướng Tây Nam, nhìn ra hồ Điếm Lang, đấu trường kéo song và sông Cầu Treo. Trải qua thời gian và những biến cố thăng trầm của lịch sử, gần 300 năm nay đình Hương Canh vẫn đứng đó như thách thức với nắng mưa, chống chọi với thiên nhiên về bộ mái đồ sộ, duyên dáng của mình. Mái đình lợp bằng ngói mũi hài, được xếp đặt một cách thứ tự theo kiểu đóng ốc vảy rồng, rất chặt chẽ, phẳng đẹp. Bờ nóc đình được đắp thẳng ke, các đầu đao cong vút. Toàn bộ mái đình trông như một cánh diều khổng lồ đang động đậy, sắp sửa bay lên không trung. 2.Đình Ngọc Canh được kiến tạo vào thời Hậu Lê, trùng tu vào đầu triều Nguyễn. Trên câu đầu thứ nhất ở đình Ngọc Canh có 2 vế chữ chạm nổi: “Gia Long thập nhị niên, tuế tại Quý Dậu, thập nguyệt, nhị thập lục nhật y cựu thượng lương, trùng tu thổ mộc Giáp Tuất niên, ngũ nguyệt, thập ngũ nhật hoàn thành, hòa ninh đại cát”. (Nghĩa là: Năm Gia Long thứ 12 là năm Quý Dậu, ngày 26 tháng 10, dựng cây nóc như cũ. Chữa lại mộc, ngõa năm Giáp Tuất. Ngày 15 tháng 5 hoàn thành, mong hòa thuận tốt lành). Tính theo dương lịch, Quý Dậu là năm 1813 và Giáp Tuất là năm 1814, việc trùng tu kéo dài 7 tháng. Câu đầu thứ hai khắc là: “Minh mệnh nguyên niên, tuế tại Canh Thìn, lục nguyệt, thập nhất nhật, khởi công trang sức kim chu, chí thập nguyệt, thập nhật, hoàn thành đại cát đại vượng” (Nghĩa là: Năm Minh Mệnh thứ nhất là năm Canh Thìn, ngày 11 tháng 6 khởi công, sơn vẽ vàng son, đến ngày 10 tháng 10 hoàn thành, mong tốt lành lợi vượng). Tính theo dương lịch, Canh Thìn là năm 1820, niên hiệu Minh Mệnh thứ nhất. Việc trang trí kéo dài 4 tháng. 3.Đình Tiên Canh được xây dựng sau cùng, song đình Tiên Canh có quy mô lớn hơn hai đình Ngọc Canh và Hương Canh. Về niên đại xây dựng, khi dỡ thượng lương nhà hậu xuống để phục chế, nét chữ khắc còn rõ rành rành “Cảnh Hưng tam thập thất niên, tuế thứ Bính Thân, thập nhị nguyệt, nhị thập nhị nhật, hoàng đạo thời, thụ trụ thượng lương đại cát lợi vượng thịnh” (Nghĩa là: Niên hiệu Cảnh Hưng thứ 37, năm Bính Thân, tháng 12, ngày 22, giờ hoàng đạo, dựng cây nóc rất tốt lành, lợi vượng nhiều). Chiếu theo dương lịch, Bính Thân là năm 1776. Như vậy nhà hậu của đình được kiến tạo cách ngày nay (2022) đã 300 năm. Câu đầu hữu biên cũ của đại bái khắc “Kỷ Mùi niên, thập nguyệt Ất Hợi, nhị thập nhật Đinh Mùi, Ất Tỵ thời, thụ trụ thượng lượng đại bái” (Nghĩa là: Năm Kỷ Mùi, tháng 10 Ất Hợi, ngày 20 Đinh Mùi, 10 giờ sáng Ất Tỵ, dựng cây nóc nhà đại bái). Như vậy, tòa đại bái đình Tiên Canh được xây cất vào niên hiệu Cảnh Thịnh thứ 8, triều Tây Sơn Nguyễn Quang Toản - 1799, cách ngày nay (2022) đã 223 năm, làm sau nhà hậu 23 năm. Đây là 3 ngôi đình cổ tiêu biểu của nghệ thuật kiến trúc đình làng Bắc Bộ được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ 17, đầu thế kỷ 18. Di tích kiến trúc nghệ thuật cụm đình Hương Canh được công nhận là di tích quốc gia đặc biệt ngày 29/12/2022 của Thủ tướng Chính phủ. Nguồn: Báo Vĩnh Phúc tổng hợp
Phú Thọ 4257 lượt xem