Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch Travelviet
Tải ứng dụng Travelviet
Nhắc đến Sơn La, người ta sẽ nghĩ ngay đến các danh lam thắng cảnh, những mùa hoa mận thơ mộng hay đồi chè bát ngát. Không chỉ vậy, nơi đây tồn tại và lưu trữ nhiều điểm di tích lịch sử tại Sơn La thiêng liêng, lâu đời. Cùng 63 Stravel tìm hiểu các di tích lịch sử nổi tiếng tại Sơn La nhé!
Sơn La không chỉ có các điểm du lịch hấp dẫn tuyệt đẹp mà còn có nhiều di tích lịch sử lâu đời được nhiều người ghé đến khám phá. Dưới đây là list các di tích lịch sử ở Sơn La bạn có thể lưu lại và trải nghiệm khám phá nếu có dịp đến đây.
Cầu Tà Vài, nằm tại bản Tà Vài, xã Chiềng Hặc, huyện Yên Châu, là một di tích lịch sử nổi tiếng của tỉnh. Trong kháng chiến chống Pháp và Mỹ, cầu không chỉ có ý nghĩa dân sinh mà còn là huyết mạch giao thông quan trọng. Trong giai đoạn chiến tranh, cầu Tà Vài đã hứng chịu 1.272 quả bom từ máy bay Mỹ nhưng vẫn đứng vững, đảm bảo giao thông thông suốt.
Cầu Tà Vài nơi ghi dấu ấn lịch sử tại Sơn La
Trận đánh ác liệt tại cầu Tà Vài chứng kiến sự kiên cường của lực lượng dân quân tự vệ và quân đội, quyết tâm bảo vệ mạch máu giao thông. Từ tháng 3 đến tháng 12-1966, Tiểu đoàn 14 pháo cao xạ, cùng với sự hỗ trợ của người dân địa phương, đã bố trí pháo phòng không để bảo vệ cầu. Sự đoàn kết và tinh thần chiến đấu quật cường của dân quân và bộ đội đã giữ cho tuyến đường huyết mạch này thông suốt trong mọi tình huống.
Di tích lịch sử Cầu Trắng nằm trên tuyến Quốc lộ 6A (đường 41 cũ), là cây cầu bắc qua suối Nậm La, nối liền các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ với Sơn La, Điện Biên và Lai Châu. Với chiều dài 45m và rộng 7 m, Cầu Trắng được thiết kế và xây dựng năm 1963, mang ý nghĩa chiến lược trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ.
Trong giai đoạn 1965-1968, Cầu Trắng trở thành mục tiêu bắn phá của không quân Mỹ, chịu đựng 34 trận đánh với 870 quả bom và hàng trăm quả rốc két, khiến cầu bị phá hủy hoàn toàn. Tuy nhiên, năm 2003, cầu được xây dựng lại với thiết kế hiện đại, dài 48,1 m và rộng 14m và chính thức khánh thành vào năm 2006.
Di tích lịch sử Cầu Trắng nổi tiếng tại Sơn La
Cầu Trắng không chỉ là chứng nhân lịch sử về sự kiên cường, đoàn kết và lòng yêu nước của quân và dân Sơn La, mà còn là bằng chứng tố cáo tội ác của đế quốc Mỹ. Nơi đây ghi dấu những gương mặt tiêu biểu như chiến sĩ thi đua toàn quốc Nguyễn Kim Tiến, người đã góp phần đảm bảo giao thông thông suốt, vận chuyển lương thực, thực phẩm và vũ khí cho vùng Tây Bắc và Thượng Lào.
Đi trên Cầu Trắng hôm nay, cảm nhận sự đổi thay to lớn của cuộc sống, chúng ta càng trân trọng những hy sinh của thế hệ đi trước. Cầu Trắng, được UBND tỉnh Sơn La xếp hạng di tích lịch sử cấp tỉnh ngày 15/9/2008, mãi là biểu tượng của tinh thần cách mạng, nối liền quá khứ, hiện tại và tương lai, khơi dậy niềm tự hào về truyền thống yêu nước của quê hương, đất nước.
Rừng đại tướng Võ Nguyên Giáp, thường được gọi thân mật là "Rừng Ông Giáp", nằm tại xã Gia Phù, huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La. Ban đầu được gọi là rừng bản Nhọt, khu rừng này được đổi tên để tỏ lòng biết ơn và kính trọng đối với Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Với diện tích khoảng 200 ha, rừng Ông Giáp được bao bọc bởi hai dãy núi, cây cối rậm rạp và quanh năm mây phủ.
Rừng Ông Giáp là một di tích lịch sử và điểm du lịch hấp dẫn. Khác với nhiều khu rừng khác, rừng vẫn còn nguyên vẹn với những cây chò chỉ đại thụ, lát, dổi, sâng, sấu và những cây pơ mu cao chót vót. Không gian tĩnh lặng của rừng già được tô điểm bởi tiếng suối Dưn chảy róc rách đêm ngày, gợi nhắc về lịch sử hào hùng của nơi đây.
Sơn La giữ màu xanh cánh rừng mang tên Đại tướng Võ Nguyên Giáp
Khu rừng là nơi trú quân đầu tiên của Đại tướng Võ Nguyên Giáp và quân đội ta. Các địa điểm quan trọng như đài quan sát trên đồi suối Hiền, trạm quân y dã chiến bên dòng suối Bùa và sở chỉ huy trên ngọn suối Tắc Tè bên sườn đồi Tang Tú vẫn còn tồn tại, ghi dấu những kỷ niệm chiến đấu oai hùng.
Đi thăm rừng Ông Giáp, du khách sẽ được hòa mình vào không gian lịch sử, cảm nhận sự hùng vĩ và trân trọng những hy sinh của thế hệ trước. Khu rừng không chỉ là biểu tượng của lòng yêu nước mà còn là một di sản thiên nhiên quý báu, khơi dậy niềm tự hào về truyền thống cách mạng của dân tộc.
Di tích Mái đá bản Mòn là di tích khảo cổ đầu tiên được phát hiện ở Tây Bắc Việt Nam. Năm 1927, nữ khảo cổ người Pháp Madeleine Colani tiến hành khai quật và phát hiện nhiều công cụ đá, đồ trang sức, vỏ ốc suối tại đây. Sau đó, một số nhà nghiên cứu đã khảo sát thêm, và đến năm 2006, Mái đá bản Mòn được công nhận là di tích cấp tỉnh. Năm 2017, Bảo tàng tỉnh đã đầu tư tu bổ khu di tích này.
Di tích khảo cổ mái đá bản Mòn được xếp hạng di tích quốc gia
Tháng 4/2021, Bảo tàng tỉnh phối hợp với Viện Khảo cổ học, Hội Khảo cổ học Việt Nam và UBND huyện Thuận Châu tổ chức khai quật và phát hiện hai mộ người tiền sử cùng hơn 1.000 hiện vật đá và gần 2.000 mảnh gốm, nhiều trong số đó có niên đại từ 10.000 đến 5.000 năm trước. Phát hiện này chứng minh Mái đá bản Mòn từng là nơi cư trú, công xưởng chế tác rìu đá và nơi chôn cất. Với giá trị to lớn, di tích này được xếp hạng Di tích Quốc gia vào ngày 20/3/2023.
Mái đá bản Mòn chứa đựng nhiều giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học quốc gia, liên quan đến cộng đồng người tiền sử từng sinh sống tại đây. Đây là nguồn tư liệu quý giá cho các nhà khoa học nghiên cứu và giải mã các giá trị di tích, góp phần bảo tồn và phát huy di sản văn hóa dân tộc. Đồng thời thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội địa phương. Mái đá bản Mòn còn là một di sản địa chất và khảo cổ học độc đáo, là tài nguyên du lịch quý giá của Sơn La trong giai đoạn mở cửa, hội nhập và liên kết vùng.
Khi bạn đến Sơn La, đừng bỏ lỡ cơ hội ghé thăm một ngôi đền đặc biệt từ thế kỷ 17. Ngôi đền này không chỉ là một tấm gương về lòng kiên nhẫn và sự phục dựng mạnh mẽ, mà còn chứa đựng nhiều câu chuyện thú vị và bí ẩn của lịch sử.
Sau khi đền chính bị ngập dưới lòng thủy điện Sơn La, việc phục dựng ngôi đền này gần nguyên gốc đã là một chiến công đáng kinh ngạc. Điều đáng chú ý là ngôi đền vẫn giữ được vẻ đẹp và sức hút của mình, là nơi linh thiêng thu hút du khách từ khắp nơi.
Đền thờ Nàng Han - Linh Sơn Thủy Từ ở Sơn La
Theo truyền thuyết, ngôi đền này liên quan đến câu chuyện về nàng Han - con gái duy nhất của chúa đất người Khơ Mú ở Chiềng Phung (hay Quỳnh Nhai ngày nay). Câu chuyện về nàng Han mang theo những dấu ấn của tình yêu, tình thân và lòng hiếu thảo sâu sắc.
Ghé thăm ngôi đền từ thế kỷ 17 này, bạn sẽ không chỉ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp kiến trúc cổ kính mà còn có cơ hội tìm hiểu thêm về lịch sử, văn hóa và truyền thống đặc biệt của địa phương này. Đây chắc chắn là một điểm đến thú vị và ý nghĩa trong hành trình khám phá vùng đất Sơn La.
>> Đọc thêm: TOP những tỉnh thành thu hút khách du lịch nhiều nhất ở Việt Nam
Nếu bạn có dịp đến Sơn La, hãy không bỏ qua việc ghé thăm hang mộ Tạng Mè, một trong những di tích độc đáo và hiếm có, được công nhận là Di tích cấp quốc gia từ năm 2014. Nằm tại bản Lồi, xã Suối Bàng, huyện Vân Hồ, hang mộ này là điểm đến lý tưởng cho những ai đam mê mạo hiểm và muốn khám phá.
Để đến hang mộ Tạng Mè, bạn sẽ phải dành khoảng 30 phút đi bộ từ trung tâm xã Suối Bàng, vượt qua con đường mòn và leo qua vách đá cheo leo. Tuy nhiên, sự mạo hiểm này sẽ được đền đáp khi bạn đặt chân đến hang mộ nằm ở lưng chừng núi.
Kỳ bí thế giới mộ cổ táng treo trong hang ở di tích khảo cổ hang mộ Tạng Mè
Hang mộ Tạng Mè có những đặc điểm độc đáo và kỳ lạ. Điểm nổi bật nhất chính là các quan tài được chế tác từ gỗ bổ đôi, mang hình dáng của thuyền và được trang trí với hình ảnh "đuôi én" tinh xảo. Những hiện vật bên trong các quan tài cung cấp thông tin quý giá về cuộc sống của cư dân cổ từ hàng ngàn năm trước.
Di tích này không chỉ là một minh chứng cho sự cư trú lâu dài của người cổ ở huyện Vân Hồ, mà còn là nguồn tài nguyên quý giá cho các nhà khoa học nghiên cứu về lịch sử, văn hóa và xã hội của vùng đất này. Đồng thời, việc bảo tồn và phát huy giá trị của hang mộ Tạng Mè cũng góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế và du lịch của địa phương.
Hang A Phủ (hay còn được gọi là hang Thẳm Cốp) là một điểm đến độc đáo và hiếm có, nằm tại bản Hồng Ngài, xã Hồng Ngài, thị trấn Bắc Yên, tỉnh Sơn La. Hang này được mô tả như miệng một con ếch đang đớp mồi, với một mặt núi hùng vĩ và nhiều ngách hẹp. Hang A Phủ không chỉ là nơi du khách có thể khám phá vẻ đẹp tự nhiên hoang sơ mà còn là nơi ghi dấu lịch sử và văn hóa sâu sắc của địa phương. Nằm trong rừng nguyên sinh, khí hậu thoáng đãng, mát mẻ, hang này thu hút rất nhiều người muốn khám phá và trải nghiệm.
Hang A Phủ địa danh mang giá trị lịch sử, văn hóa
Hang A Phủ gồm hai cửa ở hai phía Đông và Tây, nối thông nhau và chia thành ba khoang. Khoang thứ ba là nơi rộng nhất, với trần cao và nền hang gồ ghề. Các quan tài được làm từ gỗ bổ đôi, trang trí tinh xảo, thể hiện nét nghệ thuật của người cổ. Ngoài giữa vẻ đẹp tự nhiên và lịch sử sâu sắc, chính quyền địa phương cũng đã có những biện pháp bảo vệ và gìn giữ hang A Phủ. Cảnh quan xung quanh hang vẫn được bảo tồn, không lấn chiếm hay phá hoại môi trường. Đây không chỉ là nơi thu hút du khách mà còn là di sản văn hóa độc đáo của vùng đất này.
Khi bạn đặt chân đến Mộc Châu, đừng quên ghé thăm di tích lịch sử Ngã Ba Cò Nòi - một địa danh ghi dấu lịch sử quan trọng của chiến trường Điện Biên Phủ. Đây không chỉ là nơi của những trận đánh dữ dội mà còn là nơi chứng kiến sự hy sinh oan trái của hàng trăm chiến sĩ. Lịch sử oai hùng đã ghi lại những kỷ niệm không thể nào quên của những người con của dân tộc. Nên dừng chân tại đây để tưởng nhớ và tri ân những anh hùng đã hy sinh vì tổ quốc.
Ngã ba Cò Nòi vang mãi khúc tráng ca bất tử
Bản Hang Chú, nằm tại xã Hang Chú, Bắc Yên, Sơn La, là một điểm đến hấp dẫn trong vùng Tây Bắc với dân tộc Mông sinh sống. Để đến bản, du khách phải vượt qua những cung đường băng rừng, vượt qua những con suối và dốc núi đầy khó khăn. Tại đây, người dân đã phát hiện ra bãi đá cổ Khe Hổ, với những hình khắc độc đáo và kỳ lạ.
Khám phá di sản bãi đá khắc Khe Hổ tại Sơn La
Tọa lạc tại bản Hang Đế, cách không xa, bốn khối đá đã được khắc hình, nằm cách nhau từ 5 đến 16 mét. Những đường vẽ hoa văn phức tạp, xoắn ốc và kỳ lạ đã thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu và người yêu khám phá lịch sử. Khe Hổ nằm sâu trong thung lũng hẹp, là điểm đến không thể bỏ qua cho những ai quan tâm đến khảo cổ học và văn hóa. Được phát hiện từ năm 2011, di tích này đang là đề tài nghiên cứu sôi nổi với mong muốn khám phá thêm nhiều bí ẩn lịch sử và văn hóa của dân tộc Việt Nam.
Khi trải nghiệm Mộc Châu và đến tham quan khu di tích Bia Căm Thù Km 64 tại thị trấn Thảo Nguyên Mộc Châu, du khách sẽ được hòa mình vào một khung cảnh lịch sử đầy cảm xúc. Đây là nơi kỷ niệm cho những người dân dũng cảm của miền Bắc trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Nằm kề trục đường quốc lộ 6, cách thị xã Sơn La 135 km, di tích này nằm ở giữa ngã ba đường đi Sơn La - Hà Nội và Phù Yên, với mặt chính của bia hướng ra đường quốc lộ 6, thuận tiện cho việc tham quan.
Di tích bia căm thù - khắc cốt ghi tâm với giặc Mỹ
Để ghi nhận sự bất khuất của nhân dân và để khơi dậy lòng tự hào dân tộc, vào năm 1969, chính quyền và nhân dân thị trấn Thảo Nguyên Mộc Châu đã dựng lên Bia Căm Thù tại Km 64, với thông điệp rõ ràng: “Đời đời khắc cốt ghi tâm mối thù không đội trời chung với giặc Mỹ xâm lược”.
Điều này không chỉ là một biểu tượng lịch sử mà còn là một cảnh báo, nhắc nhở về sự đoàn kết và quyết tâm của dân tộc trong việc bảo vệ độc lập và tự do của đất nước. Bia Căm Thù Km 64 không chỉ là một di tích, mà là một phần không thể tách rời khỏi hồn quê và tinh thần kiên cường của người dân miền Bắc Việt Nam.
Tập đoàn cứ điểm Nà Sản ở Sơn La, không chỉ là một trong những căn cứ quân sự chính của thực dân Pháp tại Tây Bắc mà còn là biểu tượng cho sự kiên trì và dũng mãnh của quân và dân ta trong cuộc chiến giành độc lập. Ngay từ những năm đầu của việc quay trở lại chiếm đóng Sơn La - Tây Bắc, thực dân Pháp đã lựa chọn Nà Sản để xây dựng một hệ thống căn cứ quân sự vững chắc. Với vị trí chiến lược và sự thuận tiện của núi non, họ xây dựng một cơ sở khép kín trải rộng trên 10 km2, được gọi là tập đoàn cứ điểm Nà Sản.
Tập đoàn này được xây dựng theo mô hình một vòng cung khép kín, với 17 cứ điểm liên hoàn. Các cứ điểm này được phân bố hợp lý trên địa bàn, bao gồm sân bay vận tải, các hệ thống kho chứa lương thực, vũ khí, và các đường hầm và chiến hào được bảo vệ chặt chẽ.
Tập đoàn cứ điểm Nà Sản trong chiến dịch Tây Bắc sau 70 năm
Trận đánh quyết liệt tại Nà Sản trong chiến dịch Tây Bắc năm 1952 đã góp phần quan trọng vào sự thắng lợi cuối cùng của cuộc chiến. Quân và dân ta đã tiêu diệt nhiều lực lượng địch, thu giữ nhiều vũ khí và đạn dược, buộc địch phải rút lui và bị cô lập hoàn toàn.
Sau chiến dịch, tập đoàn cứ điểm Nà Sản không chỉ là một biểu tượng của sự chiến thắng mà còn là một minh chứng rõ ràng cho sự thất bại thảm hại của thực dân Pháp. Đánh dấu sự kết thúc của một thời kỳ đen tối, Nà Sản được xếp hạng là Di tích lịch sử quốc gia vào năm 1998, vinh danh những nỗ lực và hy sinh của dân tộc trong cuộc chiến giành độc lập.
>> Bài viết hay: TOP những bảo tàng thu hút khách du lịch quốc tế tại Việt Nam
Di tích lịch sử Kỳ đài Thuận Châu, nằm tại bản Pán, xã Chiềng Ly, huyện Thuận Châu, chứng tỏ một sự kiện đặc biệt vào ngày 7/5/1959, khi Hồ Chủ Tịch cùng Ban lãnh đạo Đảng và Chính phủ thăm vùng Tây Bắc. Vào ngày đó, nhân kỷ niệm 5 năm Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ và 4 năm thành lập Khu tự trị Thái - Mèo, Hồ Chí Minh cùng đoàn đại biểu Chính phủ đã đến thăm tỉnh Sơn La. Tại Thuận Châu, hơn 10 nghìn người dân và đồng bào từ 30 dân tộc đã tham gia mít tinh chào mừng sự kiện.
Di tích lịch sử Kỳ đài Thuận Châu - Nơi Bác Hồ lên thăm Tây Bắc
Trong không khí gần gũi của đại gia đình các dân tộc, Hồ Chủ Tịch nói chuyện và giao lưu với mọi người. Đại diện cho Đảng và Chính phủ đã tôn vinh những thành tựu của khu tự trị Thái - Mèo, trao tặng Huân chương Lao động hạng Nhất cho cả quân, dân, chính và đảng vùng này vì những đóng góp trong cuộc kháng chiến chống Pháp và công lao trong công cuộc xây dựng hòa bình. Kỳ đài Thuận Châu, chứng nhận cho sự kiện lịch sử đầy ý nghĩa này, được công nhận là Di tích lịch sử quốc gia vào ngày 20/4/1995.
Khi bạn bước vào Tỉnh Sơn La, bảo tàng Sơn La chắc chắn là một điểm đến không thể bỏ qua. Đây không chỉ là một địa điểm du lịch thông thường mà còn là một di tích lịch sử sáng ngời, nằm trong khuôn viên của Bảo tàng và Nhà tù Sơn La.
Bảo tàng Sơn La - Nơi lưu giữ những chứng tích lịch sử đầy tự hào
Bảo tàng Sơn La không chỉ là nơi trưng bày các di vật cổ từ thời tiền sử và sơ sử, mà còn là nơi lưu giữ và phản ánh sâu sắc nét văn hóa đặc trưng của 12 dân tộc anh em sinh sống ở Sơn La. Bạn có thể chiêm ngưỡng hàng ngàn hiện vật độc đáo, từ những dụng cụ hàng ngày đến những trang phục truyền thống, từ những bức tranh đến những tác phẩm điêu khắc.
Đặc biệt, bảo tàng còn sở hữu một bộ sưu tập ấn tượng về sách chữ Thái cổ và Dao cổ, với gần 1000 cuốn sách thuộc nhiều thể loại khác nhau như sử thi, trường ca và truyện thơ dân gian. Điều này là một cơ hội tuyệt vời để khám phá văn hóa và lịch sử phong phú của vùng đất này.
Khi bạn đặt chân đến tỉnh Sơn La, không thể bỏ qua một di tích lịch sử - văn hóa đầy ý nghĩa chính là văn bia Quế Lâm Ngự Chế. Nơi đây lưu giữ bút tích của một nhân vật vĩ đại - Vua Lê Thái Tông. Trong cuộc hành trình chinh phạt vùng Tây Bắc, khi dừng chân tại động La, hay còn được biết đến với tên gọi Thẩm Ké, nhà vua đã bị cuốn hút bởi vẻ đẹp thanh bình của cảnh quan nơi đây. Đó là lúc ông viết nên bài thơ "Quế Lâm Ngự Chế", một tác phẩm văn học tỏa sáng trên vách đá thẳng đứng của cửa động.
Di tích Văn bia Quế Lâm Ngự Chế – Bút tích của vua Lê Thái Tông
Điều này không chỉ là một bí mật của lịch sử, mà còn là một điểm du lịch hấp dẫn khi bạn khám phá vùng đất này. Văn bia "Quế Lâm Ngự Chế" là một phần không thể tách rời khỏi câu chuyện lịch sử và văn hóa đặc biệt của Sơn La, chờ đợi để được khám phá và trải nghiệm.
Trong bước chân lịch sử của quê hương Sơn La, cây đa cổ thụ tại bản Hẹo trở thành biểu tượng khẳng định tinh thần cách mạng vững mạnh. Trải qua muôn vàn biến cố, từ những ngày gian khó, địa điểm này đã chứng kiến sự đoàn kết vững mạnh của cấp ủy, chính quyền và nhân dân Bản Hẹo. Cùng với đó, lớp con cháu của cụ Cà Thị Khiên - người từng làm công việc liên lạc cho cán bộ cách mạng tại nhà tù Sơn La - vẫn gìn giữ và phát triển tinh thần quê hương.
Ở Sơn La có "cụ" cây đa cổ thụ 500-600 tuổi khổng lồ có tới 2 thân kỳ lạ
Tọa lạc tại tổ 2, phường Tô Hiệu, thành phố Sơn La, cây đa bản Hẹo đã trở thành điểm nối bí mật giữa nhà tù Sơn La và lực lượng cách mạng bên ngoài. Nơi đây, bà Cà Thị Khiên đã dày công giúp đỡ và bảo vệ địa điểm liên lạc, góp phần vào sự thành công của cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc. Ngày nay, gốc đa này không chỉ là một di tích lịch sử, mà còn là điểm đến của du khách khi thăm bảo tàng và nhà tù Sơn La.
Nằm yên bên dòng lịch sử của quê hương Sơn La, nhà tù Sơn La là một điểm đến không thể bỏ qua cho những ai yêu thích khám phá lịch sử. Đây từng là nơi giam giữ 14 đoàn tù chính trị với hơn 1,000 tù nhân. Mặc dù điều kiện vật chất vô cùng khắc nghiệt nhưng chính nơi này đã nuôi dưỡng nhiều chiến sĩ tiêu biểu, góp phần vào sự thắng lợi của cuộc tổng khởi nghĩa Cách Mạng Tháng Tám năm 1945.
Nhà tù Sơn La - “địa chỉ đỏ” giáo dục truyền thống cách mạng
Nhà tù Sơn La là minh chứng sống về sự tàn bạo của chế độ thực dân Pháp đối với dân tộc Việt Nam. Xây dựng từ năm 1908, nhà tù đã chứng kiến hàng ngàn người dân Việt Nam bị giam cầm và tra tấn. Với chế độ khắc nghiệt và thủ đoạn tra tấn, nơi đây trở thành một địa ngục trần gian. Tuy nhiên, không ngờ rằng, những chiến sĩ kiên cường đã biến nhà tù này thành một trường đào tạo, nơi nuôi dưỡng những ý chí đấu tranh bất khuất.
Nhà tù Sơn La ngày nay trở thành điểm đến để hiểu rõ hơn về quá khứ đầy bi kịch của dân tộc Việt Nam và nhớ mãi ý chí bất khuất của những người đã hy sinh vì tự do và độc lập. Đây là một bằng chứng vật chất quan trọng, minh chứng về tinh thần yêu nước và ý chí bất khuất của dân tộc Việt Nam, thu hút đông đảo du khách trong và ngoài nước đến tham quan, học tập và nghiên cứu.
Trên đây là 16+ di tích lịch sử tại Sơn La mà bạn có thể đến và trải nghiệm khám phá. Hãy lưu lại danh sách này cho chuyến du lịch trải nghiệm của bạn thú vị tại Sơn La. Đừng quên theo dõi 63 Stravel để cập nhật các thông tin về du lịch Việt Nam mới nhất nhé!
Sơn La 6112 lượt xem
Ngày cập nhật : 28/05/2024
Ngoài cái tên Dải Yếm, ngọn thác này còn được gọi là “thác Nàng” hay “thác Bản Vặt”. Thác bắt nguồn từ hai khe nước Bó Co Lắm và Bo Ta Cháu, nằm ở vị trí hợp lưu của suối Vặt và suối Bó Sập, thuộc xã Mường Sang, huyện Mộc Châu. Tương truyền rằng hơn 700 năm trước, có một đôi trai gái yêu nhau thắm thiết. Nhưng vì chiến tranh, cả hai phải chia cắt. Chàng trai ra trận, còn cô gái ngày ngày đến bên dòng thác chờ người yêu trở về. Một hôm, trời mưa bão, nước dâng ngập cả ngọn thác. Cô gái bị cuốn trôi, chỉ còn lại tín vật tình yêu là chiếc khăn thêu vương lại gần thác nước. Dân bản tiếc thương nên đã đặt tên cho thác là “Dải Yếm”, theo tiếng Thái cổ nghĩa là “Sợi Yêu”. Cũng bởi truyền thuyết cảm động này nên dòng thác đã trở thành nơi “chứng duyên” và là điểm đến lý tưởng cho rất nhiều cặp tình nhân. Hiện nay, thác đang được bảo tồn và chịu sự quản lý bởi Khu du lịch thác Dải Yếm. Giống như một người con gái đang tuổi yêu đương, thác nước Dải Yếm có lúc nhẹ nhàng, êm đềm nhưng cũng có lúc dữ dội và cuồng nhiệt. Để cảm nhận được hết vẻ đẹp hoang dã pha lẫn chút mộng mơ của con thác, bạn nên đến đây vào mùa nước đổ. Khoảng thời gian từ tháng 4 – 9 chính là thời lúc vời nhất để ngắm thác. Lúc này, suối chảy xiết, lượng nước đổ về rất lớn, tạo thành một tấm màn trắng xóa, đầy mê hoặc, khiến người xem phải choáng ngợp và thích thú. Nhưng nếu muốn nhìn thấy một điều gì đó nhẹ nhàng, trầm lắng hơn, bạn cũng có thể tham quan thác vào mùa khô. Khi đó, con thác sẽ trở nên dịu dàng và đầy mộng mơ. Tiếng suối chảy róc rách hòa cũng giọng hót líu lo của những chú chim từ rừng sâu, tất cả hòa quyện vào nhau, tạo thành một khung cảnh đậm ý thơ. Nhưng nếu muốn nhìn thấy một điều gì đó nhẹ nhàng, trầm lắng hơn, bạn cũng có thể tham quan thác vào mùa khô. Khi đó, con thác sẽ trở nên dịu dàng và đầy mộng mơ. Tiếng suối chảy róc rách hòa cũng giọng hót líu lo của những chú chim từ rừng sâu, tất cả hòa quyện vào nhau, tạo thành một khung cảnh đậm ý thơ. Trải nghiệm đầu tiên mà bất cứ du khách nào cũng không thể bỏ qua đó là chiêm ngưỡng vẻ đẹp hùng vĩ của thác Dải Yếm. Thác có độ cao hơn 100m, được chia tách thành hai nhánh rõ rệt: thác phía trên rộng khoảng 4.000 m2 với 9 tầng tượng trưng cho 9 bậc tình yêu, còn thác phía dưới nhỏ hơn (diện tích tầm 300 m2) và gồm 3 tầng. Hai cụm thác cách nhau khoảng 200m, thi nhau ngày đêm chảy xiết, nhìn từ xa trông giống như một dải yếm đào mềm mại uốn lượn quanh vách núi. Với vẻ đẹp kỳ ảo đậm nét thi thơ, ngọn thác này đã trở thành địa điểm tham quan, dã ngoại, check in chụp ảnh của rất nhiều du khách, đặc biệt là giới trẻ.
Sơn La 2078 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Hồ Tiền Phong Sơn La là địa danh tiêu biểu của nét đẹp hoang sơ và hùng vĩ, nhưng lại vô cùng lãng mạn nơi núi rừng Tây Bắc. Ghé thăm vùng đất này, du khách sẽ được chiêm ngưỡng phong thủy hữu tình và tận hưởng không khí trong lành của thiên nhiên, có nhiều trải nghiệm thú vị khi đi du thuyền trên mặt hồ. Nằm giữa thảo nguyên bao la, hồ Tiên Phong ngàn gió và nắng ấm đã làm say lòng bao du khách. Hồ Tiền Phong Sơn La là thuộc địa bàn xã Mường Bom, huyện Mai Sơn. Địa danh nằm ngay sát trục đường Quốc lộ 6, cách 23km về thị xã Sơn La, cách 7km về thị trấn Hát Lót và cách 2km để tới sân bay Nà Sản. Đây là vị trí đắc địa của núi non hùng vĩ. Là nơi được bao quanh bởi thiên nhiên tươi đẹp – giữa thảo nguyên ngút ngàn. Phía Đông và phía Bắc là hai dãy núi trùng điệp nối tiếp nhau hùng vĩ. Phía Đông là cao nguyên Nà Sản đầy ắp các loại trái cây và ngút ngàn đồi chè xanh ngát. Tất cả đã tạo nên phong cảnh hữu tình, thiên nhiên cuốn hút, mang lại những giây phút thư thái và bình yên, níu chân người lữ khách. Cảnh sắc hồ Tiền Phong được tạo nên từ con đập Tiền Phong bằng đất và kiên cố bởi những mảng bê tông vững chắc. Đập Tiền Phong cao 23m, chân rộng 120m2 và dài 120m. Tới đây, du khách được tận mắt chứng kiến khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp với một màu xanh biếc trải dài. Mặt hồ bao la màu xanh ngọc bích, đằng xa xanh thẳm những cánh rừng nhiệt đới và cảnh sắc mây trời thăm thẳm. Thiên nhiên dìu bước, lòng người không muốn rời khỏi khung cảnh non nước hùng vĩ Tiền Phong. Du thuyền là trải nghiệm hấp dẫn du khách khi đến thăm hồ Tiền Phong Sơn La. Vừa lững lờ trên mặt nước và thu vào tầm mắt thiên nhiên tuyệt diệu thì còn gì tuyệt vời hơn. Bạn có thể lựa chọn chèo thuyền bằng tay, thuyền đạp chân hoặc thuyền máy tùy theo sở thích. Nhiều du khách cũng lựa chọn câu cá giữ thiên nhiên tuyệt đẹp. Hãy cứ làm theo cách mình thích, thả hồn vào thiên nhiên để cảm nhận thời gian chậm trôi, lưu giữ những cảm xúc tuyệt vời nhất. Nhìn từ xa, đảo nổi giống như mai một con rùa đang lênh đênh giữa mặt hồ. Cảnh quan nơi đây lúc nào cũng xanh mướt một màu xanh tươi mát từ những thảm cỏ non và hàng đây vi vu gió. Gió đưa hơi nước mát lành và sảng khoái cho hòn đảo nhỏ. Khám phá đảo nổi, du khách sẽ được thả hồn vào thiên nhiên tươi mát nơi đây, thưởng thức không khí trong lành và bình yên nhất của cuộc đời.
Sơn La 2263 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Sở hữu độ cao ấn tượng so với mực nước biển là 2.000 m, đỉnh núi nằm ở khu vực biên giới Việt - Lào và nhận được sự yêu thích của nhiều khách du lịch đến tham quan trong thời gian những năm gần đây. Sau khi đến trung tâm huyện Mộc Châu bạn cần di chuyển thêm 40 km để đến được chân núi. Ngoài tên gọi đỉnh Pha Luông, du khách còn có thể dùng tên Bờ Lung để nói về điểm du lịch này. Khi đến đây bạn sẽ được trải nghiệm cảm giác chinh phục đỉnh núi với độ cao ấn tượng. Đặc biệt, là cảm giác được ngắm nhìn khung cảnh mọc trong từ trên cao vừa hùng vĩ, vừa hoang sơ mà không phải ở đâu cũng có. Với những người yêu thích khám phá và đam mê bộ môn mạo hiểm thì đây sẽ là điểm đến tuyệt vời. Bạn còn có thể tận hưởng bầu không khí trong lành, mát mẻ của vùng cao miền Bắc và thư giãn sau những căng thẳng, mệt mỏi trong cuộc sống tại đây. Đối với những bạn trẻ thì đây là điểm check in lý tưởng và “săn mây” siêu đỉnh vào buổi sáng sớm. Mang đặc trưng khí hậu của miền Bắc với bốn mùa thay đổi rõ rệt, du khách có thể đến đỉnh Pha Luông bất kỳ thời gian nào trong năm. Bởi nơi đây vào mỗi thời điểm sẽ mang vẻ đẹp riêng biệt và ấn tượng riêng cho khách du lịch. Tuy nhiên, vì đường lên đỉnh núi có độ cao đến 2000m và khó khăn, nên du khách hãy chọn thời gian du lịch từ tháng 3 đến tháng 4. Đây là thời điểm có nắng ấm và không có mưa, thuận tiện cho việc leo núi an toàn hơn cũng như giúp quá trình ngắm cảnh. Một trong những điểm check-in nổi tiếng khi chinh phục đỉnh Pha Luông, đó chính là mỏm đá có hình dáng độc đáo. Sự bao quát trong không gian và cảnh vật, cùng mỏm đá chìa hẳn ra phía ngoài càng làm cho tấm hình của bạn thêm ấn tượng. Du khách không cần lo lắng bởi đá có kích thước khá lớn và dày dặn, cần lưu ý khi check-in vào trời mưa do dễ trơn trượt. Ngoài những trải nghiệm về cảnh vật và bầu không khí tại đỉnh núi, du khách còn có cơ hội khám phá thêm về phiên chợ đặc trưng của người Lào. Bạn có thể tìm thấy những sản phẩm thủ công mỹ nghệ, món ăn đặc sản tại Mộc Châu, thịt khô,... làm quà cho người thân hoặc bạn bè sau chuyến đi. Mặc dù là một điểm du lịch thu hút và mang vẻ đẹp hoang sơ, ấn tượng cho khách du lịch. Nhưng đỉnh Pha Luông khá khó chinh phục, nên ngoài kinh nghiệm bạn cũng cần biết một số lưu ý sau: Với độ cao 2000m, khi đến đỉnh núi bạn sẽ thấy nhiệt độ giảm xuống nhanh chóng. Đặc biệt, nếu đến vào mùa Đông thì mức nhiệt càng thấp nên bạn cần mang theo quần áo giữ ấm, khăn, nón len, bao tay,... Nhằm tránh nhiệt độ thay đổi đột ngột khiến cơ thể bị ảnh hưởng. Trong quá trình leo núi bạn nên sử dụng giày chuyên dụng dành cho leo núi, không nên đi giày bệt hoặc dép vì có thể gây trơn trượt và nguy hiểm trong quá trình di chuyển. Du khách lên cân nhắc kỹ về sức khỏe và khả năng vận động của mình trước khi quyết định leo núi Pha Luông. Với những người mắc các bệnh về tim mạch thì không nên di chuyển lên núi. Trước khi thực hiện quá trình chinh phục đỉnh núi, bạn nên ăn nhẹ và uống nước để có thêm năng lượng cho bản thân. Tuyệt đối không tự ý vứt rác bừa bãi trong quá trình di chuyển hoặc tham quan đỉnh núi. Luôn mang theo giấy tờ tùy thân để xuất trình làm thủ tục tại đồn biên phòng.
Sơn La 2418 lượt xem
Từ tháng 3 đến tháng 4
Giữa lòng thành phố có ngọn đồi mang tên Khau Cả nằm soi mình bên dòng suối Nậm La, nơi đây còn lưu giữ chứng tích lịch sử Nhà Tù Sơn La - minh chứng của một thời kỳ lịch sử đấu tranh cách mạng, tinh thần bất khuất của những người cộng sản kiên cường đã bị đầy ải bởi thực dân Pháp giam cầm, và bảo tàng Sơn La nơi trưng bày nhiều hiện vật quý, giới thiệu truyền thống lịch sử, văn hoá của cộng đồng 12 dân tộc đoàn kết cùng nhau xây dựng Sơn La thành tỉnh giàu có của Việt Nam. Nhà tù Sơn La do thực dân Pháp xây dựng năm 1908 với diện tích ban đầu là 500 m2. Nhà tù xây dựng khá kiên cố: tường được xây dựng bằng đá lẫn gạch, mái lợp tôn, không có trần, giường nằm cho tù nhân cũng được xây bằng đá, mặt láng xi măng, mép ngoài được gắn hệ thống cùm chân dọc theo chiều dài của sàn. Trong mỗi phòng giam đều có hố xí nổi được xây cao hơn sàn nằm, không có nắp đậy, không có nước dội, không được vệ sinh thường xuyên. Với lối thiết kế như vậy, mùa hè những đợt gió Lào của vùng Tây Bắc gây nên cái nóng như thiêu như đốt, những đợt sương muối tạo ra cái lạnh giá, rét thấu xương thịt vào mùa đông cộng với môi trường ô nhiễm ở mỗi phòng giam đã làm bệnh tật phát sinh và lây lan rất nhanh chóng trong tù nhân. Năm 1930, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời và lãnh đạo nhân dân vùng lên đấu tranh chống lại chế độ tàn bạo của thực dân phong kiến. Phong trào đấu tranh đã làm kẻ địch bất ngờ, chúng lồng lộn tìm đủ mọi cách đàn áp, bắt bớ những người Việt Nam yêu nước hòng dập tắt phong trào cách mạng. Mặt khác tăng cường xây dựng và mở rộng thêm hệ thống nhà tù trong cả nước trong đó chúng đặc biệt chú ý đến nhà tù Sơn La. Năm 1940, Nhà tù Sơn La được mở rộng thêm một trại giam lớn để giam thêm tù nhân và đưa một số tù nhân nữ lên Sơn La nhưng âm mưu đó đã không thực hiện được. Như vậy, qua 3 lần xây dựng và mở rộng, nhà tù Sơn La có tổng diện tích là: 2.170m2. Thực dân Pháp đã biến nơi đây thành một địa ngục trần gian để giam cầm, đầy ải và thủ tiêu ý chí đấu tranh của những người Cộng sản. Bằng chế độ nhà tù cực kỳ hà khắc và những thủ đoạn tra tấn vô cùng hiểm ác, kẻ thù tưởng sẽ tiêu diệt được tinh thần và thể xác của những chiến sĩ cách mạng nhưng chính tại nơi đây đã trở thành một trường học cách mạng, rèn luyện ý chí và bổ sung cho Đảng, cho cách mạng những chiến sỹ, đảng viên cộng sản trung kiên, nổi bật nhất là vai trò của đồng chí Tô Hiệu và bao đồng chí trung kiên khác. Trải qua 2 lần tàn phá bằng bom của giặc, di tích xưa giờ đã xiêu vẹo, hầu như chỉ còn là một bãi gạch tan hoang, những bức tường nhà ngục đổ nát là minh chứng cho tội ác dã man của kẻ thù. Còn lại nguyên vẹn là cây đào Tô Hiệu, biểu tượng gắn với tên tuổi người Bí thư Chi bộ kiên trung của nhà tù vẫn trổ hoa rực rỡ khi mùa xuân về... Năm 1952, khi thực dân Pháp rút khỏi Sơn La, đã ném bom nhằm xóa đi dấu vết tội ác của chúng, lần 2 vào năm 1965, đế quốc Mỹ đã dánh phá Thị xã Sơn La phá hủy một phần của nhà tù. Năm 1980, Bảo tàng Sơn La tiến hành phục chế lại lần thứ nhất: San lấp hố bom, xây dựng lại một số đoạn tường rào bao quanh; lần thứ 2, vào năm 1994, phục chế lại 2 tháp canh, nhà bếp, trại giam lớn, gia cố lại hầm ngầm, xây dựng các bức tường của các phòng giam theo dấu vết của các nền móng cũ. Năm 1994, Bảo tàng Sơn La đưa ra ý định phục chế lại toàn bộ khu di tích lại như nguyên dạng ban đầu, nhưng không sưa tầm được đầy đủ hồ sơ, nên không đủ cơ sở khoa học để khôi phục lại toàn bộ mà chỉ xây các bức tường lên cao một chút để khách tham quan có thể hình dung được cấu trúc của khu nhà tù Sơn La. Mỗi năm, tại di tích lịch sử nhà tù Sơn La đã đón tiếp hàng trăm ngàn lượt du khách đến tham quan, nghiên cứu, học tập….Chắc hẳn, một lần nào đó du khách đến với Sơn La, về với núi rừng Tây Bắc để được trải nhiệm, hồi tưởng lại cuộc chiến tranh diễn ra hơn một thế kỷ đã qua; Với sự lãnh đạo tài tình của đảng, tinh thần yêu nước nồng nàn sẵn sàng hy sinh vì độc lập dân tộc, tình đoàn kết keo sơn giữa các dân tộc…Đã để lại cho hậu thế hôm nay một đất nước thanh bình.
Sơn La 2213 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Với diện tích 6.915m2, Hang Dơi chứa đựng trong mình một mạch nước ngầm không bao giờ cạn. Cái tên Hang Dơi vốn bắt nguồn từ việc xưa kia có những đàn dơi lớn ở lại đây sinh sống và làm tổ nhưng hiện tại chúng đã rời đi nơi khác. Tuy nhiên, cái tên Hang Dơi vẫn được người dân ở đây gọi cho tới hiện tại như một cái tên thân thuộc từ lâu. Phía trên trần của hang động là những vòm đá cao rủ xuống tại thành những khối nhũ lung linh huyền ảo. Những khối thạch nhũ này tạo thành nhiều hình thù kỳ thú như ông tiên, bà tiên, các con vật… Tất cả tạo nên một cảnh vật vừa lung linh vừa hùng vĩ. Đây là một địa điểm mà khi đi du lịch Mộc Châu bạn không nên bỏ qua! Tương truyền rằng, ngày xưa có một con rồng thiêng, khi bay qua vùng đất này, thấy núi non nơi đây hùng vĩ, khí hậu lại mát mẻ nên đã hạ mình ẩn xuống Hang Dơi và trú ngụ ở đây. Chính vì vậy, dãy núi này có nhiều màu sắc rất huyền bí như: màu trắng ngần lúc ban mai, xanh biếc lúc trưa rồi lại chuyển hồng lúc chiều, cuối cùng là màu tím lúc hoàng hôn. Người dân ở đây thường bảo nhau đấy là do thân rồng đang bao quanh núi. Về sau, khi con rồng chết đi, nó đã nhả ra 7 viên ngọc để trả ơn. 7 viên ngọc chính là 7 ngọn núi đã tạo nên hang Dơi sau này. Nhờ những câu chuyện truyền thuyết đã được lưu truyền từ đời này qua đời khác khiến cho nơi đây càng trở nên hấp dẫn và khiến cho nhiều du khách tò mò muốn đến đây để kiểm chứng. Từ khi bước vào từ cửa hang, ánh sáng hắt vào trong hang sẽ làm cho bạn cảm thấy như mình đang lạc vào một chốn thần tiên với những mảng tối, sáng khác nhau. Du khách sẽ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp từ các khối nhũ đá vôi rủ xuống tạo nên một bức tranh thiên nhiên kỳ thú. Hơn nữa, những khối đá này còn có nhiều hình thù khác nhau tạo khiến du khách thấy hứng thú khi liên tưởng. Đặc biệt nhất là khối đá hình một cặp nam nữ yêu nhau ở hồ nước cạn giữa động, là điểm nhấn khiến ai cũng phải trầm trồ. Trong động, ngoài những hình thù được tạo nên từ những khối đá vôi còn có rất nhiều cây đa mà mà rễ của nó tạo thành những hình thù ở dưới đất như hình con voi, con hổ... Một điều đặc biệt nữa của Động Sơn Mộc Hương là phần giữa hang vòm cao hơn những chỗ khác trong động, có bức mành đá chắn ở lối vào, đây được gọi là buồng “công chúa”, cũng là một điểm thu hút ở nơi đây. Hang Dơi vừa là nơi tham quan vừa là nơi thám hiểm với rừng núi và cây cối mọc xung quanh, vậy nên du khách cần chú ý một số điều sau: Vì hang nằm ở nơi có rừng cây rậm rạp nên du khác nên mặc những trang phục kín và thoải mái để vừa có thể leo núi mà vừa tránh bị cồn trùng hay muỗi cắn.Nên mang thêm cả kem xịt muỗi để đảm bảo an toàn, nhất là với trẻ em. Khi đi tham quan Động Sơn Mộc Hương, bố mẹ cần để ý đến sức khỏe của con mình khi leo núi và tham quan động, sau đó, đưa ra những giải pháp kịp thời nếu trẻ quá mệt hoặc quá hiếu động mà chạy nhảy lung tung.
Sơn La 3086 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Mộc Châu có bốn mùa xuân, hạ, thu, đông với thời tiết ôn hòa, quanh năm có hoa trái. Tháng 1, cao nguyên có màu xanh của những đồi chè nảy lộc, hoa đào, hoa mận, hoa mơ, mai anh đào... Từ giữa tháng 5, mận bắt đầu chín rộ, người dân vào vụ thu hoạch mận, đổ bán cho các thương lái miền xuôi. Mùa hè không có hoa, cũng không phải mùa dâu tây nhưng nơi đây lại rất thích hợp để dã ngoại bởi không khí trong lành và nhiều hoạt động ngoài trời. Mùa hồng chín ở Mộc Châu bắt đầu từ tháng 8 đến tháng 12 hàng năm. Trong đó, mùa hồng giòn thường có sớm hơn, từ tháng 8 đến tháng 10, còn từ tháng 10 đến cuối năm là mùa của hồng chát. Mùa cải trắng ở Mộc Châu bắt đầu vào tháng 11. Tháng 12, hoa dã quỳ vàng rực rỡ tô điểm cho cao nguyên. Mộc Châu cách Hà Nội gần 200 km. Nếu đi bằng xe máy, bạn nên đi theo đường quốc lộ 6 cũ bởi dọc đường có rất nhiều cảnh đẹp nhưng nên lưu ý tay lái bởi đường xuống cấp cũng khá nhiều. Quãng đường đi mất khoảng 4-5 tiếng. Trên đường đi, bạn sẽ qua cung đường chữ S thuộc huyện Vân Hồ. Hầu hết phượt thủ đều dừng lại ngắm cảnh và check-in tại đường cong mềm mại hình chữ S này. Còn nếu đi xe khách, bạn có thể chọn các tuyến đi Sơn La từ bến xe Mỹ Đình hoặc Yên Nghĩa, sau đó xuống ở Mộc Châu với giá vé xe chất lượng cao khoảng 200.000 đồng. Nếu tự lái ôtô, bạn không cần quá lo lắng vì đường to, dễ đi dù nhiều đèo dốc. Lưu ý, chạy đúng tốc độ và chú ý làn khi vượt. Vào mùa hè, đường ít sương mù nhưng tầm nhìn hạn chế khi trời mưa. Đoạn có thể nhiều mây mù là đường từ đoạn Thung Khe. Mộc Châu có khá nhiều nhà nghỉ. Tuy nhiên, để có được phòng ở chất lượng trong mùa cao điểm, bạn vẫn nên gọi điện đặt trước. Ở đây có hình thức nhà nghỉ sinh thái (có núi đồi, hồ nước, nhà sàn) hoặc nhà nghỉ cộng đồng kiểu homestay. Giá của một phòng khoảng 200.000 - 300.000 đồng một đêm nhưng cũng có rất nhiều nhà nghỉ có mức giá thấp hơn. Vài homestay "chill" gợi ý là MAMA's House, Le Chalet du Lac, Fairy House Mộc Châu, House By Lake, The Nordic Village, Mộc Châu Retreat... Giá phòng từ 300.000 đến 1.000.000 đồng một đêm. Để khám phá hết Mộc Châu, bạn có thể đi nhanh trong 2 ngày. Nếu có thời gian nhiều hơn khoảng 3-4 ngày là tuyệt nhất, bạn sẽ có nhiều thời gian để tìm ra những góc máy đẹp để chụp ảnh hoặc rẽ sang các khu vực du lịch nổi tiếng lân cận như Thung Nai, Mai Châu, thủy điện Hòa Bình... Các địa điểm bạn có thể ghé qua: Rừng thông Bản Áng, Thung lũng mận Mu Náu, Vường hoa Hướng Dương, Đổi chè Mộc Châu, Thác Chiềng Khoa, Thác Nàng Tiên, Thác Dải Yếm, Đồng cỏ 68, Làng Nguyên Thủy, Đỉnh Pha Luông. Các quán ăn, nhà hàng nằm dọc theo trung tâm thị trấn đoạn quốc lộ 6 đi qua. Ngoài các đặc sản như mận, trà hay sữa, Mộc Châu còn nổi tiếng là nơi ăn ngon. Những món ăn không thể bỏ qua khi tới đây là bê chao, cá suối rán, cá lăng đủ món, lẩu cá hồi, tiết canh heo, thịt trâu gác bếp, rau chấm nước sốt lòng cá hay cơm ngũ sắc. Muốn ăn thịt bê sữa, bạn có thể tìm các nhà hàng Đông Hải, Xuân Bắc 181, Nam Hưng 70, hay Lan Hồng 64, Bê Quán Mộc Châu... Món ăn lạ miệng nên thử là lẩu sữa tươi Mộc Châu. Nước dùng được ninh từ xương và các loại rau củ, thêm một lượng sữa vừa phải được thêm vào sao cho có đủ màu trắng sữa và vị thơm dịu, thêm ngô cho ngọt. Khi lẩu bắt đầu sôi, lớp sữa phía trên bắt đầu đóng váng, có vị béo và thơm. Đây cũng là lúc nước lẩu ngon nhất. Trong hai năm trở lại đây, Mộc Châu còn nổi tiếng là nơi tạo ra dâu tây có chất lượng không thua kém Nhật Bản hay Hàn Quốc do trồng bằng công nghệ Nhật. Mùa đông sẽ là mùa thu hoạch dâu tây tại các trang trại với những khu vườn ngập dâu chín đỏ mọng, vị chua ngọt thanh mát và nếu ăn kèm với sữa chua Mộc Châu thì rất dễ gây "nghiện". Vào mùa hè, sau mùa mận sẽ là mùa dưa gang với những trái thơm ngọt. Bạn có thể mua chè, sữa, táo mèo, ngô, rượu ngô... về làm quà từ các địa điểm: ngã ba 73 gần thị trấn, tiểu khu 32 và Bó Bun, ngã ba 70, ngã ba vườn đào, tiểu khu Chiềng Bi. Mộc Châu thường có nắng ấm vào ban ngày, nhưng nhiệt độ ban đêm khá thấp và có sương mù. Bạn cần mang đủ quần áo ấm để đảm bảo sức khỏe, kiểm tra đèn xe trước khi khởi hành. Không xả rác, dẫm lên các luống cải của đồng bào hoặc leo trèo trên cây, bẻ cành đào rừng, cành mận, hoa...
Sơn La 2445 lượt xem
Tháng 1 đến tháng 12
Di tích lịch sử Kỳ đài Thuận Châu thuộc bản Pán, xã Chiềng Ly, huyện Thuận Châu. Nơi đây đánh dấu một sự kiện lịch sử ngày 7/5/1959 Hồ Chủ Tịch cùng với Ban lãnh đạo Đảng và Chính phủ lên thăm Tây Bắc. Trong kháng chiến chống Pháp và sau hoà bình lập lại trên Miền Bắc, mặc dù bận trăm công ngàn việc của đất nước, Bác Hồ, Vị cha già kính yêu của dân tộc luôn quan tâm tới nhân dân các dân tộc Tây Bắc. Đáp lại lòng tin của Bác, nhân dân các dân tộc Tây Bắc đã dũng cảm trong chiến đấu, hăng hái thi đua lao động sản xuất và mong ước được đón Bác lên thăm và được báo cáo với Bác những thành tích đã đạt được. Ngày 7/5/1959, mong ước của nhân dân các dân tộc Tây Bắc đã trở thành hiện thực. Quảng trường của thủ phủ khu tự trị Thái, Mèo rực rỡ cờ hoa, biểu ngữ khẩu hiệu và hơn 1 vạn người đại diện cho 43 vạn nhân dân các dân tộc Tây Bắc hân hoan đón chào Bác dẫn đầu phái đoàn của Đảng, Chính phủ lên thăm. Bằng cử chỉ vô cùng giản dị, thân mật và gần gũi, Bác đã ghi nhận, biểu dương sự hy sinh và những đóng góp hết sức to lớn của nhân dân các dân tộc Tây bắc trong kháng chiến chống pháp, trong khôi phục kinh tế sau chiến tranh. Người đã thay mặt Chính phủ tặng nhân dân các dân tộc Tây Bắc tấm Huân chương lao động hạng nhất. Người căn dặn: Phải hăng hái thi đua phát triển kinh tế, xã hội, củng cố các thành phần kinh tế, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, phát triển mạng lưới giáo dục, y tế, củng cố an ninh quốc phòng. Hơn 40 năm đã trôi qua, lời dặn của Người đã được Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc Sơn La bền bỉ phấn đấu thực hiện, đã và đang làm cho vùng đất Miền Tây của Tổ quốc có những đổi thay to lớn. Ngày nay Di tích lịch sử Kỳ đài Thuận châu nằm ngay trong khuôn viên sân vận động huyện Thuận Châu. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Sơn La
Sơn La 2936 lượt xem
Di tích lịch sử Văn bia Quế Lâm Ngự Chế thuộc tổ 3, phường Chiềng Lề, thành phố Sơn La. Nơi đây đã minh chứng thời kỳ lịch sử của vị vua hùng tài, đại lược Lê Thái Tông cùng quân sỹ đi chinh phạt quân phiến loạn ở vùng biên cương phía Tây của Tổ quốc, giữ bình yên cho bờ cõi nước nhà. Di tích được Bộ Văn hóa, Thông tin xếp hạng cấp Quốc gia ngày 05/02/1994. Vua Lê Thái Tông, tên húy là Nguyên Long, là con thứ của Vua Lê Thái Tổ (Lê Lợi) và Cung từ Hoàng thái hậu Phạm Thị Ngọc Trần, người hương Quần Lai, huyện Lôi Dương (nay là Thọ Xuân – Thanh Hóa). Từ khi lên ngôi, Vua Lê Thái Tông rất chú ý đến miền Tây Bắc, miền đất phên dậu của Tổ quốc. Để củng cố và đảm bảo sự thống nhất Quốc gia, cũng như Vua Lê Thái Tổ và các vị vua khác, trong 9 năm trị vì đất nước, vua Lê Thái Tông đã 2 lần chỉ huy quân sỹ lên miền Tây Bắc dẹp bọn phản nghịch. Tháng 3 năm Canh Thân (1440), nhà vua lần đầu tiên thân chinh cùng quân sỹ lên trấn Miền Tây đi đánh thổ quân phản nghịch tên là Thượng Nghiễm ở Châu Mường Muổi (nay là huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La). Nhà vua đi tới đâu cũng được nhân dân ủng hộ nên quân của triều đình đã nhanh chóng dẹp tan bọn phản nghịch. Trên đường trở về, nhà vua cùng quân sỹ nghỉ chân tại Động La (Thẳm báo ké), một hang đá tự nhiên ở châu Mường La. Vua thấy nơi đây cảnh đẹp, địa lý thuận lợi, với ý nghĩa sâu xa và tâm hồn thanh thản, nhà vua đã cho quân sỹ khắc bài thơ và lời tựa trên vách đá ở cửa Động La. Bài thơ, Quế Lâm Ngự Chế có ý nghĩa như sau: “Tù trưởng Thuận Châu là Thượng Nghiễm phản nghịch, vong ơn bội nghĩa, đem quân theo người Ai Lao làm phản. Thân chinh điều khiển sáu quân tới trị nó. Thượng Nghiễm kế cùng lực tận, dâng voi xin hàng. Ta thương nó quỳ bò không mang vũ khí, không nỡ chém, bèn tha tội cho nó, rồi đem quân trở về để lại một bài thơ. Đúng một năm sau, tháng 3 năm 1441 vua lại đem quân lên dẹp loạn Nghịch Nghiễm ở Châu Mường Muổi, đi đến đâu cũng được nhân dân hưởng ứng, giúp đỡ vì vậy quân của triều đình đã nhanh chóng bắt được tướng Ai Lao là Đạo Mông, đồng thời bắt được con của Thượng Nghiễm là Sinh Tượng và Chàng Đồng. Tên phản nghịch Thượng Nghiễm ra hàng và chịu tội, kể từ đây dải đất biên cương phía Tây của Tổ quốc đã được yên bình. Để tri ân công đức của Vua Lê Thái Tông và để di tích Văn bia Quế Lâm Ngự Chế mãi mãi trang nghiêm, tỏa sáng trong lòng các thế hệ nối tiếp, đáp ứng nhu cầu tâm linh, tín ngưỡng lành mạnh của đông đảo các tầng lớp nhân dân, được sự nhất trí của Bộ Văn hóa, Thông tin, tháng 9/2001 Tỉnh ủy và UBND Sơn La đã cho khởi công xây dựng đền thờ Vua Lê Thái Tông tại thị xã Sơn La và được khánh thành ngày 22/01/2003, lấy tên là “Quế Lâm linh từ”. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Sơn La
Sơn La 2667 lượt xem
Đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp thiết lập bộ máy cai trị của chúng tại vùng Tây Bắc. Chúng cho xây dựng Nhà tù Sơn La để giam cầm, đày ải, thủ tiêu ý chí đấu tranh của các chiến sĩ cách mạng và những người Việt Nam yêu nước. Tháng 12/1939, những tù nhân chính trị tại nhà tù đã họp bí mật và quyết định thành lập Chi bộ lâm thời. Chi bộ đã chọn cây đa bản Hẹo làm địa điểm liên lạc bí mật với cơ sở cách mạng bên ngoài nhà tù và với Trung ương Đảng. Năm 1942 - 1943, tình hình cách mạng trong nước và thế giới có nhiều biến động, Trung ương Đảng chỉ đạo khu căn cứ Yên Bái, Phú Thọ phải lập đường dây liên lạc với Chi bộ nhà tù Sơn La. Hàng ngày tù nhân chính trị Nhà tù Sơn La phải đến khu vực cây đa để lấy củi, nên các tù nhân đã đặt một hòm thư bí mật, để liên lạc nhận định tình hình địch, hòng tổ chức vượt ngục. Theo kế hoạch đã định, tháng 1 năm 1943. Các Đồng chí ở cơ quan Trung ương đã bố trí gặp các đồng chí trong Chi bộ nhà tù Sơn La tại cây đa Bản Hẹo. Thống nhất kế hoạch hoạt động vượt ngục. Với sự chuẩn bị kỹ lưỡng của các tù nhân từ bên trong nhà tù cho đến các đồng chí, chiến sĩ bên ngoài nhà tù, ngày 3/8/1943, Chi bộ đã tổ chức thành công cuộc vượt ngục cho các tù nhân ưu tú về cơ quan Trung ương Đảng tiếp tục hoạt động cách mạng. Như vậy, trong suốt thời kỳ đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược, cùng với các địa điểm liên lạc khác, cây đa bản Hẹo, nơi đặt hòm thư bí mật, nơi gặp gỡ, liên lạc giữa các chiến sỹ cộng sản thuộc Chi bộ nhà tù với lãnh đạo Trung ương - đã thực sự giữ vai trò quan trọng, góp phần tạo nên một mạng lưới thông tin vững chắc, che mắt được mạng lưới mật thám dày đặc của kẻ thù, phục vụ cho sự phát triển của cách mạng và góp phần to lớn vào thắng lợi của phong trào đấu tranh giành chính quyền ở Sơn La nói riêng và cả nước nói chung. Cây đa bản Hẹo nay là một di tích lịch sử cách mạng trong quần thể di tích Quốc gia đặc biệt Nhà tù Sơn La, do Bảo tàng tỉnh quản lý. Hàng năm, di tích đón hàng trăm nghìn lượt khách đến tham quan, tìm hiểu, nghiên cứu. Dù đã trải qua bao thăng trầm của lịch sử, cây đa vẫn còn đó như một minh chứng cho một thời kỳ lịch sử cách mạng thế kỷ XX. Nguồn: Bảo tàng tỉnh Sơn La
Sơn La 2583 lượt xem
Nhà tù Sơn La được thực dân Pháp xây dựng năm 1908, bên cạnh dòng suối Nậm La trên đỉnh đồi Khau Cả, nay thuộc phường Tô Hiệu, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La. Nơi đây đã giam giữ 1007 lượt tù nhân cộng sản, là trường học cách mạng, nơi ươm mầm “hạt giống đỏ” của cách mạng Việt Nam. Nhà tù Sơn La do thực dân Pháp xây dựng năm 1908 với diện tích ban đầu là 500 m2, chủ yếu để giam cầm tù thường phạm. Năm 1930, trước phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc của cách mạng Việt Nam ngày càng dâng cao, thực dân Pháp đã mở rộng Nhà tù Sơn La thêm 1.500 m2 và bắt đầu giam chính trị phạm. Năm 1940, thực dân Pháp cho xây dựng một trại giam có diện tích 170m với ý định giam tù nhân nữ, nhưng âm mưu này đã không thực hiện được. Như vậy, qua 3 lần xây dựng và mở rộng, Nhà tù Sơn La có tổng diện tích là 2.170 m2. Đặc biệt, trong quá trình mở rộng nhà tù, thực dân Pháp còn cho xây dựng một dãy xà lim ngầm nằm sâu dưới lòng đất 3m, được che giấu bởi khu nhà bếp ở trên. Hệ thống xà lim ngầm gồm 5 phòng giam cá nhân và 2 phòng giam tập thể, trong đó có 1 xả lim tối. Nhà tù Sơn La được xây dựng kiên cố, tường xây bằng đá lẫn gạch, mái lợp tôn. Giường nằm cho tù nhân xây bằng đá, mặt láng xi măng, mặt ngoài gắn hệ thông cùm chân dọc theo chiều dài của sàn. Với thiết kế như vậy, những đợt gió Lào của vùng Tây Bắc với cái nóng như đổ lửa vào mùa hè cùng những đợt sương muối giá rét vào mùa đông đã khiến các loại bệnh phát sinh và lây lan nhanh chóng. Nhà tù Sơn La được ví như “chiếc quan tài nắp mở, chỉ chờ tù nhân tắt thở đem chôn”. Từ năm 1930 đến năm 1945, thực dân Pháp đã đày lên Nhà tù Sơn La 14 đoàn tù chính trị với tổng số 1.013 lượt tù nhân, trong đó có rất nhiều đồng chí là Ủy viên Trung ương, Xứ ủy, Thành ủy và nhiều cán bộ cốt cán của Đảng. Trực diện với tội ác của kẻ thù, hơn bao giờ hết, khí tiết của những người cộng sản đã tỏa sáng và thắp lên ngọn lửa đấu tranh cách mạng khắp núi rừng Tây Bắc, góp phần rất lớn vào sự thành công của cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945. Nơi đây đã trở thành một trường học cách mạng vĩ đại, đào tạo, bồi dưỡng cho Đảng và cách mạng Việt Nam những chiến sĩ Cộng sản xuất sắc tiêu biểu như: Tô Hiệu, Lê Duẩn, Trường Chinh, Nguyễn Lương Bằng, Văn Tiến Dũng, Lê Đức Thọ, Nguyễn Văn Trân, Lê Thanh Nghị, Trần Quốc Hoàng đồng chí trung kiến khác. Hòa bình lập lại, Bảo tàng tỉnh Sơn La đã tiến hành ba lần tu bổ, tôn tạo di tích Nhà tù vào các năm 1980, 1994, 2009 - 2010. Di tích lịch sử Nhà tù Sơn La còn có 2 điểm là: cây đa Bản Hẹo, địa điểm liên lạc giữa Chi bộ Nhà tù Sơn La với Trung ương Đảng và Nghĩa trang liệt sĩ Nhà tù Sơn La (Nghĩa trang Gốc Ổi) là nơi yên nghỉ của hơn 60 anh hùng, liệt sĩ đã hy sinh tại Nhà tù Sơn La. Di tích lịch sử Nhà tù Sơn La đã trở thành một địa chỉ đỏ trong công tác giáo dục truyền thống cách mạng cho thế hệ các dân tộc Sơn La và nhân dân cả nước. Nhà tù Sơn La được xếp hạng quốc gia năm 1962 và Di tích lịch sử quốc gia đặc biệt vào ngày 31-12-2014. Di tích Nhà tù Sơn La đã trở thành một trường học, một trung tâm giáo dục truyền thống cách mạng cho các thế hệ người Việt Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ. Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Tỉnh Sơn La
Sơn La 2525 lượt xem
Tập đoàn cứ điểm Nà Sản nằm trên cao nguyên Nà Sản, là một lòng chảo thuộc địa phận xã Chiềng Mun - huyện Mai Sơn - tỉnh Sơn La với diện tích khoảng 10km2 được bao quanh bởi các dãy núi cao trên 700m. Tại đây có sân bay, Sở chỉ huy, một số đồn bốt, hệ thống hỏa lực mạnh của bốn khẩu pháo 105mm và nhiều đường giao thông hào vây quanh bảo vệ khu trung tâm. Cũng như Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, quan trọng nhất của khu căn cứ quân sự này là sân bay Nà Sản, có nhiệm vụ tiếp tế cho quân Pháp đang làm nhiệm vụ tại đây. Sân bay này được xây dựng từ năm 1950 khi quân Pháp đặt sự thống trị, đàn áp nhân dân các dân tộc Tây Bắc sau khi chiếm được quyền kiểm soát từ tay Việt Minh. Ban đầu sân bay Nà Sản để phục vụ cho nhu cầu đi lại với hệ thống đường băng ngắn, nhỏ và kết cấu đơn giản, sau này được mở rộng, kéo dài và nâng cấp nền lát ghi sắt, có thể đáp ứng cho loại máy bay Dakota cất và hạ cánh. Trong khoảng thời gian gần một tháng từ khi quân Pháp rút về đây, chúng liên tục tăng viện lương thực, thực phẩm, vũ khí, đạn dược, dây thép gai và những vật liệu cần thiết để củng cố khu căn cứ quân sự này. Vì thời gian gấp rút nên hệ thống công sự ở đây được làm nhanh chóng bằng những vật liệu thô sơ như tre, gỗ, .. và được xây, đắp tạm thời để ở và chiến đấu. Tại các cứ điểm tại khu trung tâm, xung quanh sân bay được ưu tiên hơn, xây dựng kiên cố bằng xi măng, cát, lát tấm ghi sắt. Hầm chỉ huy trung tâm còn có hệ thống giao thông hào tương đối an toàn thoát ra sân bay trong trường hợp cần thiết. Chiến dịch Tây Bắc bắt đầu từ ngày 01-10-1952 và kết thúc vào ngày 10-12-1952. Sau 3 đợt tiến công quyết liệt của quân và dân ta nên chiến dịch nhanh chóng kết thúc sớm so với dự kiến ban đầu là 4 tháng. Ta đã tiêu diệt được nhiều quân địch và thu nhiều vũ khí, đạn dược, địch phải rút về co cụm ở tập đoàn cứ điểm Nà Sản. Trước thế bị động cô lập hoàn toàn, chúng biết khả năng không thể tồn tại trên mảnh đất này, nên đã bí mật tháo chạy bằng đường hàng không ở sân bay Nà Sản. Chiến dịch Tây Bắc đã kết thúc thắng lợi hoàn toàn. Đến nay, người ta ít biết đến Tập đoàn cứ điểm Nà Sản vì quy mô nhỏ lẻ và còn mang tính chất thụ động đối phó. Tuy nhiên đây là khởi nguồn đầu tiên cho hình thức đánh tập đoàn cứ điểm của Thực dân Pháp, là ý tưởng hình thành Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ sau này, là hình thức phòng ngự có ý nghĩa chiến lược lần đầu tiên xuất hiện trong chiến tranh Việt Nam. Tập đoàn cứ điểm Nà Sản là chứng tích của những năm tháng oanh liệt của quân và dân ta chống thực dân Pháp tại chiến trường Tây Bắc, là dấu ấn cho sự thất bại thảm hại của thực dân Pháp. Tập đoàn cứ điểm Nà Sản được xếp hạng Di tích lịch sử quốc gia vào ngày 24-1-1998. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Sơn La
Sơn La 2458 lượt xem
Cầu Tà Vài, thuộc bản Tà Vài, xã Chiềng Hặc, huyện Yên Châu là di tích lịch sử nổi tiếng của tỉnh. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp cây cầu không chỉ mang ý nghĩa dân sinh mà còn là di tích lịch sử. Bản Tà Vài nơi có cây cầu với 46 trận đánh phá ác liệt và phải hứng chịu 1.272 quả bom của máy bay Mỹ nhằm cắt đứt huyết mạch Quốc lộ 6. Nhưng cây cầu vẫn đứng vững, đảm bảo giao thông thông suốt. Năm 1965, giặc Mỹ đã dùng không quân, biệt kích điên cuồng phá hoại miền Bắc nhằm ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc đối với đồng bào miền Nam. Cây cầu Tà Vài ngày đó là trọng điểm mà giặc Mỹ bắn phá, ngày 20-6-1965, máy bay Mỹ đã ném 6 quả bom xuống bản Khâu Đay (Chiềng Hặc, Yên Châu) và 20 quả rốc két xuống cầu Tà Vài. Bắt đầu từ đây, các loại máy bay Mỹ liên tục bắn phá Yên Châu, nhưng do có sự chuẩn bị tốt các phương án đối phó với chiến tranh phá hoại của Mỹ nên Yên Châu bước vào cuộc chiến mà không bị bất ngờ. Lúc này cây cầu Tà Vài trở thành nơi giao tranh quyết liệt giữa ta và địch. Với quyết tâm bảo đảm mạch máu giao thông thông suốt trong mọi tình huống, quyết bám trụ tại trọng điểm giao thông cầu Tà Vài, lực lượng dân quân tự vệ cùng các đơn vị lực lượng vũ trang đã luôn bám mặt đường và cầu để đảm bảo cho xe thông tuyến. Tại đây, từ tháng 3 đến tháng 12 năm 1966 ta đã bố trí Tiểu đoàn 14 pháo cao xạ để bảo vệ cầu Tà Vài, trong đó Đại đội 3 gồm 2 khẩu đội pháo 37 ly được bố trí trận địa khu vực đồi bản Tát, giáp cầu Tài Vài, Đại đội 2 gồm 4 khẩu 37 ly được bố trí liên hoàn ở phía Tây cầu Tà Vài. Ngoài hai trận địa chính với phản lực là pháo 37 ly, còn một trận địa phụ gồm 1 đại đội 12,7 ly được bố trí ở địa hình thấp hơn cũng ở gần cầu Tà Vài. Để bố trí được trận địa như vậy, nhân dân bản Tà Vài đã cùng bộ đội đào công sự làm đường vòng quanh sườn đồi để kéo pháo lên. Mỗi khẩu pháo 37 ly phải huy động 200 người mới kéo được. Để động viên tinh thần và giúp đỡ bộ đội chiến đấu, nhân dân bản Tà Vài vừa hăng hái tham gia chiến đấu, vừa sản xuất lúa gạo để đóng góp cho tiền tuyến. Trong những năm tháng đó, nhân dân Tà Vài đã cùng với các bản khác trong xã Chiềng Hặc đóng góp gần 9 tấn rau, 500kg gia cầm, hàng tấn lương thực… Ngoài ra, đội văn nghệ của xã còn đến tận trận địa phục vụ bộ đội và dân quân. Nhiều lần phải di chuyển trận địa, nhân dân đã cùng bộ đội lấy dây rừng bện lại để kéo pháo; lấy tre, nứa làm lán cho bộ đội và giúp bộ đội đào trên 3.000 mét hầm trú ẩn trên trận địa với quyết tâm bảo vệ huyết mạch giao thông cho chiến trường. Địch phá hỏng cầu, đường, nhưng tinh thần của quân và dân ở đây không hề nao núng, mặc cho bom đạn gào thét vẫn hăng hái sửa đường cho xe qua, với phong trào thi đua “Tiếng hát át tiếng bom” và “Địch phá, ta sửa ta đi. Địch phá ta cứ đi”. Ngày 8-12-1966, địch tổ chức 3 tốp máy bay thả bom trên đồi nơi có trận địa pháo phòng không và bắn phá cầu Tà Vài, lúc này 2 nhịp cầu đã bị trúng bom và rơi xuống suối, giao thông đường 6 bị cắt đứt. Do cầu ở vị trí hiểm trở, suối rộng, nước sâu, hơn nữa giặc lại đánh cả ngày lẫn đêm nên rất khó làm lại cầu. Trước tình hình đó, đơn vị bảo vệ cầu quyết định làm đường tránh và đường ngầm để đảm bảo giao thông bằng mọi giá. Đường ngầm cầu Tà Vài được quân và dân làm cách chân cầu khoảng 1km về phía hạ lưu, nhưng giặc vẫn phát hiện và tiếp tục bắn phá. Với tinh thần chiến đấu dũng cảm, các đơn vị bộ đội và dân quân tự vệ đã bảo đảm tốt mạch máu giao thông. Phát huy truyền thống chiến đấu ngoan cường, tinh thần đoàn kết một lòng, nhân dân bản Tà Vài với khí thế sục sôi căm thù quân xâm lược, biến thành hành động cách mạng trong chiến đấu và sản xuất, góp phần xuất sắc vào thành tích đánh bại âm mưu mở rộng chiến tranh của đế quốc Mỹ. Tại trận địa cầu Tà Vài, quân và dân Yên Châu đã bắn rơi 2 máy bay F105 và bắt sống giặc lái Mỹ bằng súng trường, huyết mạch chi viện cho Miền Nam luôn thông suốt, chiến công đó đã nhanh chóng lan rộng đi khắp nơi, được cả nước biết đến. Ngày nay, chiến tranh đã lùi vào quá khứ, người dân Tà Vài chăm chỉ lao động sản xuất và tiếp tục đóng góp sức người, sức của cho quê hương, nơi có cây cầu Tà Vài ghi dấu tội ác của đế quốc Mỹ trong cuộc chiến xâm lược Việt Nam. Nói đến cầu Tà Vài là nói đến tinh thần chiến đấu anh dũng kiên cường và chiến đấu vẻ vang của quân và dân Yên Châu. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Sơn La
Sơn La 2450 lượt xem