Ứng dụng thuyết minh khám phá du lịch Việt Nam

Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch Travelviet

Tải ứng dụng Travelviet

Logo Travelviet

Di tích lịch sử

Việt nam

Khu di tích Hòn Đá Bạc

Hòn Đá Bạc cách đất liền khoảng 500 mét, có diện tích 6,34 ha, nằm ở phía tây Bán đảo Cà Mau, thuộc địa phận ấp Kinh Hòn, xã Khánh Bình Tây, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau. Hòn Đá Bạc bao gồm Hòn Ông Ngộ, Hòn Đá Bạc, Hòn Đá Bạc Lẻ. Đỉnh cao nhất của hòn khoảng 50 mét so với mặt nước biển. Tuy không phải là một hòn đảo lớn nhưng Hòn Đá Bạc rất thuận tiện cho các loại phương tiện khai thác biển vào neo đậu và tránh gió bão. Cùng với Hòn Khoai, Hòn Chuối, Hòn Đá Bạc là một trong những cụm đảo có vị trí chiến lược về kinh tế – quốc phòng – an ninh trên vùng biển - đảo Cà Mau. Nhìn trên bản đồ, Hòn Đá bạc như một trạm tiền tiêu canh giữ vùng trời, vùng biển phía tây nam Mũi Cà Mau. Hòn Đá Bạc – như tên gọi của nó – xung quanh hòn, trên mặt nước, dưới đáy biển hàng ngàn viên đá granit đủ mọi kích cỡ nằm chồng lên nhau tạo thành nhiều hình dáng như có sự sắp đặt của con người. Đi trên Hòn Đá Bạc, du khách bắt gặp bàn tay Tiên, dấu chân Tiên, giếng Tiên, bàn chân cọp. Trên đỉnh phía đông của Hòn Đá Bạc có các tảng đá to và bề mặt khá rộng. Khoảng giữa hai mảng đá có khuyết một hố sâu giống như hình bàn chân. Tương truyền rằng, dấu bàn chân ấy là bàn chân Tiên, còn mảng đá này là sân Tiên. Trên hòn có một vài ngôi chùa nhỏ như chùa Hang, chùa Tịnh độ. Đặc biệt, trên đỉnh cao nhất của Hòn Đá Bạc là đền thờ Ông Nam Hải - nơi thờ bộ xương cá Ông dài 13m. Ngày 20/5/1995, cá Ông dạt vào khu vực cửa sông Ông Đốc. Khoảng 3 ngày sau, Ông lụy (chết), ngư dân Sông Đốc đem chôn và đến năm 1996 đưa bộ xương về Hòn Đá Bạc để thờ cúng. Ngư dân vùng này mỗi khi đi biển gặp sóng to, gió lớn đều được cá Ông cứu giúp. Vì thế, ngư dân nơi đây thầm cảm ơn Ông và đem thờ Ông như một vị thần cứu nhân độ thế. Tương truyền, đền thờ Ông Nam Hải rất thiêng. Ngày nay, không chỉ ngư dân trong khu vực mà cả du khách thập phương nghe tiếng Ông linh thiêng đều kéo về cúng viếng và cầu mong Ông phù hộ độ trì cho gia đạo bình an, không gặp sóng gió, trắc trở. Trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước, địch đã chọn Hòn Đá Bạc làm nơi đóng Trung đội pháo 105 ly để khống chế vùng căn cứ cách mạng Khánh Bình Tây và tuyến ven biển phía Tây Cà Mau. Đây còn là địa điểm diễn ra chuyên án CM12, đánh bại âm mưu nhập biên phá hoại, lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta của tổ chức phản động “Việt Nam phục quốc” do Lê Quốc Túy và Mai Văn Hạnh cầm đầu. Ngày 22/6/2009, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận di tích: Hòn Đá Bạc - Trung tâm chỉ huy kế hoạch phản gián CM12 (9/9/1981- 9/9/1984) là Di tích lịch sử - văn hóa cấp Quốc gia. Bộ Công an và tỉnh Cà Mau đã xây dựng Tượng đài chiến thắng CM12, Nhà truyền thống, đền thờ Bác Hồ tại khu di tích nổi tiếng này. Nguồn: Cổng Thông tin Điện tử tỉnh Cà Mau

Cà Mau 3398 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích Quốc gia Đặc biệt Căn cứ Cái Chanh

Căn cứ Cái Chanh (tên gọi khác là Khu Căn cứ Tỉnh ủy Bạc Liêu), nằm trên địa bàn xóm Cái Chanh nhỏ, ấp Cây Cui, xã Ninh Thạnh Lợi, huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu. Căn cứ Cái Chanh là địa điểm trú đóng và hoạt động của Xứ ủy Nam Bộ, Trung ương Cục miền Nam, Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam bộ: Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, giai đoạn từ năm 1949 - 1954, Căn cứ Cái Chanh là nơi trú đóng và hoạt động cách mạng của lãnh đạo Xứ ủy Nam Bộ, Trung ương Cục miền Nam, Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam Bộ. Căn cứ là nơi hoạt động của nhiều đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước. Trong suốt cuộc kháng chiến, tại khu Căn cứ Đồng Tháp Mười cũng như Căn cứ Cái Chanh, U Minh và nhiều địa điểm khác ở miền Tây Nam Bộ, các cơ quan và cán bộ của Xứ ủy Nam Bộ, Trung ương Cục miền Nam, Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam Bộ nói chung đều được bảo vệ an toàn, nhân dân thật sự là “trăm tay nghìn mắt” của Đảng, bảo vệ vững chắc cho Đảng đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Cái Chanh là nơi đặt Căn cứ Tỉnh ủy Bạc Liêu trong kháng chiến chống Mỹ, giai đoạn từ 1973 - 1975: Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, địa bàn Cái Chanh, xã Ninh Thạnh một lần nữa trở thành căn cứ địa cách mạng vững chắc. Đây là căn cứ hoạt động cách mạng của Tỉnh ủy Bạc Liêu giai đoạn 1973 - 1975. Cũng tại khu căn cứ này, ngày 13 tháng 1 năm 1975, Tỉnh ủy đã họp và thông qua quyết tâm giải phóng tỉnh Bạc Liêu; đồng thời quyết định dời Căn cứ Tỉnh ủy từ Cái Chanh (xã Ninh Thạnh Lợi) về Lái Viết (xã Ninh Quới), huyện Hồng Dân để thuận lợi trong chỉ đạo điểm tấn công giải phóng thị xã Bạc Liêu. Đến ngày 30 tháng 4 năm 1975, tỉnh Bạc Liêu được giải phóng. Căn cứ Cái Chanh từ khi được Tỉnh ủy đặt Căn cứ (tháng 11 năm 1973) cho đến khi Tỉnh ủy chuyển về Lái Viết (tháng 1 năm 1975) đã làm tốt sứ mệnh lịch sử của mình, nơi nuôi giấu, chở che an toàn cho Tỉnh ủy lãnh đạo cách mạng giành thắng lợi. Căn cứ Cái Chanh là nơi tái hiện hoạt động cách mạng của các đồng chí lãnh đạo, các cơ quan và nhân dân ở cả hai thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Trong kháng chiến chống Pháp, Căn cứ Cái Chanh là địa điểm trú đóng và hoạt động của Xứ ủy Nam Bộ, Trung ương Cục miền Nam, Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam Bộ, giai đoạn 1949 - 1952. Tại đây, nhân dân đã chở che, đùm bọc, nuôi dưỡng nhiều đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước. Trong suốt cuộc kháng chiến, tại khu Căn cứ Đồng Tháp Mười cũng như Căn cứ Cái Chanh, U Minh và nhiều địa điểm khác ở miền Tây Nam Bộ, các cơ quan và cán bộ của Xứ ủy Nam Bộ, Trung ương Cục miền Nam, Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam Bộ đều được bảo vệ an toàn, nhân dân thật sự là “trăm tay nghìn mắt” của Đảng, bảo vệ vững chắc cho Đảng đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Căn cứ Cái Chanh gồm các hạng mục kiến trúc chủ yếu: Cổng, nhà trưng bày, nhà bia, nhà ở và làm việc của đồng chí Lê Duẩn, nhà hội trường, nhà đồng chí Bí thư Tỉnh ủy, nhà bếp của cơ quan Tỉnh ủy, nhà văn thư - y tế, nhà cơ yếu, nhà điện đài, nhà Trung đội phòng thủ, nhà Chánh văn phòng Tỉnh ủy, nhà Ban xây dựng căn cứ, nhà chờ, các hầm hố… Với những giá trị tiêu biểu trên, Căn cứ Cái Chanh đã được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là di tích lịch sử quốc gia đặc biệt ngày 31/12/2020. Nguồn: Cục Di sản văn hóa

Bạc Liêu 3078 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Phước Đức Cổ Miếu

Phước Đức Cổ Miếu hay còn gọi là chùa Bang tọa lạc tại số 74 đường Điện Biên Phủ, phường 3, TP Bạc Liêu. Đây là ngôi miếu lâu đời nhất của người Hoa sống ở Bạc Liêu. Phước Đức cổ miếu được một nhóm người Hoa xây dựng vào khoảng năm 1810. Ban đầu, ngôi miếu được dựng bằng cây lá đơn sơ để thờ các vị thần theo tín ngưỡng dân gian người Hoa như: Bổn Đầu Công (Ông Bổn), Quan Đế, Thần Nông, Thổ công, Ông bà Công Mẫu. Cũng vì Ông Bổn được thờ chính, nên gọi là “miếu Ông Bổn”; về sau đổi là “Phước Đức cổ miếu”, vì người Hoa tin rằng Bổn Đầu Công cũng chính là Phước Đức chánh thần – một vị thần được coi là có công khai hoang đất đai và phù trợ cho mọi người sinh cơ lập nghiệp có cuộc sống an lành. Năm 1903, bang Triều Châu được thành lập, đặt trụ sở tại Phước Đức cổ miếu, trong căn phòng rộng cạnh Tây lang, nên còn gọi là chùa Bang. Từ một ngôi miếu nhỏ có diện tích khiêm tốn, sau nhiều lần trùng tu, ngôi miếu ngày nay đã có diện tích 580 m2, theo kiến trúc hình chữ Quốc, một lối kiến trúc cung đình triều Minh, Trung Quốc. Toàn bộ ngôi miếu là một công trình kiến trúc nghệ thuật quy mô và hoàn mỹ toát lên vẻ đẹp uy nghi, cổ kính. Cột, đầu kèo, đầu xiên, con đội, án thờ bằng đá và gỗ quý đều được chạm khắc tỉ mỉ, công phu, tinh xảo bằng chữ Hán được mạ vàng, theo lối Hành thư và Khải thư. Tất cả thể hiện các chủ đề: Tứ linh (long, lân, quy, phụng), cỏ cây, hoa lá, hình nhân và linh thú. Ngoài ra còn trang trí các hoành phi, câu đối được sơn son, thếp vàng lộng lẫy. Trên nóc miếu gắn cặp rồng chầu mặt trời (lưỡng long triều dương), hình ảnh phổ biến nhất được trang trí trên các đình miếu người Hoa, tượng trưng hạnh phúc vĩnh hằng. Mái lợp ngói ống, diềm mái bằng gốm tráng men xanh, cuối mái trang trí hoa văn hình long vĩ, hai bên là hai pho tượng gốm nhỏ biểu tượng của âm dương, nguồn gốc của mọi sự hòa hợp, kỷ cương của vạn vật. Mỗi bộ phận trong miếu đều được xem như một cổ vật có giá trị nghệ thuật cao. Với các chất liệu có tính bền vững nên Phước Đức cổ miếu tồn tại kiên cố đến ngày nay. Các tác phẩm nghệ thuật ấy đã được các nghệ nhân liên kết với nhau một cách hài hòa và chặt chẽ tạo thành một tổng thể kiến trúc độc đáo. Không chỉ là nơi thờ cúng các vị thần, Phước Đức cổ miếu còn là cơ sở hoạt động cách mạng của Chi bộ làng Long Thạnh quận Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu do đồng chí Nguyễn Văn Đàng làm bí thư từ 1930 đến 1954. Với những giá trị đó, chùa được Bộ Văn Hóa Thông Tin công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia năm 2000. Hàng năm tại Phước Đức cổ miếu đều có tổ chức các lễ hội lớn như: Vía Ông Bổn; Lễ Vu Lan; Lễ Kỳ Yên… Lớn nhất là lễ hội Vía Ông Bổn được tổ chức vào ngày 29 tháng 3 âm lịch; và lễ Vu Lan được tổ chức vào ngày rằm tháng 7 âm lịch. Phước Đức cổ miếu không chỉ là chốn tâm linh của người dân địa phương mà còn trở thành nét đẹp thuộc về bản sắc văn hóa của người Hoa ở Bạc Liêu. Nguồn: Du Lịch Bạc Liêu

Bạc Liêu 2677 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Thành Hoàng Cổ Miếu

Được Bộ Văn Hoá – Thể Thao và Du Lịch công nhận là di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia năm 2001, Thành hoàng cổ miếu (còn có tên gọi chùa Vĩnh Triều Minh) là một di tích thể hiện văn hóa tín ngưỡng Thành hoàng của người Việt ở Bạc Liêu, một nét văn hóa kế thừa tín ngưỡng Thành hoàng của người Hoa ở Bạc Liêu… Chùa Vĩnh Triều Minh nằm trên đường Điện Biên Phủ thuộc địa phận phường 3 (TP Bạc Liêu) được xây dựng năm Ất Sửu 1865. Đây là nơi thờ phụng các bậc tiền hiền đã có công khai phá và mở mang vùng đất này từ nhiều thế kỷ trước. Tuy không phải là nơi thờ Phật nhưng trước đây người dân quen gọi là chùa Vĩnh Hương, do người Minh Hương thành lập. Về sau, người địa phương gọi là chùa Minh, và hiện tên gọi chính thức là Thành hoàng cổ miếu Vĩnh Triều Minh. Nguồn gốc thờ Thành hoàng cũng là của người Minh Hương, thừa kế tín ngưỡng Thành hoàng ở Trung Quốc. Theo phong tục ở đây, thời gian tổ chức chánh lễ Thành hoàng đản hàng năm thường kéo dài suốt 3 ngày đêm (24, 25 và 26 tháng 7 âm lịch) với các nghi lễ như: chiêm bái, cúng cô hồn và phát gạo… Chùa xoay mặt về hướng sông Bạc Liêu, cửa chính vào chùa được lắp ghép từ những cột đá xanh được chạm khắc rất công phu và tinh xảo hình ảnh rồng, hạc, mây… Toàn bộ kiến trúc chùa xây dựng theo hình chữ “Quốc”, một mô hình kiến trúc cung đình thời Minh (Trung Quốc). Mái hiên được lợp bằng mái ngói âm dương ba lớp, các góc mái đều có trang trí hoa văn hình sóng uốn lượn. Ngoài ra, trong chùa còn chạm khắc các hoa văn như thú, cây cảnh, lá và các vị tiên… Phía trước khánh thờ Thành hoàng là một chiếc bàn dài bằng gỗ quý, chính giữa bàn để một chiếc lư đồng cao khoảng 70 cm, đây là loại lư mắt tre quý hiếm ở Việt Nam… Thành hoàng cổ miếu Vĩnh Triều Minh vốn là một di sản vô giá thể hiện một nét văn hóa tín ngưỡng độc đáo của người Hoa ở Bạc Liêu. Nguồn: Báo Bạc Liêu online

Bạc Liêu 3189 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình An Trạch

Đình An Trạch tọa lạc tại ấp An Trạch, xã Vĩnh Lợi, tổng Thanh Hòa (nay thuộc khóm 2, phường 5, thị xã Bạc Liêu - tỉnh Bạc Liêu). Đình được Tri huyện Phạm Thành Mậu khởi công xây dựng vào ngày 6.4.1877 (năm Đinh Sửu) trên phần đất rộng 4.000m2 và đích thân làm Chánh bái; Tri huyện Hồ Vạn Thành làm Bồi bái. Do điều kiện xây dựng thời bấy giờ còn nhiều hạn chế, nên đình An Trạch đơn giản trông giống như một mái nhà ba gian, vật liệu được dùng cũng rất thô sơ. Sau này, qua nhiều giai đoạn, đình được xây dựng rộng hơn, kiên cố và bề thế hơn với kiến trúc đa phương, nhiều hướng theo kiến trúc đình Huế. Các công trình kiến trúc của đình gồm: Ngôi đình chính, sân đình trước, sân đình sau, nhà hậu đình, bốn góc có miếu nhỏ, hai dãy nhà Đông Lang và Tây Lang. Ngôi đình chính có nền cao 0,75m, 4 hiên, 8 mái, đỉnh nóc có “Tứ long tranh châu”. Hiên đình có 4 mái: trước, sau, Đông Lang và Tây Lang đều lợp ngói hình ống. Đầu mái chảy gắn gạch men màu xanh có hoa văn và hình răng cưa. Mỗi mái hiên có 4 cột vuông chịu lực, được xây dựng bằng gạch thẻ và có đắp chỉ gờ theo hình bát đấu. Bốn cột hiên phía trước, đầu cột đắp hoa văn hình lá cúc sơn màu xanh nhạt, trên mỗi cột có ghi câu đối. Thời vua Khải Định (1916 - 1925) đình An Trạch được sắc phong “Bổn Cảnh Thành Hoàng”. Theo dân gian truyền tụng, khi xưa đình An Trạch thờ danh sĩ Nguyễn Công Trứ, một người làm quan thời vua Tự Đức, có tinh thần yêu nước, thương dân và có công khai hoang phục hóa, mở mang bờ cõi. Hằng năm, cứ vào ngày 14 tháng 11 âm lịch, đình đều tổ chức giỗ Ông. Trong các ngày lễ chính, như: Kỳ Yên, Vu Lan đều có văn tế Nguyễn Công Trứ, cầu nguyện Ông giúp dân, cầu cho mưa thuận gió hòa, an khang thịnh vượng... Sự tôn kính ấy đã đi vào cõi tâm linh của người dân địa phương như một dòng chảy tự nhiên. Đây còn là một biểu hiện đạo lý tốt đẹp từ ngàn đời của dân tộc ta. Trong những năm kháng Pháp, đuổi Mỹ, đình là nơi tổ chức các buổi hội, họp của cách mạng, nuôi chứa những người cộng sản... Ghi nhận giá trị văn hóa, lịch sử, năm 2000, đình An Trạch được công nhận là Di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia. Hiện nay, UBND tỉnh Bạc Liêu đang có dự án kiến trúc, trùng tu lại đình khang trang hơn, vững chắc hơn, nhằm nâng cao vai trò và ý nghĩa của đình trong đời sống tinh thần nhân dân không chỉ trong tỉnh. Nguồn: Du lịch Bạc Liêu

Bạc Liêu 3121 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Tháp cổ Vĩnh Hưng

Tháp cổ Vĩnh Hưng tọa lạc tại ấp Trung Hưng 1B, xã Vĩnh Hưng A, huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu. Đây không chỉ là một kiến trúc tháp thuộc nền văn hóa Óc – Eo còn sót lại duy nhất ở Tây Nam bộ, mà trong cuộc khai quật tại tháp Vĩnh Hưng, các nhà khảo cổ học còn thu được nhiều hiện vật hết sức quý giá với nhiều tượng đá, đồng, gốm, đá quý … đánh dấu một giai đoạn tồn tại và phát triển khá dài (từ thế kỷ 4 đến thế kỷ 13 sau công nguyên) của tháp cổ Vĩnh Hưng. Tháp Vĩnh Hưng đã trải qua nhiều lần khảo sát, năm 1911 học giả người Pháp Lunet de Lajonquiere đã phát hiện ra dưới tên gọi là tháp Trà Long. Năm 1917 Henri Parmentier đã đến khảo sát khu vực này. Trong báo cáo này (dưới tên gọi là tháp Lục Hiền) ông thống kê một số hiện vật được phát hiện trong và ngoài tháp. Đặc biệt, trong số ấy có tấm bia tìm thấy trong ngôi chùa Phước Bửu Tự ở cạnh tháp khắc chữ Phạn, ghi rõ tháng Karhila, năm 814, tương ứng với năm 892 sau công nguyên, và tên của vua Yacovan-Man (thế kỷ thứ 9). Các nhà khảo cổ đã xác định tháp được xây dựng vào khoảng thế kỷ thứ 9 sau Công nguyên để thờ vị vua tên là Khmer Yacovar – Man. Vào tháng 5/1990, các nhà khảo cổ thuộc Viện Phát triển bền vững vùng Nam bộ phối hợp với Bảo tàng tỉnh Minh Hải đã đến khảo sát và đào một hố thám sát, phát hiện một số hiện vật như đầu tượng thần, minh văn, bàn nghiền, Linga – Yoni… Tiếp tục hành trình làm sáng rõ giá trị của một di tích cấp quốc gia, cũng như nhằm phục vụ công tác trùng tu, tôn tạo, chống xuống cấp di tích tháp Vĩnh Hưng, trong năm 2002 và tiếp sau đó là năm 2011, Trung tâm Nghiên cứu khảo cổ phối hợp với Bảo tàng tỉnh Bạc Liêu khai quật xung quanh tháp. Những đợt khai quật này tiếp tục những việc như làm lộ diện chân móng tháp, giải quyết những vết tích chìm trong lòng đất để có những giải pháp trùng tu, tôn tạo ngôi tháp nhằm phát huy giá trị của di tích. Nhiều hiện vật có giá trị đã được phát hiện trong những đợt khảo sát như: tượng Nữ thần được tạc theo phong cách truyền thống tượng tròn Óc Eo Phù Nam, bàn tay phải của “Tượng thần”, một số Linga – Yoni, đồ gốm dùng trong sinh hoạt và đặc biệt là bộ tượng đồng được các nhà khảo cổ học đánh giá là bộ sưu tập tượng độc đáo, là “bảo vật quốc gia”, trong đó có một số tượng độc bản có giá trị rất cao. Năm 2011, di tích tháp Vĩnh Hưng được trùng tu tôn tạo gồm các hạng mục: nhà trưng bày, nhà bia, nhà bảo vệ, hàng rào và một số hạng mục khác nhằm bảo tồn và phát huy giá trị của di tích. Tháp cổ có kiến trúc khá đơn giản và mộc mạc trên một doi đất có diện tích khoảng 100m, cửa Tháp quay về hướng Tây, bình diện chân Tháp hình chữ nhật với hai cạnh là 5,6m và 6,9m. Chiều cao của Tháp là 8,2m (tính từ nền Tháp). Toàn bộ 3 mặt Đông – Nam – Bắc được xây bằng gạch. Tường của chân Tháp dày 1,8m, càng lên cao độ dày của tường càng mỏng, vách tường được dựng nghiêng dần lên phía đỉnh tạo thành vòm cuốn. Theo nhiều nhà khoa học, người Khơme cổ đã dùng một kỹ thuật xây dựng đặc biệt, họ đã dùng một loại keo thực vật để kết dính các viên gạch với nhau, mà không cần dùng đến các chất liệu xây dựng như xi măng, hay vôi vữa như bây giờ. Tháp được xây bằng hai loại gạch có màu sắc khác nhau. Từ chân tháp đến độ cao 4m là gạch đỏ và từ 4m trở lên trên được dùng gạch trắng. Nhìn vào từ cửa chính là bộ Linga – Yoni tượng trưng cho âm dương hòa hợp được phục chế lại. Bộ Linga – Yoni nguyên gốc đang được gìn giữ tại bảo tàng. Từ những giá trị độc đáo được ghi nhận, Tháp cổ Vĩnh Hưng đã được công nhận là di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia từ năm 1992. Nguồn: Du lịch Bạc Liêu

Bạc Liêu 2896 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Giác Hoa

Chùa Giác Hoa hay còn gọi là chùa cô Hai Ngó tọa lạc tại ấp Xóm Lớn, xã Châu Thới, huyện Vĩnh Lợi. Chùa được xây dựng từ năm 1919 do bà Huỳnh Thị Ngó, sinh ra trong một gia đình điền chủ giàu có tiếng ở Bạc Liêu vào cuối thế kỷ 19 hiến tiền, đất để dựng nên dân gian thường gọi là Chùa Cô Hai Ngó. Tháng 10/1920 chùa hoàn thành sau 18 tháng thi công. Chùa Giác Hoa là một trong những công trình kiến trúc nghệ thuật tiêu biểu nhất ở Bạc Liêu lúc bấy giờ. Sau khi xây dựng chùa xong, cô Hai Ngó luôn tham gia và thực hiện các công việc lợi ích xã hội như dạy học, giúp đỡ người nghèo… Chùa là tổng thể các công trình kiến trúc lớn nhỏ, được bố trí chặt chẽ, cân đối theo lối “nội công, ngoại quốc”, kết hợp hài hoà kiến trúc Đông – Tây. Phía trước là Chánh điện, phía sau là sân Thiên tịnh và ngôi nhà Hậu tổ (thờ gia tiên và cô Hai Ngó, người sáng lập ra ngôi chùa). Chính điện cơ bản giống một công thự thời thuộc địa, ngự trên nền rất cao, kiên cố, màu vàng trầm mặc, mái ngói, nền gạch thẫm màu.. như một kiệt tác nghệ thuật. Các khối công trình còn lại trung thành với mảng kiến trúc chung chủ đạo Đông – Tây, đậm dấu ấn Pháp, điểm xuyến bởi chút mái cong và những dòng ký tự Đông Phương ở phía trước, nối kết các công trình và trong không gian nội bộ từng công trình là các hành lang mát mẻ, bố trí khoa học, toàn bộ không gian Giác Hoa tự nhịp nhàng cứ như một bản nhạc hài hòa. Có thể nói, riêng về không gian sinh thái, thẩm mỹ, kiến trúc và sự cổ kính, Giác Hoa tự đạt mức độ khá cao. Vào bên trong chánh điện là một không gian trang nhã, thanh tịnh, thoáng mát, được thiết kế và xây dựng hoàn toàn bằng gỗ quý. Với kết cấu 20 cột gỗ tròn có đường kính 45 cm được chạm khắc rồng, phượng và nhiều họa tiết rất tinh xảo chia làm 5 hàng ngang, chống đỡ mái ngói. Những bức tượng Phật, các vật trang trí phía trong cũng được làm bằng gỗ tốt. Trong khuôn viên ngôi chùa còn có những công trình kiến trúc độc đáo như tượng bán thân Phật Quan Âm trên núi, thầy trò Đường Tam Tạng đi thỉnh kinh, thác nước, tượng 12 con giáp, … tạo thêm nét đặc sắc cho ngôi chùa. Đặc biệt trong hai cuộc kháng chiến Chùa Giác Hoa là cơ sở cách mạng, nuôi chứa nhiều chiến sĩ, cán bộ. Năm 1945 hưởng ứng lời kêu gọi “Hũ gạo nuôi quân” của Hồ Chủ Tịch, cô Hai Ngó đã ủng hộ cho cách mạng 2.000 giạ lúa. Với những giá trị đó, chùa đã được Ủy ban nhân dân tỉnh Bạc Liêu công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh năm 2001. Ngôi chùa còn là nơi truyền dạy Phật học, mở lớp “an cư kiết hạ” đầu tiên cho hàng trăm tăng ni đến học miễn phí. Hiện nay, ngôi chùa còn có Trường trung cấp Phật học của Giáo hội Phật giáo tỉnh Bạc Liêu quản lý, cái nôi của giáo dục ni giới Nam Bộ. Chùa Giác Hoa ngày nay đẹp uy nghi, lộng lẫy, trở thành điểm du lịch tâm linh Bạc Liêu nổi tiếng đón tiếp hàng trăm ngàn khách thập phương mỗi năm. Nguồn: Du lịch Bạc Liêu

Bạc Liêu 2739 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Chùa Xiêm Cán

Ngày 29/6/2022, Chủ tịch Uỷ Ban Nhân Dân tỉnh Bạc Liêu đã ký Quyết định công nhận di tích lịch sử văn hóa Chùa Xiêm Cán. Di tích lịch sử văn hóa Wotkomphisakoprekchru (chùa Xiêm Cán) toạ lạc tại ấp Biển Đông A, xã Vĩnh Trạch Đông, thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu. Chùa Xiêm Cán được khởi công xây dựng tháng 3 năm 1887, do Hòa thượng Lâm Mau trụ trì xây dựng. Thượng tọa Dương Quân là vị trụ trì đời thứ tám. Chùa được xây dựng trên diện tích rộng gần 50.000m2, mang kiến trúc Angkor Khmer truyền thống, thể hiện ở những họa tiết độc đáo nơi mái vòm, tường, các hàng cột và cầu thang, các mảng phù điêu, màu sắc hoa văn, đường nét chạm trổ cong lượn thể hiện đầy đủ, đậm nét đặc trưng cho một di tích văn hóa của dân tộc khmer. Bao quanh chùa là 1 hàng rào xây kiên cố, với nhiều hoa văn, phù điêu đắp nổi bánh xe luân hồi. Hai bên tường rào trước cổng tam quan được điêu khắc hình ảnh Thái tử Tất Đạt Đa và thiếu nữ múa rất ấn tượng. Cổng tam quan là một công trình kiến trúc đa dạng gồm nhiều phù điêu đắp nổi hoa văn tỉ mỉ hình khối mang ý nghĩa biểu trưng của con số 3 như: Phật – Pháp – Tăng; quá khứ - hiện tại - tương lai...) các mảng phù điêu trang trí được thể hiện theo dạng dưới là 01 hoa sen, trên là 2 cánh lớn, giữa 2 cành lá thêm 3 bộ kinh Tam Tạng, phía trên có thêm bánh xe luân hồi. Hai bên khoảng đất trống của lối đi vào có khoảng vài chục cột trụ tròn, trên cột ghi tên những phật tử có đóng góp xây dựng chùa. Vào bên trong sân chùa là bức tượng Phật trong tư thế nằm (nhập niết bàn) có phần mái che để khách thập phương dâng hương, cầu nguyện trước khi vào chánh điện. Chùa Xiêm Cán là nơi đồng bào Khmer thường tập trung để học chữ, học múa hát, học nghề. Nơi đây, hàng năm diễn ra nhiều lễ hội của người Khmer, thu hút rất đông đồng bào dân tộc Khmer về dự. Các ngày lễ hội lớn trong năm được diễn ra tại chùa như: - Chôl chnăm thmây (lễ vào năm mới) diễn ra 3 ngày (khoảng ngày 14, 15, 16 tháng 4 dương lịch). - Lễ Sen (lễ cúng ông bà) diễn ra một trong 3 ngày 8, 9, 10 tháng 10 dương lịch. - lễ dâng y cà sa diễn ra một trong những ngày từ 16/9 - 15/10 âm lịch. Ngoài ra, tại chùa còn diễn ra các lễ hội tôn giáo mang nét đặc trưng của phật giáo Nam tông. Trong những năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước, chùa Xiêm Cán còn là nơi phát động bổn đạo phật tử cùng sát cánh với nhân dân trong tỉnh tham gia hoạt động cách mạng. Điển hình cho phong trào đó là đại đức Trần Kin, đại đức Thạch Thươl, phó đại đức Dương Tha và nhiều vị sư khác. Đặc biệt vào năm 1966, thực hiện chủ trương của Đảng về việc biểu tình chống bầu cử . Các nhà sư và bà con phật tử của chùa đã đồng loạt đi biểu tình chống bầu cử như: đập phá thùng phiếu, chống bắt lính,… ngoài ra Chùa Xiêm Cán còn là cơ sở nuôi giấu cán bộ cách mạng hoạt động bí mật. Ban Quản trị chùa Xiêm Cán cũng đã hình thành Câu lạc bộ biểu diễn nghệ thuật để phục vụ nhu cầu thưởng thức các giá trị văn hóa của đồng bào Khmer thông qua các hoạt động biểu diễn nhạc cụ dân tộc, múa Áp sa ra…đã gây ấn tượng mạnh mẽ cho du khách và được các doanh nghiệp lữ hành, nhiều đoàn khảo sát, các đoàn công tác tỉnh bạn đến tham quan. Hàng năm thu hút hàng trăm ngàn lượt người khách tham quan, nhất là dịp nghỉ hè và các ngày lễ, tết. Chùa Xiêm Cán là công trình kiến trúc nghệ thuật đặc sắc của dân tộc Khmer Bạc Liêu, đồng thời cũng là nơi ghi dấu sự kiện lịch sử cách mạng của tỉnh. Đây là một địa chỉ tham quan du lịch đặc sắc của du khách khi đặt chân đến vùng đất Bạc Liêu. Nguồn: Sở Văn Hóa, Thể Thao Và Du Lịch Tỉnh Bạc Liêu

Bạc Liêu 2613 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Chùa Cỏ Thum (Kusthum)

Chùa Cỏ Thum (KosThum) là chùa Khmer Nam tông có truyền thống đấu tranh cách mạng qua hai thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ cứu nước. Tên đầy đủ của chùa là Cơro-pum-meanchey KosThum, được xây dựng vào năm 1832, nhằm năm Phật lịch 2376, tại xã Ninh Thạnh Lợi, huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mĩ và tay sai giai đoạn (1945-1975),Chùa Cỏ Thum là cơ sở hoạt động của các đồng chí cán bộ cách mạng, các sư sãi cùng với nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng tổ chức nhiều cuộc đấu tranh chính trị chống bắt người, di dời Chùa…Đặc biệt năm 1949, được sự chấp thuận của Trung ương và địa phương, chính phủ lâm thời Campuchia được thành lập tại Chùa. Để đảm bảo an toàn cho cán bộ cách mạng, thực hiện sự chỉ đạo của Đảng, nhà chùa tổ chức đào 2 hầm bí mật để cho cán bộ cách mạng trú ẩn. Hầm thứ nhất được làm dưới nền nhà tăng xá, hầm được thiết kế theo chữ “L” có một cửa lên xuống được làm ở nơi kính đáo, có lỗ thông hơi. Nóc hầm làm bằng cây, ở trên có ngụy trang đắp đất khít với đất làm nền nhà. Hầm thứ hai được làm cách hầm thứ nhất 30m về phía sau nhà ở của đại đức Trần Duyên, hầm cũng được làm theo hình chữ “L” chìm dưới đất, có một cửa lên xuống, có lỗ hơi, nóc hầm thả đà ngang bằng cây, trên phủ đất và được ngụy trang rất kỹ để tránh địch phát hiện. Chùa Cỏ Thum có một “hạng mục”: nhà bia ghi tên tuổi các liệt sỹ đã hy sinh ở đây, trong đó có các nhà sư Khmer. Di tích lịch sử Chùa Cỏ Thum không chỉ có ý nghĩa lịch sử cách mạng mà nó còn gắn với địa điểm, quần thể kiến trúc chùa Cỏ Thum. Ngôi chính diện có nền cao hơn mặt đất gần 1m. Chùa có hành lang bao quanh, cửa chính quay về hướng Đông, do quan niệm Phật ở phương Tây, nên quay sang hướng Đông để ban phước, phù hợp với hướng tượng Phật. Chùa có 3 cấp mái, mỗi cấp chia thành 3 nếp, nếp giữa được nâng cao hơn hai nếp bên. Đầu và các gấp mái đều có đắp một khúc đuôi rồng dài, cong vút. Trang trí bên ngoài có nhiều hình chạm, đắp như: Tượng Reahu, tiên, chằn, Garuda, keyno,…Ngoài ra, bên trong chùa các bức tường vẽ hình ảnh về cuộc đời Đức Phật (Jataka) bằng những nét vẽ vô cùng sinh động. Không gian rộng lớn cạnh dòng kênh, bao chắn kín đáo sau các bức tường, lấp lánh các khối công trình phủ màu sơn vàng và đỏ đặc trưng của hệ phái, cũng khó hình dung về hai cuộc chiến tranh khốc liệt đã trải qua, chùa đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Chính vị thế hẻo lánh, bao bọc bởi địa hình thuận lợi hình thành căn cứ bí mật đã duy trì ở đây một cơ sở nuôi chứa, đào tạo cán bộ cách mạng, của khu Tây Nam Bộ và cả cách mạng Campuchia. Với những giá trị về văn hóa cũng như về lịch sử cách mạng quan trọng đó, Bộ Văn hóa, Thể thao đã xếp hạng Chùa Cỏ Thum là di tích lịch sử cấp Quốc gia năm 2006. Hàng năm tại chùa tổ chức rất nhiều lễ hội truyền thống của đồng bào Khmer như: Lễ hội năm mới(Chool chnăm thmây) vào các ngày 13, 14, 15 tháng 4 dương lịch; lễ cúng ông bà vào các ngày 8, 9, 10 tháng 10 dương lịch; lễ cúng trăng; lễ cầu an; lễ Phật đản…thu hút rất nhiều khách thập phương đến tham quan, chiêm bái. Nguồn: Ban quản lý Di tích Bạc Liêu

Bạc Liêu 3071 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

ĐỀN THỜ CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH

Đền Thờ Bác Hồ tọa lạc tại ấp Bà Chăng A, xã Châu Thới, huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu. Năm 1969, nghe tin Bác Hồ kính yêu mãi mãi đi xa, quân dân xã Châu Thới vô cùng bàng hoàng, đau đớn. Với tình yêu thương của Bác đối với nhân dân miền Nam ruột thịt nên nhân dân nơi đây có tâm nguyện chung là xây dựng Đền thờ Bác ngay tại quê hương để ngày đêm hương khói cho Người. Hàng ngàn cán bộ, nhân dân trong xã và huyện đã không sợ hy sinh, gian khổ, ngày đêm góp sức, góp công xây dựng Đền thờ Bác ngay chính mảnh đất đầy khói lửa, đạn bom Châu Thới anh hùng… Tháng 3/1970, Xã ủy Châu Thới thực hiện chủ trương của Huyện ủy Vĩnh Lợi tiến hành xây dựng Đền thờ Bác. Sau 2 lần Đền thờ bị địch đốt phá, nhân dân cũng như Xã ủy Châu Thới và Huyện ủy Vĩnh Lợi quyết tâm xây dựng đền kiên cố bằng xi măng, cốt sắt… Công việc mua vật liệu để xây dựng gặp nhiều khó khăn do phải đi qua nhiều đồn bốt của địch, nhưng với động lực là lòng kính yêu Bác, nhân dân xã Châu Thới xung phong đi mua vật liệu, mỗi người mua một ít, mua làm nhiều lần. Khi đã chuẩn bị xong, lúc 10h ngày 25/4/1972 Xã ủy Châu Thới đã làm Lễ khởi công xây dựng Đền thờ Bác. Sau 24 ngày đêm không ngại đạn pháo của địch, nhân dân và Xã ủy Châu Thới đã hoàn thành việc xây dựng Đền thờ. Sáng 19/5/1972 (ngày sinh nhật Bác), Lễ khánh thành Đền thờ Bác được tiến hành trong niềm hân hoan và trang nghiêm của trên một ngàn người trong Xã Châu Thới và các chiến sĩ huyện Vĩnh Lợi. Việc xây dựng đền thờ ngay trong lòng địch đã khó khăn, việc bảo vệ đền thờ càng khó khăn gấp bội. Sau khi đền thờ hoàn thành, địch thường xuyên huy động các phương tiện đánh phá nhưng bằng tất cả tình cảm của người con miền Nam đối với vị cha già kính yêu của dân tộc, các lực lượng du kích, lực lượng địa phương quân Vĩnh Lợi và Đội bảo vệ đền thờ một lòng quyết tâm bảo vệ Đền thờ Bác. Ghi ơn công lao to lớn, tấm gương đạo đức cách mạng sáng ngời của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu, nhiều năm qua, tỉnh Bạc Liêu đã luôn quan tâm đến việc trùng tu, nâng cấp. Đến nay Đền thờ Bác Hồ Bạc Liêu được xây dựng trên một khuôn viên đất rộng 11.000m2 với các kiến trúc chính như: Ngôi Đền thờ Bác Hồ, Nhà bao che đền, Nhà trưng bày, Hội trường và phòng làm việc, khu dịch vụ và khu vườn được trồng nhiều loại cây xanh. Đặc biệt, trong khuôn viên di tích nổi bật với hồ sen thơm ngát. Đền thờ Bác Hồ ở Châu Thới được đánh giá là một trong những Đền thờ Bác đẹp nhất ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Ngoài khu vực chính của Đền thờ còn có hoa viên và hội trường để chiếu phim tài liệu giới thiệu với du khách khái quát về thân thế và sự nghiệp của Bác. Đền được xây dựng bằng gạch, đòn tay gỗ dầu, phía trước có mái hiên và ban công đổ mái bằng. Khoảng hơn 300 tài liệu và hiện vật phản ánh quá trình nhân dân xã Châu Thới chiến đấu bảo vệ đền thờ và các tư liêu về cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chủ Tịch được lưu giữ tại nhà trưng bày. Đền thờ Bác Hồ ở Bạc Liêu đã được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia vào năm 1998. Đây là niềm tự hào của quân và dân Bạc Liêu, hàng năm vào các ngày lễ lớn, ngày nghỉ đặc biệt vào ngày sinh nhật Bác có rất đông du khách và nhân dân thăm viếng. Nguồn: Du lịch Bạc Liêu

Bạc Liêu 3037 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích Lịch sử Nọc Nạng

Địa danh đồng Nọc Nạng thuộc làng Phong Thạnh quận Giá Rai, ngày nay là ấp 4 xã Phong Thạnh A, huyện Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu. Ngày xưa, nơi này là vùng sình lầy rộng lớn, nhiều rừng tràm, choại, lau sậy mọc chen chúc, quanh năm chỉ có chim muông và rắn độc trú ẩn. Người dân đi khai hoang đến sinh sống và khai phá vùng này, đã dựng lên những cái chòi lợp lá để có chỗ che mưa nắng và tránh rắn độc. Vì đất sình lầy không thể cất nhà như trên đất khô, người dân đã chặt cây làm nọc đóng xuống đất sình rồi gác nạng bên trên làm sàn để cất nhà. Địa danh đồng Nọc Nạng còn gắn liền với cuộc đấu tranh kiên cường bất khuất của người nông dân chống sự áp bức bóc lột của thực dân Pháp và bọn địa chủ. Gia đình anh em ông Mười Chức đã đem bao mồ hôi công sức ra để biến đổi cánh đồng này thành ruộng lúa. Khi mọi người đang sống và lao động bình yên thì địa chủ đã cấu kết với bọn cường hào và thực dân Pháp dùng nhiều thủ đoạn xảo quyệt đến cướp lúa, cướp đất của gia đình ông Mười Chức. (trên thực tế, phần đất anh em ông Mười Chức làm là do ông cha khai phá để lại). Năm 1927, sau nhiều thủ đoạn xảo quyệt và thâm độc hòng chiếm đất của gia đình ông Nguyễn Văn Chức (Mười Chức) không xong, tên Mã Ngân, một địa chủ ở Cà Mau đã lừa bán đất cho vợ một quan huyện là Hồ Thị Trân. Sau khi mua đất mà không lấy được đất do gia đình ông Mười Chức phản đối kịch liệt, bọn chúng đã mượn thế lực của thực dân Pháp đến trấn áp nhằm lấy ruộng và lúa của gia đình ông Mười Chức. Thế là một cuộc đấu tranh của gia đình ông chống lại sự đàn áp của bọn thực dân Pháp đã xảy ra đẫm máu vào ngày 17/02/1928. Trong cuộc chống trả này, gia đình ông Mười Chức mất 4 người: ông Mười Chức , bà Mười Chức (cùng đứa con trong bụng), ông Năm Mẫn , ông Sáu Nhịn. Về phía bọn thực dân thì có 1 tên quan Pháp bị thương nặng qua ngày sau thì chết và vài tên khác bị thương. Mấy người còn lại trong gia đình ông Mười Chức đều bị bắt và kết tội là "dậy loạn, chống công quyền, giết người". Không vì thế mà chùn bước, gia đình ông lại tiếp tục gửi đơn khiếu nại… Báo chí cũng lên án mạnh mẽ. Trước dư luận của công chúng cuối cùng chính quyền Pháp phải trả đất lại cho gia đình ông Mười Chức. Sự kiện đồng Nọc Nạng là một bằng chứng tội ác của chế độ thực dân Pháp cướp nước và bè lũ quan lại tay sai, nói lên tinh thần chống áp bức của người nông dân thật thà chất phác. Tuy cuộc đấu tranh của nông dân vùng Nọc Nạng là một cuộc đấu tranh tự phát nhưng đã biểu hiện được sự đấu tranh của giai cấp nông dân ở Đồng bằng Sông Cửu Long thời ấy, thể hiện tinh thần kiên cường và nghĩa khí của người nông dân Nam bộ, góp phần hun đúc cho truyền thống kiên cường, bất khuất của dân tộc Việt Nam. Ngày 30/8/1991, sự kiện lịch sử đồng Nọc Nạng được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận là di tích lịch sử - văn hóa, di tích này nằm ở ấp 4, xã Phong Thạnh A, huyện Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu. Đã trải qua hơn tám mươi năm, cánh đồng Nọc Nạng vẫn còn đọng lại khúc ca bi tráng ngày nào, sự kiện ấy đã đi vào lịch sử dân tộc với hình ảnh người nông dân Bạc Liêu chất phác thật thà mà đầy nghĩa khí. Nguồn: Lịch sử Đảng bộ huyện Giá Rai

Bạc Liêu 3126 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Sêrây Cro Săng

Chùa Sêrây C-ro Săng hay còn được gọi là chùa Cà Săng - tọa lạc tại phường 2, thị xã Vĩnh Châu, cách trung tâm thành phố Sóc Trăng về hướng Đông – Nam khoảng 40km. Đây là một trong những ngôi chùa Khmer cổ ở tỉnh Sóc Trăng với quần thể kiến trúc hài hòa, có niên đại trên 400 năm. Chùa được xây dựng vào năm 1576, có diện tích 22.230 mét vuông. Tổng thể kiến trúc ngôi chùa bao gồm: Chánh điện, sala, nhà ở cho các vị sư, trường dạy chữ Khmer, tháp để tro cốt người chết và lò hỏa táng,... Cổng chùa Sêrây C-ro Săng là một công trình kiến trúc được xây dựng bằng bê tông màu đỏ thẫm, bên dưới cổng gồm 2 cột trụ nền vuông có tác dụng chống đỡ cho phần mái tháp. Phần cổng vòm phía trên bao gồm 3 ngọn tháp được đắp nổi họa tiết hoa văn Khmer, trên đó có ghi tên chùa Sêrây C-ro Săng bằng tiếng Khmer với nét chữ màu đỏ. Chánh điện chùa quay mặt về hướng Đông, theo quan niệm của người Khmer, phật ở phương Tây quay mặt sang hướng Đông để ban phước cho dân nên chùa phải xây theo hướng Đông để hợp với hướng thờ Phật Thích Ca trong chánh điện. Ngôi chánh điện của chùa Sêrây C-ro Săng hiện nay được xây dựng lại vào năm 2005 dưới thời trụ trì của Hòa thượng Lý Thi, chánh điện xây dựng trên hai cấp nền cao hơn hẳn các công trình khác trong khuôn viên chùa. Giữa mỗi cạnh đều có một vị phật ngồi tọa thiền quay về 4 hướng với ý muốn: Phật pháp lan tỏa và thấm nhuần khắp 4 phương. Quanh cấp nền của chánh điện đều có hàng rào bao bọc và có lối cầu thang đi lên nơi thờ phật ở mỗi cạnh của chánh điện. Kết cấu mái ngôi chánh điện là một kết cấu đặc biệt gồm 5 ngọn tháp, bao gồm 4 ngọn tháp nằm ở 4 cạnh tương xứng với vị trí của 4 vị phật ngồi tọa thiền phía dưới. Mỗi tháp có chiều cao khoảng 5m và đáy rộng 3m, riêng ngọn tháp trung tâm nằm giữa chánh điện cao khoảng 7m và rộng 5m. Chính sự đặc biệt này đã khiến cho mái chính điện trở nên đồ sộ, song không vì thế mà mất đi vẻ thanh thoát, nhẹ nhàng; trên từng cấp mái đều được trang trí hình rồng cách điệu trong văn hóa Khmer. Bên trong chánh điện là một không gian rộng để thờ Phật Thích Ca và nhiều tượng phật khác nhau, mỗi tượng phản ánh một sự kiện quan trọng nhất định trong cuộc đời của đức Phật. Xung quanh tường bên trong và ngoài chánh điện đều được trang trí hình ảnh về cuộc đời của Phật Thích Ca từ lúc sinh ra cho đến nhập cõi niết bàn. Trong cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm, đặc biệt là cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, chùa Sêrây C-ro Săng vừa là cơ sở nuôi chứa những cán bộ hoạt động cách mạng, vừa là một trong những mũi nhọn cho các phong trào đấu tranh của đồng bào Khmer chống lại sự đàn áp của chính quyền tay sai thời Mỹ - Diệm cho đến khi cuộc đấu tranh cách mạng giải phóng miền Nam thành công ngày 30/4/1975. Với ý nghĩa lịch sử đó, ngày 12/5/2004, Chủ tịch Uỷ Ban Nhân Dân tỉnh Sóc Trăng công nhận chùa Sêrây C-ro Săng là di tích lịch sử cách mạng cấp tỉnh. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Sóc Trăng

Sóc Trăng 2807 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Chùa Quan Âm Linh Ứng (Phật Học 2)

Ngôi chùa Quan Âm nằm cạnh vàm Đại Ngãi gắn liền với sự kiện lịch sử quan trọng của tỉnh Sóc Trăng nói riêng và cả nước nói chung, là nơi đầu tiên đón tiếp và chăm sóc cho Đoàn tù chính trị Côn Đảo về đất liền. Chùa Quan Âm tọa lạc tại ấp Ngãi Hội 2, thị trấn Đại Ngãi, huyện Long Phú (Sóc Trăng) có lịch sử từ lâu đời. Theo các tài liệu còn lưu lại, trong khoảng thời gian từ năm 1860 - 1872, chùa được xây dựng và đặt tên là Quan Âm Cổ Tự. Chùa Quan Âm khởi đầu được cất bằng cây lá đơn sơ, qua nhiều lần trùng tu, tôn tạo, nên mới hoàn thiện và khang trang như ngày nay. Đặc biệt, nơi đây vào ngày 23/9/1945 đã diễn ra một sự kiện có ý nghĩa lịch sử quan trọng, chùa Quan Âm và bà con phật tử cùng cấp ủy, chính quyền và nhân dân Sóc Trăng vinh dự đón tiếp và tận tình đóng góp công sức chăm sóc đoàn chiến sĩ cách mạng trung kiên hơn 1.800 người, vừa trở về đất liền sau những năm tháng bị địch giam cầm tại “địa ngục trần gian” Côn Đảo. Trong đoàn chiến sĩ cách mạng lúc bấy giờ có sự hiện diện của các đồng chí Lê Duẩn, Nguyễn Văn Linh, Phạm Hùng, cùng nhiều cán bộ khác. Sự kiện đón rước, chăm sóc Đoàn tù chính trị Côn Đảo về đất liền đã tiếp thêm sức mạnh, giúp Đảng bộ và nhân dân Sóc Trăng vượt qua nhiều khó khăn trong buổi đầu xây dựng chính quyền và chuẩn bị kháng chiến chống thực dân Pháp. Với những ý nghĩa và giá trị lịch sử to lớn ấy, chùa Quan Âm được tỉnh Sóc Trăng xếp hạng là Di tích Lịch sử - Văn hóa cấp tỉnh vào năm 2004. Ngày nay, ngôi chùa là địa điểm sinh hoạt tôn giáo của bà con phật tử địa phương, nơi giáo dục truyền thống cách mạng, cũng như là địa điểm tham quan của du khách gần xa. Đại đức Thích Phước Thiện - Phó Trụ trì chùa Quan Âm cho biết: “Ngôi chùa không chỉ đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng của nhân dân mà còn là nơi phục vụ cho các tiện ích, sinh hoạt cộng đồng của người dân; nơi giáo dục truyền thống cách mạng địa phương. Ngoài ra, bổn tự tích cực tham gia các hoạt động từ thiện xã hội, giúp đỡ nhiều người có hoàn cảnh khó khăn. Nhà chùa kết nối các nhà hảo tâm gần xa để đem đến sự ấm áp, ấm no đối với bà con nghèo trong lúc khó khăn, góp phần cùng địa phương thực hiện công tác từ thiện xã hội. Nhà chùa còn làm tốt công tác tuyên truyền về chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước đến tín đồ phật tử”. Hàng ngày, ngôi chùa đều đón khách thập phương đến tham quan, cúng dường, nghiên cứu; những ngày lễ lớn có rất đông du khách tham quan. Khi bước qua cổng tam quan, du khách sẽ bắt gặp tượng Phật Quan Âm đứng trên tòa sen ngay sân chùa và đi về phía phải chừng vài bước là ngôi Địa Mẫu thánh miếu. Bên trong là tượng Phật Di Lặc bằng đá đặt ngay phía trước chánh điện. Kế đến là ngôi chánh điện đang được xây dựng, trùng tu 1 trệt 1 lầu, bêtông hóa, có kiến trúc hiện đại, gần gũi với người dân Nam Bộ. “Giống như chánh điện của các ngôi chùa Bắc Tông khác, phần chánh điện Phật Thích Ca là vị Phật được thờ chính. Bên cạnh chánh điện còn thờ Phật Thiên Thủ Thiên Nhãn, Tiêu Diệm, Hộ Pháp, Tam Thế Phật, luôn thờ Tổ sư Đạt Ma. Phía trên chóp đỉnh của ngôi chánh điện là tòa bảo tháp với kiến trúc độc đáo” Ngôi chùa là nơi bà con phật tử và nhân dân địa phương gởi gắm niềm tin. Ngôi chùa chính là nơi sinh hoạt văn hóa, giáo dục, tâm linh tín ngưỡng của cộng đồng, chùa gắn liền với đời sống, sinh hoạt của người dân. Đặc biệt, đây còn là nơi có lịch sử, truyền thống cách mạng nên bà con ở đây rất tự hào. Nguồn: Báo Sóc Trăng Online

Sóc Trăng 3407 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Di tích lịch sử Địa Điểm Chiến Thắng Chi Khu Ngã Năm

Chiến thắng Chi khu Ngã Năm có ý nghĩa to lớn, khẳng định sự trưởng thành của Đảng bộ, quân và dân Thạnh Trị - Ngã Năm trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, làm sa sút tinh thần và uy thế của địch, làm tăng nhuệ khí của quân và dân ta. Trong chiến tranh chống Mỹ, do Ngã Năm là nơi có vị trí chiến lược rất quan trọng cả về quân sự và kinh tế nên Mỹ - ngụy đã thiết lập một chi khu quân sự tại đây. Chi khu Ngã Năm thuộc Tiểu khu Ba Xuyên, vùng 4 chiến thuật, nằm trên vùng đất thuộc đầu doi ở ngã ba sông có năm nhánh. Thời Ngô Đình Diệm, Ngã Năm có nhiều tên tề ngụy ác ôn tập trung nơi đây. Trong đó, nổi tiếng gian ác là tên Mười Hưng. Chúng từng chỉ huy bọn lính dân vệ, bảo an kéo vào các vùng chung quanh thị trấn, thọc sâu vào nông thôn càn bố, vây ráp, bắt bớ, bắn giết, tù đày… gây đau thương tang tóc cho biết bao thường dân vô tội. Đầu tháng 5-1962, Thường vụ Tỉnh ủy và Ban Chỉ huy Tỉnh đội chỉ đạo lực lượng vũ trang tỉnh quyết tâm tiêu diệt Chi khu Ngã Năm. Với sự chuẩn bị chu đáo, ta đã tấn công tiêu diệt hoàn toàn chi khu, thu nhiều vũ khí, quân trang và quân dụng. Tuy nhiều lần Chi khu Ngã Năm bị ta tiêu diệt, nhưng Mỹ - ngụy tìm mọi cách trở lại tái chiếm, ra sức củng cố, xây dựng chi khu này thành một căn cứ quân sự vững chắc và bố trí lại hệ thống phòng thủ chặt chẽ. Trong những cuộc tấn công bao vây Chi khu Ngã Năm, thì cuộc chiến vào năm 1968 là cuộc bao vây kéo dài và ác liệt nhất. Trong những ngày đầu bao vây, ta chỉ pháo kích bắn tỉa, áp đảo tinh thần binh lính địch, tạo điều kiện cho lực lượng dân công tập trung xây dựng hai pháo đài, lập thành thế bao vây, tấn công hiệu quả hơn cho các bước tiếp theo. Trận chiến bao vây Chi khu Ngã Năm càng về sau càng dồn sức. Khi các pháo đài dựng lên đã hoàn thành, bọn địch hết sức hoảng sợ vẫn cố liều chết xông ra đánh phá, nhưng mỗi đợt phản kích đều bị bẻ gãy. Qua gần một tháng bao vây, ta đã đánh bật 21 lần bọn giặc liều chết xua lính ra phản kích. Quân ta đã diệt, làm bị thương hơn 60 tên địch, trong đó có nhiều tên chỉ huy thuộc sắc lính bảo an, an ninh quân đội, thám báo và bọn tề ngụy ác ôn. Kết quả, sau 52 ngày đêm của chiến dịch bao vây đánh lấn, quân dân Thạnh Trị được sự hỗ trợ mạnh của một bộ phận lực lượng tỉnh, ta đã hoàn toàn giải phóng Chi khu Ngã Năm. Chiến thắng Chi khu Ngã Năm mang một ý nghĩa lịch sử vô cùng to lớn, đó là lần đầu tiên ở chiến trường Tây Nam bộ, bằng chiến thuật bao vây đánh lấn của du kích và bộ đội địa phương cấp huyện (có kết hợp một bộ phận nhỏ của tỉnh) đã dứt điểm hoàn toàn một chi khu quân sự thuộc vào loại phòng thủ kiên cố nhất nhì tại vùng đồng bằng sông Cửu Long. Chiến thắng Chi khu Ngã Năm là kết quả của sự chỉ đạo quyết tâm, biết phát huy sức mạnh tổng hợp của nhiều thứ quân, trong xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân; kiên trì bám trụ bám dân, xây dựng cơ sở vững chắc, mưu trí sáng tạo, dũng cảm liên tục tấn công. Với gần 200 tên địch bị ta giết, làm bị thương, đồng thời làm rã ngũ gần một 100 tên khác trong chiến dịch đã nói lên lối đánh của chiến tranh nhân dân là đúng đắn mà địa phương biết áp dụng. Địa điểm chiến thắng Chi khu Ngã Năm tọa lạc tại phường 1, thị xã Ngã Năm, tỉnh Sóc Trăng, được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng là Di tích Lịch sử - Văn hóa cấp Quốc gia, ngày 23/8/2004. Nguồn: Báo Sóc Trăng Online

Sóc Trăng 3646 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Miếu Bà chúa xứ ấp Mỹ Đông

Miếu Bà Chúa Xứ Mỹ Đông tọa lạc tại ấp Mỹ Đông, xã Mỹ Quới, thị xã Ngã Năm (Sóc Trăng). Nơi đây gắn với nhiều sự kiện lịch sử quan trọng của một vùng đất cách mạng anh hùng. Ngược dòng lịch sử, ấp Mỹ Đông, xã Mỹ Quới xưa kia vốn là một vùng đất trống trải, rộng lớn, sông ngòi chằng chịt và rất vắng vẻ. Lúc bấy giờ, Miếu Bà Chúa Xứ Mỹ Đông được xây dựng trên một nền cao khoảng 40cm, có diện tích 2.400m2. Ngôi miếu được xây bằng gạch, lợp ngói, chia làm 2 gian, gian trước thờ Bà Chúa Xứ và các bậc tiền hiền, hậu hiền, gian sau làm nhà bếp để chuẩn bị các lễ thức cúng kiếng. Trước năm 1930, phong trào khởi nghĩa chống lại sự áp bức, bóc lột của bọn thực dân Pháp và tay sai của nhân dân Mỹ Quới liên tục diễn ra nhưng chưa mạnh mẽ. Đến đầu năm 1930, đồng chí Quản Trọng Hoàng là đảng viên đã về đến làng Mỹ Quới tổ chức tuyên truyền, bồi dưỡng lý luận cách mạng cho các thanh niên ưu tú. Từ nguồn nhân lực đó, vào tháng 6/1930, Chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam đầu tiên của tỉnh Sóc Trăng được thành lập tại chợ Mỹ Quới do đồng chí Châu Văn Phát làm bí thư. Trong một thời gian ngắn, đồng chí Châu Văn Phát phân hóa tư tưởng, cầu an, không kiên định lập trường, quên đi nhiệm vụ, bị kỷ luật. Sau đó, tổ chức đảng cấp trên đề cử đồng chí Trần Văn Bảy làm Bí thư Chi bộ và lấy Miếu Bà Chúa Xứ Mỹ Đông làm địa điểm sinh hoạt chi bộ. Dưới các hình thức hoạt động công khai như tổ chức các lớp dạy võ, dạy nhạc cổ, dạy chữ quốc ngữ… nhiều lớp huấn luyện bí mật được chi bộ mở liên tục, ngầm tuyên truyền đường lối cách mạng, kết nạp nhiều thanh niên ưu tú vào Đảng, từ đó thúc đẩy phong trào cách mạng ở địa phương ngày càng phát triển. Sau cuộc khởi nghĩa ngày 23/11/1940 trên khắp các tỉnh Nam Kỳ, thực dân Pháp điên cuồng mở những cuộc càn quét với quy mô lớn để trả thù những người cách mạng yêu nước. Ngôi Miếu Bà Chúa Xứ Mỹ Đông cũng bị bọn chúng đập phá, san bằng… Có thể nói, ấp Mỹ Đông, xã Mỹ Quới không chỉ là cái nôi cách mạng, nơi thành lập Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên của tỉnh Sóc Trăng mà còn là căn cứ cách mạng của các cơ quan như: Huyện ủy và các ban ngành của huyện Thạnh Trị, Ban Tuyên huấn Tỉnh ủy, cơ quan Binh vận, Giao liên, Kinh tài, Dân Quân y, đoàn Ca múa nhạc của tỉnh Sóc Trăng và một số ban ngành của Thị xã ủy Bạc Liêu. Trong kháng chiến, nhiều phen thực dân Pháp rồi đến đế quốc Mỹ trút bom đạn càn quét lực lượng cách mạng nhưng vẫn không lay chuyển nổi tinh thần sắt đá của quân dân vùng quê anh hùng này. Căn cứ địa cách mạng nơi đây vẫn được giữ vững cho đến ngày 30/4/1975. Theo các chú ở Hội Cựu chiến binh xã Mỹ Quới, qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, nhiều người con ưu tú của quê hương Mỹ Quới đã được Nhà nước phong tặng và truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, có hơn 100 Bà mẹ Việt Nam anh hùng. Trải qua mưa bom lửa đạn của những năm tháng chiến tranh, sau khi đất nước hòa bình, bà con ở ấp Mỹ Đông đã cùng nhau dựng lại miếu thờ bằng tre gỗ và lợp lá để thờ cúng, nguyện cầu cho mảnh đất quê hương được mưa thuận gió hòa, mọi người có cuộc sống an lành, no ấm. Đến năm 1997, tỉnh đầu tư kinh phí xây dựng tấm bia lưu niệm nơi thành lập Chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam đầu tiên của tỉnh Sóc Trăng. Định kỳ hằng năm, người dân Mỹ Quới tổ chức lễ hội vía Bà vào ngày 16/2 âm lịch. Ngày 27/11/2003, Miếu Bà Chúa Xứ Mỹ Đông được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng là Di tích Lịch sử - Văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn: Báo Sóc Trăng Online

Sóc Trăng 3911 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh

Đền thờ Bác Hồ tọa lạc tại ấp Đền Thờ, xã An Thạnh Đông, Cù Lao Dung, Sóc Trăng. Ngày 28-12-2001, Đền thờ Bác Hồ được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Trong lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta đang hồi ác liệt, khó khăn nhất thì tin buồn ập tới: Bác Hồ kính yêu lâm bệnh và qua đời. Đây là nỗi đau to lớn không sao tả xiết của nhân dân cả nước nói chung và của quân dân vùng sông nước cù lao nói riêng. Huyện ủy, Mặt trận Giải phóng Dân tộc huyện Long Phú cùng quân dân cù lao (lúc này Cù Lao Dung được chia thành 4 xã trực thuộc huyện Long Phú) đã tổ chức lễ truy điệu Chủ tịch Hồ Chí Minh và chịu tang Người. Tại buổi lễ, lãnh đạo Huyện ủy Long Phú đã đọc bài điếu văn nói về công ơn to lớn của Bác Hồ đối với đất nước và nhân dân, đồng thời kêu gọi toàn thể đồng bào, cán bộ, chiến sĩ nén đau thương, biến thành sức mạnh đoàn kết bằng những hành động cách mạng cụ thể để thực hiện di nguyện của Người là giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Sau lời tuyên thệ và quyết tâm đó, đã có hàng trăm ý kiến của chiến sĩ và nhân dân yêu cầu được dựng một đền thờ trên vùng đất cù lao để ngày đêm tưởng nhớ và phụng thờ Bác. Với lòng quyết tâm cao độ, Đảng bộ huyện Long Phú và quân dân các xã cù lao đã tích cực vận động quyên góp nhân lực, vật lực để đến ngày 3-2-1970, nhân kỷ niệm Ngày thành lập Đảng, công trình đền thờ Bác được khởi công. Trong quá trình xây dựng đền thờ Bác gặp không ít khó khăn bởi các cuộc càn quét, đánh phá của địch. Bất chấp khó khăn, nguy hiểm, các tay thợ khẩn trương làm vào buổi chiều tối và ban đêm. Công trình còn tận dụng gỗ, cột kèo từ căn nhà của một địa chủ bỏ lại và dùng đước, tràm, tre, lá được đốn đẽo, gọt, chằm sẵn ở nhà chở lại để vừa lắp ráp nhanh vừa không tập trung đông người. Khi việc xây dựng đền thờ cơ bản đã hoàn tất thì thêm một khó khăn là không có ảnh Bác Hồ để thờ. May thay, lúc đó bà con đã tìm được ảnh của Bác in trên tờ Báo Chiến đấu của tỉnh (tiền thân của Báo Sóc Trăng ngày nay), bà con cắt ra cho vào khung thấy vẫn đẹp, dù kích thước hơi nhỏ một chút. Sau gần 3 tháng, công trình hoàn thành. Đến ngày 19-5-1970, nhân kỷ niệm 80 năm Ngày sinh của Bác, cũng là ngày hoàn tất Đền thờ Bác Hồ, cán bộ cùng hàng ngàn người dân nô nức tập trung dự lễ, bất chấp nguy hiểm do bom đạn, pháo của địch. Ngôi đền hoàn thành với sự đóng góp của nhân dân các xã cù lao và cả phần tiền của nhân dân các xã, thị trấn vùng đất liền huyện Long Phú quyên góp gởi sang. Trải qua nhiều lần sửa chữa, trùng tu, tôn tạo, đến năm 2010, Sóc Trăng khởi công xây dựng công trình “Tu bổ, tôn tạo Khu di tích lịch sử Đền thờ Bác Hồ” với các hạng mục như: nhà tưởng niệm, nhà trưng bày, nhà hội, sân lễ, ao sen, tường rào, đường nội bộ, cây xanh... trên diện tích rộng 2,2ha. Sau gần 3 năm thi công, Đền thờ Bác Hồ đã hoàn thành, đưa vào sử dụng, đáp ứng lòng mong đợi và là niềm tự hào của nhân dân Sóc Trăng. Đền thờ Bác Hồ là một địa chỉ đỏ, là nơi mà nhiều người dân địa phương, du khách trong và ngoài tỉnh, nhất là lực lượng đoàn viên, thanh niên thường đến đây để viếng và thắp hương tưởng niệm Bác Hồ kính yêu. Nguồn: Báo Sóc Trăng Online

Sóc Trăng 2945 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích lịch sử Chùa Dơi

Chùa Dơi có tên là Wathserâytêchô - Mahatup (phiên âm từ tiếng Khmer). Về sau đồng bào người Kinh và người Hoa đọc trại từ Mahatup thành “Mã Tộc”. Cho nên cũng có nhiều người gọi là: “Chùa Mã Tộc”. Ngoài ra dân gian còn gọi là chùa Dơi bởi vì trong chùa này có nhiều dơi. Từ “Mã Tộc” cũng chính là địa danh (từ ngã ba đường cho đến lối rẽ vào Chùa Dơi) như là một làng nhỏ. Dân cư ở đây có 3 dân tộc (Kinh, Hoa, Khmer) cùng sinh sống. Chùa Dơi là một tổng thể kiến trúc gồm có: Ngôi chánh điện, Sala (nhà hội của sư sãi và tín đồ) nhà tăng của sư sãi và trụ trì, các tháp để tro người chết, phòng khách… Toàn bộ các công trình toạ lạc trong một khuôn viên rộng có nhiều cây cổ thụ, diện tích khoảng 4 hecta. Chùa Dơi nằm trong địa bàn thành phố Sóc Trăng, thuộc khóm 9, phường 3, thành phố Sóc Trăng. Theo người Khmer, Mahatup là trận đánh lớn (Tup: trận đánh; Maha: lớn). Nơi đây đã diễn ra một trận đánh ác liệt của phong trào nông dân nổi dậy chống bọn phong kiến ngày xưa. Sau trận đánh đó, dân chúng tản cư trở về sinh sống, họ cho rằng vùng đất này có điềm lành (đất lành) nên xây chùa thờ Phật. Như để có một đấng tối cao che chở cho họ (vì các trận đánh của phong trào nông dân ở những nơi khác đều bị thất bại, nhưng ở nơi đây trận chiến diễn ra ác liệt và đã giành thắng lợi). Theo thư tịch cổ của Chùa còn để lại có ghi chép: Chùa được khởi công xây dựng từ năm 1569 dương lịch. Kiến trúc Chùa Dơi cũng giống như bao kiến trúc Chùa Khmer khác ở Đồng bằng sông Cửu Long. Về họa tiết trang trí, điêu khắc, hội họa mang sắc thái văn hoá Khmer. Từ những hiện tượng gần như là huyền bí của đàn dơi ở “Chùa Dơi”, tiếng đồn vang xa, khách thập phương ai cũng muốn tới viếng thăm để tận mắt chứng kiến. Từ thời chiến tranh chống Mỹ “Chùa Dơi” đã vang tiếng với những điều huyền bí , cho nên khuôn viên Chùa lúc ấy rất xa lạ với xã hội bên ngoài. Vì vậy, cán bộ của ta thường lui tới hoạt động cách mạng. Cho đến ngày nay Chùa Dơi rất nổi tiếng, vì phong cảnh hữu tình, gần gũi với thiên nhiên, có quần thể kiến trúc tôn giáo chính thống của dân tộc Khmer và bầy dơi huyền bí (theo quan điểm tín ngưỡng của từng dân tộc) đã thôi thúc khách tham quan đến viếng Chùa ngày càng đông đúc. Hiện nay, các hiện vật trong chùa dơi còn chủ yếu là tượng các Phật như: tượng Phật Thích Ca ngồi thiền định cao 2 m bằng xi-măng và nhiều bức tượng nhỏ khác bằng xi-măng và vật liệu khác do phật tử cúng chùa. Ngoài ra còn có khung cửa võng (bao lam) bằng gỗ sơn son thiếp vàng chạm trổ hình chim muông, hoa lá, đặc biệt có hoạ tiết hình những chú dơi; một cái giường chạm hoa lá tinh sảo, sơn son thiếp vàng; hai tủ lớn có chạm hoa văn theo mô típ cổ truyền của người Khmer. Đặc biệt hơn cả là trong sảnh của đại đức trụ trì và phòng khách còn có bức tượng của một đại đức đã viên tịch, với kích thước giống y như người thật trong tư thế thiền định làm bằng xi-măng đã làm cho gian phòng khách ấm cúng và sinh động, hấp dẫn. Ngày 12 tháng 2 năm 1999, Bộ Văn hóa - Thông tin đã công nhận Chùa Dơi là di tích cấp quốc gia. Nguồn: Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh Sóc Trăng

Sóc Trăng 3203 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Hòa Tú

Đình Hòa Tú ở xã Hòa Tú 1, huyện Mỹ Xuyên (Sóc Trăng). Đình Hòa Tú, là một công trình kiến trúc nghệ thuật mang những đặc trưng cổ truyền của văn hóa dân tộc Việt Nam gắn liền với nhiều giai đoạn lịch sử hào hùng, đặc biệt là cuộc khởi nghĩa của nhân dân vào ngày 23/11/1940. Theo lời kể của các cụ cao niên ở địa phương, ngày xưa, làng Hòa Tú rất sung túc, dân làng hòa thuận, làm ăn yên ổn. Vua Tự Đức đã khen ngợi và phê sắc phong thần cho làng vào ngày 29/11/1852. Cũng từ đó, dân làng góp sức xây dựng một ngôi đình đẹp, rộng rãi, khang trang để thỉnh sắc về thờ. Ngôi đình đầu tiên có diện tích rất rộng, hơn 360m2, gồm 3 gian song song, bố trí theo hướng Đông Bắc, Tây Nam, cổng nhìn hướng Đông Bắc, mái đình lợp ngói âm dương, cột đình bằng gỗ căm xe chắc chắn. Trong đình, từ cột kèo, bài vị, bệ thờ, liễn đối đều được chạm trổ khéo léo. Gian đầu là nhà võ ca, gian giữa nhà khách, gian sau là điện thờ thần và các vị công thần khai quốc… Năm 1938, đồng chí Phạm Hồng Thám và đồng chí Tư Bối về Hòa Tú xây dựng cơ sở Đảng, sau đó Chi bộ Hòa Tú được thành lập với 3 đảng viên. Dưới sự lãnh đạo của Chi bộ Hòa Tú, các tổ chức phản đế của nông dân, thanh niên, phụ nữ… làng Hòa Tú ra đời và phát triển nhanh chóng. Ngày 23/11/1940, lệnh khởi nghĩa của Xứ ủy được Chi bộ Hòa Tú tiếp nhận, đông đủ mọi người từ các ấp trong làng với vũ khí thô sơ cầm chặt trong tay: gậy gộc, giáo mác, kích, phảng, búa… tập trung trước sân đình chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa. Đến 2 giờ sáng ngày 24/11/1940, cuộc khởi nghĩa của làng Hòa Tú thắng lợi, lần đầu tiên cờ đỏ sao vàng xuất hiện tung bay trong làng Hòa Tú… Theo chiều dài lịch sử, mặc dù bị ảnh hưởng, tàn phá bởi chiến tranh nhưng hồn cốt của đình Hòa Tú vẫn được nhân dân địa phương quan tâm gìn giữ. Trước năm 1945, đình được tu sửa lại, vách ván được thay bằng vách gạch trát vôi. Năm 1946, khi giặc Pháp trở lại, quyết không để địch có nơi đóng quân, người dân buộc phải tháo dỡ đình. Cho đến năm 1957, ngôi đình được xây dựng lại, tuy nhiên do cột kèo hư hỏng, đồ thờ thất lạc, ngôi đình đã không còn nguyên vẹn như xưa. Sau ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975), đình nhiều lần được trùng tu, gần đây nhất là vào năm 2010. Hiện trạng của đình là nền rộng 112m2, có hai gian, gian trước là võ ca, gian sau là điện thờ. Trong điện thờ có bệ thờ thần giữa điện xây bằng gạch trát ximăng, trên vách giữa bệ treo một bằng nền đỏ gắn chữ Thần bằng gỗ sơn nhũ vàng, đồ thờ là một bộ tam sư gồm 1 bình gốm cắm hương ở giữa và 2 chân nến bằng gỗ hai bên hình tượng đôi hạc đứng trên lưng rùa được vẽ bằng sơn dầu. Bên trái của điện thờ là bệ thờ đồng chí Văn Ngọc Chính và các liệt sĩ hy sinh trong cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ ở Hòa Tú năm 1940; bệ bên góc phải thờ các liệt sĩ và nhân dân Hòa Tú đã hy sinh trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Cách cổng đình 14m có dựng tấm bia lưu niệm. Mặt trước bia tô đá rửa, trên đó trang trí lá cờ đỏ sao vàng hình tròn chạm nổi, dưới cờ là 1 ô vuông lõm tạm gắn một bảng thiếc kẻ dòng chữ “Truyền thống Hòa Tú 23/11/1940”. Hiện nay, trong đình còn lưu giữ nhiều vật phẩm quý như 2 chiếc mai rùa bằng gỗ, 2 cái lưng hạc bằng gỗ có khắc văn tự Hán Nôm, đôi chân bài vị bằng gỗ hình chữ nhật có chạm hoa văn quanh viền, 1 mảnh gỗ chạm hình rồng lượn trong mây và 1 mảnh gỗ chạm hình mặt rồng phun nước, Sắc phong thần làng Hòa Tú do vua Tự Đức phê, 1 khẩu súng 2 nòng là di vật của cuộc Khởi nghĩa Nam Kỳ tại làng Hòa Tú năm 1940. Theo thông lệ, cứ đến ngày rằm tháng 2 âm lịch mỗi năm, đình Hòa Tú sẽ tổ chức lễ cúng linh thần, thu hút đông đảo người dân đến tham quan, chiêm bái. Đình Hòa Tú được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia vào ngày 16/6/1992. Nguồn: Báo Sóc Trăng Online

Sóc Trăng 2922 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích lịch sử Trường TaBerd

Khu di tích lịch sử - Văn hóa Trường Taberd Sóc Trăng Ngày nay nằm trong khuôn viên trường Trung học phổ thông Ischool tọa lạc tại số 19, Tôn Đức Thắng, Phường 6, thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng. Sở dĩ Khu di tích có tên gọi là Trường Taberd, vì xưa kia đây là trường Tiểu Học nội trú của tổ chức công giáo Pháp, được xây dựng vào năm 1912. Trường có khuôn viên rộng 11.128m2, có sức chứa vài ngàn người. Nơi đây đã ghi dấu một sự kiện cách mạng có ý nghĩa quan trọng, ghi nhận sự đóng góp to lớn của Đảng bộ, quân và dân Sóc Trăng trong công cuộc kháng chiến chống Pháp . Sau thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945, Đảng ta nhanh chóng củng cố xây dựng chính quyền cách mạng, ổn định xã hội, chăm lo đời sống cho nhân dân. Đồng thời, đối phó với âm mưu trở lại xâm lược của Thực dân Pháp. Tại Miền Nam, Xứ Uỷ Nam Kỳ giao cho Tỉnh Ủy Sóc Trăng một nhiệm vụ quan trọng và cấp bách, đó là việc tổ chức đón rước các cán bộ chiến sĩ từ Côn Đảo trở về. 7 giờ tối ngày 23/9/1945, đoàn tàu ghe chở khoảng 2.300 người, trong đó có hơn 1.800 người là tù Chính Trị từ Côn Đảo đã về tới Sóc Trăng cập bến Cầu Nổi cũng là cảng Cầu Tàu lục tỉnh. Và Trường Taberd với khuôn viên rộng rãi và ở cạnh bên cầu Nổi đã được chọn làm nơi dừng chân, nghỉ dưỡng của các chiến sĩ tù chính trị Côn Đảo từ ngày 23/9 đến ngày 30/9/1945. Tại đây các chiến sĩ tù chính trị Côn Đảo đã được hàng ngàn đồng bào Sóc Trăng chào đón nhiệt tình giữa rừng đuốc, rừng cờ và biểu ngữ. Hàng chục tấn gạo, đường muối, hàng trăm con heo, gà, vịt và hàng ngàn bộ quần áo, chăn, chiếu, mùng, ván… được nhân dân quyên góp để chuẩn bị đón đoàn, một đội phục vụ gồm hàng trăm nam nữ thanh niên đã ở trong tư thế sẵn sàng phục vụ. Sau ngày 30/9/1945, đoàn chiến sĩ tù chính trị Côn Đảo lên đường về Cần Thơ để nhận nhiệm vụ mới. Qua việc đón rước và chăm sóc Đoàn tù chính trị Côn Đảo, Đảng bộ và nhân dân Sóc Trăng đã hoàn thành xuất sắc một nhiệm vụ quan trọng có ý nghĩa, góp phần xây dựng và bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng, đưa cách mạng Việt Nam từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Với ý nghĩa và tầm quan trọng của sự kiện, ngày 11/6/1992, Bộ Văn hóa - Thông tin quyết định công nhận Trường Taberd Sóc Trăng là di tích Lịch sử cấp quốc gia, thuộc loại hình di tích lịch sử cách mạng. Trong phòng trưng bày được bố trí với 6 nội dung lớn : Nội dung thứ nhất là “Nhà tù Côn Đảo – Địa ngục trần gian” : gồm một số hình ảnh của nhà tù Côn Đảo và các tù nhân được chụp lại thể hiện một phần nào sự đày đọa, tra tấn dã man các tù chính trị trong nhà tù thực dân. Nội dung thứ hai là Sự kiện Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công : Nội dung thứ ba là : Sự kiện đón rước đoàn tù Chính Trị từ Côn đảo về đất liền. Nội dung thứ tư là : Quá trình 7 ngày chăm sóc cán bộ, chiến sĩ tại Trường Taberd. Nội dung thứ 5 là : Các nhân vật tiêu biểu. Nguồn: Cổng thông tin điện tử UBND Thành phố Sóc Trăng

Sóc Trăng 3531 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích lịch sử Căn Cứ Tỉnh ủy Sóc Trăng

Di tích Khu căn cứ Tỉnh ủy Sóc Trăng có diện tích 281 ha, nằm trong khu rừng tràm Mỹ Phước, thuộc địa phận xã Mỹ Phước, Huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng. Trung tâm của khu di tích là Hội trường, nơi diễn ra hàng ngàn cuộc họp của Đảng bộ và Ban Chấp Hành Tỉnh ủy Sóc Trăng trong thời kháng chiến. Trước đây, Hội trường được dựng tạm bằng vật liệu sẵn có trong rừng như: Tràm, lá dừa nước, ... Sau năm Mậu Thân 1968, để thích nghi với tình hình mới, đồng thời xây dựng căn cứ kiên cố để bám trụ kháng chiến lâu dài, Hội trường được xây dựng lại bằng gỗ dầu vuông, mái lợp lá chẻ, có chiều cao 4.7m, dài 20m, rộng 4m và chia làm 5 gian bằng nhau. Hai bên hông của Hội trường còn bố trí 4 căn hầm đúc bằng bêtông, dùng để ẩn nấp khi máy bay hay pháo của địch bắn phá. Trong đó có 2 hầm nổi, 1 cái có thể chứa 10 đến 15 người và 2 hầm chìm, 1 cái chứa 20 đến 25 người. Đặc biệt, nhằm đảm bảo an toàn cho lực lượng lãnh đạo nòng cốt, Khu căn cứ còn trang bị thêm 2 hầm bí mật cách Hội trường khoảng 300m, trong đó chuẩn bị sẵn lương thực dự trữ và các vật dụng cần thiết, mỗi hầm chứa khoảng 10 đến 13 người. Ngoài ra, Khu căn cứ còn có nhà làm việc của đồng chí Bí thư và nhiều lán trại của các cơ quan trực thuộc được xây dựng dưới hình thức dã chiến. Khu căn cứ Tỉnh ủy Sóc Trăng còn được nhân dân gọi tắt trong thời chiến là Căn cứ Mỹ Phước, bởi vì căn cứ này được hình thành và xây dựng trong khu rừng tràm thuộc xã Mỹ Phước. Trước đây, khu vực này chỉ là cánh đồng hoang vu đầy cỏ dại, rộng hàng chục ngàn hét ta, sau đó người dân đến đây khai phá, định cư và lập ấp. Đầu thế kỷ 20, sau khi chiếm 6 tỉnh Nam kỳ gồm Biên Hòa, Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên - địa bàn Sóc Trăng thuộc tỉnh An Giang, Pháp đẩy mạnh khai thác tài nguyên, chiếm đất nông sản, bắt nhân dân đào kênh, rạch và trồng tràm. Lúc bấy giờ (1926), tỉnh Sóc Trăng có 4 quận là Châu Thành, Kế Sách, Long Phú và Phú Lộc, khi đó Mỹ Phước thuộc quận Châu Thành. Đến ngày 25/8/1945, sau khi nhân dân Sóc Trăng giành chính quyền thành công thì rừng tràm này là tài sản của nhân dân. Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, cả nước khẩn trương xây dựng và củng cố lực lượng chuẩn bị kế hoạch kháng chiến, tiếp tục chống thực dân Pháp xâm lược, Tỉnh ủy Sóc Trăng đã chủ trương mở rộng công bình xưởng, nhằm chế tạo vũ khí trang bị cho lực lượng vũ trang, phục vụ kháng chiến, do đó tháng 4/1946 công binh xưởng Sóc Trăng ra đời tại khu rừng tràm. Để góp phần làm thất bại chiến lược “đánh nhanh thắng nhanh” của Pháp và bảo toàn lực lượng kháng chiến lâu dài, tháng 9/1947 Tỉnh ủy Sóc Trăng quyết định dời Căn cứ từ Cù Lao Dung (lúc bấy giờ thuộc huyện Long Phú) về rừng tràm Mỹ Phước. Tại đây, Ban Chấp Hành Tỉnh ủy đã triển khai Nghị quyết của Trung ương Đảng, trực tiếp chỉ đạo chiến lược tác chiến cho quân và dân Sóc Trăng trên các mặt trận từ vũ trang đến chính trị. Có thể nói Căn cứ Mỹ Phước lúc bấy giờ là nơi đứng chân chỉ đạo của Tỉnh ủy Sóc Trăng, góp phần quan trọng trong công cuộc kháng chiến chung của cả nước đánh bại chủ nghĩa thực dân Pháp. Sau năm 1954, khi Mỹ hất chân Pháp vào chiếm Đông Dương, dưới chính quyền bù nhìn của Ngô Đình Diệm, ngày 20/10/1956 tỉnh Sóc Trăng được đổi tên thành tỉnh Ba Xuyên. Bằng chính sách “tố công, diệt cộng” bọn ngụy quyền ra tay sát hại dã man những người cộng sản. Trước tình hình đó, quán triệt tư tưởng trong nghị quyết 15 của Trung ương Đảng (1959), từ Căn cứ rừng tràm Mỹ Phước, Tỉnh ủy Sóc Trăng đã phát động phong trào đồng khởi trong toàn tỉnh, bắt đầu con đường cách mạng bạo lực chống đế quốc Mỹ và tay sai. Cũng từ đây, Tỉnh ủy Sóc Trăng tiếp tục đưa phong trào đấu tranh của quân và dân đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác cho đến ngày tỉnh Sóc Trăng hoàn toàn giải phóng (1/5/1975). Với những giá trị và ý nghĩa ấy, ngày 16/6/1992, Bộ Văn hóa Thông tin công nhận Khu căn cứ Tỉnh ủy là Di tích Lịch sử Cách mạng cấp quốc gia. Nguồn: Trung tâm Xúc Tiến Du Lịch Sóc Trăng

Sóc Trăng 3073 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Khleang

Chùa Khleang nằm ngay trung tâm thành phố, tọa lạc trên đường Tôn Đức Thắng, thuộc khóm 5, phường 6, Thành phố Sóc Trăng. Chùa được xây dựng cách đây gần 500 năm gắn liền với những truyền thuyết của địa danh Sóc Trăng. Chính điện chùa được xây trên nền đất cao rộng, không gian trong xanh, đặc biệt có nhiều cây thốt nốt là cây đặc trưng của người khmer. Chùa đã qua nhiều lần trùng tu, nhưng mãi đến 1918, Chính điện và Sala được xây dựng lại, đồng thời cũng được thay toàn bộ chất liệu. Vẫn là đặc trưng kiến trúc của người Khmer Nam bộ với hình tượng rồng trên mái. Trong tích Phật, đồng bào Khmer thường kể rằng: Rồng là con vật linh thiêng, tự nó biến mình thành thuyền để đưa Phật vượt bể tới các nơi giảng kinh cứu độ chúng sinh. Do đó, Rồng được đưa lên mái chùa với ý đồ mong muốn đức Phật dừng lại để cứu vớt họ thoát khỏi cảnh trầm luân. Tiếp giáp với mái chánh điện là hình tượng chim thần Krud đang nâng đỡ mái thật khỏe khoắn. Với truyền thuyết dân tộc Khmer, chim thần Krud là vua của các loài chim. Còn phía trước và phía sau chính điện chùa đều có hình tượng Chằn đứng bảo vệ chùa, trong các chuyện cổ tích khmer hay trong Dù-Kê, nhân vật Chằn là biểu tượng của cái ác, cái xấu, gây ra cảnh đau khổ cho mọi người. Tuy nhiên trong nghệ thuật tạo hình khmer, Chằn đã được thu phục bởi đức Phật. Việc đặt tượng Chằn bên ngoài chính điện hàm ý cái ác, cái xấu đã được biến cải để phục vụ, để bảo vệ cho cái đẹp cái thiện. Bên trong chính Điện là một gian phòng rộng dành riêng cho việc hành lễ. Ngoài 12 cột tròn, phần quan trọng nhất bên trong chính điện là bệ thờ tượng Phật Thích Ca, tượng cao 2,5m đặt ở giữa hai gian trong cùng, không những quý về chất liệu mà còn cả về nghệ thuật điêu khắc. Trên bệ thờ dày đặc những hoa văn họa tiết với các mảng điêu khắc tinh xảo, các hoa văn hình ngọn lửa rất đặc trưng nét văn hóa khmer. Nổi lên một cảm thức thẩm mỹ tinh tế vào cảm hứng. Vì theo hệ Phật giáo tiểu thừa, nên chùa của đồng bào Khmer Nam bộ chỉ thờ duy nhất Phật Thích Ca Mâu Ni với nhiều tư thế khác nhau: ngồi thiền định, mới khai sinh, đi khất thực, lúc niết bàn,. Phần nội thất của chánh điện chùa là sự giao thoa của 3 nền văn hoá: Kinh, Khmer, Hoa trong một không gian kiến trúc, thể hiện rõ trên những cây cột gỗ: nghệ thuật sơn mài Việt, cách phối hợp màu sắc truyền thống người Khmer và nét vẽ đặc trưng của người Hoa, tạo nên một tuyệt tác mà có lẽ chỉ riêng ở chùa Khleang mới có. Ngoài vai trò là cơ sở tín ngưỡng, ở chánh điện chùa còn lưu giữ, bảo tồn bộ sưu tập về tượng phật với nhiều tư thế, kích cỡ, chất liệu khác nhau được ví như một bảo tàng nghệ thuật cổ về hiện vật. Các hiện vật này do nhiều thế hệ cao tăng đã gìn giữ hàng trăm năm qua, từ sự đóng góp gửi gắm của nhiều phật tử. Từ khi bắt đầu xây dựng chùa cho đến nay, Chùa Khleang đã trải qua 21 vị đại đức trụ trì và vị trụ trì hiện nay là đại đức Tăng Nô (1943). Có vị không những chăm lo xây dựng chùa mà còn tham gia tích cực vào hoạt động cách mạng như chống bắt lính, nuôi chứa cán bộ cách mạng có tên tuổi... có vị phải hi sinh trước nòng súng của địch như Đại Đức Trần Kế An, vị sư cả trụ trì đã bị bọn địch sát hại ngay tại hậu viên chùa. Vì thế, vào những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước, chùa vừa là nơi tổ chức sinh hoạt tôn giáo vừa là nơi hoạt động cách mạng có hiệu quả nhất của Đảng. Trải qua năm tháng, với ý nghĩa lịch sử quan trọng cùng với lối kiến trúc giá trị nghệ thuật còn lưu giữ, chùa Khleang đã được Bộ Văn hóa công nhận là di tích lịch sử văn hoá cấp Quốc gia vào ngày 27/04/1990. Nguồn: Cổng thông tin điện tử UBND Thành phố Sóc Trăng

Sóc Trăng 2625 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Khu di tích lịch sử - Địa điểm thành lập Tiểu đoàn Tây Đô

Di tích Địa điểm thành lập Tiểu đoàn Tây Đô, nằm bên bờ kinh xáng Lái Hiếu thuộc ấp Phương An, xã Phương Bình, huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang, cách thành phố Vị Thanh trung tâm tỉnh là 25 km, cách thị xã Ngã Bảy 16 km, đi bằng đường bộ và đường thủy đến di tích đều thuận tiện. Cuối năm 1959, Nghị quyết 15 của Trung ương và Nghị quyết của Liên tỉnh ủy Miền Tây đã được triển khai thực hiện, các lực lượng vũ trang của toàn Miền lần lượt ra đời, trong đó có Tiểu đoàn Tây Đô. Được thành lập vào ngày 24 tháng 6 năm 1964 tại xã Phương Bình, huyện Phụng Hiệp, tỉnh Cần Thơ (nay là tỉnh Hậu Giang). Do Ban quân sự tỉnh tổ chức lễ ra mắt Tiểu đoàn rất long trọng, có 1000 dân, cán bộ, chiến sĩ đến dự, Ban quân sự tỉnh có đồng chí Lê Hoàng Lâu, Tỉnh đội trưởng đến dự và công bố Quyết định thành lập Tiểu đoàn Tây Đô, đồng thời giao nhiệm vụ cho Đảng ủy, Ban chỉ huy Tiểu đoàn, đồng chí Bùi Quang Đơ thay mặt Ban chấp hành Đảng bộ Tiểu đoàn đọc lời đáp và hứa hẹn, nguyện trung thành với Đảng, với nhân dân. Đồng chí hô to khẩu hiệu “Tiểu đoàn Tây Đô ra đi là chiến thắng, đánh là tiêu diệt”. Tất cả cán bộ và chiến sĩ Tiểu đoàn đồng thanh hô “Quyết thắng”. Ra đời giữa thời điểm cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đang diễn ra ác liệt, Tiểu đoàn Tây Đô đã nhanh chóng trưởng thành, anh dũng chiến đấu, lập nên nhiều chiến công vang dội, góp phần cùng quân dân cả nước giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, làm tròn nghĩa vụ quốc tế tại Campuchia... được Đảng và Nhà nước hai lần tuyên dương danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”. Với các thành tích của Tiểu đoàn Tây Đô, ngày 26 tháng 7 năm 2006 Ủy ban nhân dân tỉnh Hậu Giang đã ra Quyết định xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa “Địa điểm thành lập Tiểu đoàn Tây Đô” là di tích cấp tỉnh. Di tích được quy hoạch và đầu tư xây dựng các hạng mục công trình như: tượng đài hoành tráng, nhà trưng bày hình ảnh hiện vật của Tiểu đoàn Tây Đô, sân, đường nội bộ, cây xanh,…trên diện tích 01 ha đất cũng tại ấp Phương An, xã Phương Bình, huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang. Công trình đã hoàn thành đưa vào sử dụng năm 2012, có ý nghĩa rất to lớn trong việc giáo dục truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ, nơi đây đã trở thành một trong những điểm di tích quan trọng của tỉnh thường xuyên mở cửa phục vụ khách tham quan, học tập, họp mặt, sinh hoạt văn hóa, vui chơi giải trí của nhân dân trong và ngoài tỉnh. Nguồn: Phòng Quản lý Di sản văn hóa

Hậu Giang 2766 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Chùa Phổ Minh

Ngày 5 tháng 10 năm 2021, Ủy ban nhân dân tỉnh Hậu Giang đã ban hành Quyết định xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh đối với Chùa Phổ Minh (toạ lạc tại số 135/2 đường Nguyễn Thị Minh Khai, khu vực 1, Phường 4, thành phố Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang). Chùa Phổ Minh được xây dựng trước năm 1908 (trước thế kỷ 20) là một trong những ngôi chùa khá lâu đời tại thành phố Vị Thanh.. Ngôi chùa vừa mang dấu ấn lịch sử tôn giáo, vừa là địa chỉ đỏ trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, từng là nơi để cán bộ cách mạng thời chống Pháp, Mỹ trú ngụ. Ban đầu, chùa chỉ được cất bằng lá kiểu nhà sàn, vì thời ấy nơi đây rắn rết, cọp beo nhiều vô kể. Trải qua nhiều đời trụ trì, đến năm 1967 chùa được xây lại nhưng cũng bằng lá. Lúc này, tình hình kháng chiến chống Mỹ và bè lũ tay sai hết sức ác liệt. Trong khi đó, địch tăng cường bắt quân dịch nên nhiều thanh niên địa phương tự nguyện “xuống tóc” để vào chùa nhằm tránh sự ép buộc của chúng. Từ năm 1908, nhà chùa thường xuyên góp lúa, gạo, tiền bạc ủng hộ cách mạng, làm hầm bí mật che giấu cán bộ, đùm bọc cho hàng trăm thanh niên địa phương trốn quân dịch. Trong khuôn viên chùa được xây dựng khang trang với nhiều tượng khá đẹp và hoành tráng, trong khuôn viên hơn 1 ha có vườn cây xanh, cảnh quan tôn nghiêm, tĩnh lặng, đặc biệt là ao sen khá rộng và đẹp. Phần chánh điện rất khang trang to rộng với nhiều thiết chế như bàn thờ Phật, tiên thánh; trống, chuông, mõ quý hiếm cùng nhiều hiện vật rất cổ kính và có giá trị văn hóa. Từ năm 1968 đến 1975, chùa đã che chở, đùm bọc gần 130 người. “Trong số này có nhiều trường hợp hoạt động cách mạng bí mật. Hàng ngày, họ ở trong chùa, nhưng đến mùa vụ thì ban ngày về tiếp gia đình, ban đêm trở lại chùa. Để chở che, đùm bọc những cán bộ cấp trên xuống nắm tình hình địch và bàn về những trận đánh, cố hòa thượng Thích Huệ Giác bí mật cho đào hầm trú ẩn ở sau chùa. Chưa kể, nhằm qua mắt Mỹ ngụy, cố hòa thượng Thích Huệ Giác còn dùng be bồ bằng tre bao xung quanh miệng hầm, rồi lấy vỏ dừa lấp xung quanh. Nhờ vậy mà không ít lần cán bộ hoạt động cách mạng lánh vào đây khi bị Mỹ ngụy càn quét đều được bảo vệ an toàn. Đến ngày 30-4-1975, tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, Hồ Ngọc Cẩn tuyên bố tử thủ, nhiều “chư tăng” lột áo nhà sư đi nắm tình hình địch và tiếp đào công sự vì đề phòng phản công của chúng. Lúc này, nhiều vợ con của lính ngụy chạy về các đồn để tìm chồng, cha. Thấy vậy, cố hòa thượng Thích Huệ Giác vận động, tuyên truyền họ khuyên người thân buông súng đầu hàng. Nhờ đó, khoảng hơn giờ sau, dinh tỉnh trưởng kéo cờ 3 sọc xuống để treo cờ trắng lên đầu hàng. Sau ngày giải phóng thống nhất đất nước, tăng, ni chùa Phổ Minh tiếp tục sứ mệnh của mình là xây dựng và bảo vệ đạo pháp – dân tộc. Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, chùa Phổ Minh là cơ sở hoạt động bí mật, thường quyên góp lúa gạo, tiền bạc ủng hộ cách mạng. Đặc biệt, chùa là địa điểm hoạt động bí mật của gia đình phu nhân nguyên Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng; thiếu tướng Trần Quốc Liêm, Phó Tổng cục trưởng An ninh (Bộ Công an); ông Lê Việt Hùng, nguyên Phó Giám đốc Công an thành phố Cần Thơ; Đội an ninh, Đội biệt động thị xã Vị Thanh… Nguồn: Giáo hội phật giáo Việt Nam

Hậu Giang 2753 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Di tích lịch sử địa điểm khởi nghĩa nam kỳ 1940, ở Phú Hữu

Di tích Khởi nghĩa Nam kỳ 1940 trước đây tọa lạc tại làng Phú Hữu, tổng Định An, quận Phụng Hiệp, nay thuộc ấp Phú Thạnh, xã Phú Hòa, huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang. Vào những năm 1930 - 1935, nông dân làng Phú Hữu sống trong cảnh bị áp bức, bóc lột nặng nề của thực dân Pháp, phong kiến địa chủ. Trong thời gian này, bên kia bờ tả ngạn sông Hậu chi bộ Đảng Trà Ôn, Vĩnh Xuân ra đời và lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống địa chủ tăng tô, phong kiến, thực dân. Chi bộ Đảng ở Phú Hữu ra đời đã lãnh đạo phong trào đấu tranh của nông dân rất sôi nổi và xây dựng cơ sở cách mạng rất tốt. Từ cơ sở có chi bộ và nhà bà Ngô Thị Lụa (mẹ của đồng chí Nguyễn Phước Ngoạn và Nguyễn Văn Phúc) ở rạch Ngã Lá, ấp Phú Lễ, làng Phú Hữu nên Liên Tỉnh ủy Cần Thơ chọn làm nơi đặt cơ quan. Nơi đây Liên Tỉnh ủy Cần Thơ đã mở nhiều lớp huấn luyện, nhiều cuộc hội nghị của Liên Tỉnh ủy và in nhiều tài liệu cung cấp cho các tỉnh miền Hậu Giang. Dưới sự lãnh đạo của chi bộ phong trào đấu tranh đòi giảm tô, giảm tức, đòi dân sinh, dân chủ diễn ra mạnh mẽ, sôi nỗi; tổ chức cơ sở Đảng và quần chúng: Thanh niên, phụ nữ phản đế, Nông hội đỏ phát triển mạnh, nhất là từ khi nhận được “Đề cương khởi nghĩa” của Xứ ủy Nam Kỳ do Tỉnh ủy Cần Thơ triển khai vào tháng 4/1940. Chi bộ đã ráo riết chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa, tổ chức nhiều cuộc họp quần chúng tốt để phát động phong trào và chọn một địa điểm trong rừng sâu cất chòi dưới bóng những cây kè (nên có tên gọi chòi “Cây Kè”) để làm nơi học tập huấn luyện cho những thanh niên, nông dân có tâm huyết cách mạng trong làng. Các cuộc họp này thường có cán bộ cấp trên như: đồng chí Lưu Nhân Sâm, Ngô Hữu Hạnh (trong Tỉnh ủy Cần Thơ) thường đến nói chuyện về tình hình, tập những bài hát cách mạng và dạy võ nghệ. Những hoạt động của quần chúng dưới sự lãnh đạo của chi bộ, chuẩn bị cuộc khởi nghĩa tuy bí mật nhưng rất sôi nổi, ai cũng mong ngày khởi nghĩa giành chính quyền. Lệnh khởi nghĩa của Xứ ủy Nam Kỳ đến Cần Thơ vào lúc 12 giờ trưa ngày 22/11/1940, nhưng đến khuya ngày 23/11/1940 Quận ủy Phụng Hiệp mới nhận được lệnh khởi nghĩa. Tuy có muộn nhưng Quận ủy vẫn tiến hành khởi nghĩa. Nhiệm vụ của Quận ủy Phụng Hiệp là tổ chức lực lượng khởi nghĩa đánh vào quận lỵ, đánh cầu Phụng Hiệp và bao vây, kìm chân địch không cho đi tiếp viện nơi khác. Bọn địch ở Trà Ôn được tin báo, tên Chỉ quận trưởng đưa quân đến đàn áp cuộc khởi nghĩa. Những cán bộ lãnh đạo nòng cốt của cuộc khởi nghĩa và quần chúng yêu nước bị bắt, bị kết án từ tù chung thân đến 5 năm tù giam đày đi Côn Đảo. Do không chịu nổi cảnh lao tù nơi rừng thiên, nước độc nên đã hy sinh tại đây. Cuộc khởi nghĩa Nam kỳ ở Phú Hữu và một số nơi trong tỉnh tuy chưa giành thắng lợi, do tình thế cách mạng chưa chín muồi, kế hoạch khởi nghĩa bị lộ nên bị địch đàn áp dã man, nhiều cán bộ, đảng viên và quần chúng trung kiên của Đảng bị địch tàn sát, bắt bớ tù đày. Nhưng đó là cuộc nổi dậy có tổ chức của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, tấn công vào dinh lũy của kẻ thù, báo hiệu sự cố chung của chế độ thống trị. Đó là cuộc diễn tập quan trọng, Đảng bộ Cần Thơ rút ra bài học kinh nghiệm quý giá tổ chức cuộc khởi nghĩa cách mạng Tháng Tám năm 1945, giành thắng lợi vẻ vang. Cuộc khởi nghĩa Nam kỳ 1940 ở Phú Hữu được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận di tích lịch sử văn hóa, cấp quốc gia. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Hậu Giang

Hậu Giang 3278 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích chiến thắng Vàm Cái Sình

Di tích Chiến thắng Vàm Cái Sình tọa lạc tại phường 7, TP Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang. Từ 1949 vùng giải phóng huyện Long Mỹ rộng lớn nơi dự trữ người của trong kháng chiến chống thực dân Pháp, là nơi căn cứ của cơ quan cấp tỉnh, khu. Vào những năm 1951, 1952 địch bị thất bại nặng nề và bị động ở chiến trường chính, thực dân Pháp thực hiện chính sách 3 sạch “Đốt sạch, phá sạch, giết sạch”, phá hoại kinh tế, mở nhiều cuộc hành quân quy mô càn quét vào vùng giải phóng của ta ở huyện Long Mỹ, và mở rộng đánh phá vùng căn cứ địa cách mạng U Minh. Thực hiện âm mưu trên, thực dân Pháp mở chiến dịch càn quét quy mô vào vùng giải phóng căn cứ cách mạng Long Mỹ, Vị Thanh hòng tiêu diệt lực lượng của ta, phá hoại hậu phương cách mạng. Nắm chắc ý đồ của địch, đồng chí Huỳnh Thủ, Tỉnh đội trưởng Cần Thơ đã trực tiếp giao nhiệm vụ cho đơn vị 4053, thuộc tiểu đoàn 410 của tỉnh Cần Thơ, là đơn vị có nhiều kinh nghiệm đánh thủy lôi đã lập chiến công đánh nhiều tàu địch trên sông Phụng Hiệp, Châu Thành. Sau khi điều nghiên chiến trường, địch muốn đánh vào ruột vùng giải phóng Long Mỹ, hành quân bằng đường bộ, chỉ có con lộ từ Cầu Đúc vào Hỏa Lựu - Vị Thanh. Để chóng địch càn quét đánh phá vào vùng giải phóng, ta đã đánh phá các con lộ và đánh sập các cầu trên đường giao thông bộ, trên đoạn đường này có cầu sắt Cái Sình. Vào sáng ngày 22/12/1952, sau khi địch cho bắn pháo để dọn đường cho tiểu đoàn cơ động số 14 gồm: lính Pháp, Việt, Miên, do sĩ quan Pháp chỉ huy, thận trọng lần dò tiến vào xã Hỏa Lựu trên con đường bị phá hoại, cỏ, cây sầm uất. Đến 15 giờ địch mới đến Vàm rạch Cái Sình chúng dồn quân tại đây để chờ tàu đưa qua rạch Cái Sình, vì cầu bị ta đánh sập. Đúng như dự đoán của ta, đêm 21/12/1952 ta đã đặt hai trái thủy lôi, hằng ngàn ký thuốc nổ tại Vàm rạch Cái Sình và đưa một tổ công binh (3 đồng chí) của Tiểu đoàn 410, sẵn sàng chiến đấu. Đến gần 15 giờ, tiếng tàu sắt nổ máy vang rền, từ ngã ba Cầu Đúc chạy vào. Các chiến sĩ ta rất bình tĩnh chờ cho quân địch xuống đầy tàu sắt mặt dựng LCT (loại tàu chở quân), khi tàu lui ra giữa Vàm rạch để đưa quân về phía bờ Hỏa Lựu, chiến sĩ ta châm điện, phát ra tiếng nổ long trời, một cột nước trắng xóa dựng cao hằng trăm mét và đổ ập xuống nhấn chìm chiếc tàu mặt dựng xuống dòng sông, gần 400 tên địch, trong đó có một quan Ba (đại úy), hai quan Nhất (thiếu úy) bị tan xác, ta thu một súng ngắn 12 ly, một bản đồ hành quân, hai khẩu trọng pháo: 20 ly và 13,2 ly, 5 súng tiểu liên, 12 súng trường, làm thất bại hoàn toàn kế hoạch càn quét đánh phá vào vùng căn cứ giải phóng Long Mỹ - Vị Thanh. Trong kháng chiến chống Pháp trên chiến trường Hậu Giang - Cần Thơ, quân dân Hậu Giang - Cần Thơ đã lập hai chiến công hiển hách diệt nhiều địch nhất, đó là trận đánh xe cơ giới ở 4 trận Tầm Vu, lấy khẩu đại bác 105 ly ở trận Tầm Vu 4 và trận đánh tàu tại Vàm rạch Cái Sình, làm vang dội chiến công khắp miền Tây và cả nước. Chiến thắng Cái Sình có một ý nghĩa quan trọng đã góp phần tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch để phối hợp với chiến trường chính ở chiến dịch biên giới Việt Bắc 1951 - 1952 và cùng các chiến trường khác trong cả nước đẩy địch vào thế bị động, thất bại, tạo ra thế và lực mới thúc đẩy cuộc kháng chiến phát triển mạnh mẽ dẫn đến chiến thắng “Điện Biên Phủ” (7/5/1954) chấn động địa cầu, buộc thực dân Pháp phải ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ, chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam kết thúc chế độ thực dân cũ ở Việt Nam, nửa nước độc lập, ở miền Nam tiếp tục cuộc kháng chiến chống chế độ thực dân mới của đế quốc Mỹ. Từ ý nghĩa và giá trị lịch sử quan trọng của chiến thắng “ Vàm Cái Sình”. Ngày 3/8/2007, Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng Chiến thắng Vàm Cái Sình là di tích cấp Quốc gia. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Hậu Giang

Hậu Giang 3125 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di Tích Ủy Ban Liên Hợp Đình Chiến Nam Bộ

Thị trấn Phụng Hiệp, tỉnh Cần Thơ là nơi được chọn đóng trụ sở của Ủy ban Liên hợp Đình chiến Nam bộ, có vị trí chiến lược quan trọng, đây là trung tâm của hai điểm tập kết Cần Thơ và Cà Mau. Trụ sở Ủy ban Liên hợp Đình chiến Nam bộ nguyên là ngôi nhà của ông Hà Văn Phú (chủ tiệm chụp hình Việt Nam, ở chợ Phụng Hiệp), xây dựng vào năm 1928. Toàn khu di tích được xây dựng trên diện tích 1.635 m2. Từ ngoài nhìn vào trước cửa trụ sở có một bảng lớn, viết bằng hai thứ tiếng Pháp và Việt - Trụ Sở Ủy Ban Liên Hợp Đình Chiến Nam Bộ. Trước trụ sở chính có 2 cột cờ. Một cột cờ treo lá cờ đỏ sao vàng - Quốc kỳ Việt Nam. Cột thứ hai treo cờ Tam tài - Quốc kỳ của Pháp, dưới đuôi lá cờ Tam tài còn đeo thêm lá cờ Ba que của ngụy quyền, đã chứng tỏ sự lệ thuộc bám víu nhục nhã của ngụy quyền Sài Gòn. Phía trái của trụ sở là khu nhà sàn bán kiên cố được xây dựng theo kiểu chữ U, nhà của lực lượng bảo vệ phái đoàn Việt Nam ở. Dưới mé sông trước ngôi nhà sàn là một cầu tàu bằng gỗ để chiếc tàu Hòa Bình của phái đoàn ta cập bến. Mỗi lần chiếc tàu Hòa Bình có biểu tượng chim bồ câu trắng ở hai bên mạn tàu, trên nóc tàu có lá cờ đỏ sao vàng phất phới tung bay, chở phái đoàn ta từ căn cứ ở Hàng Điệp ra trụ sở họp, nhân dân hai bên bờ sông và chợ Phụng Hiệp vui mừng đón chào, vỗ tay vang dội … cổ vũ phái đoàn ta hằng ngày. Kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, bằng chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, buộc thực dân Pháp phải ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ đình chiến ở Đông Dương. Hiệp định Giơ-ne-vơ ký ngày 20/7/1954, gồm 6 chương, 47 điều. Nội dung quan trọng là Pháp công nhận nền độc lập của nước Việt Nam, lấy vĩ tuyến 17 (sông Bến Hải) làm giới tuyến quân sự tạm thời. Quân đội nhân dân Việt Nam ở miền Nam tập kết ra Bắc. Quân đội của thực dân Pháp phải chuyển vào miền Nam. Miền Bắc nước ta đã hoàn toàn giải phóng, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Sau hai năm, hai miền sẽ tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Để giám sát và điểu hành việc thực hiện Hiệp định đình chiến giữa hai bên, theo chương 6 của Hiệp định (từ điều 28 đến điều 47) quy định cách tổ chức và hoạt động của ủy ban Liên hợp và Ủy ban giám sát quốc tế ở Việt Nam. Từ tinh thần trên, sau khi Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, Ủy ban Liên hợp đình chiến Trung ương được thành lập do thiếu tướng Văn Tiến Dũng làm trưởng đoàn. Hội nghị quân sự Trung Giã, Trung ương quyết định thành lập Ủy ban Liên hợp Đình chiến Nam bộ, do Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam ký ngày 22/7/1954, để Ủy ban Liên hợp Đình chiến chỉ đạo, theo dõi việc thi hành Hiệp định và bố trí lực lượng chuyển quân tập kết đúng thời hạn quy định. Phái đoàn của Pháp do đại tá Duque làm trưởng đoàn (sau đổi đại tá Colelen bazien), Phó đoàn là Trung tá magron. Ngoài ra còn có một số trung tá ngụy làm phiên dịch và một nữ thư ký người Pháp. Phái đoàn mỗi bên có khoảng 5 người thường trực gồm: Trưởng, phó đoàn, thư ký, phiên dịch… trong suốt thời gian làm việc của Ủy ban Liên hợp Đình chiến Nam bộ có sự bảo vệ, canh gác của Quân đội nhân dân Việt Nam và Quân đội Liên hiệp Pháp. Di tích lịch sử Ủy ban Liên hợp Đình chiến Nam bộ ở Phụng Hiệp - Cần Thơ có ý nghĩa quan trọng trong việc giáo dục truyền thống cách mạng và xây dựng niềm tin vào thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Từ ý nghĩa trên Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận trụ sở Ủy ban Liên hợp Đình chiến Nam bộ tại Phụng Hiệp, là di tích lịch sử cấp Quốc gia ngày 28/6/1996 . Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Hậu Giang

Hậu Giang 2593 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích khu trù mật Vị Thanh - Hỏa Lựu

Di tích lịch sử - văn hóa Khu trù mật Vị Thanh – Hỏa Lựu tọa lạc tại khu vực 4 (khu văn hóa Hồ Sen), phường 1, thành phố Vị Thanh trung tâm tỉnh Hậu Giang. Hiệp định Geneve được ký kết ngày 20-7-1954 chưa ráo mực, Mỹ Diệm đã ngang nhiên phá hoại. Chúng thực hiện âm mưu gom dân lập khu trù mật Vị Thanh – Hỏa Lựu, chiếm Long Mỹ - Vị Thanh làm chỗ dựa để đánh phá, bình định vùng căn cứ U Minh, mà địch gọi là: “Đại bản doanh của Cộng sản”. Để thực hiện âm mưu trên, Mỹ Diệm đã tập trung những tên tay sai ác ôn, đầu hàng phản bội hận thù cách mạng và huy động hàng ngàn quân mở nhiều cuộc càn quét, đánh phá, đuổi nhà, gom dân, bên cạnh đó Diệm đã ban hành Luật 10-59, với phương châm “thà giết lầm còn hơn bỏ sót”, lê máy chém về Long Mỹ để chém giết đồng bào ta. Chính Trần Lệ Xuân (vợ Ngô Đình Nhu) đích thân về đây động viên, khích lệ bọn tay sai thẳng tay chém giết những người bị tình nghi là “việt cộng” và ra giá mua một mật người từ 500 đến 700 đồng,.. oán hận ngất trời, máu chảy thành sông. Theo đồ án thiết kế, khu trù mật có chiều dài 7km, chiều ngang lấy kinh Xà No làm trung tâm, mỗi bên rộng 2km, có diện tích chung 28km vuông, chia làm 4 khu chính: 1 Khu Vị Thanh, 2 Khu Hỏa Lựu, 3 Khu Giữa, 4 Khu Bắc Xà No. Mỗi khu chia thành 4 tiểu khu, mỗi tiểu khu chia ra nhiều lô, mỗi lô chia ra nhiều ô, mỗi ô chia ra nhiều khoảnh đất nhỏ, mỗi khoảnh dài 90 mét, rộng 45 mét (diện tích bằng 4 công đất) cho mỗi gia đình, ngăn cách nhau bằng một con mương. Các lô cách nhau bằng một con kênh rộng từ 3 đến 4 mét, sâu 2 mét, ngoài ra còn có hàng rào, dây thép gai bao bọc. Người dân sống trong khu trù mật bị theo dõi, kiểm soát 5 khâu: ra vào, đi lại, ăn ở, thu nhập, giao tiếp. Để bảo vệ an toàn Khu Trù mật chúng bố trí lực lượng như sau: một đại đội biệt kích thuộc khu U-Minh đóng ở đầu cầu chợ Cái Nhum, một đại đội dân vệ canh gác vòng ngoài, bên trong chúng trang bị cho các cụm thanh niên Cộng hòa, phối hợp với cơ quan mật vụ lùng sục suốt ngày đêm; ngoài ra chúng còn tổ chức Đảng Cần Lao nhân vị, Thanh niên Cộng hòa, Phụ nữ Liên đới, cuộc sống của người dân bị kìm kẹp gắt gao, vì vậy bà con thường mỉa mai gọi là khu “trào mật”. Sống trong cảnh “cá chậu , chim lồng” nhân dân rất bất bình ngày càng uất hận, cùng dưới sự lãnh đạo của các chi bộ Đảng cách mạng đã tổ chức nhiều cuộc nổi dậy chống Mỹ Diệm gom dân lập Khu Trù mật. Trước tình hình khó khăn phức tạp đó, chỉ sau sáu tháng ráo riết thi công, tuy mới xây dựng được một phần ba công trình, nhưng ngày 12-3-1960 chúng vội vã tổ chức khánh thành Khu Trù mật Vị Thanh – Hỏa Lựu. Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng ra đời như “nắng hạn gặp mưa” là động lực mạnh mẽ thúc đẩy phong trào đấu tranh trong huyện càng trở nên quyết liệt. Đêm 14-9-1960 lệnh Đồng Khởi được phát ra, lực lượng vũ trang của ta tập kích đánh chiếm nhiều nơi. Phối hợp với nhân dân và binh sĩ yêu nước trong khu trù mật và 12 điểm tập trung đã nhất tề nổi dậy lùng sục bắt bọn tay sai ác ôn giao cho cách mạng, đốt cờ, xé ảnh Diệm, lột bảng khẩu hiệu, phá rào, phá cổng trở về xóm ấp cũ. Tiếng reo hò, tiếng mõ, tiếng súng vang động, tạo nên một khí thế cách mạng, sức mạnh “tức nước vỡ bờ”. Ngoài đánh vào, trong nổi dậy làm cho kẻ thù ở khu trù mật bị tê liệt hoàn toàn. Để khắc sâu tội ác và giáo dục nhân dân ta nhất là thế hệ trẻ về lòng căm thù đối với Mỹ - Ngụy lập Khu Trù mật Vị Thanh – Hỏa Lựu, ngày 2 tháng 8 năm 1997 Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận “Khu Trù mật Vị Thanh – Hỏa Lựu di tích tội ác Mỹ Diệm tàn sát đồng bào” là di tích lịch sử - văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Hậu Giang

Hậu Giang 3258 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Khu Di Tích Căn Cứ Tỉnh Ủy Cần Thơ

Di tích Căn cứ tỉnh ủy Cần Thơ tọa lạc ấp Phương Quới B, xã Phương Bình, huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang. Trong kháng chiến chống Mỹ xâm lược, thành phố Cần Thơ là trung tâm đầu não của vùng 4 chiến thuật của Mỹ ngụy, tòa lãnh sự Hoa Kỳ, cơ quan tình báo C-I-A, đủ các loại binh chủng, hậu cứ kho tàng, sân bay, cảng quân sự v.v… là nơi xuất phát quân đánh phá các tỉnh miền Tây Nam bộ. Địch chọn Cần Thơ là trọng điểm bình định đánh phá ác liệt, nhất là sau tổng tấn công 1968, vào những năm 1969 - 1970 - 1971 chúng huy động một lực lượng lớn quân chủ lực, bảo an, dân vệ và các loại máy bay, xe tăng, đại bác … dội bom, pháo bầy, B52 rải thảm, chất độc hóa học, phát quang vùng nông thôn giải phóng của ta, đi đôi chiêu dụ hàng, hòng tách dân ra khỏi Đảng “tát nước bắt cá”, nhằm tiêu diệt Đảng và cách mạng. Để đối phó âm mưu mới của địch, vào tháng 4/1971 Ban chấp hành Tỉnh ủy Cần Thơ họp tại khu rừng lá xã Xà Phiên huyện Long Mỹ. Ban Thường vụ Tỉnh ủy sau khi bàn bạc trao đổi kỹ lưỡng đã chọn địa điểm ở ấp Phương Quới B, xã Phương Bình, huyện Phụng Hiệp, làm căn cứ để Tỉnh ủy đứng chân chỉ đạo phong trào cách mạng trong tỉnh tấn công làm thất bại âm mưu bình định của địch. Căn cứ Tỉnh ủy Cần Thơ được khởi công xây dựng vào đầu tháng 2/1972, tại nền nhà của Bà Bái - một địa chủ ngày xưa, nên mọi người quen gọi là “Căn cứ Bà Bái”. Bước đầu căn cứ chỉ xây dựng vài căn nhà nhỏ, nơi làm việc của Ban Thường vụ, Văn phòng và đội phòng thủ (đội bảo vệ). Sau đó, cất thêm một số căn nhà khác cho các bộ phận: cơ yếu, điện đài, thông tin, nhà ở cho cán bộ nữ, nhà thường trực, nhà khách, nhà ăn, giao liên. Từ căn cứ này, Tỉnh ủy Cần Thơ đứng chân vững chắc lãnh đạo chỉ đạo quân dân tỉnh nhà đánh địch bằng 3 mũi giáp công, gỡ đồn bót địch, phát động quần chúng phá “ấp chiến lược”, giành quyền làm chủ mở rộng vùng giải phóng, tạo thế tạo lực mới cho tỉnh nhà. Hiệp định Paris được ký kết và có hiệu lực ngày 28/01/1973, nhưng địch với bản chất ngoan cố lật lộng phá hoại Hiệp định thực hiện âm mưu “bình định”, “tràn ngập lãnh thổ”, chiếm đất giành dân. Nhưng Tỉnh ủy Cần Thơ vẫn vững vàng đứng vững nơi căn cứ, lãnh đạo quân dân trong tỉnh vượt qua mọi khó khăn, gian khổ hy sinh, phát huy sức mạnh 3 mũi tấn công địch, bẻ gãy nhiều đợt càn quét, lấn chiếm, gỡ đồn bót của địch, giành lại vùng giải phóng của ta. Phát huy thắng lợi, đồng thời nghiêm chỉnh chấp hành mệnh lệnh của Bộ Chính trị Trung ương Đảng, mở cuộc tổng tấn công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thực hiện Di chúc thiêng liêng của Bác Hồ kính yêu “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt, linh hoạt, táo bạo của Tỉnh ủy, quân dân Cần Thơ xông lên tổng tấn công và nổi dậy như bão táp “Một ngày bằng hai mươi năm”. Chỉ trong 2 ngày 30/4 và 1/5/1975, đã giải phóng hoàn toàn tỉnh Cần Thơ, góp phần giải phóng miền Nam, viết nên những trang sử chói lọi nhất của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ 20. Với những sự kiện lịch sử và thành tích quan trọng đó, ngày 27/4/1990, Bộ Văn hóa - thông tin ra Quyết định công nhận căn cứ Tỉnh ủy Cần Thơ là di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Hậu Giang

Hậu Giang 3600 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích Chiến thắng Tầm Vu

Khu di tích Chiến thắng Tầm Vu thuộc địa phận ấp Xẻo Cao, xã Thạnh Xuân , huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang. Những chiến công hiển hách của 4 trận Tầm Vu năm xưa diễn ra trên đoạn lộ Cái Tắc - Rạch Gòi không đầy 5km là một điểm son chói lọi trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của quân dân ta. Sau ngày 23/9/1945 quân Sài Gòn - Gia Định nổ súng chống thực dân Pháp xâm lược, mở đầu cho cuộc kháng chiến Nam Bộ, thì ngày 30/10/1945 quân dân Cần Thơ anh hùng kháng chiến chống thực dân Pháp tái chiếm Cần Thơ. Sau 90 ngày bao vây tiêu hao, tiêu diệt quân Pháp trong thị xã Cần Thơ, kế tiếp đội cảm tử quân Lê Bình hóa trang kỳ tập vào ban chỉ huy Pháp ở Cái Răng vào sáng ngày 12/11/1945 đã giết chết và làm bị thương nhiều tên địch, trong đó có quan ba Rouen bị thương đã làm cho binh lính Pháp kinh hoàng. Với lòng quả cảm, đơn vị cộng hòa vệ binh do đồng chí Nguyễn Đăng chỉ huy ngày 20/01/1946 đã đánh đoàn xe quân sự của địch trên lộ Tầm Vu, diệt 2 xe quân sự, giết chết một số tên địch, trong đó có Dessert, tư lệnh quân viễn chinh Pháp tại miền Tây, là một trong 5 tên sĩ quan cao cấp của Pháp trên chiến trường Đông Dương. Ta thu 10 súng, trong đó có 2 trung liên. Trận Tầm Vu 1 có một ý nghĩa rất quan trọng, đây là trận thắng đầu tiên của đơn vị vũ trang ta đánh xe cơ giới địch, mở màn cho những trận chiến tiếp theo trên chiến trường Cần Thơ. Chỉ thời gian chưa đầy 1 năm sau, quân dân Cần Thơ tiếp tục đánh thắng trận Tầm Vu 2, vào: 12/11/1946 do đồng chí Ngô Hồng Giỏi chỉ huy, phục kích đoàn xe quân sự của địch trên lộ Tầm Vu, thiêu hủy 3 xe, diệt 60 tên lính Pháp, Lê Dương, thu 60 súng các loại và nhiều quân trang, quân dụng khác. Sau ngày “Toàn quốc kháng chiến”, thực hiện chỉ thị “Toàn dân kháng chiến” của Ban Thường vụ Trung ương Đảng (19/12/1946) và lời kêu gọi của Bác Hồ kính yêu (20/12/1946). Cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện đã phát triển mạnh mẽ, quân dân Cần Thơ đã lập được nhiều chiến công, nhất là hoạt động của các đội “Sát gian Đảng”, Biệt động, Công an vũ trang diệt địch, bọn ác ôn ở nội thành Cần Thơ làm cho chúng hoang mang lo sợ. Thời điểm này, đã diễn ra trận đánh Tầm Vu 3 vào 3/5/1947, do Khu Bộ trưởng Huỳnh Phan Hộ chỉ huy cũng trên lộ Tầm Vu năm xưa. Quân dân ta đã diệt 6 xe quân sự, làm chết và bị thương gần 200 lính Pháp, thu được 8 đại liên, nhiều súng đạn các loại và quân trang, quân dụng. Trận Tầm Vu 3 là thắng lợi thiên thời, địa lợi, nhân hòa, khi ta về đóng quân ở Láng Hầm chuẩn bị trận Tầm Vu 3, có 1 tiểu đội lính khmer vào đốn cây, buộc phải diệt chúng. Quân ta nghi binh rút đi, chỉ trong 10 ngày sau trở lại ém quân, tiếp tục đánh trận Tầm Vu 3 vẫn không bị lộ, do nhân dân che chở bảo vệ cho bộ đội để chiến thắng địch. Chiến công nối tiếp chiến công, chỉ một năm sau, sự phối hợp tuyệt đẹp của ba thứ quân (chủ lực quân, địa phương quân và dân quân du kích) đã tạo nên kỳ tích oai hùng, tiếp tục chiến thắng trận Tầm Vu 4, diễn ra chiều ngày 19/4/1948, dưới sự chỉ huy của Khu Bộ trưởng Trần Văn Giàu và Tham mưu Trưởng Võ Quang Anh, quân ta bằng chiến thuật vận động chiếm đánh tiêu diệt 14 xe quân sự địch, giết chết gần 200 tên lính Pháp, trong đó có một tên quang ba, thu nhiều súng đạn, đặc biệt là thu khẩu đại bác 105 ly lần đầu tiên trong cả nước, làm vang dội khắp chiến trường Đông Dương. Với ý nghĩa sâu sắc và tầm vóc chiến thắng của 4 trận Tầm Vu, đã điểm tô vào trang sổ vàng truyền thống cách mạng chống quân xâm lược của dân tộc ta càng thêm sáng chói. Do đó, Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận địa điểm chiến thắng Tầm Vu, là di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia ngày 25/01/1991. Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Tỉnh Hậu Giang

Hậu Giang 4043 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Điểm di tích nổi bật