Di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh đền Quan Thánh tọa lạc dưới chân núi Phja Phủ, tổ 2, thị trấn Trùng Khánh (Trùng Khánh). Di tích gắn với lễ hội đền Quan Thánh (hay còn gọi là lễ hội phố Co Sầu) được tổ chức hằng năm vào ngày 15 tháng 2 âm lịch. Đền Quan Thánh khởi nguyên thờ thần núi Phja Phủ với quan niệm cầu mong thần linh che chở, bảo vệ cho nhân dân trước thiên tai. Hiện nay, trên vách núi Phja Phủ sau đền còn khắc dòng chữ Hán được phiên âm “Quan Sơn vệ dân” (tạm dịch là núi bảo vệ nhân dân). Theo lịch sử ghi lại, năm 1868, Ngô Côn - giặc “cờ vàng” từ bên kia biên giới tràn sang cướp phá, giết hại dân lành ở vùng Cao Bằng, Lạng Sơn, Tuyên Quang, trong đó có khu vực Trùng Khánh. Để đối phó với bọn giặc, nhiều thanh niên trai tráng có sức khỏe trong vùng tập hợp lại, chọn miếu Phja Phủ làm nơi tập luyện ra quân. Tương truyền, vào một đêm có một quả cầu lửa to bay qua phố Co Sầu và rơi xuống trước cửa miếu Phja Phủ đúng vào dịp các tráng sĩ đi dẹp giặc “cờ vàng” chiến thắng trở về. Nhân dân thấy vậy cho rằng miếu linh thiêng nên cùng nhau đóng góp công sức, tiền của sửa sang lại miếu thờ để ghi nhớ công lao của các tráng sĩ anh dũng chiến đấu chống lại giặc. Đồng thời, đưa tượng Quan Vân Trường (Quan Vũ, Quan Công), một vị tướng thời kỳ Đông Hán vào thời Tam Quốc có công lớn trong việc thành lập nhà Thục Hán vào thờ. Theo quan niệm người Việt, thờ Quan Công là do cảm phục và ngưỡng mộ đức tính trung hiền, trượng nghĩa của ông và tin rằng khi thờ Quan Công sẽ đem lại vận khí tốt, tránh được những điều không may mắn. Từ đó đến nay, ngôi miếu có tên đền Quan Thánh. Ngoài thờ Quan Công, Sơn Thần, Bách Linh, Phật Bà Quan Âm, trong kháng chiến chống Pháp, Mỹ, đền Quan Thánh còn là nơi sơ tán của nhân dân địa phương và tổ chức các lớp bình dân học vụ. Di tích có ý nghĩa trong việc giáo dục truyền thống yêu nước. Hiện nay, chưa có tư liệu nào khẳng định niên đại xây dựng đền Quan Thánh. Tuy nhiên, dựa vào niên đại khắc trên tấm bia đá trước gian hậu cung cho thấy đền được trùng tu vào năm Thành Thái thứ 6, Giáp Ngọ (tức năm 1894). Trải qua những biến cố, thăng trầm lịch sử, đền nhiều lần bị tàn phá và xây dựng lại. Đến nay, nhiều hạng mục trong di tích đền Quan Thánh được trùng tu, sửa sang, tạo diện mạo khá khang trang nhưng vẫn giữ được nét cổ kính, thâm nghiêm. Ngôi đền được xây bằng gạch, mái lợp ngói máng, kết cấu kèo bằng gỗ theo kiểu “Nội công ngoại quốc”, trước có tiền đường, sau là hậu cung. Nối tiền đường và hậu cung là một khoảng sân. Gian tiền đường có kiến trúc nhà cấp 4, kèo gỗ, mái lợp ngói máng, tường xây gạch, nền lát gạch vuông màu nâu. Ở gian giữa tiền đường có một ban thờ, trên ban thờ có một bát hương bằng đá, khắc một số chữ Hán. Phía trên ban thờ có treo đôi lọng vải màu vàng. Qua gian tiền đường bước lên 4 bậc là tới khoảng sân dài hơn 9 m, rộng 64 m lát gạch vuông màu sẫm, chính là không gian ngăn cách giữa tiền đường và hậu cung, tạo cho quang cảnh ngôi đền thêm thoáng đãng nhưng vẫn giữ được sự tĩnh mịch, thâm nghiêm. Gian hậu cung được chia làm 3 khoang là nơi thờ Quan Vân Trường, Quan Âm, Bách Linh và Sơn Thần. Khoang giữa có bệ thờ tam cấp, trên cùng chính giữa là tượng Quan Vân Trường ngồi trên ngai. Phía trái thờ Quan Âm, phía phải là bệ thờ thần Bách Linh. Khoang trái là nơi thờ Sơn Thần được ngăn cách bởi bức trướng bằng gạch có 2 cửa ngách làm bằng gỗ. Khoang phải dùng làm lối lên thắp hương, đồng thời, đây còn là cửa thông ra phía sau để lên hang Phja Phủ. Di tích lịch sử văn hóa đền Quan Thánh được xếp hạng di tích cấp tỉnh theo Quyết định số 2268/Quyết định của Ủy Ban nhân dân tỉnh ngày 30/12/2014 của Uỷ Ban nhân dân tỉnh. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Cao Bằng .
Cao Bằng 3086 lượt xem
Đền thờ danh tướng Hoàng Lục nằm ở xóm Đoỏng Luông - Chi Choi, xã Đình Phong, huyện Trùng Khánh (tỉnh Cao Bằng), được người dân xây dựng từ thế kỷ XI để thờ An Biên tướng quân Hoàng Lục nhằm giáo dục tình yêu nước, quyết tâm bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc. Tương truyền, tướng quân Hoàng Lục là một tù trưởng người Tày, sinh vào thế kỷ XI tại vùng Lũng Đính, châu Thượng Lang (nay là xã Đình Phong, huyện Trùng Khánh). Ông là người tài giỏi, am hiểu sử sách, tinh thông binh pháp. Năm 18 tuổi, ông đã được cử làm thổ tù cai quản một vùng. Trong cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược lần thứ hai, thực hiện kế sách “Tiên phát chế nhân” của Lý Thường Kiệt, tướng Hoàng Lục đưa quân đánh vào đất Tống, đột phá nhiều thành trì, đập tan các căn cứ hậu cần phục vụ cuộc chiến xâm lược Đại Việt của giặc. Khi quân Tống tiến vào nước ta, với lối đánh du kích táo bạo, đội quân do ông chỉ huy đã đánh phá phía sau và gây tổn hao nhiều sinh lực địch, góp phần vào chiến thắng chung của cả dân tộc. Với công lao to lớn đó, ông đã được triều đình phong là An Biên tướng quân và giao trấn giữ một dải biên ải rộng lớn từ Cao Bằng đến tận Lạng Sơn ngày nay. Để ghi nhớ công lao khi ông mất, nhân dân đã lập đền thờ ông ngay tại quê hương Lũng Đính. Đền thờ danh tướng Hoàng Lục gồm 2 ngôi nhà cấp 4 với diện tích khoảng hơn 100m2 sắp theo hình chữ “Nhị”. Đền lợp mái ngói âm dương, kèo làm bằng tre, gỗ. Đặc biệt, ngôi đền vẫn giữ được những bức tường trình bằng đất sét như lúc xây dựng. Theo các cụ xưa kể lại, khi xây dựng người dân đã dùng đất sét trộn mật mía đường phên, đóng khuôn ván sau đó dập, nện hỗn hợp đất đó tạo thành các bức tường xung quanh. Nhiều thế kỷ đã trôi qua, ngôi đền vẫn còn đó bên dòng sông Quây Sơn như một địa chỉ văn hóa, lịch sử của đất nước. Ông Hà Đình Toàn, người dân xóm Đoỏng Luông-Chi Choi, xã Đình Phong cho biết, hàng năm, ngày 28/2 âm lịch, bà con đến lễ rất đông. Gia đình ông sống ở gần Đền nên cứ vài ngày lại lên thắp hương cho danh tướng Hoàng Lục. Tự hào về một vị một tướng quân trấn giữ biên cương, người dân nơi đây tiếp tục phát huy truyền thống yêu nước, đoàn kết xây dựng quê hương ngày càng giàu mạnh; tham gia các phong trào đảm bảo an ninh biên giới, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia… Hàng năm vào ngày tưởng nhớ tướng quân Hoàng Lục, nhiều con em xã Đình Phong xa quê vẫn luôn hướng về cội nguồn và có những đóng góp tích cực góp phần xây dựng địa phương ngày càng phát triển giàu mạnh. Ngôi đền cũng đang dần trở thành địa chỉ quen thuộc với du khách mỗi khi đến viễn cảnh Cao Bằng. Đến xã Đình Phong, du khách có thể hòa mình vào thiên nhiên của một vùng quê non nước hữu tình; trải nghiệm cuộc sống yên ả của người dân ven dòng Quây Sơn nên thơ; đặc biệt là được thắp nén hương tưởng nhớ những người có công đóng góp trong bảo vệ biên cương Tổ quốc... Với nhiều ý nghĩa lịch sử và giáo dục truyền thống yêu nước, năm 2004, Đền thờ danh tướng Hoàng Lục được UBND tỉnh Cao Bằng xếp hạng Di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Cao Bằng.
Cao Bằng 3352 lượt xem
Di tích đồn Nà Ngần thuộc xã Hoa Thám, huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng, là di tích quan trọng trong quần thể Khu di tích Quốc gia đặc biệt rừng Trần Hưng Đạo. Đây là nơi diễn ra trận đánh thắng thứ hai của Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân (Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân) ngày 26/12/1944. Đồn Nà Ngần nằm trên một ngọn đồi cao thuộc xã Hoa Thám, huyện Nguyên Bình là nơi có địa thế hiểm trở được bao bọc bởi các thung lũng. Địch đã chọn nhà của ông Phó lý Nông Văn Pảo, một ngôi nhà sàn 3 gian kiên cố nhất trong làng để biến thành đồn lính với mấy lớp hàng rào vây kín xung quanh. Đồn có 22 lính khố đỏ do 2 tên sỹ quan Pháp chỉ huy. Nhờ điều tra nắm rõ tình hình địch nên trong trận đánh đồn ngày 26/12/1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã cải trang làm đội lính dõng đi bắt cộng sản để tiến vào đồn. Trận đánh bất ngờ chớp nhoáng chỉ diễn ra trong vòng 15 phút, ta đã tiêu diệt và bắt sống toàn bộ quân địch trong đồn và thu nhiều súng ống, đạn dược, tài liệu mang về chiến khu. Đồng thời, phát truyền đơn tuyên truyền cho Nhân dân và thả toàn bộ số lính khố đỏ bắt được trở về địa phương sau khi đã tuyên truyền giác ngộ. Hiện nay, tại địa điểm này trên nền ngôi nhà cũ đã được xây nhà bia để ghi dấu sự kiện và chiến công oanh liệt của Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Cao Bằng.
Cao Bằng 3361 lượt xem
Nhắc đến Trung tâm Phật giáo của nước Việt xưa (nay thuộc huyện Thuận Thành, Bắc Ninh), nhiều người thường liên tưởng tới các địa danh như chùa Bút Tháp, chùa Dâu, lăng Kinh Dương Vương, đền thờ Sỹ Nhiếp..., những di tích mang đậm dấu ấn văn hoá tâm linh của người Việt. Song còn một chốn thiền môn mà sự ra đời của di tích ấy gắn liền với “đất Phật Luy Lâu”, đó là Chùa Tổ thôn Mãn Xá, xã Hà Mãn, huyện Thuận Thành. Chùa Phúc Nghiêm được dân gian quen gọi là chùa Chản, vì chùa nằm ở thôn Chản Làng, xã Yên Sơn, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang. Thôn Chản Làng có tên chữ là Khê Khẩu thôn, dưới thời Lê thuộc xã Lan Sơn, tổng Trí Yên, huyện Phượng Nhỡn, phủ Lạng Giang, xứ Kinh Bắc. Thôn Khê Khẩu xưa nay được chia thành 3 đơn vị thôn riêng lẻ độc lập (Chản Làng, Chản Đồng và Trại Cầu) cho nên chùa Phúc Nghiêm trở thành công trình tín ngưỡng Phật giáo của cả 3 thôn. Hàng năm, vào tiết tháng Hai, ngày 19 và 20 âm lịch dân 3 thôn tổ chức Hội chùa thu hút đông đảo đệ tử Phật giáo và du khách thập phương về trẩy hội. Qua việc khảo sát di tích, người ta đoán định chùa Phúc Nghiêm được khởi dựng vào khoảng thế kỷ 14- 15, tức là thời gian cuối triều Trần, đầu thời Lê sơ. Trải qua năm, sáu trăm năm lịch sử, công trình kiến trúc đã qua nhiều lần trùng tu sửa chữa nên có nhiều thay đổi so với kiểu thức kiến thức ban đầu. Công trình kiến trúc hiện còn đến ngày nay mang đậm phong cách kiến trúc thời Nguyễn với các hạng mục công trình tiêu biểu như: Tòa tam bảo, nhà tổ, nhà tăng, tháp cổ... Khảo sát trực tiếp di tích người ta có thể đoán định tương đối chính xác bố cục của ngôi chùa cổ thời Lê sơ. Khi đó (thế kỷ 15) chùa Phúc Nghiêm đã có bố cục kiến trúc hoàn chỉnh kiểu “nội công ngoại quốc”, nhưng vì hai dãy hành lang và tam quan đã bị thời gian hủy hoại, cho nên công trình hiện còn theo bố cục chữ công. Tòa tam bảo xây kiểu “bình đầu bít đầu” phía trước có hai cột đồng trụ đắp quả giành. Tam bảo được chia thành hai công trình liền kề nhau là Tiền đường và Phật điện, sắp xếp theo bố cục hình chuôi vồ. Tiền đường gồm 7 gian nhà gỗ lim, với 5 hàng chân cột, kết cấu kiến trúc kiểu kẻ chuyền, có chạm khắc đơn giản. Nối liền phía sau tiền đường là Phật điện, 3 gian rộng có cùng kiểu thức kiến trúc nhưng không chạm khắc mà bào trơn đóng bén kỹ lưỡng. Ở tòa tiền đường có một số mảng chạm, với họa tiết trang trí theo đề tài tứ quý, phản ánh sinh động về sản vật phong phú của quê hương. Trên đầu hồi tòa Phật điện, người xưa đã đề 4 chữ Hán kiểu hành thư, nét chữ bay bướm diệu kỳ “Phong nguyệt vô biên” để ngợi ca cảnh đẹp hữu tình của di tích này. Trường tồn với tòa tam bảo chùa Phúc Nghiêm còn bảo tồn hệ thống tháp gạch cổ kính. Đây là nơi yên nghỉ vĩnh hằng của các vị sư tổ từng tu hành và viên tịch tại chùa. Hôm nay, đến thăm chùa Phúc Nghiêm người ta vẫn thấy rõ dấu tích của hai công trình kiến trúc cổ đã bị hư hại, trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Đó là hai dãy hành lang (nơi đặt tượng La Hán) và tam quan. Dấu tích ấy đã giúp thế hệ hôm nay có thể hình dung được quy mô bề thế của di tích này. Từ lâu, chùa Phúc Nghiêm đã trở thành trung tâm Phật giáo có danh tiếng của thiền phái Trúc Lâm ở vùng hạ huyện Lục Nam. Hiện nay, hệ thống tượng cổ cùng công trình kiến trúc, đồ thờ tự vẫn được địa phương bảo quản chu đáo. Ở tam bảo và nhà tổ có tới trên ba chục pho tượng gỗ cổ thời Lê - Nguyễn rất có giá trị. Hệ thống bia đá bị thất lạc nhưng bản tự còn lưu giữ được một quả chuông đồng thời Tây Sơn. Chuông cao chừng 100cm (cả quai), chu vi miệng là 160cm. Quai chuông được đúc tạo dáng hình đôi rồng chung thân, miệng rồng phun châu nhả ngọc trông nghiêm nghị mà hiền từ, không dữ tợn như rồng thời Nguyễn sau này. Trên 4 múi chuông đúc nổi 4 chữ Hán, cho biết tên chuông: “Phúc Nghiêm tự chung” (chuông chùa Phúc Nghiêm). Cuối bài văn có dòng lạc khoản cho biết thời gian đúc quả chuông này: “Hoàng triều Cảnh Thịnh bát niên, tam nguyệt, sơ cát nhật tạo trù hồng chung” (Ngày tốt đầu tháng ba niên hiệu Cảnh Thịnh thứ 8 (1800) tạo đúc chuông lớn). Bài văn này ghi khắc ý nghĩa việc đúc chuông sau đó đến phần ghi một số tập thể, cá nhân hưng công đúc quả chuông này. Văn chuông do nhà sư trụ trì chùa Phúc Nghiêm khi ấy soạn. Cuối cùng có bài minh dài 18 câu, viết theo thể kệ 4 chữ ngợi ca cảnh trí thiền tự Phúc Nghiêm và sự thiện tâm tế độ làm cho quốc thái dân an của chư Phật từ bi. Chùa Phúc Nghiêm là ngôi chùa cổ, từng là nơi in ấn nhiều kinh sách nhà Phật ở thế kỷ 18, 19. Cùng với đình làng Chản, đình Nội, di tích chùa Phúc Nghiêm đã góp phần tô điểm làm phong phú thêm cho quần thể thắng tích ở vùng hạ huyện Lục Nam. Hơn nữa, chùa Phúc Nghiêm còn bảo lưu nhiều di vật cổ thời Lê - Nguyễn nên cần được sự quan tâm nghiên cứu và bảo vệ của chính quyền và ngành chuyên môn./. NGUỒN: ĐẠO PHẬT NGÀY NAY
Bắc Ninh 2752 lượt xem
Chùa Vạn Phúc, nằm tại thôn Trung Bạn, xã Đông Thọ, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh, là một ngôi chùa có bề dày lịch sử và văn hóa đặc sắc. Ngôi chùa này không chỉ là nơi thờ cúng và tu tập tâm linh của người dân địa phương mà còn là điểm đến văn hóa, tín ngưỡng quan trọng trong khu vực. Chùa VẠN PHÚC là một trung tâm Phật giáo Việt Nam thời Lý. Chùa còn giữ một số tác phẩm điêu khắc bằng đá đời Lý. Đặc biệt, ở điện Phật có tôn trí pho tượng đức Phật ngồi thiền định trên tòa sen cao 1,85m, kể cả bệ là 3m. Đây là một kiệt tác điêu khắc bằng đá ở nước ta. Chùa thờ tượng nhục thân Thiền sư Chuyết Công (1644). Đặc biệt, chùa có pho tượng Đại Phật bằng đá cao 27m, nặng hơn 3.000 tấn, đặt ở độ cao 108m, tạc theo nguyên mẫu pho tượng đức Phật thời Lý ở chùa, đã được khai quang vào ngày 26-9-2010. Chùa Vạn Phúc được xây dựng từ lâu đời và đã trải qua nhiều lần tu bổ. Kiến trúc của chùa mang phong cách đặc trưng của chùa miền Bắc Việt Nam với mái ngói cong, các cột kèo bằng gỗ chạm khắc tinh xảo và các bức tượng Phật được bày trí trang nghiêm. Khuôn viên chùa có các công trình như tam quan, chính điện, hậu cung và các gian thờ khác, tạo nên một không gian tôn nghiêm và thanh tịnh. Chùa Vạn Phúc là nơi thờ Phật, nơi người dân địa phương đến để cầu nguyện, thắp hương, và tham gia các lễ hội Phật giáo như lễ Phật Đản, Vu Lan và các ngày lễ tôn giáo khác. Chùa không chỉ là nơi tu tập của các nhà sư mà còn là nơi gắn kết cộng đồng, giúp người dân giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa, tín ngưỡng truyền thống. Ngoài ra, chùa Vạn Phúc cũng đóng vai trò quan trọng trong việc giáo dục đạo đức và tinh thần cho thế hệ trẻ, giúp bảo tồn nét đẹp văn hóa của dân tộc Việt Nam. Với cảnh quan xanh mát và không gian yên bình, chùa là điểm đến thu hút du khách và phật tử từ khắp nơi. Chùa Vạn Phúc nổi bật với không gian cổ kính, các pho tượng Phật quý hiếm và nhiều di vật có giá trị lịch sử. Ngôi chùa này là minh chứng cho sự phát triển văn hóa và tôn giáo của vùng đất Yên Phong, Bắc Ninh qua nhiều thế hệ. Sự tồn tại và phát triển của chùa Vạn Phúc đóng góp quan trọng vào việc bảo tồn di sản văn hóa và tinh thần của tỉnh Bắc Ninh nói riêng và Việt Nam nói chung. Chùa Vạn Phúc không chỉ là một di tích lịch sử mà còn là biểu tượng của tinh thần hòa hợp giữa con người và thiên nhiên, giữa đời sống tâm linh và cuộc sống thường nhật của người dân nơi đây. NGUỒN: CHÙA VIỆT TOÀN CẦU
Bắc Ninh 2684 lượt xem
Câu chuyện về ngôi đình cổ đã mấy trăm năm tuổi trên đất làng Ngăm Lương, xã Lãng Ngâm, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh mà chúng tôi nói tới sau đây là một ví dụ chứng minh cho điều đó. Thôn Ngăm Lương, xã Lãng Ngâm (xưa có tên Ngâm Điền) nằm liền kề dãy núi Thiên Thai, là nơi gặp gỡ giao thoa của nhiều mạch địa - văn hoá chuyển tiếp. Trên địa bàn có sông Đuống ôm vòng phía Tây và Tây Bắc. Đi liền với đó là tuyến giao thông đường bộ cổ, nay là đê sông Đuống. Tuyến sông và con đường cổ ấy làm thành mạch nối Đông - Tây liên kết giữa lưu vực sông Thái Bình và sông Hồng. Lãng Ngâm cũng nằm bên bờ phía Tây của khu vực Lục Đầu Giang, nơi kết thúc mạch núi cao, đồi thấp phía Bắc; nơi đổ về của những sông Thương, sông Cầu, sông Lục Đầu, để mở ra đồng bằng và xuôi về biển Đông. Những tuyến sông đó là những huyết mạch giao thông quan trọng trong chuyển lưu cư dân Việt cổ cùng với những yếu tố kinh tế, lịch sử, văn hóa của đất nước về với Lãng Ngâm; và từ đây - cũng chính nhờ những huyết mạch đặc biệt này - nó tiếp tục tỏa ra, hội nhập cùng đất nước trên mọi lĩnh vực. Điều đó đã cho vùng quê Ngăm Lương - Lãng Ngâm - ngay từ thời cổ - đã là nơi vừa được chứng kiến, vừa trực tiếp góp phần sáng tạo nhiều trang sử văn hóa đặc sắc của quê hương, đất nước. Nằm ở vị trí đầu làng, nhìn về phía Đông Nam, đình làng Ngăm Lương ở vào thế phong thuỷ đẹp. Tiền đường phía trước có hồ nước tụ thuỷ, đường làng uốn quanh, xa là đồng quê màu mỡ. Hai bên là làng mạc, ruộng đồng. Sau lưng đình là đê đại hà và dòng sông Đuống như dải nhiễu bao bọc. Cũng có lẽ làng và đình nằm bên sông,mà người xưa khi dựng đình đã tôn thờ 3 vị Thủy thần làm thành hoàng. Các vị thuỷ thần vốn được coi là các nhân vật có vai trò quyết định, ảnh hưởng trực tiếp đến tư duy đời sống sinh hoạt và sản xuất của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước từ thuở sơ khai. Hiện nay sự tích của các ngài ở địa phương đã bị thất lạc từ lâu, do vậy không rõ công trạng của các ngài như thế nào. Nhưng trong đình vẫn còn lưu giữ các văn tự chữ Hán ghi tên hiệu của các ngài là: Đệ nhất Ngũ lục hiển ứng biến linh tôn thần, Đệ nhị Trung thiên anh nghị hùng lược tôn thần, và Đệ tam Chàng nhị thông duệ mẫn đạt tôn thần. Đình làng Ngăm Lương có quy mô khá bề thế, ẩn chứa nhiều giá trị đặc sắc về lịch sử, văn hóa tín ngưỡng và kiến trúc - nghệ thuật. Đặc biệt, trên lĩnh vực kiến trúc - nghệ thuật, đây là một trong những đại diện cuối cùng, xuất sắc của nghệ thuật điêu khắc đình làng Bắc Bộ trong ba thế kỷ vàng của văn hóa dân gian. Cũng vì thế, đình đã được Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh xếp hạng là di tích Lịch sử - Văn hóa vào năm 2009. Theo dòng niên đại hiện còn ghi lại trên câu đầu đình làng Ngăm Lương cho biết, ngôi đình được tu tạo vào ngày đẹp đầu mùa hạ năm Giáp Thân - thời Lê (khoảng năm 1764). Tổng thể công trình khi ấy gồm: Cổng đình, Tam quan được xây kiểu chồng diêm 8 mái, hai bên có 2 vũ sĩ, voi và đắp vẽ tứ linh tứ quý. Bên trong là hai Dải vũ, mỗi bên 4 gian. Tiếp đến là Đại đình và Hậu cung. Trải qua thời gian và chiến tranh, một số công trình như Tam quan, Dải vũ của khu di tích đã bị dỡ bỏ. Năm 1962 sàn gỗ ở Đại đình cũng bị dỡ bỏ để làm bàn ghế. Sau này, người làng tu sửa ngoại viên, xây tường dựng cổng, làm lại tam quan; gom góp những sàn ván sót lại đủ ghép cho sàn một bên chái đình. Hiện tại, khi làng xóm quần tụ, nhà cửa khang trang; ngôi đình vốn to lớn, bề thế so với nhà dân ngày trước giờ có phần giảm bớt đồ sộ; nhưng giá trị tâm linh, giá trị lịch sử - văn hóa lại càng được nhân lên qua thời gian. Với công trình đình Ngăm Lương, vẻ đẹp kiến trúc qua bao thế kỷ vẫn hiện tồn qua kết cấu kiến trúc xưa vẫn được giữ nguyên. Đại đình gồm 3 gian 2 chái 4 mái đao cong, có kích thước dài 21m, rộng 11m, thực sự là một công trình kiến trúc mang đầy đủ vẻ đẹp đặc trưng của đình làng xứ Bắc. Kiến trúc đình làng Ngăm Lương cũng mang kiểu thức như bao ngôi đình làng Bắc bộ. Hệ thống cột gỗ lim lớn nhỏ vững chắc, cấu trúc vì kiểu chồng rường, trụ giá chiêng, ngang 6 hàng cột, dọc dựng 4 hàng. Hệ thống cột vững vàng này đã nâng bổng mái đình xoè rộng lợp ngói mũi, chở che không gian nội đình linh thiêng, với bao tác phẩm chạm khắc có giá trị nghệ thuật, thấm đẫm tâm hồn, tình cảm của những người thợ - nghệ sỹ dân gian dựng đình. Ở các cột cái thuộc hai hàng ngang trước và sau của ba gian chính đình đều có tai cột. Đó là người thợ đã xẻ đầu cột thành khung mộng rộng, rồi đưa phiến gỗ xuống xòe ra hai bên đầu cột, dưới là tay đỡ, trên gắn chốt lên đỡ xà thượng. Nhờ lối cấu trúc này, các tai cột luôn trong tư thế ổn định. Chính các tai cột này đã được người thợ biến thành những tác phẩm nghệ thuật với các kỹ thuật chạm nổi, chạm lộng các mảng đề tài phong phú, mang hơi thở rộn ràng của cuộc sống. Hậu cung đình theo kiểu chuôi vồ, gồm 5 gian kiến trúc vì theo kiểu kẻ chuyền, xung quanh xây gạch, trục dài 11,5m, rộng 8m. Bên trong Hậu cung được bài trí 3 ngai thờ bài vị các vị thành hoàng. Phía trước là bát hương, đài, nến, mâm bồng, đẳng tế... tất cả được đặt trên bệ gạch và bàn vuông, một số hiện vật này có niên đại thời Nguyễn, thế kỷ XIX. Đặc biệt đình xưa được các triều đại phong kiến Việt Nam ban tặng nhiều sắc phong. Trải qua thời gian đã bị thất lạc, đến nay trong đình chỉ còn lưu giữ được 7 đạo sắc phong. Đạo sớm nhất phong năm Cảnh Hưng 28 (1767), đạo muộn nhất phong năm Đồng Khánh 2 (1886). Hầu hết đều ghi nhận công đức thành hoàng làng đã cứu giúp, trừ tai, trừ biến cho dân, để nhân dân được ấm no, hạnh phúc. NGUỒN: HỘI VĂN HỌC NGHỆ THUẬT TỈNH BẮC NINH
Bắc Ninh 2568 lượt xem
Câu chuyện về ngôi đình cổ đã mấy trăm năm tuổi trên đất làng Ngăm Lương, xã Lãng Ngâm, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh mà chúng tôi nói tới sau đây là một ví dụ chứng minh cho điều đó. Thôn Ngăm Lương, xã Lãng Ngâm (xưa có tên Ngâm Điền) nằm liền kề dãy núi Thiên Thai, là nơi gặp gỡ giao thoa của nhiều mạch địa - văn hoá chuyển tiếp. Trên địa bàn có sông Đuống ôm vòng phía Tây và Tây Bắc. Đi liền với đó là tuyến giao thông đường bộ cổ, nay là đê sông Đuống. Tuyến sông và con đường cổ ấy làm thành mạch nối Đông - Tây liên kết giữa lưu vực sông Thái Bình và sông Hồng. Lãng Ngâm cũng nằm bên bờ phía Tây của khu vực Lục Đầu Giang, nơi kết thúc mạch núi cao, đồi thấp phía Bắc; nơi đổ về của những sông Thương, sông Cầu, sông Lục Đầu, để mở ra đồng bằng và xuôi về biển Đông. Những tuyến sông đó là những huyết mạch giao thông quan trọng trong chuyển lưu cư dân Việt cổ cùng với những yếu tố kinh tế, lịch sử, văn hóa của đất nước về với Lãng Ngâm; và từ đây - cũng chính nhờ những huyết mạch đặc biệt này - nó tiếp tục tỏa ra, hội nhập cùng đất nước trên mọi lĩnh vực. Điều đó đã cho vùng quê Ngăm Lương - Lãng Ngâm - ngay từ thời cổ - đã là nơi vừa được chứng kiến, vừa trực tiếp góp phần sáng tạo nhiều trang sử văn hóa đặc sắc của quê hương, đất nước. Nằm ở vị trí đầu làng, nhìn về phía Đông Nam, đình làng Ngăm Lương ở vào thế phong thuỷ đẹp. Tiền đường phía trước có hồ nước tụ thuỷ, đường làng uốn quanh, xa là đồng quê màu mỡ. Hai bên là làng mạc, ruộng đồng. Sau lưng đình là đê đại hà và dòng sông Đuống như dải nhiễu bao bọc. Cũng có lẽ làng và đình nằm bên sông,mà người xưa khi dựng đình đã tôn thờ 3 vị Thủy thần làm thành hoàng. Các vị thuỷ thần vốn được coi là các nhân vật có vai trò quyết định, ảnh hưởng trực tiếp đến tư duy đời sống sinh hoạt và sản xuất của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước từ thuở sơ khai. Hiện nay sự tích của các ngài ở địa phương đã bị thất lạc từ lâu, do vậy không rõ công trạng của các ngài như thế nào. Nhưng trong đình vẫn còn lưu giữ các văn tự chữ Hán ghi tên hiệu của các ngài là: Đệ nhất Ngũ lục hiển ứng biến linh tôn thần, Đệ nhị Trung thiên anh nghị hùng lược tôn thần, và Đệ tam Chàng nhị thông duệ mẫn đạt tôn thần. Đình làng Ngăm Lương có quy mô khá bề thế, ẩn chứa nhiều giá trị đặc sắc về lịch sử, văn hóa tín ngưỡng và kiến trúc - nghệ thuật. Đặc biệt, trên lĩnh vực kiến trúc - nghệ thuật, đây là một trong những đại diện cuối cùng, xuất sắc của nghệ thuật điêu khắc đình làng Bắc Bộ trong ba thế kỷ vàng của văn hóa dân gian. Cũng vì thế, đình đã được Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh xếp hạng là di tích Lịch sử - Văn hóa vào năm 2009. Theo dòng niên đại hiện còn ghi lại trên câu đầu đình làng Ngăm Lương cho biết, ngôi đình được tu tạo vào ngày đẹp đầu mùa hạ năm Giáp Thân - thời Lê (khoảng năm 1764). Tổng thể công trình khi ấy gồm: Cổng đình, Tam quan được xây kiểu chồng diêm 8 mái, hai bên có 2 vũ sĩ, voi và đắp vẽ tứ linh tứ quý. Bên trong là hai Dải vũ, mỗi bên 4 gian. Tiếp đến là Đại đình và Hậu cung. Trải qua thời gian và chiến tranh, một số công trình như Tam quan, Dải vũ của khu di tích đã bị dỡ bỏ. Năm 1962 sàn gỗ ở Đại đình cũng bị dỡ bỏ để làm bàn ghế. Sau này, người làng tu sửa ngoại viên, xây tường dựng cổng, làm lại tam quan; gom góp những sàn ván sót lại đủ ghép cho sàn một bên chái đình. Hiện tại, khi làng xóm quần tụ, nhà cửa khang trang; ngôi đình vốn to lớn, bề thế so với nhà dân ngày trước giờ có phần giảm bớt đồ sộ; nhưng giá trị tâm linh, giá trị lịch sử - văn hóa lại càng được nhân lên qua thời gian. Với công trình đình Ngăm Lương, vẻ đẹp kiến trúc qua bao thế kỷ vẫn hiện tồn qua kết cấu kiến trúc xưa vẫn được giữ nguyên. Đại đình gồm 3 gian 2 chái 4 mái đao cong, có kích thước dài 21m, rộng 11m, thực sự là một công trình kiến trúc mang đầy đủ vẻ đẹp đặc trưng của đình làng xứ Bắc. Kiến trúc đình làng Ngăm Lương cũng mang kiểu thức như bao ngôi đình làng Bắc bộ. Hệ thống cột gỗ lim lớn nhỏ vững chắc, cấu trúc vì kiểu chồng rường, trụ giá chiêng, ngang 6 hàng cột, dọc dựng 4 hàng. Hệ thống cột vững vàng này đã nâng bổng mái đình xoè rộng lợp ngói mũi, chở che không gian nội đình linh thiêng, với bao tác phẩm chạm khắc có giá trị nghệ thuật, thấm đẫm tâm hồn, tình cảm của những người thợ - nghệ sỹ dân gian dựng đình. Ở các cột cái thuộc hai hàng ngang trước và sau của ba gian chính đình đều có tai cột. Đó là người thợ đã xẻ đầu cột thành khung mộng rộng, rồi đưa phiến gỗ xuống xòe ra hai bên đầu cột, dưới là tay đỡ, trên gắn chốt lên đỡ xà thượng. Nhờ lối cấu trúc này, các tai cột luôn trong tư thế ổn định. Chính các tai cột này đã được người thợ biến thành những tác phẩm nghệ thuật với các kỹ thuật chạm nổi, chạm lộng các mảng đề tài phong phú, mang hơi thở rộn ràng của cuộc sống. Hậu cung đình theo kiểu chuôi vồ, gồm 5 gian kiến trúc vì theo kiểu kẻ chuyền, xung quanh xây gạch, trục dài 11,5m, rộng 8m. Bên trong Hậu cung được bài trí 3 ngai thờ bài vị các vị thành hoàng. Phía trước là bát hương, đài, nến, mâm bồng, đẳng tế... tất cả được đặt trên bệ gạch và bàn vuông, một số hiện vật này có niên đại thời Nguyễn, thế kỷ XIX. Đặc biệt đình xưa được các triều đại phong kiến Việt Nam ban tặng nhiều sắc phong. Trải qua thời gian đã bị thất lạc, đến nay trong đình chỉ còn lưu giữ được 7 đạo sắc phong. Đạo sớm nhất phong năm Cảnh Hưng 28 (1767), đạo muộn nhất phong năm Đồng Khánh 2 (1886). Hầu hết đều ghi nhận công đức thành hoàng làng đã cứu giúp, trừ tai, trừ biến cho dân, để nhân dân được ấm no, hạnh phúc. Bên cạnh tính linh và chất thiêng biểu hiện nơi tôn thờ thành hoàng tại gian giữa - trung tâm đình và hậu cung thì đình Ngăm Lương cũng là nơi biểu đạt nhiều lối tư duy đậm chất dân gian.Việc đưa vào bên phải gian ngoài phía hồi Đại đình ban thờ ông tổ nghề thợ xây là ví dụ. Tượng đặt trong khám trên ban, được tạc trong tư thế ngồi, cao 40cm, đầu đội mũ cánh chuồn, mặc trang phục quan văn, mắt nhìn thẳng, tổng thể tượng được chạm khắc chau chuốt, công phu và đẹp. Cùng với đó, những răn ngôn cụ thể, dân dã cũng được đưa vào câu đối trong đình. Ví như răn ngôn con người khi ra chốn đình chung: Y quan hằng chỉnh túc, đắc bất thắc kỳ nghi/ Thứ vị liệt tôn ty, đường dĩ hoà vi quý. Ý rõ ràng khuyến cáo mọi người cần nghiêm chỉnh áo quần, giữ lòng mình thanh thản, không để những tỵ hiềm, nhỏ mọn xen vào. Đồng thời, cần tôn trọng thứ bậc trên dưới trong cộng đồng và giữa chốn đình chung nên lấy hòa khí làm trọng. Hay như câu đối rất dân dã: Thiên tri, địa tri, ngã tri, nhĩ tri, hà vị vô tri/ Thiện báo, ác báo, tốc báo, trì báo, chung tu hữu báo. (Trời, đất, tôi, anh đều biết thì đừng bảo mọi người không hay/ Hành thiện hay gây ác, nhanh hay chậm, cuối cùng vẫn đều có báo ứng) chính là tinh thần giáo dục ý thức sống, biết về nghiệp - báo để mỗi người biết giữ mình, sống có đức nhân, hướng lòng chân thiện. NGUỒN: HỘI VĂN HỌC NGHỆ THUẬT TỈNH BẮC NINH
Bắc Ninh 54 lượt xem
Ngườm Slưa phát triển trong khối đá vôi hình thành trong điều kiện biển nông và ấm cách ngày nay khoảng 270-360 triệu năm (kỷ Carbon Permi). Trước cửa hang còn lưu giữ dấu vết hai bậc thềm sông - minh chứng cho hoạt động nâng của khu vực này trong giai đoạn gần đây (gọi là tân kiến tạo). Theo truyền thuyết của đồng bào Tày thì Ngườm Bốc là nơi gặp nhau, thành vợ thành chồng của đôi trai gái Pú Lương - Slao Cải còn Ngườm Slưa là hang đá mà chàng Pú Lương đánh nhau với hổ để bảo vệ cuộc sống yên bình của gia đình mình. Ngườm Slưa là nơi in báo Cờ Đỏ (1932-1933), cơ sở hoạt động cách mạng từ năm 1932 đến năm 1936. Tại đây, Đảng bộ Cao Bằng đã tổ chức họp Đông Dương đại hội vào tháng 5 năm 1936 để vận động nhân dân các dân tộc trong tỉnh hưởng ứng phong trào "Đại hội Đông Dương" và dự thảo bản "Dân Nguyện" đòi thực hiện cải cách dân chủ, cải thiện đời sống nhân dân, đấu tranh công khai hợp pháp. Ngườm Slưa được xếp hạng di tích lịch sử cấp Quốc gia theo Quyết định số 188 VH/QĐ/BT ngày13/02/1995. Nguồn Bộ Văn hóa, thể thao và du lịch.
Cao Bằng 3088 lượt xem
Chùa Đống Lân tọa lạc ở xã Hưng Đạo (Thành phố) là ngôi chùa có lịch sử lâu đời, được kiến tạo từ thời Lê - Mạc. Chùa được công nhận Di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh năm 1997. Chùa Đống Lân nằm trên gò Đống Lân (tiếng Tày là Đoỏng Lân), ở phía tây bắc thành phố Cao Bằng. Nguồn gốc tên “Đống Lân” có nhiều giả thiết, gắn với những sự tích lịch sử qua nhiều thời kỳ như sự tích Thục Phán tổ chức cuộc thi “Chín chúa tranh vua” (có nhiều địa danh khác gắn với sự tích này như: Cánh đồng Tổng Chúp, cây đa Cao Bình, đôi guốc đá ở Bản Thảnh, thuyền úp ở Khau Lừa). Đống Lân là nơi chúa đi lấy trống đồng về đến đây mệt ngủ say, chuột cắn dây trống, trống lăn xuống đồi kêu vang cả một vùng, các chúa khác tưởng chúa đi lấy trống đã thắng nên bỏ dở cuộc thi nên không ai thắng. Tổng Lằn là trống lăn, gọi chệch là Đống Lân. Có giả thiết Đống Lân là chùa nằm trên gò con Lân. Dưới thời nhà Lý (cuối thế kỷ XI), chùa Đống Lân được xây dựng để thờ Phật. Từ năm Tân Hợi niên hiệu Càn Thống 19 nhà Mạc, hoàng hậu nhà Mạc cho xây chùa theo hình chữ đinh, có hai bên hành lang và hậu đường, tăng phòng. Sau chùa là Ly cung của nhà Mạc. Chùa là nơi để hoàng hậu, công chúa tụng kinh niệm Phật. Trước khi chùa được xây dựng, tại gò Đống Lân có đền thờ Trần Quý, Trần Kiên. Theo “Cao Bằng thực lục” có ghi chép nhiều chi tiết về nguồn gốc và tài năng đặc biệt của anh em Trần Quý, Trần Kiên. Cha của hai ông là Trần Triệu vì lấy được vợ tiên nên hai con trai được truyền cho nhiều phép lạ. Khi đến tuổi trưởng thành, mẹ tiên phải quay về trời, cha cũng bỏ vào núi cầu học đạo tiên, hai anh em Trần Quý, Trần Kiên ghi nhớ lời dặn dò của cha mẹ, mang kiếm đi khắp trong vùng tìm diệt yêu quái, trừ hại cho dân. Nhớ ơn công đức hai chàng trai, nhân dân lập miếu xuân thu phụng tự. Hai vị ấy, trải qua các triều vua đều có sắc phong. Đến triều Lê, Trần Kiên được phong làm Cai Cộng Đại Vương, hạ đẳng thần; Trần Quý là Đống Lân Đại Vương, Trung đẳng thần. Trải qua biến cố của lịch sử, chùa Đống Lân nhiều lần bị tàn phá, hư hại nặng, sau đó được tu sửa. Năm Thiệu Trị (1841-1847) nhà Nguyễn, ngôi chùa được dựng lại toàn bộ. Nơi thờ Trần Quý - Trần Kiên được thờ riêng ở một ngôi miếu nhỏ sát hành lang phía bên phải chùa, còn thờ phật ở gian chính điện. Thời kháng chiến chống Pháp, năm 1950, chùa một lần nữa bị tàn phá. Ngoài ra, theo nguồn tư liệu cung cấp của một số cụ cao tuổi ở xã Hưng Đạo, trước đây trong chùa còn có bát hương thờ Thạch Sanh. Đây là một nhân vật trong truyền thuyết của người dân tộc Tày. Thạch Sanh chém chết chằn tinh, bảo vệ cuộc sống bình yên cho nhân dân. Ngày 15/1/1997, chùa được UBND tỉnh cấp Bằng di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh. Năm 2004, chùa được nhà nước cấp vốn đầu tư tôn tạo ngôi tam bảo, bổ sung nhiều tượng Phật, cải tạo khuôn viên chùa. Tuy nhiên, kiến trúc ban đầu của chùa không còn được giữ lại nguyên vẹn. Các hiện vật như: chuông, tượng phật, câu đối…, từ xưa không còn giữ được. Chỉ có những hiện vật mới được các phật tử cung tiến sau này. Chùa Đống Lân hiện nay có khuôn viên khá rộng. Cổng tam quan được xây dựng vững chãi, trang trọng. Nhìn từ ngoài vào thấy dòng chữ “Từ bi”, nhìn từ trong ra thấy dòng chữ “Hỷ xả”. Chùa gồm nhà thờ chính với 5 gian tiền đường và một gian chính điện. Ngoài ra còn có một nhà thờ tổ (3 gian). Mái chùa lợp ngói máng, có trang trí lưỡng long chầu nguyệt. Từ sân chùa phải qua 9 bậc thềm mới lên đến lớp kiến trúc đầu tiên là tiền đường (nhà bái đường). Các cửa đều xây theo hình cuốn vòm. Tiền đường rộng rãi, cao thoáng, gồm 5 gian. Gian giữa đặt một bệ thờ có bày tượng phật quan âm nghìn mắt, nghìn tay. Gian bên phải là ban thờ Đức Thánh Trần Quý - Trần Kiên và đặt tượng Đức ông. Gian bên trái là ban thờ Thạch Sanh. Giữa bái đường và chính điện có một khoảng cách quá cảnh là một khoảng trống dùng để lấy ánh sáng. Gian chính điện (gian tam bảo) có hai lớp bệ thờ. Lớp cao nhất giáp với mái chùa đặt 3 pho Tam thế tượng trưng cho chư Phật thuộc về 3 đời: quá khứ, hiện tại, vị lai. Ba pho Tam thế có kích thước và hình dáng giống nhau được đặt ngồi trên tòa sen. Lớp bệ thờ thứ hai có 3 pho tượng cùng dãy gọi là Di đà tam tôn. Ngồi giữa là tượng Phật A di đà được tạc khá lớn. Hai bên là các tượng Bồ tát, tượng Thánh tăng, được sắp thành hàng từ thấp lên cao, uy nghi, trang nghiêm. Trong sân chùa có đặt tượng đức Quan Thế Âm Bồ Tát bằng cẩm thạch trắng cao 3m tay cầm bình nước cam lộ. Phía sau nhà thờ chính là điện thờ mẫu với ba ban thờ: ban Thánh mẫu (chính điện), ban Sơn trang, ban Trần Triều. Phía trên điện thờ chính có hình tượng đôi Thanh xà - Bạch Xà vắt ngang. Hội chùa vào ngày mùng 8 tháng Giêng âm lịch hằng năm với nhiều hoạt động: tụng kinh niệm Phật, xóc quẻ cầu phúc, cầu tài, thắp hương hái lộc, tổ chức các trò chơi dân gian…, thu hút khách thập phương đến trẩy hội đông vui. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng.
Cao Bằng 3282 lượt xem
Đền Dẻ Đoóng còn gọi là đền Giang Động, tọa lạc ngay trên vùng đất của làng Dẻ Đoóng, xã Hồng Việt (Hòa An). Đây là ngôi đền nguyên bản thờ thần đá theo quan niệm tín ngưỡng dân gian “vạn vật linh thiêng” của dân tộc Tày, Nùng Cao Bằng, về sau có thêm chức năng thờ phật, thờ mẫu. Đây là một trong những ngôi đền thiêng được nhân dân địa phương và khách lữ hành ngưỡng vọng, cầu cúng, chiêm bái. Tương truyền rằng, xưa kia có một chàng trai nghèo làm nghề đánh cá cần cù, tần tảo ven sông để kiếm sống. Chàng là người có hiếu với cha mẹ, sống chan hòa, khiêm nhường với mọi người trong xóm, được bà con quý mến. Đến ngày giỗ cha, chàng đi ra sông quăng chài với hy vọng sẽ được một mẻ cá để về làm giỗ, nhưng quăng mãi mà không được con cá nào. Lúc nào kéo chài lên cũng chỉ có hòn đá hình hai người; thấy lạ chàng chắp tay cầu khấn: “Nếu là thần thánh, xin cho một mẻ cá về giỗ cha”. Quả nhiên, ngay sau đó, chàng quăng được một mẻ cá đầy. Thấy linh nghiệm, chàng trai lấy hòn đá về lập miếu thờ ở Vò Ban. Vào một đêm mưa to, gió lớn, miếu thờ bị tốc mái, một gắp gianh bay sang đồi Riệt Rì, từ đó nhân dân đã dựng miếu thờ tại đấy. Nhưng đây là địa điểm xa dân cư, đường đi lại khó khăn, xung quanh miếu chật hẹp, không đáp ứng nhu cầu tế lễ đông người nên dân bản đã dựng ngôi đền tại làng Dẻ Đoóng và rước hòn đá thần về thờ. Đến thời nhà Lê, nhà Mạc, đền Dẻ Đoóng được tu sửa lại và đưa tượng phật, tượng mẫu vào ban thờ. Trải qua bao biến thiên của lịch sử, ngôi đền mai một và được trùng tu, tôn tạo nhiều lần, tạo nên diện mạo mới cho đến ngày nay. Tổng thể kiến trúc của đền Dẻ Đoóng theo hình chữ “đinh”, gồm ba gian chạy dọc, mái lợp ngói máng, tường xây bằng gạch địa phương. Trên các bức tường ngăn có trang trí họa tiết mây cuộn rồng bay, hoa lá…, mỗi gian đều có kiểu họa tiết và bố trí theo phong cách riêng. Gian ngoài cùng hay còn gọi là gian chính điện, gian đại bái. Gian này không đặt tượng, trên quá giang có trang trí khắc họa cảnh sơn thủy hữu tình. Hai bên sảnh có vẽ hai tướng quân hùng dũng đứng nghiêm canh gác với hai con ngựa chiến. Chính giữa gian đặt bệ thờ và bát hương, phía bên phải có treo một chuông đồng nhỏ. Hai bên vách tường bên ngoài còn vẽ hai con ngựa cao lớn, trên ngực chúng có ghi hai chữ “đại mã” bằng chữ Hán. Đây là gian chủ yếu dành cho nhân dân địa phương và du khách đến thắp hương cầu tự. Gian giữa hay còn gọi là gian trung đường, diện tích khoảng 21,5 m2. Trên quá giang có khắc hai con rồng chầu trăng, thể hiện nội dung đặc tả: lưỡng long chầu nguyệt, rồng cuộn mây. Chính giữa gian có 3 pho tượng quan ông, các quan ông đều đội mũ cánh chuồn, tay cầm cuốn kinh thư giảng đạo. Vách tường bên trái là bệ thờ các pho tượng có hình dáng đang ngồi thiền, vách bên phải có các pho tượng phật, tượng Phật bà Quan Âm có kích thước nhỏ từ 20 - 60 cm. Gian trong cùng hay còn gọi là gian chính điện hoặc hậu cung có diện tích khoảng 20,44 m2. Đây là gian dùng để cúng tế với các lễ thức trang trọng, uy nghiêm. Bức tường chính giữa xem như bức nền được trang trí hoa văn nhỏ, hoa lan và mây cuốn. Trong gian này đặt 3 bệ tượng 3 bậc, bậc cao nhất và bậc thứ 2 là hệ thống tượng Phật Thích ca mâu ni, bố trí mỗi bậc có 3 pho tượng ngồi trên đài sen. Giữa bệ thứ 2 bố trí pho tượng ngồi có nhiều tay, nhỏ hơn các pho tượng khác. Bệ thứ 3 là tượng thần Di Lặc, biểu tượng thần tài và có đặt bát hương, lọ hoa cạnh đó. Phía bên trái bệ thờ có đặt tượng Đường Tăng ở giữa và tượng thần thiện, ác hai bên. Bên vách tường bên trái đặt ngai thờ hòn đá thần và bát hương cúng tế. Vách tường phía bên phải có 3 pho tượng quan ông và bát hương cầu may. Lễ hội đền Dẻ Đoóng được tổ chức vào ngày 15 tháng Giêng âm lịch hằng năm, thu hút đông đảo nhân dân khắp nơi về trẩy hội, cầu phúc, cầu tài, cầu lộc, mong cho mưa thuận, gió hòa, mùa màng tươi tốt với các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao truyền thống dân gian, tưng bừng náo nhiệt ngày xuân. Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, ngôi đền đã chứng kiến các hoạt động của Đảng bộ Cao Bằng, nhiều chiến sĩ cách mạng đã qua đây nương nhờ cửa đền và bàn bạc việc nước. Ngày 15/6/1945, nơi đây tổ chức mít tinh chào mừng thành lập chính quyền cách mạng của tỉnh. Đền Dẻ Đoóng được xếp hạng Di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh ngày 4/11/2008. Nguồn Bộ văn hóa, thể thao và du lịch .
Cao Bằng 3323 lượt xem
Ngườm Bốc - tiếng địa phương nghĩa là Hang Khô - nằm ở sườn tây dãy núi Lam Sơn, thuộc xóm Bản Nưa, thôn Lam Sơn, xã Hồng Việt. Đây là nơi ghi dấu nhiều sự kiện lịch sử về quãng đời hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh những năm 1942-1945. Từ cuối tháng 3 đến tháng 8 năm 1942, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chuyển từ Pác Bó về căn cứ địa ở Lam Sơn để chỉ đạo cách mạng. Tại đây người thường bí mật qua lại hang Ngườm Bốc, được nhân dân địa phương trìu mến gọi là “Ông Ké”. Tháng 5 năm 1945, tại hang Ngườm Bốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dự họp với lãnh đạo Liên Tỉnh ủy Cao - Bắc - Lạng chuẩn bị cho cuộc tổng khởi nghĩa lịch sử Tháng 8 năm 1945. Ngườm Bốc cũng là nơi xưởng quân giới Lê Tổ ở và làm việc trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Tại đây tháng 10 năm 1950 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dự và chỉ đạo Hội nghị tổng kết Chiến dịch Biên giới; nói chuyện với công nhân xưởng quân giới Lê Tổ và đại diện nhân dân xã Hồng Việt, huyện Hòa An. Các nhà khảo cổ học còn tìm thấy ở Ngườm Bốc nhiều di chỉ cho thấy đây từng là nơi cư trú của người tiền sử sơ kỳ đá mới, tương đương với Văn hóa Hòa Bình sớm, cách ngày nay khoảng 10.000 năm. Trong truyền thuyết nổi tiếng Pú Lương - Slao Cải của đồng bào Tày thì Ngườm Bốc là nơi cư trú đầu tiên của hai nhân vật huyền thoại này ở đất Cao Bằng. Về mặt địa chất, hang Ngườm Bốc phát triển trong đá vôi hình thành trong điều kiện biển nông cách ngày nay khoảng 270 - 360 triệu năm (kỷ Carbon Permi. Ở cửa hang còn thấy rõ dấu vết của thềm và dòng chảy cổ, chứng tỏ đã bị nâng lên trong giai đoạn gần đây (gọi là giai đoạn tân kiến tạo). Hang Ngườm Bốc được công nhận là Di tích lịch sử cách mạng cấp quốc gia theo Quyết định số 02/2004/QĐ/BVHTT của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ngày 19/01/2004. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng .
Cao Bằng 3162 lượt xem
Chùa Đại Bi thuộc xóm 8, thôn Ninh Giang, xã Ninh Hiệp, huyện Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội. Chùa còn được gọi chùa Ninh Giàng hay chùa Xóm 8. Chùa Đại Bi được xây dựng từ rất sớm. Dựa vào các tư liệu thành văn và di vật còn lại trong di tích thì có thể khẳng định chùa được xây dựng cách đây ít nhất là 400 năm. Theo lời kể của các cụ cao niên trong xã thì chùa đã bị thiêu cháy vào ngày 22 tháng 9 năm Mậu Dần, nhưng ngay sau đó nhân dân địa phương đã tham gia công đức cùng cụ Kỷ, người bản xã, tu ở đây, góp công của xây lại chùa theo đúng dáng vẻ cũ. Có lẽ gần đây nhất là lần trùng tu vào năm 1939 hiện còn ghi bằng chữ Hán trên thượng lương Thượng điện: Hoàng triều Bảo Đại thập tứ niên Tuế thứ Kỷ Mão ngũ nguyệt, nhị thập lục nhật thượng lương đại cát. Dịch là : Cất nóc ngày lành 26 tháng 5 năm Kỷ Mão, niên hiệu Bảo Đại thứ 14 (1939). Chùa Đại Bi có quy mô không lớn lắm; toàn bộ mặt bằng nền hình vuông, mỗi cạnh 13,4m với diện tích khoảng 200m. Người thợ xưa đã khéo dựng lên một ngôi chùa trên đó có đầy đủ các thành phần kiến trúc của một ngôi chùa điển hình gồm: Tiền đường, Thiêu hương, Thượng điện và dãy hành lang chạy xung quanh, nhà Tổ, nhà khách, nhà phụ. Trên đỉnh mái Tiền đường, chính giữa là phù điêu hình tượng mặt trời, 2 bên có phù điêu phượng và đầu kìm là phù điêu rồng, trên 2 bờ chảy là phù điêu nghê. Đây là những phù điêu biểu tượng cho các linh vật trong tích tứ linh. Đầu đao cách điệu theo dạng cá chép hoá rồng, toàn bộ ngói được lợp bằng ngói mũi hài. Trên 4 trụ biểu gắn tại mặt tiền là 2 câu đối đắp bằng xi măng. Thượng điện là trung tâm bài trí thờ, có kết cấu đơn giản và chung nóc với Tiền đường gồm 25 pho tượng tròn sơn son thiếp vàng được trang trí lộng lẫy bởi hoành phi câu đối và cờ phướn. Sát tường Hậu thượng điện có 4 tượng Hậu dạng phù điêu đá và một tường hồi bên phải là những tác phẩm nghệ thuật tiêu biểu thế kỷ XVII. Qua bao thăng trầm, biến đổi của thời gian, đặc biệt là lần bị cháy, các di vật đã bị tổn thất nhiều. Hiện nay chùa còn lưu giữ được những di vật quý bằng đá và đồng gồm: 5 tượng hậu bằng đá dạng phù điêu, 6 bia đá nhỏ, 1 cột trụ đá thiên đài (1691), một số tượng đất, 1 chiếc chuông đồng cao 75cm, đường kính 50cm quai 25cm, có 4 mặt chữ “Đại Bi tự chung”, niên hiệu “Hoàng triều Cảnh Thịnh" (1800); 3 bức hoành phi và 7 câu đối. Hàng năm nhân dân vẫn duy trì lễ hội tại chùa vào các ngày mùng 5, 6, 7 tháng 2 âm lịch. Chùa Đại Bi đã được Bộ Văn hoá và Thông tin xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật năm 1997./. NGUỒN: TẠP CHÍ NGƯỜI HÀ NỘI ONLINE - CƠ QUAN NGÔN LUẬN CỦA HỘI LIÊN HIỆP VĂN HỌC NGHỆ THUẬT HÀ NỘI
Bắc Ninh 2647 lượt xem
Đền Xà nằm bên bờ nam sông Cầu, gần ngã ba Xà, là nơi hợp lưu của hai con sông cổ Cà Lồ và sông Cầu (còn gọi là sông Như Nguyệt) cùng chảy xuống sông Lục Đầu (tỉnh Hải Dương). Đền Xà, thôn Xà Đoài, xã Tam Giang (huyện Yên Phong, Bắc Ninh) thờ hai vị tướng quân Trương Hống, Trương Hát. Hai vị là hai anh em ruột và là tướng tài của Triệu Quang Phục trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Lương. Gần một ngàn năm trước, vào thế kỷ 11 nơi đây được Thái úy Lý Thường Kiệt cho xây dựng phòng tuyến sông Như Nguyệt trong cuộc kháng chiến chống Tống lần thứ 2, làm lên chiến thắng giặc Tống lẫy lừng tháng 10 năm 1077. Nói về lịch sử ngôi đền, cụ Vũ Công Tưởng (82 tuổi, người làng Xà Đoài, thủ từ đền Xà) cho biết: Đền Xà thờ đức thánh Tam Giang - tức anh em ngài Trương Hống, Trương Hát là những danh tướng của Triệu Quang Phục có công đánh giặc Lương vào thế kỷ 6. Ngôi đền thiêng cũng có từ thế kỷ thứ 6, sau khi các ngài mất. Truyền thuyết về thánh Tam Giang kể rằng, xưa kia ở làng Vân Mẫu (xứ Kinh Bắc) có một người con gái tên là Phùng Từ Nhan. Năm 18 tuổi, Từ Nhan chiêm bao thấy thần Long từ trên trời hạ xuống quấn mình trên sông Lục Đầu, sau đó bà mang thai 14 tháng và sinh hạ được cái bọc 5 con: 4 trai 1 gái. Do là con trời ban cho nên bà lấy họ Trương của Ngọc Hoàng đặt cho 4 người con trai là Trương Hống, Trương Hát, Trương Lừng, Trương Lẫy và con gái là Trương Đạm Nương. Thời gian sau đó, Trời phái Lã Tiên Ông xuống trần dạy văn võ cho 5 người con của Từ Nhan tại bãi Tràng Học gần nhà Cổ Trạch. Năm anh em đều văn võ song toàn, lớn lên hưởng ứng lời kêu gọi của Triệu Việt Vương làm tướng tiến đánh giặc Lương ở đầm Dạ Trạch và giành thắng lợi lớn. Trương Hống, Trương Hát được phong làm tướng tài của Triệu Quang Phục. Khi Triệu Quang Phục lên ngôi vương (tên gọi khác là Triệu Việt Vương, Dạ Trạch Vương), Lý Phật Tử đã đem quân đánh lại nhưng không thắng, bèn dùng kế gả con khiến Triệu Việt Vương mắc mưu rồi bị đánh bại. Khi Lý Phật Tử đoạt được ngôi vua, biết Trương Hống, Trương Hát là tướng tài giỏi bèn cho người mời ra làm quan. Song các ông với lòng trung quân, quyết không thờ hai vua. Biết không thể khuất phục được, Lý Phật Tử lệnh truy bắt các ông khắp nơi. Các ông biết không thoát được liền tự vẫn ở dòng sông Cầu để giữ trọn tấm lòng trung với vua. Cũng theo truyền thuyết, Ngọc Hoàng Thượng đế cảm thương đã sắc phong Trương Hống, Trương Hát làm Thần sông. Từ đó, nhân dân 372 làng dọc theo sông Cầu, sông Thương, sông Cà Lồ và các nơi hai ông từng đóng quân đánh giặc đều thương tiếc, lập đền thờ suy tôn các ngài làm Thần. Các triều đại nhà Ngô, Đinh, Lê, Lý sau đó được âm phù giữ yên bờ cõi nên đều phong anh em họ Trương là Đức thánh Tam Giang - đại vương thượng đẳng thần. Theo sử sách, đền Xà và đức thánh Tam Giang cũng gắn với sự ra đời của bài thơ Thần “Nam quốc sơn hà”của Lý Thường Kiệt – bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước ta. Nói về truyền thuyết phát tích bài thơ Thần, cụ Vũ Công Tưởng kể: Theo các bậc cao niên làng Xà Đoài truyền lại, vào một đêm tháng 10 năm 1077, tại ngôi đền thiêng bên chiến tuyến sông Cầu chống giặc Tống, Lý Thường Kiệt vào đền làm lễ cầu âm phù dương hộ cho cuộc kháng chiến chống ngoại xâm. Làm lễ xong bầu trời đột nhiên bừng sáng như ban ngày, trên không trung xuất hiện hai đám mây một trắng, một hồng bên trên là hai tráng sĩ một cưỡi ngựa trắng, một cưỡi ngựa hồng đạp mây đi giữa bốn bề quân reo ngựa hí. Tương truyền đó chính là ngài Trương Hống, Trương Hát hiển linh phù hộ cho quân dân ta đánh giặc Tống. Cụ từ Vũ Công Tưởng xúc động, thành kính nói: “Các ngài “sinh vi tướng, tử vi thần”; tức là sống làm tướng, thác hóa thần, vẫn thực hiện sứ mệnh cao cả phụng sự đất nước”. Cùng lúc đó trên không trung hay trong tâm tưởng Lý Thường Kiệt bỗng vang vọng bài thơ “Nam quốc sơn hà”: Nam quốc sơn hà Nam đế cư/ Tiệt nhiên định phận tại thiên thư/ Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm/ Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư” (Bản dịch: Sông núi nước Nam vua Nam ở/ Rành rành định phận ở sách trời/ Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm/ Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.” Đây chính là lý do khiến bài thơ được gọi là thơ Thần. Khi bài thơ được Lý Thường Kiệt đọc lên âm vang sang sảng một vùng, khiến quân giặc Tống kinh hãi rụng rời tháo chạy dẫm đạp lên nhau mà chết. Cùng với tài trí mưu lược của quân và dân ta, cuộc kháng chiến chống Tống đã thắng lợi hoàn toàn, tiêu diệt 30 vạn quân Tống, xác chất thành núi, máu chảy thành sông. Trải qua gần 1.000 năm kể từ chiến thắng thần thánh đó, hiện tại ở xã Tam Giang vẫn còn các địa danh như Bãi Xác, Bờ Xác, Đồng Xác là dấu tích sự thất bại thảm hại của quân giặc năm xưa. Hàng năm đền Xà có hai dịp lễ lớn vào mùng 5 tháng Giêng và mùng 9, 10 tháng 4 âm lịch. Hội đền Xà thuộc hội lớn nhất vùng, ngoài các nghi lễ trang nghiêm rước kiệu, rước nước, còn có tục thi bơi chải. Truyền rằng, tục bơi chải của đền Xà gắn liền với việc Lý Thường Kiệt huy động dân binh địa phương tham gia vào việc đánh giặc Tống trên sông Như Nguyệt. Đền Xà ngày nay tọa lạc trên một gò đất rộng gần 10 hecta, cách ngã ba Xà - nơi hợp lưu hai con sông cổ chưa đầy cây số. Hiện ngôi đền đang được trùng tu nhưng về kiến trúc vẫn giữ được nét cổ kính có từ ngàn đời. Phía trước sân vẫn còn tấm bia đá cổ khắc bài thơ thần “Nam quốc sơn hà” hai mặt bản chữ Hán và chữ quốc ngữ, phía ngoài là cổng tứ trụ với bức phù điêu nhuốm màu thời gian. Ngoài hệ thống cổ vật quý còn lưu giữ như tượng thờ, trong hậu cung đền Xà còn có bàn thờ Táo Quân với tượng “hai ông, một bà”. Đầu xuân, du khách, người dân đến lễ đền Xà cầu quốc thái dân an cũng không quên thắp nhang ban thờ Táo Quân với ước nguyện cầu cho gia đình luôn ấm lửa, mong hạnh phúc, bình an cho gia đình mình và cho mọi nhà. Với bề dày lịch sử gần 1500 năm, năm 1988 Đền Xà được Bộ Văn hóa xếp hạng là Di tích lịc sử cấp Quốc gia. Nguồn: Báo điện tử của Trung ương Hội Nông dân Việt Nam
Bắc Ninh 2697 lượt xem
Nằm trên địa bàn khu phố Tam Sơn, phường Tam Sơn, thành phố Từ Sơn, Nhà lưu niệm đồng chí Ngô Gia Tự là nơi sinh ra, lớn lên và hoạt động cách mạng của đồng chí Ngô Gia Tự - Nhà lãnh đạo tiền bối của Đảng, người con ưu tú của quê hương Bắc Ninh. Ngày nay, Nhà lưu niệm đồng chí Ngô Gia Tự đã trở thành địa chỉ đỏ giáo dục truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ và các tầng lớp nhân dân.Toàn bộ khu nhà được thân phụ của đồng chí Ngô Gia Tự là cụ Ngô Gia Du cho xây dựng vào năm Khải Định nguyên niên (tức năm 1916) bao gồm các công trình: nhà ở chính, nhà điện, nhà ngang, nhà học, nhà nông cụ cùng vườn tược cây cối quanh năm xanh tốt. Cổng vào Nhà lưu niệm vẫn giữ được nguyên lối kiến trúc xưa. Hai bên cổng còn đôi câu đối do chính tay đồng chí Ngô Gia Tự viết bằng chữ quốc ngữ: “Cổng độc lập tha hồ khép mở/Nhà tự do mặc sức ra vào”, thể hiện ý chí độc lập tự do của đồng chí Ngô Gia Tự, nhưng cũng có nghĩa đây là nơi tụ hội của những con người cùng chí hướng, hoài bão đấu tranh cho một đất nước tự do, độc lập. Trên nóc công đắp nổi dòng chữ “Cửa như chợ” thể hiện hoài bão lớn của tuổi trẻ thế hệ đồng chí Ngô Gia Tự. Nhà học 3 gian, trước đây là nhà khách của gia đình, năm 1926, đồng chí Ngô Gia Tự dời Trường Bưởi trở về quê, dùng nhà khách là nơi mở các lớp dạy học, truyền bá cách mạng. Tượng thờ đồng chí Ngô Gia Tự đặt trang trọng tại gian giữa. Nhà chính là nơi ở của gia đình đồng chí Ngô Gia Tự. Gian giữa thờ thân phụ và đồng chí Ngô Gia Tự. Phía trên là bức hoành phi do chính tay thân phụ của đồng chí Ngô Gia Tự để lại gồm 4 chữ “Di mưu yến dực” với ý nghĩa muốn nhắn nhủ con cháu đời sau luôn hướng về nguồn cội tổ tiên và mưu trí giúp nước, giúp nhà. Bên trái nhà chính là nhà Điện 3 gian, là nơi thờ đức Thánh trần của gia đình, nhưng tại đây vào ngày 29/9/1928, Kỳ bộ Bắc kỳ Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã họp hội nghị và đưa ra chủ trương “Vô sản hóa”, góp phần đưa cách mạng Việt Nam bước lên một tầm cao mới. Trong nhà Điện còn lưu giữ được nhiều ảnh chân dung các lãnh tụ tiền bối của Đảng và các hiện vật. Đối diện nhà Điện là nhà ngang, là nơi sinh hoạt và chứa các vật dụng của gia đình. Trong những ngày nông nhàn, thân mẫu của đồng chí Ngô Gia Tự vẫn thường miệt mài bên khung cửi này để dệt vải góp phần nuôi các con ăn học trưởng thành. Đặc biệt, tại ngôi nhà này đồng chí đã dùng để in tài liệu bí mật phục vụ cho hoạt động cách mạng. Bên phải nhà Học là dãy nhà nông cụ, gồm 5 gian.Nơi lưu giữ những nông cụ sản xuất hàng ngày của gia đình đồng chí Ngô Gia Tự. Bia ghi nhớ nơi đồng chí Ngô Gia Tự đã sống thời niên thiếu và hoạt động cách mạng trong những năm 1926 - 1928 đặt trong khuôn viên di tích. Khu Nhà lưu niệm đồng chí Ngô Gia Tự đã được Nhà nước công nhận Di tích lịch sử - văn hóa Quốc gia theo Quyết định số 100-VH/QH ngày 21/1/1989. NGUỒN: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ TỈNH BẮC NINH
Bắc Ninh 2931 lượt xem
Nằm cách trung tâm TP Hà Nội khoảng 20km về phía đông, chùa Keo có lịch sử gần 1.000 năm tọa lạc trên diện tích gần 10.000m2, thuộc xã Kim Sơn, huyện Gia Lâm. Ngôi chùa còn có tên khác là “Báo Ân Trùng Nghiêm tự”, là nơi thờ bà Keo - một trong Tứ đại Phật pháp thời xưa. Giới thiệu về chùa Keo, ông Hoàng Đình Phong-người trông nom và nhang khói tại chùa-lý giải: Tên Keo theo truyền thuyết có ý nghĩa là hai thôn Giao Tự và Giao Tất kết dính với nhau chặt chẽ như keo sơn. Nơi đây vốn có hai nghề truyền thống là nấu keo dán bằng da trâu và làm vàng điệp để sơn son thếp vàng. Tương truyền xưa kia, nhân dân nơi đây cho tạc 4 pho tượng Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện xong thì còn thừa một khúc gỗ đem tạc tượng Pháp Vân nhỏ hơn. Các pho tượng được đưa về các chùa vùng Luy Lâu và đặt tên nôm theo tên làng là: Bà Dâu, Bà Đậu, Bà Tướng, Bà Dàn. Pho tượng Pháp Vân nhỏ nhất được làng Keo rước về thờ ở chùa Keo, sau đó được gọi là tượng Bà Keo.Trải qua gần 1.000 năm lịch sử, chùa Keo hiện lưu giữ được tổng cộng 47 pho tượng Phật, trong đó tượng Bà Keo là một tác phẩm nghệ thuật độc đáo. Chùa còn giữ 6 tấm bia đá, 1 chuông cổ được đúc thời Cảnh Thịnh (1794), 1 khánh đồng, 8 đạo sắc phong cùng nhiều đồ thờ tự và một số cổ vật mang phong cách thời nhà Lê. Chùa được trùng tu nhiều lần nên mang nhiều phong cách pha trộn. Tam quan được xây bằng gạch theo kiểu nghi môn thời Nguyễn, tòa thượng điện là kiểu nhà 4 mái. Hậu cung và tháp tam bảo mang phong cách thời Nguyễn. Đáng lưu ý, tượng Quan Âm thiên thủ thiên nhãn là sản phẩm của thế kỷ XVII. Một trong những nét văn hóa đặc trưng gắn liền với chùa Keo bao đời nay là Lễ hội truyền thống làng Keo. Nói về lễ hội của quê nhà, ông Hoàng Đình Phong nhắc lại câu ca dao: “Mồng 6 hội Keo, mồng 7 hội Khám, mồng 8 hội Dâu, mồng 9 đâu đâu trở về hội Gióng”. Theo ông Hoàng Đình Phong, Lễ hội truyền thống làng Keo diễn ra vào ngày 6-4 âm lịch hằng năm. Đặc biệt, tại Lễ hội làng Keo, ngoài hoạt động tế lễ theo nghi thức tín ngưỡng còn có Lễ rước ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh và Lễ rước Phật với nhiều nghi thức, phong tục, tập quán cổ xưa mang đậm màu sắc tâm linh, thu hút đông đảo nhân dân địa phương cùng du khách thập phương tham gia. Với những giá trị văn hóa, lịch sử lâu đời, chùa Keo đã được công nhận là di tích lịch sử kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia từ năm 1993. Ông Bùi Trọng Thể, Trưởng ban quản lý Di tích chùa Keo cho biết: "Nhân dân làng Keo nói riêng và xã Kim Sơn nói chung rất tự hào về lịch sử, văn hóa của chùa Keo. Trong kháng chiến chống Pháp, ngôi chùa bị hư hỏng nặng và sau đó được trùng tu lớn vào năm 1995. Qua thời gian, ngôi chùa hiện có nhiều hạng mục bị xuống cấp. Chúng tôi đã gửi đề nghị đến các cấp lãnh đạo mong muốn được xây dựng lại tiền tế, tháp chuông và sửa chữa lại thượng điện, hành lang tượng Phật. Mong rằng những đề nghị trên sẽ sớm được thông qua để góp phần bảo tồn, phát huy di tích lịch sử gần nghìn năm tuổi này". NGUỒN: QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN
Bắc Ninh 2796 lượt xem
Đền Vọng Nguyệt nằm cuối làng Vọng Nguyệt (xã Tam Giang, huyện Yên Phong), gần đê sông Cầu. Đền được khởi dựng từ lâu đời với nhiều tòa, tuy nhiên do yêu cầu tiêu thổ kháng chiến năm 1948, toà đền Hạ và đền Trung bị phá huỷ. Công trình kiến trúc Đền hiện nay chỉ còn lại đền Thượng, được trùng tu lại năm 2004. Đền nằm ở phía Đông của thôn, có vị trí cảnh quan thoáng đãng. Công trình kiến trúc đền Vọng Nguyệt hiện nay mang phong cách nghệ thuật thời Nguyễn. Đền có mặt bằng kiến trúc kiểu Tiền chữ Nhất, hậu chữ Đinh, là sự hợp thành của hai toà Tiền tế 3 gian 2 chái và Hậu cung 1 gian. Cả Tiền tế và Hậu cung của đền đều được cấu trúc kiểu 4 mái, 4 đao cong, bờ nóc, bờ dải trang trí hoa chanh, gợi sự thanh thoát nhẹ nhàng. Phía trên nóc đắp nổi đôi rồng chầu mặt nguyệt... Bộ khung đền bằng gỗ lim được liên kết bởi các bộ vì theo kiểu thức “thượng con chồng giá chiêng, hạ kẻ trường”. Trên một số bức cốn, đầu dư và kẻ tiền chạm hoa văn rồng mây, hoa dây. Theo tài liệu ghi lại, đền Vọng Nguyệt thờ Công chúa Lý Nguyệt Sinh (con vua Lý) và Phò mã Đô Uý. Các ngài đã hy sinh anh dũng vì đất nước, được nhân dân nơi đây lập đền hương hỏa phụng thờ. Tại đền hiện còn lưu giữ nhiều hiện vật tiêu biểu có giá trị như: các đạo sắc phong do các đời vua Lê và Nguyễn phong tặng cho 2 vị thần; Bia thần tích 1642, ngai thờ, bài vị, hoành phi, cuốn thư, câu đối, án gian có niên đại thời Nguyễn; hạc thờ, kiệu bát cống, bộ siêu đao bát biểu có niên đại thế kỷ XX… Những tài liệu cổ vật này vừa là chứng tích của ngôi đền trong lịch sử, vừa là di sản văn hóa quý giá của quê hương. Ngoài ra, đền Vọng Nguyệt còn có nhà bia để thờ các Anh hùng liệt sỹ và tôn vinh các bậc hiền tài của địa phương. Lễ hội chính ở đền làng Vọng Nguyệt được tổ chức vào ngày 9 tháng 2 (âm lịch) hàng năm. Ngoài ra còn các ngày sự lệ khác như: Ngày 4 tháng 4 âm lịch (lễ kỳ phúc); ngày 8 tháng 6 (ngày Kỵ nhật của bà Lý Nguyệt Sinh); Ngày 12 tháng 9 (ngày giỗ thánh Tam Giang)… Đền Vọng Nguyệt được Bộ Văn hóa, Thể thao xếp hạng là di tích lịch sử theo Quyết định số 28-VH/QĐ ngày 18/01/1988. NGUỒN: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ TỈNH BẮC NINH
Bắc Ninh 2943 lượt xem
(BNP) – Đền Bà Chúa Kho nằm trên lưng chừng núi Kho, thuộc khu Cổ Mễ, phường Vũ Ninh (thành phố Bắc Ninh). Đền được lập từ thời Lý, ban đầu vốn là ngôi miếu nhỏ, vào thời Lê, được trùng tu, mở rộng thành khu Đền lớn. Đến nay, Đền Bà Chúa Kho đã được Nhà nước xếp hạng di tích Lịch sử - Văn hoá cấp Quốc gia và được tỉnh Bắc Ninh công nhận là một trong 14 điểm du lịch của tỉnh. Đền Bà Chúa kho là trung tâm sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng của người dân miền Bắc. Đền là nơi tổ chức lễ hội truyền thống của nhân dân địa phương vào các ngày 12 - 15 tháng Giêng, với nhiều nghi lễ và trò chơi dân gian mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc. Nếu có dịp, người dân Bắc Ninh thường mời bạn bè, du khách thập phương về vãn cảnh, hành hương tại Đền Bà Chúa Kho một lần. NGUỒN: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ TỈNH BẮC NINH
Bắc Ninh 3123 lượt xem
Chùa Kim Đài, còn có tên là chùa Quỳnh Lâm, khu phố Xuân Đài, phường Đình Bảng, thành phố Từ Sơn được thiền sư Định Không hưng công xây dựng từ thế kỷ thứ XIII. Trải qua nhiều lần trùng tu, tôn tạo, đến nay ngôi chùa vẫn giữ được kiến trúc xưa, là nơi sinh hoạt tín ngưỡng của nhân dân địa phương và điểm thăm quan của du khách thập phương khi về với quê hương nhà Lý. Chùa Kim Đài là nơi thờ Phật, thờ Tổ, thờ Mẫu và phối thờ 2 vị tổ là thiền sư Định Không, thiền sư Lý Khánh Văn. Chùa được xây dựng trong khuôn viên rộng gần 3.800m2, có kiến trúc hình chữ Đinh, gồm các hạng mục: Tam quan, Tam bảo, nhà Tổ, nhà Mẫu, nhà Ni, lầu Quan Âm… Cổng chùa (Tam quan) được xây dựng quy mô đồ sộ, gồm cổng chính và 2 cổng phụ 2 bên, phía trên mái chồng diêm kiểu “2 tầng 8 mái đao cong”. Tam bảo gồm Tiền đường và Thượng điện liên kết với nhau tạo thành mặt bằng kiến trúc hình chữ Đinh. Tiền đường gồm 5 gian, 2 trái, có kiến trúc kiểu “4 mái đao cong”. Trên nóc tòa Tiền đường đắp nổi 3 chữ Hán “Kim Đài tự”. Thượng điện gồm 3 gian, kết cấu kiểu “thượng chồng rường, hạ chồng rường bảy hiên”. Nhà Tổ và nhà Mẫu có 4 gian, kiến trúc “bình đầu bít đốc tay ngai”. Hệ thống tượng phật được đặt ở hành lang 2 dãy nhà 7 gian. Chùa hiện còn lưu giữ được hệ thống tượng thờ, hoành phi, câu đối cùng nhiều hiện vật cổ có giá trị thời Nguyễn.. Đường đi vào chùa rợp bóng cây xanh, cây cảnh các loại… Trong những năm tiền khởi nghĩa, chùa Kim Đài còn là nơi cán bộ cách mạng, du kích địa phương hoạt động bí mật. Hội chùa được tổ chức vào ngày mùng 9 tháng Giêng âm lịch hằng năm để tưởng nhớ công ơn các bậc tiền nhân có công với vương triều Lý. Chùa Kim Đài được nhà nước xếp hạng là di tích cấp tỉnh theo Quyết định số 61/QĐ-UBND ngày 5/01/2009. Nguồn: Cổng Thông tin điện tử tỉnh Bắc Ninh
Bắc Ninh 2564 lượt xem
Khu di tích Láng Le Bàu Cò tọa lạc tại xã Tân Nhựt, huyện Bình Chánh, Tp HCM. Láng Le Bàu Cò gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược vào năm 1948 với những trận đánh lớn đi vào lịch sử. Di tích Láng Le Bàu Cò được công nhận là di tích lịch sử cấp thành phố vào năm 2003. Sở dĩ được gọi tên là khu di tích Láng Le Bàu Cò vì Tên gọi của khu di tích Láng Le Bàu Cò là do người dân địa phương đặt ra. Xóm làng được thành lập cạnh những con kênh rạch chằng chịt và dòng sông. Láng Le Bàu Cò có vị trí nằm ở bên trong cánh đồng có diện tích rộng lớn và có rất nhiều tôm, cua, cá. Cùng với nhiều loài chim như vịt trời, cò, con le le, cúm núm, cồng cộc, đa đa, diệc, đỏ nách tới kiếm ăn tại đây. Vì vậy, người dân Tân Nhựt gọi với cái tên thân thuộc và mộc mạc đó là Láng Le Bàu Cò. Di tích Láng Le Bàu Cò được xem là cửa ngõ để di chuyển tới trung tâm căn cứ Vườn Thơm và tấn công cơ quan đầu não của quân địch tại Sài Gòn. Trước đây khu di tích Láng Le Bàu Cò vốn là cánh đồng lau sậy mọc um tùm. Vào ngày 15/4/1948 thực dân Pháp đưa 3 nghìn quân lính cùng nhiều vũ khí hiện đại đồng loạt tấn công khu vực Láng Le Bàu Cò nhằm tiêu diệt căn cứ Vườn Thơm. Khi đó lực lượng vũ trang cách mạng ở Láng Le - Bàu vì lực lượng nhỏ và vũ khí thô sơ tuy nhiên được sự giúp đỡ của người dân địa phương cùng với lợi thế về địa hình. Chỉ sau hơn nửa ngày đấu tranh đã chuyển sang tấn công khiến quân Pháp bị thương vong với số lượng lớn. Chiến thắng Láng Le Bàu Cò đã tiêu diệt 300 tên địch và bắt sống 30 lính đánh thuê cùng phá hủy nhiều máy móc, xe nhà binh, súng các loại của quân giặc. Tuy nhiên, về phía ta có nhiều cán bộ chiến sĩ đã anh dũng hy sinh với tuổi đời còn rất trẻ. Ngày 14/10/1966 tại Láng Le tiểu đoàn biệt động quân Việt Nam Cộng Hòa bị dân quân du khách tiêu diệt. Khu di tích Láng Le Bàu Cò có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với người dân Sài Gòn nói riêng và cả nước nói chung. Trước lòng căm thù thực dân Pháp, quân dân Láng Le Bàu Cò đã có cuộc chiến vang lừng lịch sử và có ý nghĩa to lớn mở đầu cho phía ta và phía địch. Đối với phía ta trận đánh mở đầu cho sự anh dũng trong tư thế kháng chiến vững mạnh. Còn với quân địch đã phải lùi vào thế bỏ chiến lược và bị tiêu diệt. Thực dân Pháp không còn định hình được chiến lược đánh bại Việt Minh. Hơn thế, tại căn cứ Vườn Thơm, Láng Le Bàu Cò còn diễn ra trận chiến quyết tâm bảo vệ căn cứ của ta và đập tan mọi kế hoạch phá hoại của quân giặc. Khu di tích Láng Le Bàu Cò sau phong trào Đồng Khởi vào năm 1960 còn là hậu cần, bàn đạp của lực lượng vũ trang để giải phóng Long An - Sài Gòn - Gia Định. Để tưởng nhớ sự hy sinh của đồng bào và các chiến sĩ của ta, vào năm 1988 huyện Bình Chánh đã xây dựng công trình lịch sử tại vùng đất Láng Le Bàu Cò với diện tích rộng 1000m2. Nguồn: Báo thông tin điện tử TP Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 13231 lượt xem
Nhà lao Tân Hiệp còn có tên là "Trung tâm cải huấn Tân Hiệp" tọa lạc ở khu phố 6, phường Tân Tiến, TP Biên Hòa. Di tích Nhà lao Tân Hiệp đã được Bộ Văn Hoá Thể Thao xếp hạng là di tích cấp quốc gia ngày 15-1-1994. Nhà lao Tân Hiệp là một trong sáu nhà tù lớn nhất miền Nam Việt Nam và là nhà tù lớn nhất vùng Đông Nam bộ, được xây dựng ở vị trí quân sự quan trọng, án ngữ phía đông bắc thị xã Biên Hòa. Phía trước là quốc lộ 1; phía sau là đường xe lửa Bắc - Nam. Đây là vị trí biệt lập, thuận tiện trong giao thông, dễ dàng cho việc bảo vệ, canh gác, nhận tù từ nơi khác đến và chuyển tù đi Côn Đảo, Phú Quốc... Nhà lao Tân Hiệp có diện tích 46.520m2 với 8 trại giam, trong đó có 5 trại giam những người tù cộng sản, người yêu nước. Xung quanh nhà tù được bao bọc bởi 4 lớp kẽm gai bùng nhùng với 9 lô cốt, 3 tháp canh cùng đội lính bảo vệ và hệ thống báo động tối tân. Mang tên "Trung tâm cải huấn" nhưng thực chất bên trong là kho súng, phòng xét hỏi, tra tấn với những dụng cụ hiện đại bậc nhất. Mỗi trại giam chỉ có diện tích gần 200m2 nhưng giam giữ từ 300-400 người, có lúc lên đến cả ngàn người. Đặc biệt ở đây có các phòng "cải hối", "chuồng cọp" rất nhỏ hẹp và điều kiện sinh hoạt cực kỳ khắc nghiệt, tù nhân sống chẳng khác gì trong lò thiêu xác. Chế độ ăn uống cực kỳ mất vệ sinh, bọn cai ngục mua gạo mục, cá thối dùng để bón ruộng, chiên bằng dầu luyn cho tù nhân ăn dẫn đến nhiều người bị ngộ độc. Với quyết tâm thoát khỏi nhà tù đế quốc, trở về với Đảng, với nhân dân để tiếp tục chiến đấu, giải phóng dân tộc, ngày 2-12-1956, được sự nhất trí của Liên Tỉnh ủy miền Đông, những chiến sĩ cộng sản bị "câu lưu" trong nhà lao Tân Hiệp dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Trọng Tâm (Bảy Tâm) - phụ trách Đảng ủy nhà tù và một số đồng chí khác đã bất thần làm một cuộc phá xiềng tập thể giải thoát gần 500 đồng chí, đồng bào yêu nước. Sự kiện này đã làm xôn xao cả Lầu Năm Góc. Mỹ - Diệm vội vã huy động cả quân chủ lực lẫn bảo an, dân vệ đang trấn thủ 3 tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một và hai biệt đoàn biệt động quân đến bủa lưới bao vây, truy bắt đoàn tù nhưng đều thất bại. Các đồng chí, đồng bào của ta thoát khỏi nhà lao Tân Hiệp đã được sự giúp đỡ, che chở của các cơ sở địa phương, trở về căn cứ an toàn. Trong số tù nhân vượt ngục có các đồng chí: Bảy Tâm, Hai Thông, Lý Văn Sâm... đã trở thành những hạt nhân nòng cốt cho phong trào Đồng Khởi sau này. Năm 2001, để tái hiện phần nào tội ác của Mỹ - Diệm đối với các đồng chí, đồng bào ta bị giam cầm tại nhà lao Tân Hiệp và diễn tả lại toàn bộ cuộc nổi dậy phá khám Tân Hiệp ngày 2-12-1956, Bảo tàng Đồng Nai đã tiến hành sưu tầm hình ảnh, tài liệu, hiện vật trưng bày tại di tích và làm một sa bàn để phục vụ nhu cầu nghiên cứu, tham quan của mọi tầng lớp nhân dân. Hàng ngày, di tích luôn mở cửa đón khách tham quan. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 12016 lượt xem
Di tích chiến thắng La Ngà (tại km số 104-112 trên quốc lộ 20 đi Đà Lạt, thuộc xã Phú Ngọc, huyện Định Quán) được Bộ Văn hóa xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 12-12-1986. Để cổ vũ cho chiến thắng Việt Bắc thu - đông 1947 và cũng để giáng cho kẻ thù một đòn chí mạng, Ban chỉ huy chi đội 10 đã quyết định phải tổ chức một trận đánh lớn, để quân giặc thấy rằng dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam không dễ dàng chịu khuất phục trước bất kì một kẻ thù nào; Bằng tinh thần quả cảm và sự khôn khéo sau gần nửa năm chuẩn bị, nghiên cứu địa hình, chọn địa điểm: vào lúc 15 giờ 12 phút ngày 1/3/1948 trận chiến phục kích La Ngà bắt đầu và kết thúc vào lúc 15 giờ 57 phút cùng ngày, chỉ trong vòng 45 phút. Chiến thắng La Ngà đã làm nức lòng nhân dân Định Quán nói riêng, quân dân Đồng Nai nói chung. Đây là chiến thắng thể hiện sự mưu trí, dũng cảm của quân và dân ta làm cho địch một phen kinh hồn, bạt phía. Từ chiến thắng này lực lượng ta ngày càng thêm lớn mạnh, góp phần đánh bại kế hoạch đánh nhanh, thắng nhanh của địch, buộc chúng phải rơi vào thế bị động. Quần thể danh thắng đá Chồng, Thác Mai, sông La Ngà và Tượng đài chiến thắng La Ngà là một quần thể du lịch kì thú của Định Quán. Vẻ đẹp kỳ thú của Hòn Ba Chồng, Núi Đá Voi, Hòn Dĩa, cùng với ngôi chùa thiên nhiên dưới chân núi đá là những cụm tiêu biểu tạo thành cảnh đẹp hài hòa cho khu danh thắng Đá Chồng. Quần thể Đá Chồng Định Quán còn là nơi lưu lại những dấu tích của cuộc sống người tiền sử. Tại đây dưới các mái đá, ven các khe suối và cả các sườn dốc ven thung lũng đã phát hiện nhiều công cụ sản xuất, sinh hoạt của người xưa bằng đá, đồng, đất nung. Trong suốt cuộc kháng chiến dài 30 năm. Định Quán là một phần quan trọng của Chiến khu Đ. Đá Chồng đã chứng kiến sự hình thành, phát triển, trú quân, triển khai chiến đấu của lực lượng cách mạng. Ngày nay, một phần đất của khu danh thắng Đá Chồng Định Quán đã được sử dụng, xây dựng thành khu Trung tâm văn hóa thể thao huyện Định Quán. Tương lai không xa khu danh thắng Đá Chồng Định Quán sẽ được đầu tư tôn tạo góp phần làm cho cảnh quan thiên nhiên ngày càng tươi đẹp, là địa điểm du lịch sinh thái hấp dẫn. Nguồn: Uỷ Ban Nhân Dân Huyện Định Quán
Đồng Nai 9845 lượt xem
Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh còn gọi là đình Bình Kính tọa lạc bên tả ngạn sông Đồng Nai, xưa kia thuộc ấp Bình Kính, thôn Bình Hoành, tổng Trấn Biên, nay là ấp Nhị Hòa, xã Hiệp Hòa, TP Biên Hòa, đã được Bộ Văn Hoá – Thông Tin – Thể Thao & Du Lịch xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 25-3-1991. Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ 18, ban đầu ngôi đền có qui mô nhỏ, vách làm bằng ván, mái ngói âm dương, cách ngôi đền hiện tại khoảng 400m về hướng Nam. Các tư liệu cho biết: ngôi đền được xây dựng lại lần đầu tiên vào năm Tự Đức thứ tư (1851); đến năm 1923, đền được tái thiết lại ở địa điểm hiện nay. Nguyễn Hữu Cảnh sinh vào năm 1650 tại Gia Miêu, huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa trong một gia đình có nhiều bậc danh tướng đương triều. Ông là người văn võ song toàn, lập được nhiều chiến công lớn và được chúa Nguyễn tin yêu, trọng vọng. Mùa Xuân năm Mậu Dần (1698), ông vâng lệnh chúa Nguyễn vào kinh lược xứ Đàng Trong khi ấy còn rất hoang vu. Đến đất Đồng Nai, ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố (nay là xã Hiệp Hòa); lấy đất Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn, đất đai mở mang ngàn dặm. Ông chiêu mộ lưu dân đến lập nghiệp, tổ chức bộ máy hành chính từng bước có qui củ, khuyến khích khai hoang, thúc đẩy Cù lao Phố phát triển thành một trong những cảng thị sầm uất, năng động nhất đàng Trong suốt thế kỷ 18 và chính thức sáp nhập vùng đất mới phương Nam vào bản đồ Đại Việt. Sau khi kinh lược phương Nam trở về, năm sau ông lại phụng mệnh chúa Nguyễn Phúc Chu thống lĩnh đại binh dẹp vua Chân Lạp giữ vững miền biên ải phương Nam. Tháng 4 năm Canh Thìn (1700), sau khi hoàn thành sứ mệnh, trên đường trở về đến Rạch Gầm (Tiền Giang) thì ông thọ bệnh qua đời nhằm ngày 16 tháng 5 âm lịch, thọ 51 tuổi. Trên đường di quan ông về quê an táng, quan tài của ông được đình lại khu đất khi xưa ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố để cho nhân dân địa phương có dịp bái biệt ông lần cuối. Nơi đình quan đã được nhân dân địa phương xây một ngôi mộ vọng để ghi nhớ sự kiện này. Khi hay tin Nguyễn Hữu Cảnh mất, Chúa Nguyễn vô cùng thương tiếc đã phong tặng ông là Thượng đẳng công thần đặc Trấn phủ Chưởng cơ với tước: Lễ Thành Hầu và đưa bài vị của ông vào thờ tại Thái miếu. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 9817 lượt xem
Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt, tọa lạc ấp Xóm Tháp, xã Tân Phong, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử - văn hóa ngày 23 tháng 7 năm 1993. Đồng thời là một trong ba công trình tháp cổ cuối cùng còn lại ở miền Nam nước ta. Trải qua nhiều lần trùng tu vào các năm 1938, 2003 và gần đây nhất là vào năm 2013. Mặc dù trải qua các đợt trùng tu tôn tạo, nhưng khu di tích tháp cổ Chót Mạt đã mang cho mình một diện mạo mới nhưng vẫn giữ nguyên được tinh thần kiến trúc cổ. Toàn bộ tòa Tháp được xây dựng bằng gạch và đá phiến với phần đỉnh tháp nhọn dần lên, từ mặt đất lên nơi cao nhất của đỉnh tháp được ước tính là 10m. Ngoài ra, ngọn tháp cổ này nằm trên gò đất cao giữa cánh đồng nên nhìn từ xa nó tựa như ngọn bút đang vươn lên cao dần. Năm 2003 Uỷ ban nhân dân tỉnh Tây Ninh quyết định phê duyệt dự án đầu tư trùng tu tôn tạo bảo tồn di tích tháp Chót Mạt và được tiến hành triển khai trùng tu tôn tạo phục hồi, trưng bày mở hố khai quật năm 2003 đưa vào sử dụng. Ngày 27/11/2019 UBND tỉnh ban hành Quyết định Quy định về phân cấp quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. Quyết định giao UBND huyện Tân Biên trực tiếp quản lý 4 di tích, trong đó có di tích cấp Quốc gia di tích Lịch sử- văn Hóa Tháp Chót Mạt. Đặc biệt Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt trên địa bàn xã Tân Phong, huyện Tân Biên được chọn nằm trong chũi liên kết phát triển du lịch của Tỉnh Tây Ninh. Đây là một địa điểm tham quan rất đáng để khám phá, góp phần phát triển du lịch trên địa bàn xã Tân Phong nói riêng và huyện Tân Biên nói chung. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Tây Ninh
Tây Ninh 9462 lượt xem
Thời kỳ nhà Mạc đóng đô ở Cao Bằng, để phòng bị quân nhà Lê tiến đánh, nhà Mạc đã tu bổ, sửa chữa thành Na Lữ (nay thuộc xã Hoàng Tung, Hòa An) và thành Bản Phủ (nay thuộc xã Hưng Đạo), thành Phục Hòa, ngoài ra còn xây dựng nhiều thành lũy khác ở Cao Bằng, làm cho Cao Bằng trở thành một trung tâm chính trị và quân sự ở vùng biên viễn Đông Bắc thời bấy giờ. Thành Na Lữ và thành Phục Hoà là hai thành được xây dựng từ trước. Theo ghi chép của Bế Hựu Cung trong Cao Bằng thực lục, thành Na Lữ và thành Phục Hòa mở đầu từ đời Đường Ý Tông năm Giáp Thân, niên hiệu Hàm Thông thứ 5 (874). Căn cứ vào sự hiện diện của nhiều ngôi mộ cổ có đá khắc ghi bia mộ tên, địa chỉ, quê quán những người phu dịch xây thành chết ở đây từ thời Hàm Thông có thể khẳng định hai thành này xây từ đời Đường. Thành Na Lữ được xây qua nhiều triều đại khác nhau. Khi nhà Mạc lên Cao Bằng đã cho xây lại bằng gạch. Thành Na Lữ có hình gần chữ nhật, có tổng diện tích khoảng 37,5 ha, chiều dài khoảng 800 m, chiều rộng khoảng 600 m, thành có 4 cửa. Thành Bản Phủ tại kinh đô Nam Bình, nước Nam Cương của Thục Phán khi xưa ở Cao Bình (Cao Bằng), nhà Mạc đã tu bổ thành Vương phủ tại vòng trong của kinh đô cũ Nam Bình và được gọi là thành Bản Phủ hay Vương phủ. Tại kinh đô Nam Bình xưa của nước Nam Cương và của nhà Mạc, thành Bản Phủ vẫn còn dấu tích khá rõ nét. Kinh đô Nam Bình gồm có hai vòng thành, để bảo vệ kinh thành, vòng ngoài có chu vi khoảng 5 km, gồm cả một vùng gò đồi thấp, quanh chân đồi được bạt dựng đứng như một bức tường thành, thuận lợi cho việc xây dựng phòng tuyến bảo vệ. Bờ thành phía Tây chạy song song với bờ sông Bằng đến đầu làng Bó Mạ, nối bờ thành Đông Nam chảy qua trước mặt Bản Phủ theo chân đồi ra gặp quốc lộ 4, phía Đông Bắc chạy theo chân đồi sát phía ngoài quốc lộ 4, lên đến Đầu gò là phía Tây Bắc tiếp tục chạy theo chân đồi, ra đến bờ sông gặp bờ thành phía Tây tạo thành một vòng thành khép kín. Khi nhà Mạc lên đóng đô đã tu sửa lại và xây dựng thêm một số công trình, trong đó thành Bản Phủ (thành nội - nơi của vua làm việc) được xây lên cao hơn trên các tường thành cũ từ thời kỳ Thục Phán, thành nằm trên một khu đất bằng phẳng. Cùng với việc xây dựng lại kinh thành, nhà Mạc còn xây dựng một hệ thống đồn bốt, thành lũy khá dày xung quanh kinh đô và một số điểm biên giới quan trọng, tạo thành một hệ thống bảo vệ kinh thành và bảo vệ biên giới. Thành Phục Hòa (huyện Phục Hoà) được xây theo kiểu hình vuông, mỗi chiều khoảng 400 m, gồm hai vòng thành, khoảng cách giữa hai vòng là 80 m. Hiện nay, tường thành phía Nam đã bị phá huỷ hoàn toàn. Thành Phục Hòa có 2 cổng chính: Cổng phía Bắc được mở thông ra quốc lộ đi Cửa khẩu Tà Lùng ngày nay, nhân dân thường gọi là Pác Cổng, cổng này được xây theo kiểu hình chữ nhật, rộng 8 m, cao 5 m, gồm hai cánh cổng làm bằng gỗ nghiến dày rất chắc chắn; cổng thứ hai ở phía Nam, mở thông ra bờ sông. Cả hai cổng đều bị san phẳng từ lâu, hiện nay không còn vết tích. Gần thành, tại phía Tây Bắc ngoại thành dọc bờ sông còn có nhiều vết tích lò nung gạch, nhân dân cho biết trong quá trình lao động, khai phá đã tìm thấy ở khu vực này nhiều lò gạch còn nguyên vẹn. Qua nghiên cứu, khảo sát cho thấy, tại Cao Bằng, nhà Mạc đã tu bổ, tôn tạo và xây dựng thêm nhiều thành, đồn luỹ, trong đó tu bổ, tôn tạo xây lại thành Bản Phủ, thành Na Lữ, thành Phục Hoà. Các đồn luỹ này đã tạo thành một hệ thống liên hoàn bảo vệ kinh thành khá vững chắc. Đến nay, những thành cổ nhà Mạc xây dựng thời kỳ đóng đô ở Cao Bằng, một số thành xây dựng bằng đất chỉ còn vết tích, nhưng các thành được xây bằng đá vẫn còn rất rõ. Nguồn: Báo Cao Bằng điện tử
Cao Bằng 8916 lượt xem
Dinh Quận Hóc Môn tọa lạc tại số 1, đường Lý Nam Đế, thị trấn Hóc Môn, (cạnh trụ sở UBND huyện) là nơi để lại nhiều sự kiện đấu tranh nổi bật suốt chặng đường dài lịch sử từ 1885 đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng của Nhân dân 18 Thôn vườn trầu. Sau khi hạ được Đại đồn Chí Hòa, thực dân Pháp xây dựng tại nơi đây một ngôi nhà gỗ cao 3 tầng dùng làm Đồn binh. Khi tên Trần Tử Ca về nhậm chức Đốc Phủ, dùng Đồn làm Dinh huyện Bình Long. Vốn là một tay say quỷ quyệt của thực dân Pháp, Trần Tử Ca bị nhóm do các ông Phan Văn Hớn (Quản Hớn) và Nguyễn Văn Quá (Chánh Lãnh Binh) cầm đầu gần 1.000 nghĩa quân tiến về đốt Dinh Quận, bắt và cắt đầu bêu giữa chợ. Đó là ngày 8/2/1885 Tết Ất Dậu. Sau đó, Dinh Quận Hóc Môn được xây dựng lại với nền móng đá xanh, tường gạch, có hệ thống phòng thủ từ lầu cao đến tận vòng rào. Lối kiến trúc y như Đồn binh nên người địa phương gọi là Đồn Hóc Môn. Trấn nhậm thay Trần Tử Ca là Đốc phủ Ngôn, đến Quận Trà rồi Quận Thọ. Đây là khoảng thời gian dài người dân vùng Hóc Môn hứng chịu bao cảnh tham tàn, bỉ ổi của thực dân Pháp và bọn tay sai đầu sỏ kể trên. Với truyền thống kiên cường bất khuất của Nhân dân Hóc Môn. Ngày 4/6/1930, khoảng 6 giờ sáng trước Dinh Quận, hàng trăm bà con Hóc Môn kéo biểu tình đòi “bãi bỏ thuế thân, giảm các thuế môn bài và thuế chợ, cấp đất cho dân cày nghèo”. Quận Trà cho mời những người cầm đầu vào Dinh thương lượng, nhưng chúng xảo quyệt bắt giữ họ trong đó có ông Lê Văn Uôi (Bí thư xã Tân Thới Nhì), là người cầm đầu cuộc biểu tình. Mọi người không nao núng, quyết liệt đòi hỏi Quận Trà phải thả những người bị cầm giữ. Đoàn biểu tình càng lúc càng đông, khí thế đấu tranh có phần lan rộng, khiến Quận Trà nhượng bộ. Một mặt chúng thả những người bị giữ, mặc khác chúng gọi điện cho quan thầy ở Sài Gòn cứu viện. 2 giờ sau, cuộc đấu tranh bị 2 tên Blachôlê và Nobbot chỉ huy bắn xối xả vào đoàn biểu tình, gây thương vong nhiều người. Nhưng sự kiện lịch sử gây ấn tượng nhất tại Dinh Quận Hóc Môn là cuộc khởi nghĩa Nam kỳ ngày 23/11/1940. Đồn Hóc Môn rất kiên cố, xây bằng đá xanh như là một pháo đài, cao khoảng 15 thước, có ụ súng và hệ thống phòng thủ lỗ châu mai do một trung đội lính khố xanh trấn giữ. Ngày 22/11/1940, Pháp tăng cường thêm 1 trung đội để đối phó với tình hình. Chiều 22/11/1940, cánh quân của ông Đỗ Văn Cội đột nhập vào thị trấn, giả dạng thường dân, phục kích sau lưng Đồn chờ lệnh cướp Đồn. Một cánh quân khác có nhiệm vụ phá cầu, đốn cây ngăn lộ, đánh chiếm các công sở, nhà việc... Cánh quân từ Phước Vĩnh An, Tân Thông, Tân An Hội, Tân Phú Trung do ông Phạm Văn Sáng và Đặng Công Bỉnh chỉ huy, xuất phát từ ấp Bến Đò, đánh chiếm nhà việc, diệt 1 tên, thu 4 súng, làm chủ tình hình tại đây (Tân Phú trung). Liền đó cánh quân này được lệnh kéo về Hóc Môn. Cánh quân Long Tuy Thượng do ông Bùi Văn Hoạt chỉ huy. Cánh quân thuộc Tổng Long Tuy Trung do ông Đỗ Văn Dậy và Lê Bình Đẳng chỉ huy. Khoảng 24 giờ đêm ngày 22/11/1940, vẫn chưa nghe thấy tiếng pháo lệnh ở Sài Gòn. Sau khi hội ý, các vị chỉ huy những cánh quân thống nhất tấn công Đồn giặc. Lập tức các cánh quân tiến thẳng về Đồn Hóc Môn, nơi trú ngụ của tên Quận trưởng Bùi Ngọc Thọ. 2 nghĩa quân tên Nghé và Kinh xung phong vào cổng trước, hy sinh. Nghĩa quân bốn phía xông vào Đồn như nước vỡ bờ. Trước sức mạnh của nghĩa quân và quần chúng, bọn lính trong Đồn không còn tinh thần kháng cự, bỏ chạy tán loạn. Nghĩa quân chiếm lĩnh hoàn toàn bên trong Đồn nhưng trên lầu, địch vẫn ngoan cố dùng súng bắn tẻ, cùng lúc gọi điện về Sài Gòn, Thủ Dầu Một cấp cứu. Vì nóng lòng bắt cho được tên Quận Thọ nên đồng chí Đỗ Văn Dậy bám ống máng nước để leo lên tầng trên Đồn. Đến lưng chừng bị trúng đạn, đồng chí bị rơi xuống và hy sinh sau đó. Cuộc chiến đấu đang thế giằng co thì viện binh địch đến. Không thể cầm cự, nghĩa quân rút khỏi thị trấn, phân tán về các làng, lực lượng vũ trang rút về ấp Bến Đò (Tân Phú Trung) rồi di chuyển sang ấp Mỹ Hạnh (Đức Hòa). Cuộc tiến công Đồn Hóc Môn (sau gọi là Dinh Quận Hóc Môn) tuy thất bại nhưng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng mọi người dân sự khâm phục lòng dũng cảm của các chiến sĩ cách mạng trong cuộc chiến đấu chống thực dân cướp nước. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, 7 giờ sáng ngày 30/4/1975, thị trấn Hóc Môn hoàn toàn được giải phóng, lá cờ Tổ quốc phất phới bay trên Dinh Quận, nơi tên Quận trưởng Nguyễn Như Sang và bọn tay sai đã chạy trốn từ tối đêm trước. Ngày nay Dinh Quận Hóc Môn được chọn làm Bảo tàng huyện, nơi đây tập trung nhiều tư liệu trưng bày, minh họa các giai đoạn lịch sử thăng trầm cũng như khí thế đấu tranh cách mạng của quân và dân trong huyện Hóc Môn qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Một Tượng đài đặt trước di tích Dinh Quận Hóc Môn thể hiện gương hy sinh bất khuất của quân và dân 18 Thôn Vườn trầu, được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn: Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 8913 lượt xem
Di tích tòa Đại sứ Mỹ còn được gọi "Nhà trắng phương Đông" là nơi xuất phát các âm mưu thâm độc về quân sự lẫn chính trị nhằm thôn tính lâu dài đất nước Việt Nam, địa điểm di tích là tòa nhà 5 tầng xây dựng theo kiến trúc hiện đại, tọa lạc tại góc đường Mạc Đĩnh Chi - Lê Duẩn, Phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, trên một mảnh đất rộng gần 5.000m2. Trước đó, tòa đại sứ Mỹ nằm tại số 39 đường Hàm Nghi. Khoảng 10 giờ sáng ngày 30/3/1963, tòa đại sứ Mỹ trên đường Hàm Nghi đã bị đội Biệt động F21 đánh chất nổ làm sập 3 tầng lầu: 1, 2, 3 do đó Mỹ đã quyết định xây lại. Tòa nhà được khởi công xây dựng vào năm 1965, hầu hết vật liệu cũng như máy móc xây dựng đều được chở từ Mỹ sang, dưới sự điều khiển của kỹ sư người Mỹ. Theo thiết kế, tòa nhà bao bọc bởi 7.800 viên đá Taredo có khả năng chống đỡ mìn, đạn pháo. Cửa chính trang bị bằng thép dầy, những cửa khác chắn bởi lớp kín dầy đặc biệt chống đạn. Tất cả cửa sử dụng hệ thống tự động kể cả cửa sắt chắn lối lên các tầng lầu. Bên trong tòa nhà gồm 140 phòng với 200 nhân viên phục vụ ngày đêm ngoài ra bên cạnh tòa nhà còn được xây thêm một dãy nhà phụ gọi là khu "Norodom" dành riêng cho nhân viên C.I.A. Khi khánh thành, tòa nhà chỉ có 3 tầng. Cuối năm 1966 xây thêm 2 tầng và 1 sân thượng dùng làm nơi hạ cánh cho máy bay lên thẳng. Bao quanh tòa nhà là bức tường cao 3m, hai đầu tường sát đường Lê Duẩn xây 2 lô - cốt cao, canh gác ngày đêm. Tòa Đại sứ hoàn thành tháng 9/1967 với một hệ thống phòng thủ như là một pháo đài có 60 lính gác, một hầm tránh bom, một hệ thống màn hình ra-đa nhằm kiểm soát mặt tiền. Ngay sau khi tòa nhà hoàn tất, ngày 24/9/1967, hàng ngàn sinh viên, học sinh kéo đến trước cổng Đại sứ quán Mỹ đấu tranh đòi "Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc", "Mỹ cút về nước" và ra thông báo tố cáo Mỹ "chà đạp và vi phạm nghiêm trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam". Nhưng sự kiện nổi bật xảy ra tại Tòa Đại sứ Mỹ là trận đánh của Biệt động thành trong Tổng Tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968. Mục tiêu đánh Đại sứ quán Mỹ được bổ sung ngày 24/ 1/1968 do Ngô Thành Vân phụ trách chung. Đội Biệt động 11 nhận lãnh nhiệm vụ quan trọng này gồm đội trưởng Út Nhỏ (đội trưởng trinh sát quân khu) và các chiến sĩ: Bảy Truyền, Tước, Thanh, Chức, Trần Thế Ninh, Chính, Tài, Văn, Đực, Cao Hoài Vinh, Mang, Sáu và 2 lái xe: Trần Sĩ Hùng và Ngô Văn Thuận. Một sự kiện khác cũng không kém phần tủi nhục cho Toà Đại sứ Mỹ là cảnh hỗn loạn tháo chạy xảy ra trong 2 ngày 29 và 30/04/1975 của Mỹ và đồng bọn. Trước sức tấn công thần tốc của quân và dân Việt Nam trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, trên 1.000 người Mỹ và hơn 5.000 người Việt thân Mỹ đã chen lấn, xô đẩy, đạp nhau để tranh giành một chỗ trên sân thượng của toà nhà hòng được trực thăng cứu thoát. Di tích này đã được cấp bằng công nhận của Bộ Văn hoá ngày 25/6/1976. Hiện nay, toà nhà Đại Sứ Mỹ đã bị phá bỏ, xây mới thành lãnh sự quán tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng cạnh đó một bia tưởng niệm ghi nhớ mãi chiến công của các chiến sĩ biệt động đã hy sinh trong trận đánh. Nguồn: Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 8814 lượt xem
Mai Xuân Thưởng là người lãnh đạo phong trào Cần Vương chống Pháp cuối thế kỷ XIX ở Bình Định. Mai Xuân Thưởng sinh năm Canh Thân 1860, mất năm Đinh Hợi 1887 người thôn Phú Lạc, tổng Phú phong, huyện Tuy Viễn, tỉnh Bình Định (nay là thôn Phú Lạc, xã Bình Thành, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Cha là Mai Xuân Tín làm Bố chánh ở Cao Bằng, mẹ là Huỳnh Thị Nguyệt con của một nhà quyền quý trong làng. Mai Xuân Thưởng vốn là người thông minh, ham học. Năm 18 tuổi (1878) ông đỗ Tú tài tại Trường thi Bình Định. năm 25 tuổi (1885) thi đỗ cử nhân. Hưởng ứng chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi, Mai Xuân Thưởng về quê Phú Lạc, chiêu mộ nghĩa binh, lập căn cứ ở hòn Sưng dựng cờ cần vương chống Pháp, sau đó Mai Xuân Thưởng đã đem lực lượng của mình gia nhập vào nghĩa quân do Đào Doãn Địch lãnh đạo và được Đào Doãn Địch phong giữ chức Tán lương quân vụ (phụ trách về lương thực của nghĩa quân). Kể từ đó cho đến năm 1887, phong trào cần vương ở Bình Định phát triển mạnh mẽ và lan ra đến Quảng Ngãi, Phú Yên...thu hút hàng chục ngàn người thuộc mọi tầng lớp tham gia. Ngày 20/9/1885 Đào Doãn Địch mất, giao toàn bộ lực lượng cho Mai Xuân Thưởng. Ông chọn vùng núi Lộc Đổng (nay thuộc xã Bình Tường, huyện Tây Sơn) làm đại bản doanh và tổ chức lễ tế cờ , truyền hịch kêu gọi sỹ phu, văn thân, nhân dân tham gia phong trào cần Vương chống Pháp. Trong buổi lễ ấy, nghĩa quân nhiều vùng trong tỉnh Bình Định đã nhất trí suy tôn ông làm Nguyên soái lãnh đạo cuộc khởi nghĩa và nêu cao khẩu hiệu: “Tiền sát tả, hậu đả Tây”. Đầu năm 1887, quân Pháp dưới sự chỉ huy của Trung tá Cherrean và quân triều đình do Trần Bá Lộc chỉ huy cùng với Công sứ Trira đã mở cuộc tấn công lớn lên căn cứ đại bản doanh của phong trào Cần Vương Bình Định, trận giao chiến giữa lực lượng nghĩa quân với giặc Pháp diễn ra vô cùng ác liệt, cuộc chiến đấu không cân sức, cuối cùng lực lượng khởi nghĩa bị đẩy lùi. Tháng 3 năm 1887, sau trận ác chiến ở Bàu Sấu (thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định), Mai Xuân Thưởng bị thương nặng, nghĩa quân rút về Mật khu Linh Ðổng. Ngày 21 tháng 4 năm 1887, Trần Bá Lộc bao vây đánh chiếm căn cứ mật khu Linh Đổng và bắt được một số nghĩa quân, trong đó có thân mẫu Mai Nguyên Soái. Đêm 30 tháng 4 năm 1887, Mai Xuân Thưởng đã cử một đội quân cảm tử đột nhập doanh trại Trần Bá Lộc, giải vây cho những người bị bắt, ông cùng đoàn thuộc hạ gồm 50 người vượt núi vào Phú Yên, tiếp tục kháng chiến, nhưng khi đến đèo Phú Quý (ranh giới giữa Bình Định và Phú Yên) thị bị phục binh Trần Bá Lộc bắt và đưa ra xử trảm tại Gò Chàm (Phía đông Thành Bình Định). Di tích Lăng mộ nhà yêu nước Mai Xuân Thưởng tọa lạc trên ngọn đồi cao của dãy núi Ngang (thuộc thôn Hòa Sơn, xã Bình Tường, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định) cách thành phố Quy Nhơn khoảng 50km về hướng Tây Bắc; Lăng mộ được xây dựng trên khu đất rộng 1988m2, khánh thành ngày 22 tháng 1 năm 1961.Về tổng thể, Lăng được thiết kế theo kiểu lăng mộ cổ, xung quanh có thành thấp bao bọc. Cổng Lăng (tam quan) là 4 trụ vuông, phía trên thắt lại theo kiểu bầu lọ mang dáng dấp kiến trúc cổng đình, miếu cuối thế kỷ XIX. Giữa nhà Lăng là mộ phần Mai Xuân Thưởng hình khối chữ nhật theo hướng Đông - Tây; Phía đầu mộ dựng tấm Bia đá khắc bài ký ghi tiểu sử và sự nghiệp của Mai Xuân Thưởng: Di tích được Bộ Văn hóa Thông tin quyết định xếp hạng cấp Quốc Gia ngày 20 tháng 4 năm 1995. Nguồn: UBND Huyện Tây Sơn tỉnh Bình Định
Gia Lai 8644 lượt xem
Di tích Ngã Ba Giồng là di tích lịch sử cách mạng thuộc Ấp 5, xã Xuân Thới Thượng, huyện Hóc Môn. Được bao quanh bởi ba con đường: Phan Văn Hớn, Nguyễn Văn Bứa và tỉnh lộ 19. Khu di tích Ngã Ba Giồng là khu tưởng niệm về những sự kiện lịch sử trong hai cuộc khácg chiến chống ngoại xâm. Được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia vào năm 2002. Ngã ba Giòng (còn có tên gọi đầy đủ là Ngã ba Giòng Bằng Lăng) nằm trên địa phận thôn Xuân Thới Tây thuộc 18 thôn vườn trầu xưa được hình thành từ những năm 1698 đến năm 1731. Từ lâu đời, Ngã ba Giồng là 1 địa danh có tên gọi dân gian đã đi vào lịch sử của quê hương 18 thôn vườn trầu Hóc Môn – Bà Điểm. Tục truyền rằng xưa kia nơi đây là 1 vùng đất giồng tương đối cao ráo và là nơi mọc nhiều cây bằng lăng nên địa danh này có tên gọi từ đó. Sau khi cuộc khởi nghĩa Nam kỳ (23/11/1940) bị thất bại, thực dân Pháp đã tăng cường đàn áp, khủng bố khốc liệt phong trào cách mạng vùng Hóc Môn – Bà Điểm. Chúng đã lập ra ở Hóc Môn 3 trường bắn để giết hại các đồng chí lãnh đạo Đảng, các đồng chí đồng bào yêu nước của quê hương Hóc Môn và các vùng lân cận. Ngã ba Giồng là trường bắn thứ ba ghi lại tội ác tày trời của giặc pháp và bọn tay sai đối với nhân dân Hóc Môn. Rút kinh nghiệm từ 2 trường bắn trước (1 tại rạp hát cũ trung tâm Quận lỵ Hóc Môn, 1 cạnh giếng nước sau Bệnh viện Hóc Môn ngày nay), chúng xử bắn công khai, bắt nhân dân đến xem nhằm mục đích uy hiếp tinh thần cách mạng của nhân dân Hóc Môn. Nhưng cách xử bắn đó đã phản tác dụng, nhân dân Hóc Môn đã tận mắt chứng kiến sự tàn ác của thực dân Pháp, sự hy sinh cao cả của các chiến sĩ cộng sản nên ngọn lửa yêu nước của họ càng bùng lên mãnh liệt. Trường bắn thứ 3 này, chúng không dám xây dựng gần trung tâm Quận lỵ nữa mà đưa ra khu vực Ngã ba Giồng là vùng hoang vắng, thưa dân để tránh sự phản kháng của nhân dân. Tại đây, chúng xây dựng thành 1 trường bắn có mô đất kiên cố dài 12m, cao 2,2m, phía trước có trồng 6 cột bắn, mỗi cột cao 1.7m, hướng bắn quay về phía đồng ruộng (bưng Tràm Lạc). Vào năm 1941, tại đây chúng lén lúc xử bắn rất nhiều lần, không cho nhân dân xem, hàng trăm chiến sĩ cộng sản và đồng bào yêu nước bị chúng giết hại. Với ý nghĩa lịch sử vô cùng thiêng liêng của Ngã ba Giồng, nơi ghi dấu tội ác dã man của giặc Pháp, nơi thể hiện ý chí chiến đấu bất khuất kiên cường và sự hy sinh cao cả của đồng chí và đồng bào ta sau cuộc khởi nghĩa Nam kỳ (23/11/1940); sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (30/4/1975), huyện Hóc Môn đã nhanh chóng khôi phục và tôn tạo khu di tích lịch sử cách mạng Ngã ba Giồng nhằm giáo dục truyền thống cho các thế hệ thanh thiếu niên. Nơi đây đã trở thành điểm tham quan, nơi tổ chức lễ hội truyền thống trong những ngày lễ lớn hàng năm của huyện Hóc Môn và thành phố đặc biệt là lễ kỷ niệm ngày Nam kỳ Khởi nghĩa (23/11). Hiện nay được sự nhất trí của thành phố, huyện đang tiến hành tôn tạo xây dựng Ngã ba Giồng thành “Khu tưởng niệm liệt sĩ Ngã ba Giồng”. Nguồn: Cổng thông tin điện tử Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 8490 lượt xem