Ứng dụng thuyết minh khám phá du lịch Việt Nam

Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch Travelviet

Tải ứng dụng Travelviet

Logo Travelviet

Di tích lịch sử

Việt nam

Di tích cảng Vũng Rô

Bến tàu Vũng Rô là một trong những bến quan trọng của Đường Hồ Chí Minh trên biển, tiếp nhận hàng trăm tấn vũ khí do những con Tàu Không Số vận chuyển từ miền Bắc chi viện cho chiến trường miền Nam trong những năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Chỉ trong một thời gian ngắn, từ tháng 11 năm 1964 đến tháng 2 năm 1965, bến Vũng Rô đã đón bốn chuyến Tàu Không Số. Vũng Rô được xếp hạng là Di tích lịch sử Quốc gia ngày 18/6/1997. Năm 2014 được Tổ chức kỷ lục Việt Nam xếp hạng là Top 10 vùng vịnh đẹp của Việt Nam. Tháng 5/1964, Tỉnh ủy Phú Yên nhận được chỉ thị của Trung ương Đảng giao nhiệm vụ chọn bến bãi sẵn sàng tiếp nhận khí tài chi viện từ miền Bắc vào miền Nam bằng đường biển. Bến Vũng Rô nằm ngay dưới chân đèo Cả, phía đông quốc lộ 1, là bến nước sâu, êm sóng có nhiều hang, gộp đá có thể làm nơi cất giấu nhiều loại khí tài, có những tuyến hành lang an toàn từ Vũng Rô đến Hòa Hiệp, Hòa Xuân và lên căn cứ của Tỉnh ủy Phú Yên, căn cứ Liên Tỉnh ủy 3 và các tỉnh Nam Tây Nguyên. Đêm 28/11/1964, bến Vũng Rô tiếp đón chuyến tàu Không số đầu tiên. Việc tiếp nhận vũ khí từ các chuyến tàu Không số đã được quân, dân Phú Yên tổ chức chu đáo, chặt chẽ. Từ bến Vũng Rô, những con đường mòn bí mật len qua khe núi, đèo dốc, với sự tham gia của hàng nghìn thanh niên xung kích, dân công ngày đêm vận chuyển hàng trăm tấn khí tài về hậu cứ và tỏa đi khắp các chiến trường Nam Trung Bộ, trang bị kịp thời cho những trận đánh lớn, mở rộng vùng giải phóng. Chuyến tàu thứ tư cập bến đêm 15/02/1965, sáng hôm sau bị địch phát hiện. Để đảm bảo bí mật và an toàn cho Đường Hồ Chí Minh trên biển, ta đã phải phá huỷ con Tàu Không Số cho chìm xuống biển tại Bãi Chùa. Từ đây, con đường vận chuyển chiến lược trên biển vốn được xây dựng kỳ công và bí mật đã bị lộ, nhưng sự kiện Vũng Rô đã gây cho kẻ địch một phen kinh hoàng. Thời gian qua đi nhưng chiến công mãi rạng ngời, năm 2001 bia Di tích bến Vũng Rô, Đài tưởng niệm Vũng Rô được xây dụng và hoàn thành, để mãi khắc ghi một sự kiện oai hùng trong lịch sử chiến tranh dân tộc. Vũng Rô và những chuyến tàu Không số. huyền thoại mãi mãi là niềm tự hào của nghệ thuật quân sự Việt Nam, mãi mãi là niềm tự hào của quân và dân Phú Yên và của cả dân tộc Việt Nam anh hùng. Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Thành Phố Tuy Hoà Tỉnh Phú Yên

Phú Yên 3053 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Địa Đạo Gò Thì Thùng

Cách trung tâm thị trấn Chí Thạnh (Tuy An) về hướng tây 15km, cao nguyên Gò Thì Thùng (xã An Xuân) có độ cao khoảng 400m so với mực nước biển, quanh năm khí hậu mát mẻ, cây xanh trái ngọt hiền hòa. Trên đỉnh cao nguyên này, có một mặt bằng gò bãi rộng lớn và một hệ thống hầm địa đạo của quân và dân Phú Yên trong những năm kháng chiến chống Mỹ. Hệ thống hầm địa đạo này đã góp bao trận đánh làm rung động kẻ thù và làm nên những chiến công vang dội của quân và dân ta. Ngày đó trước sự lớn mạnh của kẻ thù, Tỉnh ủy Phú Yên và Ban Chỉ huy quân sự Khu 5 quyết định đào địa đạo tại gò Thì Thùng. Công trình khởi công vào ngày 10/5/1964. Huyện đội và Tỉnh đội trực tiếp chỉ huy cho các xã An Xuân, An Định, An Nghiệp đào địa đạo. Đến tháng 8 năm 1965, địa đạo gò Thì Thùng đã hoàn thành. Sau khi hoàn thành, tổng chiều dài địa đạo là 1.948m xuyên qua Gò Thì Thùng, sâu 4,5m, rộng 0,8m. Toàn bộ địa đạo có 486 giếng, trên miệng giếng lấy gỗ đặt rầm, cách 20m chừa một cửa hông có ngụy trang. Bên trên địa đạo đặt vọng gác có đài quan sát. Xung quanh địa đạo là một hệ thống dây thông hào chằng chịt chạy ngang dọc. Khi có địch, ta xuất hiện để đánh, đánh xong thì rút xuống, địch không phát hiện và nhân dân tuyệt đối giữ bí mật an toàn. Khi thất bại nặng trên chiến trường, Mỹ ồ ạt đổ quân vào miền Nam Việt Nam. Tại cao nguyên An Xuân đã diễn ra nhiều trận càn ác liệt, quân và dân ta đã lập được nhiều chiến công vang dội góp phần quan trọng vào chiến thắng “Chiến tranh cục bộ” ở chiến trường miền Nam. Sau ngày giải phóng, dấu vết chiến tranh trên gò Thì Thùng còn in rõ bởi hố bom, bãi mìn và thuốc súng. Thế nhưng hiện nay, những khoảng đất của chiến trường xưa đã xanh dần, các dãy nhà mới mọc lên, cuộc sống của người dân nơi đây dần được cải thiện. Ngày nay, đến gò Thì Thùng ít có ai biết rằng cách đây hơn 40 năm, nơi đây đã từng là chiến trường ác liệt, đã từng diễn ra trận đánh giáp lá cà giữa quân ta với kẻ thù và cũng ít có ai biết rằng dưới lòng đất sâu kia đã từng có một hệ thống địa đạo do nhân dân xã An Xuân và các vùng lân cận đào… Năm 2009, địa đạo Gò Thì Thùng được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia. Được biết, cùng với địa đạo Củ Chi (TP Hồ Chí Minh), địa đạo Vĩnh Mốc (Quảng Trị), địa đạo Gò Thì Thùng là một trong 3 địa đạo lớn ở nước ta. Nguồn: Cổng thông tin điện tử Phú Yên

Phú Yên 3091 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Thành An Thổ

Thành An Thổ nằm ở thôn An Thổ, thuộc xã An Dân, huyện Tuy An, được xây dựng vào năm 1832 và hoàn thành khoảng 1836, là trung tâm hành chính của chính quyền phong kiến ở Phú Yên. Thành An Thổ nằm khu vực hạ lưu Sông Cái thuộc địa phận thôn An Thổ, xã An Dân, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên. Thành An Thổ là một trong những nơi ghi dấu nhiều sự kiện lịch sử quan trọng của tỉnh Phú Yên. Thành An Thổ được xây dựng trong khoảng thời gian từ năm 1832 đến năm 1836 dưới thời vua Minh Mạng, thành có bình đồ hình vuông, với diện tích khoảng 6.400m2, bốn góc được đắp nhô hẳn ra phía ngoài, xung quanh có hào nước rộng khoảng 15m, tường thành cao khoảng 3,5m. Bốn cửa thành quay ra bốn hướng Đông Tây Nam Bắc ứng với tên gọi bốn cửa: Tiền, Hậu, Hữu, Tả. Bên ngoài thành An Thổ còn một số công trình phụ trợ. Phía nam có con đê Hộ Thành chống ngập lụt, bên trong con đê là Trường Bắn - nơi binh sỹ tập luyện. Sát bờ sông Cái có một khu đất gọi là Gò Tượng, là nơi đóng quân của đội Tượng binh. Chợ Thành nằm gần cửa Hữu là nơi trao đổi hàng hóa của bộ máy quan lại cũng như của nhân dân ở khu vực thành An Thổ. Sau khi xây dựng xong, thành An Thổ trở thành trung tâm hành chính của chính quyền phong kiến tỉnh Phú Yên. Năm 1888, lỵ sở của Phú Yên dời từ thành An Thổ ra Vũng Lắm nằm trong vịnh Xuân Đài cách thành An Thổ khoảng 10km về phía bắc nhưng cũng chỉ ở đây trong khoảng 1 năm sau đó lại chuyển về thành An Thổ. Đến năm 1899, lỵ sở Phú Yên lại dời từ An Thổ về đóng tại thôn Long Bình (nay thuộc thị xã Sông Cầu). Từ năm 1899 trở đi, thành An Thổ tiếp tục đảm nhận vai trò là phủ lỵ của phủ Tuy An. Đến khoảng năm 1939, phủ lỵ Tuy An chuyển đến vị trí khác thì vai trò lịch sử của thành An Thổ xem như kết thúc. Trong thời gian từ 1901 đến 1906, ông Trần Văn Phổ là phụ thân đồng chí Trần Phú được cử vào Phú Yên giữ chức Giáo thụ tại phủ Tuy An. Ông Phổ đưa cả gia đình vào làm việc và sinh sống tại thành An Thổ. Và cũng chính nơi đây vào ngày 01/5/1904 đã chứng kiến sự chào đời của một người con ưu tú của Đảng đó là đồng chí Trần Phú – Cố Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong dịp kỷ niệm 400 năm Phú Yên hình thành và phát triển và năm Du lịch Quốc gia Duyên hải Nam trung bộ - Phú Yên 2011, di tích thành An Thổ đã được đầu tư tôn tạo gồm nhà trưng bày lưu niệm cố Tổng Bí thư Trần Phú và một số công trình phụ xung quanh. Thành An Thổ được công nhận là di tích lịch sử khảo cổ cấp Quốc gia vào ngày 22/8/2005. Nguồn: Cổng thông tin điện tử Phú Yên

Phú Yên 2933 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền thờ Lương Văn Chánh

Danh nhân Lương Văn Chánh là người Bắc Hà, dưới triều vua Lê Thế Tông được phong chức Thiên Vũ vệ Đô chỉ huy sứ. Năm Mậu Dần – 1578, Lương Văn Chánh được chúa Nguyễn Hoàng cử vào ổn định vùng đất từ đèo Cù Mông đến đèo Cả. Nhờ có công lớn, ông được thăng chức Đặc tiến Phụ quốc Thượng tướng quân, sau làm Trấn Biên quan. Sau đó ông chiêu tập lưu dân vùng Thanh – Nghệ, Thuận Hoá và các nơi khác đến khai phá đất hoang, kết lập gia cư, làng mạc ở vùng Cù Mông, Bà Đài và dọc theo sông Đà Rằng. Ông đem kinh nghiệm khẩn hoang vào áp dụng ở Phú Yên, cùng với người dân làm cho vùng đất này trở nên trù phú, làng xóm dần được hình thành. Đây là cơ sở để chúa Nguyễn lập ra phủ Phú Yên vào năm 1611. Ông Lương Văn Chánh qua đời ngày 19 tháng Chín năm Tân Hợi 1611. Mộ Lương Văn Chánh nằm trên một gò cao, quay mặt ra phía sông Bến Lội, hướng về núi Chóp Chài. Đền thờ Lương Văn Chánh nằm ở địa hình thông thoáng, phía trước là sông Bến Lội, phía sau là núi Cấm. Trong khuôn viên còn có cây bồ đề cổ thụ cành lá xum xuê, che mát cả một góc đền, được Hội Bảo vệ thiên nhiên và môi trường Việt Nam công nhận là cây Di sản Việt Nam năm 2014. Để bày tỏ sự ngưỡng mộ, tri ân của thế hệ hôm nay đối với bậc tiền nhân đã có công khai cơ lập nghiệp; thể hiện đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, đáp ứng nguyện vọng cũng như sự mong đợi của cán bộ, nhân dân trong tỉnh và cả nước, Tỉnh Phú Yên đã cho đúc tượng danh nhân Lương Văn Chánh để thờ ngay tại Đền của ông, tượng được đúc bằng đồng có chiều cao 1,4 mét, tư thế ngồi trên ghế tựa, tay cầm chiếu chỉ, được đặt ngay chính điện đền thờ, thể hiện sự tôn nghiêm trang trọng. Hàng năm, vào ngày mùng 6 tháng 2 và ngày 19 tháng 9 (Âm lịch), Phú Yên tổ chức Lễ hội Đền thờ Lương Văn Chánh với sự tham gia của đông đảo nhân dân và thu hút nhiều du khách đến tham quan tìm hiểu. Di tích khu Mộ và Đền thờ Lương Văn Chánh được xếp hạng là Di tích lịch sử cấp Quốc gia ngày 27/9/1996. Nguồn: Trung Tâm Xúc Tiến Du Lịch Tỉnh Phú Yên

Phú Yên 3651 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Khu tưởng niệm Ngã Ba Đồng Lộc

Ngày 09/12/2013, Khu di tích Ngã ba Đồng Lộc được công nhận là Khu di tích lịch sử cấp Quốc gia Đặc biệt. Khu di tích Ngã ba Đồng Lộc là một quần thể di tích với nhiều công trình ý nghĩa, tiêu biểu là 12 hạng mục sau: 1. Khu di tích ngã ba Đồng Lộc có 3 cổng vào được bố trí trên 3 tuyến đường hướng về khu vực di tích, bố cục theo kiến trúc truyền thống tam quan bao gồm: Cửa chính và 2 cửa phụ. 2. Tượng đài Chiến thắng Ngã ba Đồng Lộc là biểu tượng bất hủ của sức mạnh, ý chí quyết thắng, tinh thần vươn lên đạp bằng mọi gian nan nguy hiểm của lực lượng thanh niên xung phong, bộ đội, công nhân giao thông, công an, dân quân... 3. Nhà bia tưởng niệm các Anh hùng liệt sĩ Thanh niên xung phong toàn quốc. Ghi danh gần 4.000 các Anh hùng liệt sĩ. Tên tuổi của các anh hùng liệt sĩ thanh niên xung phong và các anh hùng liệt sĩ hy sinh tại Ngã ba Đồng Lộc sẽ được lưu danh muôn đời, để lớp lớp con cháu ngưỡng vọng, tôn kính, tự hào. 4. Khu mộ 10 nữ Anh hùng liệt sĩ thanh niên xung phong Ngã ba Đồng Lộc là 10 ngôi mộ trắng ghi danh 10 nữ thanh niên xung phong thuộc Tiểu đội 4, Đại đội 552. 5. Nhà bia tưởng niệm các Anh hùng liệt sĩ ngành Giao thông vận tải hy sinh tại Hà Tĩnh. Ghi danh và tưởng niệm 842 Anh hùng, liệt sĩ ngành Giao thông vận tải hy sinh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước trên địa bàn Hà Tĩnh; 6. Cột biểu tượng ngành Giao thông vận tải. Được đặt ngay chính giữa ngã ba đường, nơi giao nhau giữa ba tuyến đường: Lạc Thiện - Đồng Lộc, Khe Giao - Đồng Lộc, Ba Giang - Đồng Lộc. Nhằm tôn vinh những chiến công oanh liệt của những người chiến sĩ trên mặt trận Giao thông vận tải; 7. Tháp chuông Ngã ba Đồng Lộc có kiến trúc uy nghi, lung linh ánh sáng, tọa lạc trên đồi Mũi Mác, được xếp là một trong những Tháp chuông đẹp nhất của Việt Nam hiện nay. 8. Đền thờ Ngã ba Đồng Lộc tọa lạc trên núi Mũi Mác (bên cạnh Tháp chuông Ngã ba Đồng Lộc). Là nơi thờ các Chư vị thần linh, Chân linh các Anh hùng liệt sĩ thanh niên xung phong hy sinh trong hai cuộc kháng chiến của dân tộc, các Anh hùng liệt sĩ hy sinh tại Ngã ba Đồng Lộc, 10 cô gái, cán bộ và nhân dân tử nạn tại chiến trường Đồng Lộc. 9. Cụm tượng 10 cô gái Ngã ba Đồng Lộc tái hiện lại một khoảnh khắc tả thực của 10 cô gái thanh niên xung phong đang làm nhiệm vụ san lấp hố bom, dẫn đường thông xe ra tiền tuyến, các chị được bố cục trong các tư thế khác nhau. 10. Đồi La Thị Tám (núi Mòi) là nơi chứng kiến sự khốc liệt của chiến trường Đồng Lộc, chứng kiến những dấu chân, gắn liền với tên tuổi của người con gái Sông La, Anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân La Thị Tám. 11. Nhà truyền thống Lực lượng Thanh Niên Xung Phong Việt Nam nơi mà lịch sử Thanh Niên Xung Phong hiện lên tráng liệt nhất, rõ nét nhất. 12. Nhà truyền thống Ngã ba Đồng Lộc Tại đây có sa bàn được lập trình bằng hệ thống điện tử, tái hiện lại toàn cảnh chiến trường khốc liệt, điêu tàn của Ngã ba Đồng Lộc trong những năm tháng chiến tranh, cũng như ý chí quyết tâm thông đường, thông xe, tinh thần dũng cảm, can trường của quân và dân ta tại “tọa độ chết” này. Nguồn: Cổng Thông tin điện tử tỉnh Hà Tĩnh

Hà Tĩnh 3246 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Đền Thái Yên

Đền Thái Yên được công nhận là Di tích Quốc gia ngày 20/7/1994. Đền Thái Yên thuộc xã Thái Yên, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh, thờ Thành hoàng là thần Tam Lang linh ứng (Thần rắn) và Chính đồng Ngọc Nữ (Mẫu) Đền được xây dựng từ thế kỷ XVIII (khoảng trước năm 1741). Đền tọa lạc trên mảnh đất diện tích chừng 5.000m2 ở đầu làng, có cấu trúc theo lối tam tòa: thượng điện, trung điện, hạ điện. Trước đền là hồ bán nguyệt nước trong xanh - được coi là chỗ mắt rồng, nằm trong thế đất long mạch của làng. Đi qua khoảng sân rộng của cổng tam quan, cổng chính giữa xây nhà nghi môn với cấu trúc 2 vì, 6 cột, mái được đắp 4 con rồng uốn lượn, đầu ngẩng cao lên đỉnh nóc. Trên nóc nhà nghi môn đắp nổi một mặt rồng ranh vuốt bờm râu và sừng dữ tợn. Hạ điện làm bằng gỗ lim với 4 vì kèo 14 cột, nền lát gạch nung đỏ, phía trước có các bức đại tự bằng chữ Hán chạm nổi ghép mảnh sứ trên gỗ được ráp liền với xà nhà: “Vạn Cổ Anh Linh” (gian giữa), “Chiêm Như Tại” (gian bên phải), “Lại Nguyên Ân” (gian bên trái). Chính gian giữa đặt hương án lớn bằng gỗ sơn son thếp vàng chạm trổ công phu, trước hương án là giá dựng long đao và biển đề hai chữ Hán “Chính Khí”, hai con hạc lớn đứng trên thân rùa ở hai bên; hai gian hai bên treo hai quả chuông bằng đồng, trên chuông đúc nổi 3 chữ “Thái Yên từ” (Đền Thái Yên - gian bên trái) và 4 chữ “Vĩnh Phúc tự chung” (Chuông chùa Vĩnh Phúc - gian bên phải). Trung điện liền kề và song song với hạ điện, gồm ba gian hai hồi; trong đặt nhiều đồ tế khí như hương án, lư hương, chân nến, bình hoa bằng gỗ, đặc biệt có ba chiếc kiệu sơn son thếp vàng đồ sộ, chạm khắc công phu cùng dàn biểu tượng, đại đao, biển tên cùng các linh chủ, long ngai, bài vị thần được dân làng tiến cúng. Thượng điện, ngoài hành lang có hai pho tượng tròn bằng gỗ mít quỳ gối tay khoanh tròn trước ngực đỡ bình hương, mang phong cách dân gian (bụng phệ, mặc quần ta dài, tóc cắt ngắn, tai to, mặt rộng, lưỡng quyền cao, mũi to, mắt xếch). Cửa chính giữa bốn cánh vẽ màu hình long, ly, quy, phượng; hai cửa nách một cánh vẽ con hạc đứng trên lưng rùa bơi giữa đầm sen. Phía trong chính điện phía trên đặt long ngai và bài vị của các vị Thành hoàng, thần của làng; phía dưới là bệ thờ đặt hai hàng bài vị chạm trổ, sơn son thếp vàng do nhiều thế hệ dân làng tiến cúng… Hằng năm, vào mùa xuân, đền Thái Yên mở hội lớn, người dân trong xã tổ chức các hoạt động lễ hội văn hóa, thể thao đến tận rằm tháng giêng như kéo co, đấu bóng đá, bóng chuyền, bóng bàn, cờ tướng, thi văn nghệ… Hai năm một lần, Thái Yên lại tổ chức rước kiệu vào ngày mồng 7 tháng giêng Âm lịch. Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Huyện Đức Thọ

Hà Tĩnh 3311 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Khu di tích đền thờ Nguyễn Biểu

Đền thờ Nguyễn Biểu trước kia thuộc làng Bình Hồ, huyện La Sơn, nay là xã Yên Hồ, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Nguyễn Biểu là một viên quan, một vị tướng nhà Hậu Trần, một nhà ngoại giao kiệt xuất quả cảm. Sử sách chép, quê ông ở làng Nội Diễn, xã Bà Hồ (đời Lê đổi thành Bình Hồ), huyện Chi La (sau đổi thành La Sơn), trấn Nghệ An, nay thuộc xã Yên Hồ, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Ông đỗ Thái học sinh (Tiến sĩ) vào cuối thời nhà Trần, làm quan đến chức Điện tiền Đô Ngự sử. Nguyễn Biểu nổi tiếng là người chính trực, dám nói thẳng, can gián những việc sai trái. Năm 1413, quân Minh đánh vào Nghệ An, tình thế đất nước lúc ấy rất nguy cấp, Nguyễn Biểu đi sứ dâng biểu cầu phong theo lệnh Vua. Quan tổng binh Nhà Minh là Trương Phụ đã nham hiểm dọn cỗ đầu người hòng khuất phục Nguyễn Biểu, nhưng ông vẫn điềm nhiên khoét mắt ăn và cảm khái” Nam nhân thực, Bắc nhân đầu hào hảo”( Người nam ăn đầu người Bắc rất ngon) và mắng nhà Minh là kẻ xâm lược. Tức giận, Trương Phụ đã trói Nguyễn Biểu dưới cầu Lam để thuỷ triều dìm chết ông vào 1 tháng 7 năm Quý Tỵ. Sau ngày chiến thắng quân Minh, vua Lê Thái Tổ đã cho lập đền thờ ông ở Nội Diên, phong là Nghĩa Liệt Hiển ứng Uy Linh Trợ Thuận Đại vương, tức Nghĩa Sĩ Đại Vương; các đời vua Lê - Nguyễn về sau đều có sắc phong ban tặng cho ông. Vào thời Hồng Đức (1470 - 1497), vua Lê Thánh Tông sai lập miếu Nghĩa Sĩ ở Bình Hồ, ban ruộng tế và cho lấy trong dân sở tại một lễ lang và hai thừa tự trông nom việc thờ cúng, lại giao cho trấn quan mỗi năm một lần về tế. Đến cuối thế kỉ XVIII, đền thờ Nguyễn Biểu bị hỏa hoạn hư hại. Khi nhà Nguyễn lên ngôi, vua Gia Long (1802 - 1820) lại có sắc phong cho đền, nhân dân địa phương dựng lại đền để thờ phụng. Năm Kỉ Tỵ đời Tự Đức thứ 22 (1869), đền Nghĩa Vương được trùng tu tôn tạo với quy mô và kiến trúc như hiện nay, gồm ba tòa hạ, trung và thượng điện. Trong ba tòa điện bày các cỗ kiệu, hương án và nhiều đồ tế khí. Ở đây còn có các biển gỗ khắc thơ “Ngự chế”, thơ của Hoàng giáp Hoàng Trừng là chắt ngoại Nguyễn Biểu, nhiều đối liễn của các quan chức và các nhà khoa bảng. Phía ngoài, cổng đền xây hai cột nanh cao lớn. Bên trong có hai tấm bia đá; ghi thân thế, sự nghiệp và bài minh ca tụng Nguyễn Biểu. Năm 2011 - 2012, đền thờ Nguyễn Biểu đã được trùng tu với tổng vốn đầu tư hơn 7,6 tỉ đồng, các hạng mục như hồ bán nguyệt, nghi môn, tắc môn, nhà che bia, hạ điện, trung điện, thượng điện, khu mộ… đã được tôn tạo lại khang trang. Cách ngôi đền Nghĩa vương Nguyễn Biểu khoảng 100 mét là ngôi mộ của ông được xây dựng khang trang. Từ bao đời nay, đền Nghĩa Vương Nguyễn Biểu ở Bình Hồ - Yên Hồ là một biểu tượng linh thiêng đối với nhân dân Đức Thọ. Đền thờ Nguyễn Biểu được xếp hạng là Di tích Lịch Sử -Văn Hoá cấp Quốc gia ngày 03/8/1991. Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Huyện Đức Thọ

Hà Tĩnh 3027 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Đinh Lễ

Đền Đinh Lễ còn có tên là đền Linh Cảm Đại Vương, trước thuộc xã Việt Yên Hạ, tổng Việt Yên, nay là xã Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ, Hà Tĩnh, thờ khai quốc công thần nhà Hậu Lê, Linh Cảm Đại Vương Đinh Lễ. Đinh Lễ người Lam Sơn, Thọ Xuân, Thanh Hóa, là cháu gọi Lê Lợi bằng cậu ruột. Từ 1418 đến 1427, Đinh Lễ tham gia nhiều trận đánh quan trọng của Nghĩa quân Lam Sơn, lập nhiều chiến công, góp phần không nhỏ vào thắng lợi cuối cùng chống giặc Minh xâm lược. Thắng trận, Đinh Lễ được Lê Lợi phong chức Tư không. Tháng 4.1425, quân Minh theo sông Ngàn Phố đánh lên căn cứ Đỗ Gia của nghĩa quân Lam Sơn nhưng bị phản kích phải tháo chạy qua núi Tùng Lĩnh để vào sông La về thành Nghệ An; quân của Đinh Lễ chặn đánh tại đây, tiêu diệt hơn 1.000 tên. Tháng 3.1427, Đinh Lễ cùng Nguyễn Xí được lệnh mang 500 quân Thiết đột tiếp viện cho tướng Lê Nguyễn ở Tây Phù Liệt, đánh đuổi quân Minh đến Mi Động. Hai tướng cưỡi voi bị sa xuống đầm lầy, bị quân Minh bắt sống. Đinh Lễ không chịu khuất phục nên bị giết chết. Năm 1428, sau khi lên ngôi, Lê Thái Tổ truy tặng Đinh Lễ chức Nhập nội Kiểm hiệu Tư đồ, ban tước Đình Thượng hầu, phong hiệu Linh Cảm Đại Vương. Năm 1484, Lê Thánh Tông gia phong ông làm Thái sư Bân Quốc công, về sau tấn phong Hiển Khánh Vương. Nhớ ơn công lao ông ở vùng đất này, nhân dân lập đền thờ Đinh Lễ ở chỗ trước đây ông đóng đồn trên núi Tùng Lĩnh, bên bờ Tam Soa. Trước đây đền thờ Đinh Lễ nằm cách vị trí hiện nay khoảng 400m, sau nơi này bị người Pháp lấy làm đồn binh, đền được chuyển đến chỗ mới. Hiện đền nằm trên một ngọn đồi thấp, tương đối bằng phẳng. Hai phía Tây Bắc và Tây Nam giáp khu dân cư, phía Đông Nam giáp đường chiến lược 28. Di tích hiện còn thượng điện, vọng lâu, tắc môn và khu sân đền được bao quanh bởi hệ thống tường dắc và cổng vào. Tường dắc xây bằng gạch vôi vữa, ở giữa có lỗ xuyên hoa hình hoa chanh, bốn góc xây trụ biểu, phía trên đặt búp sen. Tắc môn như một bức bình phong án ngữ lối ra vào, mặt ngoài tạo bức phù điêu hổ màu vàng, đứng uy nghi đầu và đuôi vươn cao. Qua tắc môn đến vọng lâu, xây năm 1937 kiểu chồng diêm hai tầng, tám mái, trổ cửa bốn mặt. Niên đại trùng tu vọng lâu ghi “Bảo Đại Đinh Sửu (1937). Thượng điện là ngôi nhà tứ trụ ba gian, hai hồi, bốn vì gỗ mít kiểu tứ trụ chồng đấu (hay còn gọi là nhà Rường). Ở trên cùng khắc bốn chữ Hán “Thánh Cung Vạn Tuế”. Hành lang gian giữa đặt hương án gỗ kiểu chân quỳ chạm trổ hoa dây hai bên, rồng chầu mặt nguyệt mặt trước. Cửa cấu tạo kiểu “thượng song hạ bản” gồm nhiều cánh cửa ghép lại bằng chốt gỗ phía trên. Ba phía còn lại xây tường gạch bao quanh. Gian chính giữa thờ Thành hoàng Đinh Lễ với linh toạ, bài vị khắc vương hiệu Linh Cảm Đại vương và kiếm gỗ đặt trong khảm gỗ sơn son thiếp vàng và hệ thống hương án, đồ tế khí bằng gỗ được sơn son thếp vàng. Ngày 17/01/2006 Đền Đinh Lễ được xếp hạng là Di tích Quốc gia. Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Huyện Đức Thọ

Hà Tĩnh 3558 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Khu di tích mộ và đền thờ Nguyễn Tuấn Thiện

Di tích mộ và đền thờ Nguyễn Tuấn Thiện được xây dựng vào năm 1494 sau khi công thần khai quốc Nguyễn Tuấn Thiện mất. Theo sử sách ghi lại, Nguyễn Tuấn Thiện (SN 1401 - 1494) là một bậc khai quốc công thần triều Lê, quê ở thôn Phúc Đậu, xã Phúc Dương nay là xã Sơn Phúc, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Từ ngày còn trẻ, Nguyễn Tuấn Thiện đã nuôi chí diệt thù cứu nước, ông đã tập hợp được những người cùng chí hướng lập đội nghĩa binh Cốc sơn khởi nghĩa chống lại ách đô hộ của nhà Minh. Tháng 2-1425, Nguyễn Tuấn Thiện đưa nghĩa quân Cốc sơn đến bái yết Bình định vương Lê Lợi, xin cùng phối hợp chiến đấu. Lê Lợi và Nguyễn Tuấn Thiện kết nghĩa anh em. Từ ấy, đội quân Cốc sơn trở thành một bộ phận của nghĩa quân Lam Sơn và Nguyễn Tuấn Thiện là một vị tướng giỏi. Lúc này, quân Minh đã rút về cố thủ trong thành Nghệ An. Nghĩa quân cùng với nhân dân cùng hợp sức vây thành, liên tiếp giành nhiều thắng lợi. Đặc biệt, trận chiến đấu oanh liệt ở Khuất Giang (núi Nầm) đã nhanh chóng đánh tan quân Minh ở đây, có sự đóng góp lớn của quân Cốc sơn và Nguyễn Tuấn Thiện. Sau trận sông Khuất, Lê Lợi - Nguyễn Trãi dời sở chỉ huy từ động Tiên Hoa đến thành Lục Niên trên dãy Thiên Nhẫn. Theo đà thắng lợi, nghĩa quân Lam Sơn tiến xuống đồng bằng, giải phóng Nghệ An, Thuận Hoá phía Nam, rồi tiến ra Thanh Hoá, Đông Quan… giải phóng hoàn toàn đất nước. Do tài năng và công lao đánh giặc, khi xét công, định thưởng, vua Thái tổ xếp Nguyễn Tuấn Thiện vào hàng công thần khai quốc, được ban quốc tính Lê Thiện và được phong chức Đô Tổng quản phó Nguyên Soái. Năm Thuận Thiên thứ nhất (1438) ông được phong làm Tĩnh nạn tuyên lực trung liệt minh nghĩa khai quốc công thần Đô Tổng quản phó nguyên soái, trung lãng đại phu tá phụng thánh vệ đại tướng quân, tước Đại trí tự. Thời gian sau, ông xin cáo quan về quê, ở tại đất Ninh Xá (nay là làng Trung Ninh, xã Sơn Ninh, Hương Sơn). Sau khi ông mất, nhân dân địa phương mai táng và lập miếu thờ trên ngọn đồi Kim Quy. Đền thờ Nguyễn Tuấn Thiện gồm 2 toà nhà, kiến trúc theo kiểu chữ Nhị, diện tích khoảng 3000m2, cao hơn mặt ruộng 1,5m, xung quanh và trên khu gò trồng nhiều loại cây như bạch đàn, long não, xà cừ... Toà thượng điện gồm 3 gian tường xây bao quanh lợp ngói vảy, gỗ làm nhà hầu hết bằng mít và lim, bên trong là nơi đặt bàn thờ thần chủ và bức trướng gỗ sơn son thiếp vàng ghi phổ hệ và gia tước do Lê Lợi phong cho. Nhà bái đường nằm ở phía trước thượng điện làm bằng cột gỗ vuông, mái lợp ngói mới hiện đại và trong nhà bái đường có đặt “ Hòn đá buộc voi của Đức Hầu - Nguyễn Tuấn Thiện”. Phía sau đền thờ là mộ của ông, mộ đất có hình chóp, đường kính 7m, cao khoảng 2m, nhìn vào như là một gò đất cao nổi lên sau đền thờ. Sau những năm tháng phụng sự Lê triều, về trí lão được triều đình cho chọn đất Ninh Xá để an trí, ông đã tự tìm cho mình đất an táng ở Kim Quy Sơn, trải qua hơn năm thế kỷ lăng mộ của ông vẫn được bảo vệ nguyên trạng từ bấy đến giờ. Đền thờ của ông hiện ở xã Sơn Ninh, huyện Hương Sơn đã được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Nguồn: Trang Thông Tin Điện Tử Xã Sơn Ninh

Hà Tĩnh 3168 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Khu di tích Hải Thượng Lãn Ông

Lê Hữu Trác tên thật là Lê Hữu Huân, hiệu Hải Thượng Lãn Ông, sinh ngày 12 tháng 11 năm 1720 tại thôn Văn Xá, làng Liêu Xá, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, tỉnh Hải Dương (nay là huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên). Ông là con thứ bảy của ông Lê Hữu Mưu và bà Bùi Thị Thưởng nên ông còn được gọi với cái tên Cậu Chiêu Bảy. Dòng họ của Lê Hữu Trác có truyền thống khoa bảng, ông nội, bác, chú, anh và em họ đều đỗ tiến sĩ, làm quan to. Cha Lê Hữu Trác đỗ đệ tam giáp tiến sĩ làm Thị lang Bộ Công triều Lê Dụ Tông, gia phong chức ngự sử, tước bá, khi mất được truy tặng Thượng thư. Năm Kỷ Mùi (1739), Lê Hữu Trác 20 tuổi thì cha qua đời, từ đó, ông sống tại quê mẹ ở Tình Diệm xưa (nay là xã Sơn Quang, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh) cho đến năm Tân Hợi 1791, ông qua đời, thọ 71 tuổi. Hải Thượng Lãn Ông là bậc đại danh y không chỉ giỏi về y thuật, nhân thuật, mà còn là nhà tư tưởng, nhà khoa học lớn, nhà giáo dục, nhà văn bậc thầy của dân tộc Việt Nam. Ông luôn tìm tòi nghiên cứu, chữa bệnh, làm thơ và là tác giả của nhiều bộ sách lớn có giá trị như: Hải Thượng y tông tâm lĩnh, Thượng kinh ký sự... Ông đã có công sưu tầm, bổ sung nhiều phương thuốc có giá trị còn lưu truyền trong dân gian và để lại cho muôn đời sau. Cuộc đời và sự nghiệp của ông là tấm gương sáng cho muôn đời các thế hệ thầy thuốc Việt Nam noi theo. Quần thể di tích Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác thuộc thôn Hải Thượng, xã Sơn Trung, Hương Sơn, Hà Tĩnh, trải dài trên một cung đường gần 8km, bao gồm khu mộ cùng tượng đài của Đại danh y ở xã Sơn Trung, chùa Tượng Sơn ở xã Sơn Giang và Khu nhà thờ Hải Thượng Lãn Ông ở xã Sơn Quang. Khu mộ là nơi yên nghỉ của Đại danh y Lê Hữu Trác nằm dưới chân núi Minh Tự (xã Sơn Trung). Mộ nằm ở vùng đất gần chân núi có độ dốc 30 độ, đầu hướng lên đỉnh cao nhất của dãy núi Minh Tự, chân chiếu thẳng vào dãy núi Trường Sơn. Tượng đài Lê Hữu Trác nằm trên núi cao, được dựng với hơn 1.600 tấn đá cẩm thạch. Khu tượng đài có dòng chữ “Đức - Lưu - Quang” khắc trên tảng đá nguyên khối nặng hơn 17 tấn. Phía sau tượng đài có 2 bức phù điêu khắc ghi những lời răn dạy của Đại danh y về y đức, y thuật. Nhà thờ Lê Hữu Trác ở thôn Bầu Diệm, xã Tình Diệm (nay là xóm 8, xã Sơn Quang). Đây là nơi ông và gia đình sinh sống khi trở về Hương Sơn. Nhà thờ có tòa Thượng là nơi trước đây Lê Hữu Trác bốc thuốc, viết sách. Nhà hậu tọa là nơi thờ Lê Hữu Trác gồm 3 gian tứ trụ được chạm khắc tinh vi, bàn thờ đặt ở gian giữa có tượng bán thân của cụ, gian phải và trái có lịch niên biểu ghi lại những năm tháng sống và lập nghiệp cũng như những mối quan hệ gia đình, xã hội của Lê Hữu Trác. Trên đường từ mộ đến nhà thờ là chùa Tượng Sơn. Theo gia phả dòng họ Lê Hữu ở huyện Hương Sơn, chùa Tượng Sơn được kiến dựng vào thời Hậu Lê, đời Lê Dụ Tông (đầu thế kỷ XVIII) do bà Đặng Phùng Hầu - bà ngoại của danh y Lê Hữu Trác nêu ý tưởng xây dựng. Sau đó, con gái của bà là Bùi Thị Thưởng tiếp tục hoàn thành ý nguyện của mẹ và sáng lập chùa. Chùa Tượng Sơn tọa lạc nơi phong cảnh hữu tình, phía sau chùa là dãy núi Voi nên chùa có tên là Tượng Sơn tự (chùa Núi Voi). Chùa có tên nôm là chùa Ầm Ầm (người dân nơi đây còn gọi là chùa Hầm Hầm). Đây là nơi lưu dấu những năm tháng sống, làm thuốc cứu người, nghiên cứu y thuật và viết sách của Đại danh Y Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác. Quần thể di tích Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng năm 1990. Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Du Lịch Tỉnh Hà Tĩnh

Hà Tĩnh 3026 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Khu di tích lưu niệm Đại thi hào Nguyễn Du

Khu lưu niệm Nguyễn Du thuộc xã Tiên Điền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Đến nơi đây du khách sẽ có dịp tìm hiểu thêm về cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Du đồng thời cũng là dịp hiểu thêm về dòng họ Nguyễn Tiên Điền. Nguyễn Du (1765 - 1820) tên tự là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, nguyên quán tại làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, phủ Đức Quang, trấn Nghệ An (nay thuộc tỉnh Hà Tĩnh) nhưng sinh ra và lớn lên tại Thăng Long (Hà Nội ngày nay). Cha của cụ là Hoàng giáp Nguyễn Nghiễm và mẹ là Trần Thị Tần làng Hoa Thiền, huyện Đông Ngạn, xứ Kinh Bắc (nay là tỉnh Bắc Ninh). Từ nhỏ Nguyễn Du đã được tiếp thu sâu sắc tinh hoa văn hoá của cả ba vùng: Xứ Nghệ - Thăng Long và Kinh Bắc. Chính vì thế, Nguyễn Du lớn lên trở thành người học rộng, tài cao, tinh thông cả Phật học và sành các môn thi, họa. Tác phẩm Truyện Kiều là một minh chứng rất rõ về Nguyễn Du. Đây là sự đóng góp rất lớn vào kho tàng văn học Việt Nam. Di tích lịch sử Khu lưu niệm cụ Nguyễn Du được xây dựng để các nho sỹ, văn sỹ và du khách trong và ngoài nước yêu thích Truyện Kiều đến thắp hương tưởng niệm tại mộ cụ Nguyễn Du - một Đại thi hào dân tộc, một Danh nhân văn hóa thế giới. Đây là khu di tích văn hóa nằm trong quần thể di tích dòng họ Nguyễn Tiên Điền. Quần thể di tích này là một tổ hợp bao gồm nhiều di tích: đền thờ Đại Vương tiến sĩ Nguyễn Huệ; đền thờ Nguyễn Nghiễm, Nguyễn Trọng; đàn tế Nguyễn Quỳnh; 2 ngôi nhà Tư văn; khu mộ đại thi hào Nguyễn Du, bảo tàng Nguyễn Du và nhà thờ Nguyễn Du. Ngôi nhà thờ Nguyễn Du được xây dựng vào năm 1825, ngay trên mảnh vườn nhà cụ thuộc xóm Tiền Giáp. Bên trong có bàn thờ xây bằng vôi cát, phía trên có treo bức hoành phi đề 4 chữ “Hồng sơn thế phả” do Hoàng Phù Phái, tước trung hiếu đại phu đời nhà Thanh tặng vào năm thứ 55 triều Càn Long (1790) cùng bài vị bằng đá có khắc dòng chữ “Thanh Hiên Nguyễn Tiên Sinh”. Tiếp theo nhà thờ Nguyễn Du là đến bảo tàng nguyễn Du - nơi trưng bày nhiều tài liệu, hiện vật gốc quý liên quan trực tiếp đến cuộc đời và sự nghiệp của đại thi hào Nguyễn Du. Hiện nay, đây là khu vực trưng bày gần 1.000 tài liệu, hiện vật, tiêu biểu như nghiên bút của Nguyễn Du, bản Kiều in từ bản khắc năm 1866, cuốn Truyện Kiều viết theo lối thư pháp (độc bản), thư pháp Truyện Kiều dài nhất Việt Nam (độc bản), bộ sưu tập Truyện Kiều xuất bản bằng các thứ tiếng, sưu tập sách viết về Nguyễn Du... Đến Khu lưu niệm cụ Nguyễn Du, du khách vừa có dịp được ngắm nhìn phong cảnh nơi đây vừa có dịp được tìm hiểu thêm về giá trị văn hóa lịch sử, tính nhân văn của quần thể di tích Nguyễn Tiên Điền. Đặc biệt, nếu đến đây vào những ngày đầu xuân, du khách sẽ được thưởng thức những đêm thơ Nguyễn Du tại nhà Tư văn trong Khu lưu niệm Nguyễn Du. Khu di tích Đại thi hào Nguyễn Du là một quần thể công trình kiến trúc thờ tự, tưởng niệm Nguyễn Du cùng những bậc tài danh kiệt xuất của dòng họ Nguyễn ở Tiên Điền, như Giới hiên công Nguyễn Huệ, Xuân Quận công Nguyễn Nghiễm, Lam Khê hầu Nguyễn Trọng, Địch Hiên công Nguyễn Điều, Quế Hiên công Nguyễn Nễ... Những di sản văn hóa trong Khu di tích còn được bảo tồn có giá trị đặc biệt về lịch sử, văn hóa, khoa học... giúp chúng ta tìm hiểu về nguồn gốc, quá trình hình thành, phát triển, truyền thống văn hóa, khoa bảng... của dòng họ Nguyễn ở Tiên Điền cũng như việc nhìn nhận về cuộc đời, sự nghiệp, những đóng góp của Đại thi hào Nguyễn Du và dòng họ Nguyễn ở Tiên Điền cho nền văn học Việt Nam. Đây cũng là nguồn tư liệu đáng tin cậy để tìm hiểu về tín ngưỡng, phong tục tập quán, đời sống văn hóa tinh thần của làng quê Tiên Điền nói riêng, văn hóa làng xã Việt Nam nói chung trong sự phát triển của lịch sử dân tộc. Nguồn: Cục du lịch quốc gia Việt Nam

Hà Tĩnh 3374 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Chùa Chân Tiên

Chùa Chân Tiên (Chân Tiên tự) tọa lạc trên đỉnh núi Tiên An, một trong 99 ngọn núi của dãy Hồng Lĩnh, được tôn xưng là “Tiên An đệ nhất danh lam”. Chùa thuộc địa phận xã Thịnh Lộc, huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Chùa đã được công nhận là di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia vào năm 1992. Chùa Chân Tiên được xây dựng vào đời nhà Trần (thế kỷ XIII). Chùa đã 3 lần được trùng tu, tôn tạo, lần gần đây nhất là vào năm 2005. Hiện nay, chùa có 2 ngôi thờ Phật tổ và thờ Thánh Mẫu. Chùa thờ Phật có diện tích 50,2m2, kiến trúc theo kiểu tứ trụ gồm 3 gian lợp ngói âm dương, 4 cột xây, tường bao 3 phía. Chùa thờ Thánh Mẫu còn gọi là "Điện Thánh Mẫu" gồm Thượng điện, Trung điện (kiệu Long đình) và Bái đường có tổng diện tích 56m2. Trước cửa Thượng điện có đề 4 chữ Hán: "Thiên hạ mẫu nghi" (Người mẹ hiền trong thiên hạ) và hình chim phượng đang giang cánh bay lên. Giữa đỉnh nóc có hình mặt nguyệt. Bốn góc mái có hình rồng và hoa lá viền quanh. Trong điện trên mái sau có 3 chữ Hán: "Thượng Thánh cung" (cung của Thánh Thượng). Trung điện là nơi đặt đồ tế lễ và nơi hóa hương của khách đến viếng. Bốn đầu đao trên mái điện có 8 hình rồng. Trong điện có 8 con hạc chầu. Hai bên hành lang thờ bộ hạ của Thánh Mẫu có 2 con hổ phù. Nhà Bái đường trước có ba chữ Hán “Tạ Phúc đường” (nhà cầu phúc), bốn cột nhà đều có treo câu đối ca ngợi công đức Thánh Mẫu. Trong chùa Chân Tiên hiện có 14 tượng phật làm bằng gỗ mít, một bàn thờ, một lư hương, một hương án, trống, mõ... Tương truyền, thời vua An Dương Vương mở nước từng đặt chân đến nơi này. Không chỉ là nơi có “Tiên giáng trần” mà xung quanh ngọn núi này còn truyền lại trong dân gian nhiều câu chuyện cổ ly kỳ, huyền bí. Bao quanh chùa là rừng thông tự nhiên trùng trùng điệp điệp xanh tươi bốn mùa. Núi Tiên An còn có nhiều động đẹp, như: Động Trúc, Động Mai, Động Thạch Thất, Động Đá Người... và nhiều hang đá cổ như: hang đá Bàn Cờ, đá Giã Gạo, đá Cối Xay, đá Mười Hai Cửa... đặc biệt có đá Vợ, đá Chồng cao lớn sừng sững sánh đôi ngàn đời dưới chân núi, hướng mặt ra biển Đông. Dưới chân núi trước mặt chùa có Bàu Tiên và Bàn Cờ Tiên cùng các dấu tích như: Dấu chân ông Bành Tổ, vết chân Tiên nữ, vó Ngựa, suối Ngọc, giếng Tiên, thạch Kim Quy (đá rùa)… Di tích lịch sử - văn hóa chùa Chân Tiên còn là địa chỉ đỏ của phong trào cách mạng là nơi liên lạc của các tổ chức Đảng trong thời kỳ 1930 - 1931. Tại địa điểm này, ngày 25 tháng 4 năm 1930, Chi bộ Yên Điềm, tiền thân của Đảng bộ xã Thịnh Lộc ngày nay được thành lập. Lễ hội chùa Chân Tiên được tổ chức hằng năm vào ngày mồng 3 tháng 3 âm lịch. Lễ hội diễn ra trong 2 ngày, sau phần dâng hương tế lễ là phần hội với các hoạt động giao lưu văn nghệ, đua thuyền trên Bàu Tiên, đấu vật truyền thống, bóng chuyền bãi biển, kéo co, đánh cờ thẻ, thả diều, cắm trại... Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Du Lịch Tỉnh Hà Tĩnh

Hà Tĩnh 2871 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích Mộ và Đền thờ Nguyễn Lỗi

Đền thờ Nguyễn Lỗi nằm ẩn mình dưới chân núi Bạch Mã thuộc làng Bảo Thịnh, xã Dương Trai, huyện Hương Sơn, nay là xã Sơn Bình, tỉnh Hà Tĩnh. Nguyễn Lỗi, một vị tướng tham gia nhiều trận đánh lớn trên đất huyện Đỗ Gia - Hương Sơn, lập căn cứ đánh giặc Minh vùng Nghệ Tĩnh, là 1 trong 18 chiến hữu cận thần của Lê Lợi có mặt trong hội thề Lũng Nhai. Nguyễn Lỗi là con trai đầu của Tướng quốc Nguyễn Nhữ Lãm, là tứ quốc tính là Lê Lỗi, nay là dòng trưởng tại Thọ Xuân Thanh Hóa. Đời vua Thiệu Bình phong: sĩ chí suy trung tán tri kiêm cung tuyên lực công thần, đặc tiến kim tử, vinh lộc đại phu, bình chương quân quốc trạng sư, nhập nội từ đồ phò mã, đô uý thái phó thanh quận công, Nguyễn tướng công, tứ thuỵ giản tinh; Mất ngày 25 tháng 2. Vợ Nguyễn Lỗi là con đầu của vua Lê Thái Tông, hiệu là Yên Quốc, quốc trưởng công chúa, tên uý là Minh Tú, mất ngày mồng 6 tháng giêng. Sau ngày chiến thắng quân Minh xâm lược, ngày 5/3/1428 Lê Lợi ban biển ngạch công thần cho 93 người, Nguyễn Lỗi được xếp thứ 17 trong số 93 vị khai quốc công thần triều Lê, được ban quốc tính họ Lê. Ngày 7/11/1434 Đình thượng hầu, Thượng tướng quân Nguyễn Lỗi mất khi ông đang giữ chức vụ Tây đạo hành khiển - tả bộc xạ. Xét công lao của ông đối với sự nghiệp giúp dân cứu nước, vua Lê Thánh Tông truy tặng ông vào hàng ngũ các công thần tiết nghĩa. Đền thờ Nguyễn Lỗi được cấu trúc theo kiểu chữ Nhị, bao gồm 2 bộ phận chính là hạ điện và thượng điện. Hạ điện có kết cấu kiến trúc ngang kiểu chữ nhất, gồm 3 gian 2 hồi xây tường bít đốc. Mái được lợp ngói âm dương, trên nóc mái có trang trí lưỡng long chầu nguyệt. Kết cấu nội thất nhà được kiến trúc theo kiểu tứ trụ “nội kẻ cầu, ngoại kẻ mái” rất phổ biến trong các làng quê Nghệ Tĩnh. Thượng điện kết cấu gồm 3 gian 2 hồi, xung quanh xây tường bít đốc, mái lợp ngói âm dương, trên đỉnh nóc mái ở chính giữa được đắp nổi hình hổ phù đội mặt trời, 2 đầu là hình đầu rồng được đắp nổi bằng vôi vữa và các mảnh sành sứ cố ghép lại. Nội thất có các bàn thờ Nguyễn Lỗi và hậu duệ của ông, có đầy đủ các đồ thờ theo truyền thống. Đây là di tích danh nhân lịch sử, niên đại Thế Kỷ 15, được xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 28/12/2001. Nguồn: Trang Thông Tin Điện Tử Xã Sơn Bình

Hà Tĩnh 3244 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích Đền thờ Đô Đài Bùi Cầm Hổ

Đền Đô Đài hay còn gọi là Đền Bùi Ngự Sử, thuộc xã Đậu Liêu, huyện Can Lộc xưa, nay là phường Đậu Liêu, thị xã Hồng Lĩnh, Hà Tĩnh. Di tích nằm ở chân núi Bạch Tỵ Sơn là một trong 99 ngọn núi của dãy Hồng Lĩnh. Di tích Đền Đô Đài gắn liền với một nhân vật lịch sử trung thần Bùi Cầm Hổ. Ông sinh năm 1380, Ông có nhiều công lao đóng góp cho đất nước trong thời kỳ đầu của nhà Hậu Lê. Ông là một con người trung thực, thẳng thắn và công tâm. Đến lúc về hưu lòng vẫn mưu cầu hạnh phúc cho dân bằng một công trình thủy lợi Thanh Khê, biến vùng đất Kẻ Treo, Kiệt Thạch nghèo đói thành nơi trù phú nhất vùng. Đánh giá công lao Bùi Cầm Hổ các triều đại phong kiến đã phong nhiều sắc cho ông là “Thượng đẳng Thần”. Để ghi nhớ công lao của Bùi Cầm Hổ sau khi ông mất (1483) nhân dân lập bàn thờ và tôn ông là bậc Thánh. Khi Ông tạ thế, nhân dân Đậu Liêu dựng Đền thờ và làm lễ báo ân. Hàng năm vào ngày 12 tháng giêng là ngày lễ báo ân và là ngày hội xuân truyền thống. Đền Đô Đài còn là nơi chứa đựng nhiều sự kiện của thời kỳ Xô Viết Nghệ Tĩnh. Tại nền đất cũ, hố bom nham nhở chưa kịp san lấp. Đền phải chuyển sang xây cất ở một chỗ khác, kề bên chân núi gần đó, nhưng có nền đất cao hơn. Đền cũ nguyên xưa khá đồ sộ, có thượng, trung và hạ điện hướng đông nam. Trước đền là con đường qua truông, dọc theo đường là ngọn khe Vẹt, khu đền được che kín bởi một rừng cây rậm rạp. Trong đền có đủ các loại đồ tế khí, nghi trượng. Trước cửa hai ông phỗng to gần bằng người lớn, tóc tết hai xoáy, chắp tay quỳ gối kính cẩn nghiêm trang. Trải qua chiến tranh, cả rừng cây và ngôi đền đều bị bom đạn phá huỷ. Hoà bình lập lại, nhân dân sở tại tự nguyện đóng góp lập lại ngôi đền mới. Ngôi đền mới có quy mô nhỏ hơn với một điện thờ và một bái đường được sử dụng lại của ngôi đền cũ còn ít nhiều dấu tích văn hoá chạm khắc thời xưa. Một số đồ tế tự như áo, mão, cân đai, phẩm phục, các đạo sắc phong được cất giữ hầu như nguyên vẹn. Đền Đô Đài là di tích lịch sử gắn liền với danh nhân Bùi Cầm Hổ. Ngoài ra đền Đô Đài còn mang kiến trúc nghệ thuật cao. Với ý nghĩa lịch sử và nghệ thuật kiến trúc, năm 1992 đền Đô Đài được Bộ Văn hóa xếp hạng là Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Nguồn: Du lịch Hà Tĩnh

Hà Tĩnh 2914 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Bà Đanh

Chùa Bà Đanh- núi Ngọc thuộc địa phận thôn Đanh Xá, xã Ngọc Sơn, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam. Chùa Bà Đanh còn có tên chữ là Bảo Sơn tự. Ngoài thờ Phật, chùa Bà Đanh còn tín ngưỡng thờ Tứ Pháp (Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Điện, Pháp Phong là Thần mây, Thần mưa, Thần sấm, Thần sét) một tín ngưỡng thờ thiên nhiên rất gần gũi với đời sống nông nghiệp ở nước ta. Còn về tên gọi chùa Bà Đanh thì theo truyền thuyết của địa phương, chùa thờ nữ thần linh thiêng trông coi việc điều mưa khiển gió, giúp dân trừ lũ lụt, đem lại mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu nên được gọi là chùa Đức Bà làng Đanh, gọi tắt là chùa Bà Đanh như tên gọi ngày nay. Đi qua chiếc cầu treo Cấm Sơn khá bề thế bắc qua sông Đáy, vòng lên một đoạn đường đê vắng vẻ, sẽ bắt gặp tấm biển bằng đá ghi “Di tích lịch sử văn hoá chùa Bà Đanh và núi Ngọc". Cổng tam quan của chùa được xây dựng khá uy nghi, hoành tráng. Cổng có ba gian, hai tầng, ở trên là gác chuông, ở dưới là hệ thống cửa gỗ hoa văn đơn giản. Tuy nhiên cổng này chỉ mở khi chùa có đại lễ, những ngày thường du khách phải đi qua hai cổng nhỏ hai bên với mái ngói cong như hình bán nguyệt. Bước qua cánh cửa cổng khép hờ là khuôn viên rộng rãi, lát gạch tinh tươm rất sạch sẽ. Trong khuôn viên chùa có đặt nhiều chậu cây cảnh, giỏ phong lan tạo và đặc biệt là những hàng cau khẳng khiu vươn cao. Cũng giống kiến trúc của nhiều ngôi chùa vùng đồng bằng Bắc Bộ, chùa Bà Đanh là một quần thể kiến trúc liên hoàn gồm nhà bái đường, nhà thượng điện, nhà trung đường, phủ thờ Mẫu, nhà tổ…, ngôi chùa thuộc dòng Phật giáo Đại Thừa này có những nét riêng độc đáo. Trong chùa không chỉ có tượng Phật mà còn có tượng của Đạo giáo như Thái Thượng Lão Quân, Nam Tào, Bắc Đẩu, các tượng Tam Phủ, Tứ Phủ, Pháp Vũ. Nếu đến thăm quan, vãn cảnh chùa, du khách nên dành thời gian chiêm ngưỡng pho tượng Bà Đanh, được tạc theo tư thế tọa thiền trên chiếc ngai đen bóng với khuôn mặt đẹp, hiền từ, đầy nữ tính, gần gũi và thân thiết. Sự hài hoà giữa pho tượng và chiếc ngai tạo nên vẻ hấp dẫn của nghệ thuật điêu khắc chùa Bà Đanh. Năm 1994, Chùa Bà Đanh đã được Bộ Văn hóa thể thao & Du lịch công nhận là Di tích lịch sử cấp quốc gia. Nhiều năm nay, người ta đã không còn thấy cảnh vắng vẻ, hiu quạnh ở ngôi chùa này, câu “vắng như chùa bà Đanh" trước đây giờ đã được cải biên thành: “Ngày xưa vắng ngắt vắng ngơ. Bây giờ tấp nập như chùa Bà Đanh"… Nối giữa chùa Bà Đanh và núi Ngọc là một bãi rộng trồng cây lưu niên, chủ yếu là vải thiều, nhãn, tùy thời vụ có xen cả ngô lúa. Nằm hoàn toàn biệt lập với khu dân cư, trên núi, dưới sông, gần đền, gần chùa, núi Ngọc quả là một thắng cảnh của đất Kim Bảng, một địa điểm du lịch đầy hấp dẫn. Chùa Bà Đanh được biết đến rộng rãi không phài vì ngôi chùa này đông người tìm về hành hương hay đông khách thăm quan du lịch mà di tích này được biết đến bởi câu ví von “Vắng như chùa Bà Đanh". Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Huyện Kim Bảng Tỉnh Hà Nam

Hà Nam 2649 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Lũng Xuyên

Đình Lũng Xuyên thuộc thôn Lũng Xuyên, xã Yên Bắc, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam. Đình Lũng Xuyên thờ vị anh hùng dân tộc Lý Thường Kiệt. Theo truyền thuyết của người dân địa phương, con sông Châu chảy qua địa phận Lũng Xuyên là con đường thủy mà Lý Thường Kiệt cùng các chiến binh của ông thường qua lại khi đóng quân ở vùng Thịnh Châu hạ và An Xá. Trong các lần tuần binh qua, ông và quân sĩ đã có lần nghỉ tại đây. Xung quanh làng Lũng Xuyên còn thấy có nhiều các gò đống, tương truyền đây là nơi để buộc thuyền chiến và để đồ dùng của các đạo quân do Lý Thường Kiệt chỉ huy. Nhân dân địa phương cho rằng, Lý Thường Kiệt đã từ Thăng Long, theo sông Hồng, vào sông Châu (có nghỉ lại Lũng Xuyên), rồi ra sông Đáy. Hiện nay, tại đình vẫn còn nhiều bài văn tế ca ngợi công lao, nhân đức của Thái úy, ở hai cung còn có hàng chữ khắc trên xà ngang của vì kèo thứ nhất giáp với tiền đường “Phát Tống bình Chiêm, an dân muôn thuở”, chính là để ngợi ca công lao to lớn của ông đối với đất nước. Đình được xây dựng trên mảnh đất rộng, cao ráo, thoáng đãng. Đình quay hướng nam, được kiến trúc theo lối chữ đinh, tiền đường 5 gian, hậu cung 3 gian. Tòa tiền đường dài 17 mét 20, rộng 8 mét 80, mái cong, lợp ngói nam, đứng hàng, thẳng lối, ngói lợp kiểu móng rồng. Mặt tiền của tòa tiền đường là dãy cửa bức bàn, khung được tạo bằng các gờ chỉ, giữa là ván bưng tạo kiểu panô. Hai bên xây bít bằng tường gạch, giữa bức tường có hai cửa sổ. Hai hàng cột trong tòa tiền đường được làm kiểu búp đòng, giữa to hai đầu nhỏ, đặt chân trên tảng đá xanh hình vuông, trên mặt đá tảng nổi gương tròn tương xứng với đường kính của chân cột. Dàn mái còn giữ được một số hoành tròn đường kính 12cm, các lần trùng tu sau này bổ sung nhiều hoành vuông có cạnh 12cm. Hậu cung 3 gian bắt mái với gian giữa của tòa tiền đường, cửa giữa của hậu cung có mảng chạm hai con long mã chầu, mặt hổ phù với chân nắm lấy đầu của hai con long mã. Dưới bức chạm là bức đại tự khắc 4 chữ Hán lớn: "Sơn xuyên chung tú" (sáng đẹp cùng sông núi). Ở sân đình còn có hệ thống cột đồng trụ, gồm có đế trụ đắp theo kiểu thắt cổ bổng, thân cột được đắp gờ nổi ở bốn cạnh, phía trên là đèn lồng và trên cùng là trục đỡ hai quả dành dành lớn. Tiếp đến là tả môn và hữu môn đăng đối, mỗi cửa có 4 mái cong với đầu đao, ngói ống. Trong sân là hai dãy tảo xá, mỗi dãy 3 gian dùng để đón khách trong các kỳ lễ hội. Tại nơi đây, đêm 19 tháng 8 năm 1945 lực lượng chính của đội quân cách mạng giành chính quyền của huyện đã tập trung để chờ lệnh xuất phát. Sáng sớm ngày 20 tháng 8 năm 1945, tại sân đình Lũng Xuyên 3 tiểu đội vũ trang của huyện đã làm lễ tuyên thệ trước lá cờ tổ quốc, sau đó tiến quân theo kế hoạch đã định. Trước đây đình Lũng Xuyên có nhiều đồ thờ tự đẹp. Qua năm tháng chiến tranh, nhiều hiện vật bị mất mát. Hiện nay trong hậu cung chỉ còn cỗ ngai thờ thần hoàng Lý Thường Kiệt là tiêu biểu, ngai cao 1,1m chạm khắc tập trung trên thân và tay ngai. Trong hậu cung còn có chiếc chuông nhỏ cao 50cm, đáy 30cm, quai chuông tạo hình hai đầu rồng một thân. Ngoài ra, đình Lũng Xuyên còn có một bộ tam sự bằng đồng gồm đỉnh hương và hai cây nến. Đỉnh hương cao 50cm, thân hình bầu, có gắn hai quai, 3 chân tạo hình chân ly, nắp tạo hình con nghê đang cười. Những hiện vật trên góp phần tạo nên giá trị văn hóa của đình Lũng Xuyên. Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Tỉnh Hà Nam

Hà Nam 2889 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Làng Dâu

Làng Dâu còn gọi làng Mỹ Đôi, thuộc xã An Mỹ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. nằm trên địa bàn có bề dày lịch sử. Nơi đây, thờ ba chị em Ả Đào, Nguyễn Phương, Nguyễn Quế chỉ huy nghĩa binh đánh giặc Minh đầu thế kỷ XV. Theo Ngọc phả đình Dâu và truyền thuyết địa phương thì thân phụ của chị em Ả Đào từ vùng Tiên Lữ, Hưng Yên, sang xã Bồ Xá Bình Lục lấy vợ lẽ là Thị Hương và sinh được Ả Đào, Nguyễn Phương, Nguyễn Quế. Hồi đó giặc Minh xâm lược nước ta, sát hại sinh linh, cướp phá tài sản, gây nhiều thảm cảnh ở Trang Cổ Thọ (nay thuộc xã An Mỹ). Trước những hành động bạo ngược của giặc Minh, Ả Đào bàn với hai em và dân làng tìm cách đánh giặc trừ hại cho dân. Nghĩa binh hai làng Bồ Xá, Cổ Thọ quyết định đánh úp căn cứ giặc Minh. Vào lúc nửa đêm ngày 14 tháng 2, Ả Đào chia quân làm ba đạo, phối kết hợp với dân làng Cổ Thọ tập kích phá đồn giặc. Trước giờ xuất phát, nghĩa quân lấy bánh dầy làm lương ăn, lấy mía thay nước và tuyệt đối không dùng lửa. Trận tập kích phá đồn giặc thành công. Nhân dân cổ Thọ được giải phóng, lấy lại sự thanh bình cho làng quê. Để ghi nhớ công ơn những người anh hùng cứu dân, cứu nước, nhân dân địa phương đã thiết lập đền thờ trên các đường tiến quân. Do vậy mà làng Dâu có ba ngôi đền nhỏ ở ba phía, mỗi đền thờ một vị tướng như Ả Đào tiên chúa, Nguyễn Phương đại vương, Nguyễn Quế đại vương. Nhân dân làng Dâu còn xây dựng ngôi đình to lớn mái cong, với sự gia công nghệ thuật điêu khắc công phu để làm nơi cộng đồng thờ chung các vị và qua nhiều thời đại, đều được Sắc phong với lời lẽ tốt đẹp. Điều đặc biệt là lệ làng lấy ngày 15 tháng 2 để trình diễn , “Phá đồn minh binh, diễn khai sự tích", (mở cuộc thao diễn sự tích đánh đồn giặc Minh). Ngoài truyền thuyết trên, đình làng Dâu còn thờ hai vị Tiến sĩ là Bùi Công Bang và Bùi Công Minh. Hai vị tiến sĩ thời nhà Lê đã làm rạng danh và là biểu tượng của sự hiếu học của nhân dân làng Dâu. Trong thời đại Hồ Chí Minh, làng Dâu cũng là một “địa chỉ đỏ”, nơi viết nên những trang sử hào hùng của Đảng bộ và nhân dân huyện Bình Lục. Năm 1930, chi bộ Đảng xã Mỹ Thọ được chính thức thành lập tại khu miếu trong quần thể di tích đình làng Dâu; khởi phát cho phong trào đấu tranh kiên cường chống sự đô hộ của thực dân Pháp. Đình làng Dâu và những đảng viên ưu tú của quê hương đã che chở, bao bọc cho nhiều chiến sĩ cách mạng tiền bối như đồng chí Hoàng Quốc Việt (Xứ ủy Bắc Kỳ), đồng chí Trần Tử Bình, Phạm Mộng Sách, Cả Tất... khi các đồng chí này về lãnh đạo phong trào cách mạng ở Hà Nam. Những năm 1950-1954, nhiều lần du kích làng Dâu đã bao vây, tấn công vị trí địch trên Đường 21, cũng như các đồn bốt xung quanh. Tháng 3-1954, Đại đội 37 của tỉnh Hà Nam và Đại đội 60 của huyện Bình Lục đã đánh tập kích tiểu đoàn 9 của Pháp, gây cho chúng nhiều tổn thất. Với những giá trị lịch sử, văn hóa của đình làng Dâu và sự lan tỏa của nó đến truyền thống đấu tranh cách mạng hào hùng của nhân dân địa phương, Nhà nước đã có quyết định công nhận đình làng Dâu là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia; Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Huyện Bình Lục Tỉnh Hà Nam

Hà Nam 3153 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền thờ tổ Quốc Công Trần Như Lân

Từ đường ( nhà thờ ) Lương Quận Công Trần Như Lân ở thôn Thượng Lang xã Ngọc Lũ, Bình Lục, Hà Nam. Nhà thờ này được con, cháu, chắt trong dòng họ xây dựng vào năm Chính Hòa thứ 2 (1681) sau 46 năm khi Quận Công Trần Như Lân qua đời. Ngôi nhà 5 gian làm toàn bằng gỗ lim, mỗi vì kèo có 4 cột, cột cái có đường kính trên 30cm, tất cả các thân cột đều đặt trên các chân tảng bằng đá xanh, 3 mặt nhà thờ xây tường gạch, đằng trước là hệ thống cửa gỗ lim chạy suốt 5 gian có thể tháo lắp dễ dàng, mặt ngoài hai đầu hồi phía trên đắp hổ phù, đằng trước nằm sát phía đầu hồi là hai cột đồng trụ, tạo cho ngôi nhà thêm khang trang bề thế. Tất cả đều lợp bằng ngói nam. Bờ nóc phía hai đầu hồi đắp 2 con kim. Những biểu tượng này dễ cho mọi người thấy những nhân vật được thờ ở đây mang nhiều chất võ công hơn là văn trị. Tại nhà thờ Quận công còn có nhiều đồ thờ phong phú đa dạng bao gồm nhiều loại chất liệu như gỗ, kim loại quý, gốm sứ, đá, vải... Tất cả các đồ thờ bằng gỗ đều được sơn son thiếp vàng, ánh màu rực rỡ. Đặc biệt tại đây còn lưu giữ được 15 đạo sắc phong từ thời Hậu Lê. Đạo sắc sớm nhất là ngày 05-12-1769 (năm Vĩnh Tộ thứ 5). Phong chức Quận công tả đô đốc thiểu bảo, kiệt tiết công thần thượng trụ quốc Trần Như Lân. Đạo sắc phong cuối cùng cho Trần Như Tiệp (đời thứ 7 của dòng họ Trần Như Lân ngày 19-7-1769) năm Cảnh Hưng thứ 30). Tại nhà thờ còn có các văn bia, gia phả cách đây hơn 300 năm giúp nhiều cho việc nghiên cứu lịch sử một thời đã qua của quê hương đất nước. Qua các tài liệu còn lưu giữ và truyền thuyết trong vùng kể lại: Trần Như Lân sinh năm 1563 tại lang Kim Lũ (nay là xã Ngọc Lũ, huyện Bình Lục) trong một gia đình nông dân nghèo. Bố đẻ mất sớm sống trong cảnh mẹ góa con côi, ông sớm có ý thức tự chủ để gánh vác mọi công việc của gia đình do người cha để lại. Từ các việc chăn trâu, kiếm củi làm thuê ông đều không quản ngại. Ông còn ham luyện tập võ nghệ và học hỏi nên đã giúp cho mình có trí rộng tài cao và sức khỏe phi thường. Trong lúc này tình hình đất nước rối ren, phân chia, lòng người ly tán, dân chúng lầm than bởi cuộc nội chiến liên miên. Vốn tính cứng rắn phong độ oai hùng Trần Như Lân đã hết lòng phò vua giúp nước an dân. Việc gì được giao cũng hoàn thành. Đối với quê hương, Trần Như Lân và con cháu của người luôn mong muốn cho quê nhà đổi thay đi lên. ông và mọi người đã giúp để sửa chữa đình làng, chùa thờ phật, cải tạo mở rộng chợ Kim Lũ (Chợ Chủ) ông còn đắp đường xây cầu cống, lập bến đò cho nhân dân tiện đi lại, khuyến khích nhân dân khai phá đất hoang để cải thiện đời sống, mua thêm đất cho dân làng cày cấy để lo việc chung. Đặt tên cho một số xóm và cánh đồng của làng xã. Tổ chức một số sinh hoạt thường niên của làng. Từ những đóng góp thiết thực cho quê hương ông đã được nhân dân địa phương tôn kính và suy tôn làm phục thần làng ngay khi ông còn sống. Sau khi ông mất, hàng năm xuân thu, nhị kỳ khi làng mở hội, ông còn được hưởng tế lễ ở đình làng. Hiện tại chùa Ngọc Lũ còn có nhiều tượng các vị bồ hậu là các bậc phu nhân của dòng họ Trần Như do có nhiều đóng góp tiền bạc, ruộng đất trong các đợt tu sửa chùa nên được tạc tượng để thờ ( Có 6 pho tượng nữ). Từ đường Lương Quận Công Trần Như Lân được xếp hạng di tích Lịch sử cấp quốc gia ngày 16/01/1995. Nguồn: Lịch Sử Họ Trần Như

Hà Nam 3442 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình và Chùa Cổ Viễn

Đình và chùa Cổ Viễn thuộc xã Hưng Công, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Đình Cổ Viễn là công trình kiến trúc quy mô gồm 4 toà làm theo lối nội đinh, ngoại quốc. Mặc dù đã nhiều lần tu sửa, tôn tạo nhưng di tích vẫn bảo lưu được đường nét nghệ thuật của hai thế kỷ 17 và 18. Ngoài việc tạo độ bền vững chắc chắn, các cấu kiện kiến trúc trên công trình còn được đục chạm nhiều đề tài sinh động mang đậm phong cách điêu khắc của thời Hậu Lê như rồng chầu, phượng múa, lá lật hóa long, vân ám, lá hỏa. Cùng với vẻ đẹp về kiến trúc đình Cổ Viễn còn gìn giữ được một số đồ thờ có giá trị nghệ thuật. Đó là chiếc án thư khá lớn kê ở gian giữa tiền đường có dáng dấp độc đáo, bố cục họa tiết hợp lý, trang trí nhiều đề tài dân gian với những đường đục chạm, nhấn tỉa mạch lạc. Tại chính tẩm đình có một ngai thờ là tác phẩm nghệ thuật của thời Hậu Lê. Ngoài việc trang trí nhiều đề tài, họa tiết với kỹ thuật đục bong chạm lộng công phu, ngai thờ còn được phủ một lớp vàng son lộng lẫy góp phần làm tăng thêm không khí trang nghiêm nơi thờ tự. Chùa Cổ Viễn nằm liền sát với đình Cổ Viễn, tên chữ là “Linh Quang Tự” (chùa Linh Quang). Công trình gồm 2 tòa chính, 8 gian thiết kế kiểu chữ đinh, mái phẳng lợp ngói nam. Ngoài ra đằng sau còn có nhà tổ 5 gian, phía tây là phủ thờ 5 gian kiến trúc kiểu tiền đao, hậu đốc. Theo truyền thuyết địa phương thì chùa được xây dựng từ thời nhà Lý. Tuy nhiên do thời gian và ảnh hưởng của điều kiện thiên nhiên, chiến tranh, chùa Cổ Viễn đã nhiều lần tu sửa, hiện nay kiến trúc của công trình hoàn toàn mang phong cách nghệ thuật thời Nguyễn. Căn cứ vào cuốn, Địa dư huyện Bình Lục thì đình Cổ Viễn là nơi thờ Nguyễn Hoằng tướng thời Hùng Duệ Vương. Nguyễn Hoằng là người tinh thông văn võ từ thuở nhỏ nên đến tuổi trưởng thành Nguyễn Hoằng được Tản Viên Sơn thánh tiến cử vào triều. Được phong chức , Dũng lược tướng quân, ông thường hộ giá nhà vua đi chu du khắp nơi. Một lần qua trang Cổ Viễn thấy dân ở đây hiền lành, chất phát ông liền cho lập hành cung làm nơi đi lại nghỉ ngơi. Khi giặc Thục đem quân quấy phá, Nguyễn Hoằng đã động viên được 28 người trang Cổ Viễn theo ông lên đường đánh giặc. Kháng chiến thắng lợi ông được triều đình phong tặng là “Hùng lược cao Huân Hồng Liệt đại vương”, cho thực ấp ở phủ Thiên Trường và miễn trừ sưu dịch cho dân làng Cổ Viễn. Sau khi Nguyễn Hoằng qua đời, để ghi nhớ công lao của ông, nhân dân trang Cổ Viễn đã lập đình thờ tôn làm thành hoàng muôn đời hương khói phụng thờ. Cũng theo ngọc phả hiện đang lưu giữ tại di tích thì ngoài việc thờ phật theo phái Đại thừa, chùa Cổ Viễn còn thờ Phạm Công chúa là con của vua Lý Thánh Tông và Ỷ Lan phu nhân. Phạm Công chúa là người tài sắc nết na nhưng khi đến tuổi trăng tròn lại không hề nghĩ đến chuyện nhân duyên mà chỉ xin vua cha cho lập cung riêng ở làng Gia Quất để khuyên dân cày cấy làm ăn và cứu giúp những người nghèo đói, bệnh tật. Ngoài việc thờ tự đình chùa Cổ Viễn còn đóng góp nhiều công lao cho cách mạng, kháng chiến giải phóng quê hương đất nước. Khu di tích là cơ sở tin cậy nuôi dưỡng bảo vệ cán bộ Xứ uỷ, Liên tỉnh uỷ C, Tỉnh uỷ Hà Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Đình chùa Cổ Viễn còn là nơi cất giấu tài liệu và địa điểm tập trung lực lượng của dân quân du kích địa phương đánh trả những cuộc càn quét của địch vào thôn xóm. Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Huyện Bình Lục Tỉnh Hà Nam

Hà Nam 2989 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Từ đường nhà thơ Nguyễn Khuyến

Từ đường Nguyễn Khuyến nằm ở làng Vị Hạ, xã Trung Lương (xưa là xã Yên Đổ), huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Khu Từ đường Nguyễn Khuyến được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là Di tích lịch sử cấp quốc gia năm 1991. Nhà thơ Nguyễn Khuyến (1835 – 1909), tên thật là Nguyễn Thắng, hiệu là Quế Sơn, tự Miễu Chi, sinh ngày 15/2/1835, tại quê ngoại làng Văn Khế, xã Hoàng Xá, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Quê nội ông ở làng Vị Hạ (tục gọi làng Và), xã Yên Đổ, nay là xã Trung Lương, huyện Bình Lục. Năm 1864, Nguyễn Khuyến đỗ đầu khoa thi Hương, đến năm 1871 ông liên tiếp đỗ đầu thi Hội, thi Đình. Vì đỗ đầu cả ba kỳ thi nên đương thời gọi ông là “Tam Nguyên Yên Đổ”. Năm 1873, ông được bổ chức Đốc học Thanh Hóa rồi thăng lên Án sát tỉnh Thanh Hóa. Năm 1883 ông được cử là Phó sứ đoàn đi sứ nhà Thanh. Làm quan từ năm 1871 đến năm 1884 thì ông cáo quan về nghỉ tại quê nhà khi 50 tuổi. Với hơn 800 tác phẩm viết bằng chữ Nôm, chữ Hán ở nhiều thể loại như: Thơ, văn, câu đối… Đặc biệt là chùm 3 bài thơ: Thu Điếu, Thu Ẩm, Thu Vịnh, thấm đẫm hồn Việt, đưa ông lên vị trí hàng đầu “Nhà thơ làng cảnh Việt Nam”. Đây là ngôi nhà cổ - nơi nhà thơ từng sinh sống thời khoa cử và những tháng năm tuổi già sau khi cáo lão, từ quan. Không chỉ là nơi thờ tự, từ đường còn lưu giữ nhiều kỷ vật gắn bó mật thiết với cuộc đời nhà thơ: 2 hòm sách, 2 ống quyển, 2 biển “Ân tứ vinh quy” vua ban cho ông nghè Nguyễn Khuyến, tấm ảnh ông chụp lúc sinh thời, câu đối của Tổng đốc Ninh - Thái Bùi Ước mừng vào mùa thu năm1872; bài thơ của tiến sỹ Dương Khuê tặng năm 1871, được khắc trên bức cuốn thư… Cổng vào Từ đường được xây bằng gạch nhỏ (đã được sơn lại) phía trên có 3 chữ lớn “Môn tử môn” (cửa ra vào của học trò). Hai bên cổng là đôi câu đối đắp nổi, chữ hán nhấn vào vữa. Bậc thềm được xây dật ba cấp cao 0,40m. Khu nhà tế đường có 7 gian. Bẩy gian nhà này, ba gian giữa để tiếp khách, mỗi đầu hồi hai gian được ngăn ra bằng gỗ để làm buồng. Mấy gian nhà này làm theo kiểu vì kèo giá chiêng, cột có đường kính 0,35m, điêu khắc mang phong cách thời Nguyễn đơn giản. Qua một sân gạch rộng 0,35m hai đầu hồi xây tường gạch là đến nhà thứ hai. Trong sân về phía giáp tường có một số bồn xây để trồng hoa và cây cảnh. Nhà thứ hai hiện nay là Từ đường Nguyễn Khuyến. Ngôi nhà gồm ba gian, bốn hàng cột, đường kính cột là 0,25m, kiểu vì chèo giá chiêng chồng rường. Hai đầu hồi và tường sau được xây tường gạch, còn đằng trước là dãy cửa bức bàn bằng gỗ, mỗi gian có bốn cánh cửa. Cửa này mỗi khi có việc có thể tháo ra toàn bộ làm cho lòng nhà thoáng đãng, sáng sủa, không gian mở rộng thêm. Trong nhà trạm khắc không cầu kỳ. Ngoài một số hình lá lật, một vài chữ triện đơn giản, kỹ thuật ở đây chủ yếu là ghép mộng, ngang bằng sổ ngay dứt khoát, kết cấu với nhau chặt chẽ. Tấm ảnh Nguyễn Khuyến đầu đội khăn lượt mặc áo dài, tay nâng chiếc chén hạt mít, chụp lúc sinh thời được đặt trang trọng trong Từ đường. Nguồn: Báo Hà Nam Điện Tử

Hà Nam 3511 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

ĐÌNH CÔNG ĐỒNG AN THÁI

Đình Công Đồng ở làng An Thái, Thị trấn Bình Mỹ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Theo sử sách ghi lại, thôn An Thái có 3 ngôi đình cổ thờ 3 anh em Hoàng Công, Huy Công và Đô Công. Sinh thời, 3 anh em trên đường đi đánh giặc Ngô Hoàng, khi qua An Thái thấy vùng đất có địa thế hiểm yếu, nhân dân thuần hậu nên hạ lệnh đóng quân đào đắp hào lũy. Không chỉ đánh tan giặc Ngô Hoàng, 3 ông còn lập nhiều chiến công lừng lẫy, đánh đuổi giặc Ân, cùng với Thánh Gióng thoát tục, cưỡi mây bay về trời. Tưởng nhớ công trạng của các vị Thánh nhân, người dân đã tôn thờ, lập vị thành hoàng làng, quanh năm hương khói thờ phụng. Hàng năm, tổ chức lễ hội để tôn vinh công đức các vị thánh nhân, nhắc nhớ con cháu trong làng gìn giữ truyền thống yêu nước, chống giặc ngoại xâm, đoàn kết và sẻ chia cùng nhau xây dựng xã tắc vững bền. Lễ hội chính thức diễn ra từ ngày 10/2 âm lịch, kết thúc ngày 12/2 với các nghi thức tế lễ, rước thánh truyền thống từ đình Công Đồng đến đình Thánh Cả. Một trong những nghi thức quan trọng và mang đậm bản sắc văn hóa ở lễ hội đình Công Đồng làng An Thái chính là rước kiệu thánh. Các đoàn múa rồng, múa sư tử, các đội tế lễ, lực lượng nghinh kiệu, phù giá đều trong trang phục chỉnh tề theo quy định để rước kiệu từ đình Công Đồng đến đình Đệ Tam, về đình Thánh Cả làm lễ cáo yết. Trong đoàn rước, lực lượng phù giá kiệu là lực lượng chấp hành tuyệt đối các quy định của làng. Mặc dù ai cũng có thể làm phu kiệu, kể cả những người con xa quê nhưng đều phải đáp ứng các tiêu chuẩn: Nam từ 20 đến 50 tuổi, nữ từ 18 đến 25 tuổi khỏe mạnh, sạch sẽ, không có tang trở. Tất cả phải chay tịnh trong 10 ngày trước khi vào lễ hội. Trang phục phù giá, nhân dân tự túc may sắm nhưng phải đúng kiểu. Nam thì quần trắng, áo the màu, thắt lưng đỏ, đi giày, đầu đội khăn xếp. Nữ thì đầu tóc gọn gàng, áo dài màu, quần trắng, thắt lưng hồng, đi giày. Kể cả nam nữ cầm bát biểu, kiếm hầu, phu kiệu đều ăn mặc như trên. Riêng mỗi kiệu, người cầm cờ lệch là mặc quần áo tế. Tất cả mọi người tham gia đám rước đều vừa hóa thân, vừa nhập thân, mong cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, nhân khang vật thịnh, phúc lộc đề đa. Ngày 02/3/1990, Đình Công Đồng Thôn An Thái, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam được xếp hạng là di tích Lịch sử cấp quốc gia. Nguồn: Báo Hà Nam Điện Tử

Hà Nam 2752 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Triều Hội

Đình Triều Hội thuộc xã Bồ Đề, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam là nơi thờ cúng hai vị thành hoàng làng. Một vị là Cao Mang tôn thần, tướng tài nhà Trần và một vị là Trần Xuân Vinh đỗ đệ nhị giáp tiến sĩ được làm quan dưới triều vua Lê Thánh Tông, niên hiệu Hồng Đức. Thần phả của hai vị thần nay đã thất lạc, song dân làng vẫn truyền tụng câu chuyện kỳ lạ về vị tiến sĩ đời Lê Trần Xuân Vinh. Truyền thuyết kể lại rằng, sau khi đỗ tiến sĩ, trên đường về thăm quê bằng đường sông Châu, thuyền của ông và cha mẹ ông đều bị lật, cả nhà bị chết đuối, xác ông trôi vào Bãi Nhót. Dân lập một ngôi miếu nhỏ để thờ ông. Ngôi miếu rất linh thiêng nên dân làng đã xin chân nhang về lập đình thờ ông làm thành hoàng. Như vậy, theo truyền thuyết và theo suy luận logic thì vị thần Cao Mang đời Trần chắc đã được thờ từ trước, sau khi có miếu thờ vị tiến sĩ triều Lê thì lập đình cùng phối tự hai vị thần này. Đình Triều Hội được kiến trúc theo kiểu chữ tam: tiền đường năm gian, cung đệ nhị năm gian và chính tẩm ba gian. Ngôi đình đã được tu bổ nhiều lần và trên thượng lương có ghi một lần tu sửa vào niên hiệu Thiệu Trị thứ sáu. Tiền đường năm gian, được lợp bằng ngói nam, bờ nóc được đắp lưỡng long chầu nguyệt. Bộ khung cửa đình được dựng bằng gỗ lim. Nền nhà được lát bằng gạch chỉ soi ống tơ đúng với phong cách cổ kính của đình làng Việt Nam. Bộ cửa được làm theo kiểu bức bàn, trên song dưới lùa. Cung đệ nhị được sửa chữa nhiều lần, chạm khắc chỉ còn lại trên các câu đầu, xà nách 4 kẻ với các mô típ hoa văn cách điệu đơn giản. Chính tẩm 3 gian được thiết kế bằng gỗ lim như tòa tiền đường tuy chạm khắc ở đây không cầu kỳ bằng. Đình Triều Hội được xếp hạng di tích lịch sử vì nơi đây đã diễn ra cuộc biểu tình tuần hành thị uy của nông dân trong vùng vào ngày 20/10/1930. Cuộc tuần hành này nhằm phát động quần chúng đấu tranh đòi bãi bỏ hội đồng cải lương, đòi giảm sưu thuế, ủng hộ Xô Viết Nghệ Tĩnh và cuộc đấu tranh của nông dân Tiền Hải, Thái Bình. Xã Bồ Đề được chọn làm địa điểm cuộc biểu tình đó vì Tỉnh ủy Hà Nam nhận định, nơi đây chẳng những phong trào vững mà còn là nơi tiếp giáp 3 huyện Bình Lục, Lý Nhân, Mỹ Lộc nên có thể tập trung phát huy thanh thế. Thời gian của cuộc biểu tình được ấn định vào ngày 20/10 vì đó là phiên chính của 3 chợ Bồ Đề, Thành Thị và An Ninh. Đúng 7 giờ sáng, tiếng trống ở đình Triều Hội vang lên, cờ đỏ búa liềm tung bay, những người tham gia biểu tình đóng giả người đi chợ bắt đầu đứng vào hàng ngũ. Dưới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy Hà Nam và Huyện ủy Bình Lục, đoàn biểu tình đi đến những điểm quy định như Điếm Tống, chợ Đồn (An Ninh), Ba Hàng (Thành Thị), vừa đi vừa diễn thuyết, phát truyền đơn kêu gọi mọi người vùng dậy đấu tranh chống đề quốc phong kiến, chống khủng bố đánh đập, ủng hộ Xô Viết Nghệ Tĩnh. Đoàn biểu tình ngày một đông, xuất phát từ chợ Bồ Đề 300 người đến chợ Vạc (An Ninh) đã lên tới hàng nghìn người. Trước khí thế cách mạng ngùn ngụt của cuộc biểu tình, bọn địa chủ, cường hào, tay sai của thực dân Pháp rất hoảng sợ. Đến 12 giờ trưa, các đồng chí lãnh đạo quyết định làm mít tinh tại chợ Vọc rồi giải tán. Cuộc biểu tính thắng lợi hoàn toàn. Thắng lợi của cuộc biểu tình là thắng lợi chính trị quan trọng, có ảnh hưởng lớn đến phong trào đấu tranh chính trị trong tỉnh và trong cả nước. Sự kiện này đã được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc lấy là một chứng minh về tinh thần và khả năng cách mạng của nông dân Việt Nam trong thư báo cáo với Quốc tế nông dân ngày 5 tháng 11 năm 1931. Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Tỉnh Hà Nam

Hà Nam 2888 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền thờ nữ tướng Lê Chân

Theo sử sách ghi lại Nữ tướng Lê Chân sinh ngày mùng 8 tháng 2 năm 20 đầu Công nguyên. Bà sinh ở miền biển Quảng Ninh; lập trang ấp, rèn quân binh tại thành phố biển Hải Phòng nhưng lại tuẫn tiết ở miền núi vùng Lạt Sơn (nay là thôn Hồng Sơn, Kim Bảng, Hà Nam). Mang mối thù nhà, nợ nước, nghe lời truyền hịch cứu nước của Trưng Nữ Vương, Lê Chân đã đem nghĩa quân theo Hai Bà Trưng dựng cờ khởi nghĩa đánh đuổi giặc Hán. Núi Giát Dâu là ngọn núi cao nhất vùng Lạt Sơn, nơi đây ngày 13 tháng 7 năm 43, không địch lại giặc Hán, nữ tướng đã tuẫn tiết gieo mình từ trên đỉnh núi xuống thung lũng. Nhân dân trong vùng tưởng nhớ lập bàn thờ dưới chân núi, xây dựng chùa và đền thờ bà, nơi này vẫn còn dấu tích trong rừng Lạt Sơn. Đền Lê Chân hiện nay nằm trên Đường Lê Chân, thôn Hồng Sơn, mặt chính điện quay hướng Nam. Trước cửa đền ngày trước là sông Ngân – chi lưu của sông Đáy, phía sau đền gối vào đồi Ông Tượng. Tổng thể kiến trúc khu đền gồm: Đền chính, phủ bóng, động Sơn trang, nhà khách và các công trình phụ trợ tạo thành một quần thể khép kín với diện tích trên 4.000m2. Trên sân, trước cửa đền tượng nữ tướng đứng oai nghiêm, tuốt kiếm hướng mặt về căn cứ địa xưa. Bức tượng được dựng trước khi xây lại đền (năm 2006) và được phỏng tác theo mẫu tượng nữ tướng ở đền Thủy An (Quảng Ninh) là nơi sinh của bà. Lễ hội lớn nhất được diễn ra tại đền thờ là vào ngày 13/7 âm lịch hàng năm( ngày hóa nữ tướng). Người dân sẽ tổ chức lễ hội nhằm tưởng nhớ công lao của nữ tướng, đồng thời cầu cho người dân đi rừng, làm nương thuận lợi… Từ ngày 11/7 dân làng đã bắt đầu chuẩn bị làm lễ cáo yết ở đền, xin phép mở hội. Vào dịp lễ hội, đền đón tiếp rất nhiều đoàn khách trong và ngoài tỉnh về đền tế lễ. Ngày hội chính 13 tháng 7. Sáng sớm, dân làng và du khách đã về tập trung tại đền để làm lễ rước kiệu vào đình làng. Nguồn: Báo Hà Nam điện tử

Hà Nam 3087 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích Lịch sử Căn cứ địa Lạt Sơn

Căn cứ địa Lạt Sơn - nơi mà Nữ tướng Lê Chân lập căn cứ và hy sinh trong cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng vào mùa Xuân Canh Tý năm 40 (sau Công nguyên). Đây là cuộc khởi nghĩa đầu tiên của nhân dân Âu Lạc chống lại thế lực phong kiến Đông Hán phương Bắc. Khởi nghĩa giành thắng lợi, Trưng Trắc xưng vương, phong Lê Chân là “Thánh Chân công chúa” giao nhiệm vụ: “Chưởng quản binh quyền nội bộ” đóng bản doanh ở trung tâm Giao Chỉ để coi giữ vùng biển phía Đông (Đông Bắc nước ta). Thời gian sau, nhà Đông Hán lại sai Mã Viện mang quân quay trở lại xâm lược ta, cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng bị thất bại, Lê Chân đã bí mật đưa đoàn quân của mình tới hoạt động tại vùng Hải Phòng (Kiến An) - Hải Dương - Thái Bình - Hà Nam ngày nay. Khi cuộc chiến chống quân xâm lược Đông Hán rơi vào thế nguy cấp, Nữ tướng Lê Chân tiếp tục cùng thủy binh xuôi về nam đồng bằng sông Hồng và chọn vùng rừng núi hiểm trở Lạt Sơn (Kim Bảng, Hà Nam) để làm căn cứ phòng thủ chặn quân Đông Hán. Sở dĩ Lê Chân chọn Lạt Sơn làm căn cứ địa vì nơi đây có vị trí hiểm yếu, lưng tựa vào dãy núi hình cánh cung ở phía Tây chạy từ Bắc xuống Nam; trước mặt, phía Đông là sông Đáy, sông Ngân như hai hào nước. Địa hình căn cứ tiến có thể đánh, lui có thể giữ, đầu cuối hô ứng lẫn nhau. Trận địa phòng thủ được xây dựng ở các thung lũng trước núi, ở các hang động và các đồi đất lẫn đá kéo dài khoảng 7 km từ Bắc xuống Nam. Đầu căn cứ ở phía Bắc, đặt tiền đồn ở thung Mộc Bài, nơi đây bố trí đội quân tiên phong chặn mũi tiến công đầu tiên của quân thù... phía sau Mộc Bài là đồi Dốc Voi Trượt nơi bố trí đội tượng binh. Tiếp xuống phía Nam, lần lượt là thung Hóc Bạc có kho lương thực, hậu cần; thung Bể (hay còn gọi là thung Mơ), thung Dâu nơi đóng đại quân. Hang Diêm trên sườn núi phía Nam thung Bể là nơi đặt tổng hành dinh. Phía Tây thung Dâu là núi Thượi (cao khoảng 225m), nơi đặt vọng gác, quan sát được toàn bộ căn cứ. Gần núi Thượi có đồi Điểm quân, có lẽ là địa điểm tập hợp, kiểm đếm số lượng binh sĩ. Sau Thung Dâu là hai thung Đội Nhất, Đội Nhì, nơi trú đóng của hai đội quân, thung Đồng Loạn gần địa điểm Giát Dâu, nơi diễn ra trận quyết chiến ác liệt nhất giữa nghĩa quân và quân xâm lược. Đồi Ông Tượng, điểm đầu căn cứ cách không xa sông Ngân về phía Tây. Một số địa danh trong khu căn cứ như đồi Dướn, Non Tiên, thung Thùng Chạ, đặc biệt hồ Trứng rộng mấy chục mẫu. Khi Mã Viện đưa quân đến vây hãm, mở nhiều trận tấn công. Nữ tướng Lê Chân tổ chức kháng cự cả trong các thung và trên dòng sông Ngân. Các trận đánh ác liệt diễn ra, quân ta chiến đấu kiên cường. Quân giặc nhanh chóng phá vỡ tiền đồn Mộc Bài, tràn vào thung Hiên, thung Bể, dồn nghĩa quân về Đồng Gơ. Trận huyết chiến ác liệt cuối cùng diễn ra ở thung Đồng Loạn. Do không đủ lực lượng đánh bại quân thù, nữ tướng Lê Chân cùng tướng tâm phúc rút lên núi Giát Dâu. Từ đỉnh núi cao, sườn dốc đứng, Nữ tướng Lê Chân gieo mình tự vẫn để khỏi phải sa vào tay giặc. Tướng tâm phúc đã mai táng Nữ tướng Lê Chân ở một hang động trong căn cứ Lạt Sơn. Sau này, để khắc ghi, tưởng nhớ công lao to lớn của Nữ tướng Lê Chân, người dân Thanh Sơn đã thành kính tôn vinh Bà với danh hiệu cao quý: “Đức Thánh Mẫu”, đồng thời tạc tượng và lập đền thờ ở cửa rừng, trên đồi Ông Tượng. Gần 2000 năm đã trôi qua, song những tên đất, tên núi, tên sông, di tích, di vật tồn tại nơi đây vẫn còn đó, gợi nhắc cho các thế hệ hôm nay về địa danh lịch sử gắn truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc. Với những giá trị về lịch sử, văn hóa kể trên, vùng căn cứ địa Lạt Sơn (với 3 địa điểm tiêu biểu: Đền Lê Chân, Động Thánh Chân, núi Giát Dâu) - vừa là nơi ghi dấu những sự kiện lịch sử, vừa là nơi thờ phụng, tôn vinh công lao của Nữ tướng Lê Chân đối với vùng đất này, đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích cấp quốc gia năm 2023. Nguồn: Báo Hà Nam Điện Tử

Hà Nam 3129 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di Tích Chùa Tiên

Chùa Tiên - Giếng Tiên nằm trong lòng núi Đại Tượng, một ngọn núi hình con voi lớn phía Nam thành phố. Bên trong lòng núi là một hang động lớn nơi tọa lạc của ngôi Chùa Tiên nổi tiếng được xây dựng vào đời vua Lê Thánh Tông. Chùa thường gọi là chùa Song Tiên, tọa lạc ở phố Hoàng Hoa Thám, phường Chi Lăng, thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông. Theo truyền thuyết, tiên ông từ trời hạ phàm xuống đây nên gọi là chùa Tiên, đạp chân lên núi Đại Tượng tạo thành Giếng Tiên để cứu dân qua nạn hạn hán. Sau đó vì mải mê bên bàn cờ quên không về trời, tiên ông đã hoá đá ở đây. Từ đó người dân bản địa vì muốn ghi nhớ công ơn phổ độ chúng sinh của ông nên đã tôn ông làm thần Nông của vùng. Hằng năm tổ chức lễ hội lớn để tưởng nhớ và cầu phúc cho làng. Khác với các động khác nằm dưới chân núi, động Chùa Tiên nằm ngay lưng chúng núi, muốn đến được chùa phải vượt qua 65 bậc thang bằng đá trên đường đi là những thạch nhũ muôn hình dạng như tiên ông, đầu sư tử, dơi,..sinh ra loại cảm giác linh thiêng huyền bí lạ thường. Chùa trước đây là một ngôi miếu nằm cạnh Giếng Tiên do người dân Phai Luông lập, sau đó vì xuống cấp người ta đã chuyển chùa vào động Song Tiên. Chùa có hệ thống các tượng thần, tượng phật,... 13 tấm bia Ma Nhai di tích của các bậc văn nhân kỳ tài để lại. Đặc biệt là bút tích của Ngô Thì Sĩ ghi trên bia đá bài “Trấn Doanh Bát Cảnh” tám cảnh đẹp của xứ Lạng và nơi đây là một trong số đó. Chính giữa chùa thờ chư Phật, Bồ tát. Cung bên phải thờ vị anh hùng Trần Hưng Đạo, cung bên trái thờ Thánh Mẫu. Gắn liền với câu chuyện Tiên ông hạ phàm ban cho người dân Phai Luông nguồn nước quý khi kỳ hạn hán đang kéo dài. Vì để trả ơn những đứa trẻ chăn trâu trong làng đã cho ông nắm cơm ít ỏi khi ông giả làm một lão ăn xin nghèo đói. Nên tiên ông đã đạp gót chân hóa ra thành Giếng Tiên mang dòng nước mát lành. Giếng không lớn được cấu tạo hoàn toàn bằng đá và nước quanh năm luôn trong vắt. Người dân bảo nhau, uống ba ngụm nước tiên trong động để được cầu phúc lộc. Lễ hội chùa Tiên hàng năm vào ngày 18 tháng giêng (âm lịch). Chùa đã được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa quốc gia năm 1992. Nguồn: Du lịch Lạng Sơn

Lạng Sơn 3290 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Kỳ Cùng

Nằm ở phường Vĩnh Trại, bên phía bờ bắc sông Kỳ Cùng. Đền Kỳ Cùng được coi là nơi linh thiêng, vốn là nơi thờ thần Giao Long (thần sông nước) với nhiệm vụ giữ cho quanh năm mưa thuận gió hòa. Nhưng sau đó, đền Kỳ Cùng thờ ông Tuần Tranh. Tương truyền, ông Tuần Tranh là một vị quan dưới thời nhà Trần, được cử lên Lạng Sơn đánh giặc, trấn ải biên thùy. Lịch sử của Đền còn gắn với truyện kể về quan lớn Tuần Tranh, được triều đình nhà Trần cử lên trấn thủ Lạng Sơn, trong thời gian ở tại Lạng Sơn, ông chỉ huy đánh giặc bị thua, quân lính thiệt mạng rất nhiều, ông lại bị vu cáo vào tội dâm ô, đành nhảy xuống sông Kỳ Cùng tự tử để chứng minh sự trong sạch. Do tấm lòng trong sạch, ông được thần linh hóa thành đôi rắn (ông Cộc - ông Dài) làm vị thần sông ngự tại đền Kỳ Cùng. Về sau, nỗi oan khuất của ông được một vị tướng nhà Lê là Tả đô đốc Hán quận công Thân Công Tài (được thờ tại đền Tả Phủ) chứng minh, hóa giải. Vì vậy mới có tục lệ vào ngày lễ hội đền Kỳ Cùng (cũng từ ngày 22 đến ngày 27 tháng giêng âm lịch giống như đền Tả Phủ), phải có lễ rước kiệu ông lớn Tuần Tranh lên đền Tả Phủ để tạ ơn và hầu chuyện Thân Công Tài. Điều này giải thích cho sự liên quan mật thiết của hai lễ hội đền Kỳ Cùng - Tả Phủ. Trong đền có bến đá Kỳ Cùng là một trong tám cảnh đẹp của Lạng Sơn được ghi trong "Trấn doanh bát cảnh" xưa Ngô Thì Sỹ gọi với cái tên Kỳ Cùng thạch độ. Sở dĩ như vậy là vì theo sử sách chép lại, ngày xưa bất cứ cuộc hành quân hay cuộc hành trình nào của các sứ giả qua lại Trung Quốc cũng đều phải qua nơi nay. Thuyền bè san sát, hai bờ sông lúc nào cũng tấp nập đông đúc vì dân chúng hoặc quan quân hội tụ. Khúc sông Kỳ Cùng ở đoạn này có nhiều tảng đá chắn ngay giữa dòng sông, đá lô nhô trên mặt nước, sóng vỗ vào đá theo mực nước sông, lúc lên lúc xuống tạo thành những lớp sóng tung bọt trắng xóa, trào khắp một dải tràng giang, trông rất ngoạn mục. Tương truyền các sứ thần của Việt Nam mỗi lần đi sứ sang Trung Quốc đều dừng chân tại bến đá, sửa soạn lễ vật lên thắp hương tại đền Kỳ Cùng, cầu cho chuyến đi được bình an, công thành danh toại. Ngày nay Cầu Kỳ Cùng được xây ở ngay cạnh bến đá, nối hai bờ Bắc và Nam sông Kỳ Cùng, chia Thành phố Lạng Sơn thành hai khu vực, bên bờ Bắc là nơi sinh hoạt, kinh doanh buôn bán của nhân dân Thành phố, bên bờ nam là khu vực tập trung các cơ quan hành chính của Tỉnh. Đền Kỳ Cùng đã được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia, hiện là nơi thu hút rất đông đảo bà con khách thập phương đến tham quan du lịch và cúng lễ. Nguồn: Du lịch Lạng Sơn

Lạng Sơn 3191 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Thành Lạng Sơn

Vào thời Lý Trần, triều đình đã cho dựng nhà công quán làm nơi nghỉ chân của sứ thần hai nước Việt - Trung. Nhân dân xây chùa cạnh nhà công quán, đặt tên là Diên Khánh tự. Ngôi cổ tự nằm cạnh Đoàn Thành phía bắc, nên dân gian vẫn quen gọi là chùa Thành. Diên Khánh tự tọa lạc bên dòng sông Kỳ Cùng dưới chân cầu Kỳ Lừa, Đường Hùng Vương, phường Chi Lăng, thành phố Lạng Sơn. Tương truyền, ngôi chùa cổ này được xây dựng bên trên để trấn yểm cột đồng do giặc Hán dựng đã bị nhân dân ta chôn vùi. Vào thế kỷ thứ 1, tướng Hán là Mã Viện đem quân sang đàn áp cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, sáp nhập nước ta vào Đông Hán, đi đến đâu chúng xây thành đắp lũy đến đó. Nơi tiếp giáp giữa Giao Chỉ và Trung Quốc (nay thuộc tỉnh Lạng Sơn), Mã Viện cho quân dựng cột đồng, khắc sáu chữ "Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt" (Nếu cột đồng đổ thì người Giao Chỉ bị diệt). Bất cứ người dân đất Việt nào đi qua nơi ấy đều ném vào chân cột đồng một hòn đá. Trải nhiều đời, đá trùm lên lấp kín trụ đồng. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, vào năm Tân Mùi (1271), Hốt Tất Liệt đòi vua Trần Thánh Tông phải sang chầu, vua viện cớ đang ốm không đi được. Hốt Tất Liệt cho sứ sang yêu cầu vua Trần chỉ cho chúng cột đồng của Mã Viện thuở xưa, với ý đồ dùng cột đồng để hăm dọa sẽ san bằng Đại Việt. Vua không hề run sợ mà khẳng khái trả lời chúng rằng: "Cột ấy lâu ngày nên đã mất".Đến thế kỷ 17, năm Đinh Sửu (1637), thám hoa Giang Văn Minh được vua Lê cử sang yết kiến hoàng đế nhà Minh. Thấy sứ thần Việt Nam tài chí phi phàm, vua Minh ra vế đối: "Đồng trụ chí kim đài dĩ lục" (ý nói cây cột đồng từ thời Mã Viện đến nay rêu đã phủ xanh, vua Minh huênh hoang sức mạnh của phương Bắc). Giang Văn Minh đối lại: "Đằng giang tự cổ huyết do hồng" (ý nhắc nhở về sự thất trận nhiều lần của Bắc triều, bao lần nhuộm máu trên sông Bạch Đằng khi chúng sang xâm lược nước Nam). Vua Minh tái mặt, phục tài Giang Văn Minh. Tại tam quan của chùa treo một quả chuông nặng 2.100kg mới được đúc năm 2007 để sớm hôm chiêu mộ. Tam quan chùa chồng diêm lớp lớp với 24 mái, lợp ngói mũi hài và các đầu đao cong vút. Hệ thống mái chùa được chạm đục tỉ mỉ theo lối "thuận chồng bẩy con, với các đầu phượng đỡ toàn bộ hoành và các kèo. Những linh vật: long, ly, quy, phượng được đắp vẽ công phu, uyển chuyển. Toàn bộ câu đối phía ngoài bằng chữ Hán được gắn bằng sứ hết sức tỉ mỉ, công phu. Chùa gồm 38 gian lớn nhỏ, với nhiều hạng mục công trình: hậu cung thờ phật, bái đường, phương đình, tiến đường, tam quan, tổ đường, hậu đường... Toàn bộ hệ thống tượng thờ của chùa được đúc bằng đồng vàng nguyên khối với trên 40 pho tượng lớn nhỏ. Đây là ngôi chùa duy nhất trên toàn quốc có đầy đủ hệ thống tượng Phật thờ theo Phật giáo Bắc Tông. Hệ thống hoành phi, câu đối của chùa được chạm khắc cực kỳ tinh xảo và sơn son thếp vàng, nhiều bộ hoành phi có tuổi hàng trăm năm. Trong chùa hiện lưu giữ quả chuông được đúc từ năm 1671 triều vua Lê Hiển Tông, nặng 600kg. Chùa được trùng tu nhiều lần vào các năm 1967, 1980, 1992 và được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia vào năm 1993. Nguồn: Du lịch Lạng Sơn

Lạng Sơn 3183 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đài Chiến thắng Bông Lau, Lũng Phầy

Trong những năm 1948-1949, đường 4 là một trong những tuyến đường huyết mạch được quân Pháp sử dụng để vận chuyển lương thực, thực phẩm, vũ khí từ Lạng Sơn lên phục vụ cho lực lượng chiếm đóng ở Cao Bằng, Bắc Kạn. Đây là tuyến đường tương đối hiểm trở, nhất là khu vực đèo Bông Lau (dài khoảng 10 km, thuộc huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn) là đoạn đường quanh co gấp khúc, góc cua hẹp, độ dốc lớn, nơi các đoàn xe vận chuyển của quân Pháp thường bị lực lượng ta chặn đánh gây nhiều tổn thất (tính đến tháng 8.1949 quân Pháp đã 3 lần bị ta phục kích trên khu vực này). Để bảo đảm an toàn cho tuyến đường vận chuyển quan trọng, quân Pháp đã rải quân chốt giữ các vị trí quan trọng trên trục đường, đồng thời mỗi khi tổ chức vận chuyển, thường phải sử dụng số lượng xe lớn (khoảng trên dưới 100 xe) và chia thành nhiều tốp, có lực lượng bộ binh và xe thiết giáp hộ tống với kế hoạch đề phòng chu đáo. Sau khi kết thúc Chiến dịch Cao - Bắc - Lạng tháng 4 năm 1949, ta chủ trương tiếp tục tiến hành một số trận đánh để khuếch trương thắng lợi của chiến dịch, trong đó tập trung đánh phá hoạt động giao thông vận chuyển của địch trên đường 4. Thực hiện chủ trương trên, Trung đoàn 174 được giao nhiệm vụ tổ chức trận phục kích thứ 4 tại khu vực đèo Bông Lau (đoạn giữa 2 đồn Bông Lau và Lũng Phầy), với quyết tâm “trận đầu ra quân phải thắng”. Sau khi nghiên cứu tình hình, Trung đoàn 174 quyết định tổ chức trận địa phục kích trên quãng đường dài 2,5 km, từ đầu bản Bó đến đỉnh đèo, trung tâm là kilômét 58. Lực lượng tham gia trận đánh gồm 2 tiểu đoàn 23, 53. Mỗi tiểu đoàn gồm 3 đại đội bộ binh và 1 đại đội trợ chiến, được trang bị súng bộ binh, súng máy 12,7 mm, súng phóng lựu, badôca, lựu đạn, cối 81 mm và 60 mm. Tiểu đoàn 259 làm nhiệm vụ nghi binh thu hút địch ở đoạn Bố Củng - Lũng Vài. Theo đúng kế hoạch, các đơn vị bí mật chiếm lĩnh trận địa, triển khai đội hình chiến đấu xong trước ngày 2.9. Sáng 3.9, phát hiện dấu hiệu địch sẽ hành quân lên Cao Bằng, trung đoàn tổ chức các đơn vị vào vị trí chiến đấu. Trưa 3.9, lực lượng hộ tống đoàn xe địch gồm 10 xe (6 xe vận tải), chở khoảng 100 quân tiến vào trận địa phục kích, nhưng trung đoàn chưa nổ súng để chờ đánh mục tiêu chủ yếu là đoàn xe vận tải. Đúng như dự đoán, khoảng 14 giờ khi phần lớn đoàn xe vận tải của quân Pháp gồm hơn 100 xe lọt vào trận địa phục kích, các đơn vị khẩn trương vận động chiếm lĩnh vị trí chiến đấu. Tuy nhiên vào thời điểm này, 1 chiếc xe của quân Pháp chạy đến gần kilômét 58 đột nhiên chết máy, làm cả đoàn xe dồn sát vào nhau, đồng thời lực lượng bộ binh địch đi cùng triển khai đội hình bảo vệ. Nhận thấy thời cơ chưa thuận lợi, ta vẫn kiên trì phục kích; đến 14 giờ 30 phút, địch sửa xong xe tiếp tục hành quân lên đến đỉnh đèo; trận đánh bắt đầu, các loại hỏa lực của trung đoàn đồng loạt bắn vào đoàn xe khiến cho đội hình hành quân của quân Pháp rối loạn. Tận dụng thời cơ, các đơn vị nhanh chóng vận động chiếm lĩnh vị trí có lợi, sử dụng lựu đạn và súng bộ binh tiến công mãnh liệt vào đội hình quân địch; sau hơn 1 giờ chiến đấu quyết liệt, ta hoàn toàn làm chủ trận địa, áp giải tù binh, giải quyết thương vong và rút quân. Trong khoảng thời gian từ 16 giờ đến 17 giờ, địch 2 lần sử dụng máy bay bắn phá vào trận địa và đưa quân từ Thất Khê lên ứng cứu, nhưng đều bị lực lượng của Tiểu đoàn 53 chặn đánh, buộc phải rút lui. Kết quả, ta diệt và làm bị thương 194 quân địch, bắt 23 quân, phá huỷ 86 xe (trong đó có 1 xe tăng, 2 xe thiết giáp, 78 xe ô tô vận tải), thu gần 100 súng các loại và nhiều quân trang, quân dụng. Trận Lũng Phầy thắng lợi là chiến công đầu của Trung đoàn 174, đồng thời cũng là trận phục kích lớn nhất trên đường 4 trong những năm 1948-1950, không những có tác động khích lệ tinh thần và khí thế chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị, mà còn mang ý nghĩa cổ vũ, động viên, tạo niềm tin chiến đấu và chiến thắng cho quân và dân ta trên mật trận đường 4 trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Nguồn: Bách Khoa toàn thư Quân sự Việt Nam

Lạng Sơn 3801 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Khu Lưu Niệm Hoàng Văn Thụ

Đồng chí Hoàng Văn Thụ (1909 – 1944) là một nhà cách mạng, một chiến sĩ cộng sản kiên trung của Đảng cộng sản Việt Nam. Ông sinh ngày 04/11/1909 trong một gia đình người Tày tại thôn Phạc Lạn, xã Nhân Lý, huyện Văn Uyên (nay là xã Hoàng Văn Thụ, huyện Văn Lãng), tỉnh Lạng Sơn. Từ nhỏ, ông đã sớm giác ngộ cách mạng. Năm 1928, ông cùng các bạn của mình sang Trung Quốc để tìm đường cứu nước. Năm 1930, ông trở về huyện Văn Uyên để xây dựng phong trào cách mạng, thành lập chi bộ đảng Cộng sản Đông Dương đầu tiên ở Lạng Sơn. Đến năm 1938, ông được phân công phụ trách Xứ ủy Bắc Kỳ rồi đảm nhận trọng trách là Bí thư Xứ ủy Bắc Kỳ. Năm 1941, ông được bầu vào Thường vụ trung ương Đảng. Ngày 25/8/1943, đồng chí Hoàng Văn Thụ bị giặc bắt tại Hà Nội và bị tử hình ngày 24/5/1944. Tuy thời gian hoạt động cách mạng của đồng chí Hoàng Văn Thụ không dài nhưng có nhiều đóng góp quan trọng trong việc xây dựng và phát triển cơ sở của Trung ương Đảng trước Cách mạng tháng 8 trong thời gian bị chính quyền thực dân khủng bố ác liệt nhất. Đồng chí Hoàng Văn Thụ được chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa truy tặng danh hiệu anh hùng, liệt sĩ. Để tưởng nhớ và tỏ lòng biết ơn đồng chí Hoàng Văn Thụ, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh Lạng Sơn đã xây dựng một số công trình lưu niệm đồng chí tại thành phố Lạng Sơn và huyện Văn Lãng, quê hương của đồng chí. Tượng đài đồng chí Hoàng Văn Thụ nằm bên cạnh Bảo tàng tỉnh, cổng chính khuôn viên tượng đài quay về phía Ủy ban nhân dân tỉnh, thuộc đường Đinh Tiên Hoàng, phường Chi Lăng, thành phố Lạng Sơn. Khánh thành năm 1994. Di tích Nhà số 8 phố Chính Cai hiện nay nằm ở phố Kỳ Lừa, phường Hoàng Văn Thụ, thành phố Lạng Sơn. Từ năm 1923 đến năm 1927, đồng chí Hoàng Văn Thụ theo học trường Pháp – Việt và ở trọ tại nhà số 8 phố Chính Cai. Tại phòng trọ, ngoài công việc học tập, đồng chí đã soạn thảo một số truyền đơn cũng như khẩu hiệu có nội dung vận động quần chúng đấu tranh giành cơm ăn, áo mặc, giành tự do dân chủ và chống chế độ thực dân, phong kiến áp bức. Hiện nay, nơi đây đã trở thành một bảo tàng nhỏ trưng bày về quãng đời hoạt động cách mạng của đồng chí Hoàng Văn Thụ. Vào những dịp ngày tết, ngày lễ, tại di tích Nhà số 8 Chính Cai lại mở cửa đón tiếp khách tham quan, học tập và dâng hương. Khu di tích lưu niệm đồng chí Hoàng Văn Thụ nằm tại xã Hoàng Văn Thụ, huyện Văn Lãng, cách thành phố Lạng Sơn 26 km về phía bắc. Khu di tích được hoàn thành với những hạng mục cảnh quan văn hóa, di tích lịch sử cách mạng gắn với cuộc đời, sự nghiệp của đồng chí Hoàng Văn Thụ, được khánh thành ngày 25/10/2009 nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh đồng chí Hoàng Văn Thụ (04/11/1909 – 04/11/2009). Nguồn: Trung Tâm Thông Tin Xúc Tiến Du Lịch Lạng Sơn

Lạng Sơn 4090 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Điểm di tích nổi bật