Di tích khảo cổ cấp quốc gia gò tháp An Lợi (xã Châu Lăng, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang) là công trình kiến trúc tôn giáo tín ngưỡng thuộc thời kỳ hậu văn hóa Óc Eo, niên đại từ thế kỷ 8 - 9 với quy mô lớn và còn khá nguyên vẹn. Di tích góp phần hé mở nhiều cứ liệu khoa học về nguồn gốc, nội dung, tính chất của nền văn hóa cổ Óc Eo. Văn hóa Óc Eo là một trong 3 nền văn hóa cổ ở Việt Nam, gồm: Đông Sơn, Sa Huỳnh và Óc Eo. Theo các chuyên gia, những di vật, phế tích và các giá trị của văn hóa Óc Eo thuộc Vương quốc Phù Nam cổ. Tiêu biểu, có di tích kiến trúc gò tháp An Lợi (di tích nằm trên nền gò cao nên người dân nơi đây quen gọi là “gò tháp”). Năm 1999, di tích gò tháp An Lợi được Bảo tàng tỉnh phát hiện trong 1 lần khảo sát tại vùng núi ở huyện Tri Tôn. Đến năm 2002, Bảo tàng tỉnh phối hợp Trung tâm Nghiên cứu khảo cổ học thuộc Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ tiến hành khảo sát lại di tích khảo cổ gò tháp An Lợi. Di tích khảo cổ gò tháp An Lợi có dạng hình chữ nhật, diện tích rộng trên 300m2. Đỉnh gò bằng phẳng, có độ cao 2,5m so bề mặt chung quanh. Mặt gò xuất lộ nhiều viên gạch, nhiều vỉa gạch chạy thẳng hàng theo hướng đông tây cùng vài khối đá, tấm đá kiến trúc nằm lộ thiên giữa gò hoặc cạnh các gốc cây. Trong đó có 1 “bàn đá” hình tròn đặt kê trên những viên gạch nguyên và vỡ ở giữa gò. Sườn gò ở phía nam và bắc là các vách tường gạch xây vẫn còn thẳng đứng, ở phía đông và tây do bị đào phá để lấy gạch nên để lại trên sườn gò chỗ gạch, chỗ đá lởm chởm… Đó là dấu hiệu cho thấy kiến trúc này được xây bằng gạch và đá hỗn hợp thuộc phong cách truyền thống của cư dân văn hóa Óc Eo - Phù Nam xưa. Kết quả cho thấy, mặc dù có bị đào bới nhưng nền kiến trúc vẫn còn khá nguyên vẹn với độ cao của vách tường tháp từ 1,5 - 2,5m. Kết quả khai quật cho thấy, di tích gò tháp An Lợi có bình đồ kiến trúc hình chữ nhật xây bằng gạch - đá khá lớn được bẻ góc nhiều lần với chiều dài 19,2m theo hướng đông tây, rộng 11,6m theo hướng bắc nam, cao 2,5m tính từ chân gờ cột giả hoặc 3,6m tính từ chân móng gạch cuối cùng - sát lớp đá móng lên đến đỉnh. Bố cục kiến trúc gồm 2 phần: Phần tiền sảnh ở phía đông nối liền với bậc lên xuống, phần hậu sảnh ở phía tây. Bên trong kiến trúc phần hậu sảnh có một hố thờ dạng hình giếng vuông, các cạnh rộng 1,2m theo hướng đông tây và 1,1m theo hướng bắc nam. Hố đã bị đào khá sâu, trong hố có chứa nhiều gạch nguyên, đá và cát màu xám. Ngoài ra, trong hố còn phát hiện 1 hũ sành lớn bị vỡ nhiều mảnh, hũ có miệng không cao, thân phình rộng, đáy bằng, bên ngoài có lớp men màu nâu đen rất bóng. Các di vật thu được chất liệu chủ yếu là đồ đá với loại hình, như: Mảnh vỡ Linga đá, máng nước thiêng Somasutra, bàn đá; những tấm đá nhiều hình dáng, như: Đá hình bán nguyệt, đá hình cánh quạt, đá hình khối chữ nhật và một vài mảnh gốm cổ và vòi bình số lượng không đáng kể. Qua nghiên cứu, gò tháp An Lợi thuộc loại kiến trúc nặng xây bằng gạch và đá hỗn hợp thuộc thời kỳ hậu Óc Eo. Việc tìm thấy nhiều Linga và Somasutra cho rằng, kiến trúc gò tháp An Lợi là một đền thờ thuộc tín ngưỡng Siva nơi thực hiện các nghi thức cầu phúc của các cộng đồng cư dân cổ thuộc thời kỳ hậu Óc Eo. Niên đại đoán định của kiến trúc khoảng thế kỷ 8 - 9 sau Công nguyên. Gò tháp An Lợi có giá trị cao về mặt nghiên cứu khoa học, nguồn gốc lịch sử hình thành vùng đất và nền văn hóa dân tộc đã hơn 1.000 năm. Với ý nghĩa lịch sử văn hóa quan trọng, giá trị khoa học cao, gò tháp An Lợi được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích lịch sử văn hoá, khảo cổ cấp quốc gia, ngày 26/02/2008. Nguồn: Báo An Giang Online
An Giang 3772 lượt xem
Triều Âm Tự (Chùa ông Chín) tọa lạc tại ấp Hòa Dân, xã Nhị Mỹ, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp. Là ngôi chùa theo đạo Bửu Sơn Kỳ Hương của Phật Thầy Tây An - Đoàn Minh Huyên. Chùa được ông Đặng Văn Ngoạn (tục gọi là ông Đạo Ngoạn) sáng lập lần đầu tiên vào năm Giáp Dần (1854) dưới triều vua Tự Đức năm thứ 7 tại vàm rạch Trà Bông, thôn Nhị Mỹ, huyện Kiến Phong, tỉnh Định Tường (nay là ấp Hòa Dân, xã Nhị Mỹ, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp). Ông Đạo Ngoạn là vị đại đệ tử trong “thập nhị hiền thủ” của Phật Thầy Tây An. Ông sanh năm Canh Thìn (năm Minh Mạng nguyên niên 1820) trong một gia đình nhơn đức tại thôn Nhị Mỹ, gần rạch Trà Bông. Năm Ông ngoài 20 tuổi, sau khi đã cần mẫn khẩn đất lập được một khoảnh ruộng vườn để gia đình có sanh kế, Ông xin mẹ cho mình được thong thả tìm chốn thanh vắng để tu tâm dưỡng tánh. Được thân mẫu thuận lòng, Ông chọn một khoảnh đất ở rạch Ông Bường cất am tranh để tịnh tu. Ông Đạo Ngoạn theo học đạo với Phật và truyền bá đạo Bửu Sơn Kỳ Hương của Đức Phật, hướng dẫn dân chúng lập trại ruộng, khai hoang phục hóa vùng ven Đồng Tháp Mười và chữa bệnh cho dân chúng. Ông hướng tín đồ niệm Phật tu nhơn, khai phá được hơn 500 công đất. Sau đó không lâu, chùa bị phát hỏa cháy sạch, kế đến là việc mấy tỉnh Nam Kỳ bị giặc Pháp đánh chiếm. Trong cơn binh biến, Ông Đạo Ngoạn cùng với tín đồ phải bỏ chùa tìm phương lánh nạn. Năm 1867, ông Ngoạn trở về lại Trà Bông quy tập bổn đạo dựng lại chùa xưa, tiếp tục bốc thuốc chữa bệnh cho dân và quy tụ được rất đông tín đồ rao giảng giáo lý Tứ Ân, trong đó ân nước được đặt ra trước tình cảnh đất nước đang bị nạn ngoại xâm. Chùa Trà Bông trở thành nơi các thân hào yêu nước quy tập để bàn chuyện chống giặc. Ngày 19 tháng 2 âm lịch năm Canh Dần (1890) ông Đạo Ngoạn qua đời, thọ 70 tuổi, tín đồ thương tiếc tựu nhau chôn cất ông theo đúng giáo lý của Đức Phật. Sau khi ông Đạo Ngoạn qua đời, chùa tiếp tục được Nguyễn Thị Huê (Là người vợ thứ 3 của ông) và bổn đạo coi sóc. Ông Đặng Công Hứa (Chín Hứa con trai của Ông) cũng được ông Ngoạn và bà Huê truyền dạy giáo pháp và phương cách chữa bệnh nên chùa Trà Bông vẫn quy tụ được đông đảo tín đồ. Đến khi ông Chín Hứa thay thế trụ trì ngôi chùa ông đặt tên mới cho chùa là Triều Âm Tự. Ngoài tên gọi Triều Âm tự ít người biết, dân gian vẫn quen gọi đây là “Chùa Ông Chín” bởi đức độ và tài năng của ông Chín cũng không kém ông Đạo Ngoạn. Trong kháng chiến chống Mỹ Năm 1965 – 1966, tại chùa một căn hầm bí mật được xây dựng để nuôi chứa những cán bộ của tỉnh và huyện. Mỗi khi có đợt càn quét của địch, khi chúng rút khỏi, chùa đánh 3 tiếng mỏ lớn để làm ám hiệu cho cán bộ trú ẩn trong hầm. Hầm bí mật này được sử dụng rất hiệu quả cho đến ngày giải phóng 30 tháng 4 năm 1975. Từ năm 1973 đến ngày 30 tháng 4 năm 1975, Thị xã Ủy Cao Lãnh về ở rạch Trà Bông gần chùa, những người tu hành trong chùa vừa làm giao liên xã Nhị Mỹ và bảo vệ cán bộ xã. Triều Âm Tự (Chùa Ông Chín) là nơi ghi lại dấu tích các sự kiện cách mạng, nơi phụng cúng Sắc phong Thành Hoàng Bổn Cảnh và Đại Càn Quốc gia Nam Hải cùng với hộp đựng 6 lá sắc của đình Nhị Mỹ được hậu duệ của ông Chín gìn giữ và duy trì hương khói dù đã trải qua bao biến cố lịch sử. Chùa còn là nơi giáo dục truyền thống yêu nước, đức tánh từ bi, rao giảng và khuyến khích nhân dân cùng bổn đạo thực hiện theo giáo lý “Tứ Ân”.Ngày 23/12/2019 Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Tháp xếp hạng Triều Âm Tự là di tích lịch sử văn hóa cấp Tỉnh. Nguồn: Trang thông tin điện tử huyện Cao Lãnh tỉnh Đồng Tháp
Đồng Tháp 3351 lượt xem
Tượng đài Lê Cẩn- Nguyễn Giao được xây năm 2004 tại ngã ba An Nhơn, thị trấn Vũng Liêm, có chiều cao 7,5m, chất liệu đồng, nặng 21,5 tấn. Tượng được xây dựng nhằm tưởng niệm 2 anh hùng dân tộc là Đốc binh Lê Cẩn và Nguyễn Giao trong buổi đầu lịch sử đấu tranh chống thực dân Pháp. Ngày 20/6/1867, Pháp đánh chiếm Vĩnh Long lần thứ hai, cùng với nhân dân cả nước, nhân dân Vĩnh Long vùng lên tổ chức nhiều cuộc khởi nghĩa chống giặc ngoại xâm. Đầu tiên có nhóm Đàng cựu (là nhóm quan triều đoàn kết khởi binh), rồi đến hai con của Phan Thanh Giản là Phan Tôn và Phan Liêm phất cờ phản kháng, nhưng lần lượt thất bại…Trước sự đàn áp của quân xâm lăng, lòng dân yêu nước càng sôi máu căm hờn, khoảng năm 1872 cuộc khởi nghĩa ở Vũng Liêm bừng dậy, lãnh đạo phong trào kháng Pháp này là Lê Cẩn và Nguyễn Giao. Lê Cẩn và Nguyễn Giao đều xuất thân là nông dân, nhưng có ít nhiều học thức, lại có tấm lòng yêu nước nồng nàn, nên khi hai ông đứng lên kêu gọi nhân dân kháng Pháp đã nhận được sự hưởng ứng nồng nhiệt của nông dân và sĩ phu quanh vùng. Vào một đêm của năm Nhâm Thân (1872), thực hiện chiến lược của Lê Cẩn- Nguyễn Giao, Phó Mai kéo nhóm dân quân chừng vài ba mươi người đánh phá chợ quận Vũng Liêm, giết chủ quận tên Thực và 6 tên lính. Sau chiến thắng vang dội này, quân Pháp tiến hành đàn áp dữ dội và chúng đưa đốc phủ Tôn Thọ Tường đến trấn nhậm Vũng Liêm thay tên chủ quận đã bị nghĩa binh hạ sát, ngoài ra còn có tên tham biện Alix Salicetti nổi tiếng nham hiểm đi cùng, nhưng lực lượng kháng chiến không nao núng, tạm thời rút lui, ẩn náu chờ thời cơ phản kích. Để tiêu diệt tên Salicetti, Lê Cẩn nghĩ ra kế trá hàng, dụ địch vào bẫy phục kích của nghĩa quân tại Cầu Vông. Ngày 15/2/1872, Salicetti dẫn đoàn tùy tùng đến Vũng Liêm gặp nghĩa quân. Khi đến Cầu Vông, Đốc binh Lê Cẩn vừa thấy Salicetti ngồi ngựa đến gần đầu cầu liền chống tầm vông nhảy vọt qua, ôm Salicetti vật ngã xuống đất. Vào lúc ấy, tiếng trống trận vang rền, Nguyễn Giao kéo nghĩa quân chặn đường rút lui của lính Pháp và giết trên 10 tên. Trong khi đó, Đốc binh Lê Cẩn và Salicetti ôm vật nhau rơi xuống sông và cùng chết dưới nước. Nguyễn Giao lấy thủ cấp Salicetti và cùng dân, quân chôn cất Đốc binh Lê Cẩn bên một mé rừng. Sau đó, tên tổng đốc Trần Bá Lộc đem theo quân bắt và giết hết dân trong ấp. Thây người lấp cả “Vũng Linh” (nay đọc trại ra là Vũng Liêm), nhà cửa nhân dân cũng bị đốt sạch. Nguyễn Giao tiếp tục kháng Pháp, nhưng đại sự không thành, ông bị giặc bắn thác tại sông Cổ Chiên và thây người chí sĩ trẻ tuổi bị trôi mất tích. Tuy hai anh hùng, chí sĩ đã hy sinh, nhưng tên tuổi của Đốc binh Lê Cẩn- Nguyễn Giao vẫn sống mãi với sử sách, được các thế hệ hôm nay lưu nhớ. Nguồn: Du lịch Vĩnh Long
Vĩnh Long 4929 lượt xem
Di tích Chùa Bodhiculàmani còn gọi là chùa Ấp Sóc hay chùa Ất tọa lạc cách thành phố Trà Vinh khoảng 30km, thuộc ấp Sóc, xã Huyền Hội, huyện Càng Long, tỉnh Trà Vinh. Ngôi chùa được xây dựng vào năm 2085 Phật Lịch tức 1541 dương lịch, đã trải qua trên 400 năm với 15 đời sư cả, Hòa thượng và Trụ trì. Từ năm 1945 – 1949, trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Sư cả Thạch Kim đã tham gia cách mạng và nuôi chứa cán bộ tại ngôi chùa này. Từ đó Ngôi chùa Bolhiculàmani trở thành cơ sở của Đảng, cách mạng được bà con phật tử và các vị sư sãi che chở trong kháng chiến. Trải qua các đời chủ trì chùa như Sư cả Thạch Kim, Sư cả Thạch Yên, Sư cả Thạch Niện…đã có nhiều cán bộ cách mạng từ tỉnh đến cơ sở được nuôi chứa tại chùa như đồng chí Nguyễn Đáng (Năm Trung) nguyên Bí thư Tỉnh ủy Cửu Long; đồng chí Hồ Nam (Năm Đạt), nguyên Bí thư Tỉnh ủy Cửu Long; Cụ Maha Sơn – Thông, nguyên Chủ tịch Hội đồng dân tộc Quốc hội khóa VII; đồng chí Phạm Hồng Phước (Chín Phương); đồng chí Phạm Thành Thưởng (Tư Hồng); đồng chí Phạm Văn Xuyên, nguyên Uỷ Viên Tỉnh ủy…Với tinh thần “Tất cả cho kháng chiến, tất cả cho chiến thắng”, đã được các vị sư sãi và bà con phật tử chùa Bolhiculàmani nguyện một lòng theo Đảng, theo cách mạng. Chùa là nơi đã đào tạo nên nhiều thành phần trí thức Khmer và người Kinh, nhiều vị sư sãi sau khi hoàn tục đã tham gia cách mạng, trở thành những cán bộ cách mạng kiên trung, một số đồng chí đã anh dũng hi sinh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Bên cạnh đó, các vị chức sắc trong chùa còn tích cực vận động bà con Phật tử đóng góp nhiều lúa gạo, tiền bạc nuôi quân kháng chiến. Ngoài ra, các vị sư cả đã cùng bà con Phật tử tham gia nhiều cuộc đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ, quyền tự do tôn giáo, tự do tín ngưỡng… Riêng nhà chùa đã hiến hàng chục cây dầu để chôn cất những cán bộ chiến sĩ hi sinh và nhiều dụng cụ bằng đồng cho công trường chế tạo vũ khí đánh giặc… Với những đóng góp trên, chùa Ấp Sóc đã được Ủy ban Mặt Trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Trà Vinh tặng Giấy khen có thành tích qua hai thời kỳ kháng chiến và thực hiện tốt công tác xã hội. Riêng sư cả Thạch Yên được Chủ tịch nước tặng Huân chương Kháng chiến hạng II. Ngày 03/3/2009, chùa Bodhiculàmani (chùa Ấp Sóc) đã vinh dự được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Quyết định công nhận là Di tích lịch sử cấp quốc gia. Nguồn: Trung Tâm Thông Tin Du Lịch Trà Vinh
Vĩnh Long 3672 lượt xem
Ấp Bắc thuộc xã Tân Phú (thị xã Cai Lậy, Tiền Giang) cách trung tâm TP Mỹ Tho khoảng 21km về hướng Tây. Là một địa danh được cả nước và nhân dân tiến bộ trên thế giới biết đến, không phải là danh lam thắng cảnh, mà chính nơi đây đã diễn ra trận đánh vang dội. Trận đánh mà Mỹ - ngụy tập trung lực lượng tối đa, sử dụng phương tiện chiến tranh hiện đại với chiến thuật tân kỳ, với cố vấn Mỹ và các tên tay sai quyết chống phá cách mạng, nhằm nghiền nát Ấp Bắc và tiêu diệt quân chủ lực của cách mạng Miền Nam. Vào ngày 02/01/1963, với 200 tay súng, quân và dân Ấp Bắc đã đánh bại hơn 2.000 quân địch có máy bay, xe tăng, tàu chiến yểm trợ và cố vấn Mỹ chỉ huy, đã bẻ gãy 2 chiến thuật tân kỳ mà Mỹ áp dụng trong chiến tranh đặc biệt là "trực thăng vận" và "thiết xa vận" báo hiệu sự sụp đổ của chế độ Ngô Đình Diệm cùng chiến lược chiến tranh đặc biệt của đế quốc Mỹ. Sáng sớm ngày 02/01/1963, địch mở cuộc càn quét do Bộ Tư lệnh sư đoàn 7 và Chiến đoàn bảo an thuộc tiểu khu Định Tường đảm trách. Cuộc càn quét diễn ra trong phạm vi xã Tân Phú để bao vây diệt trung đội địa phương của ta mà chúng phát hiện được; lực lượng của ta chỉ có đại đội 1 tiểu đoàn 514 và đại đội 1 tiểu đoàn 261. Lúc 5 giờ sáng ngày 2/1/1963, địch chia làm 2 cánh quân tiến vào Ấp Bắc bị ta chặn đánh buộc chúng phải gọi tăng viện. Cùng thời gian này, trận địa công binh của ta dùng thủy lôi đánh chìm một tàu tại vàm Kinh 3 và bắn hỏng 2 chiếc khác. Đến 9g30 bọn chúng đã cho trực thăng đổ bộ xuống Ấp Bắc; dưới sự chỉ huy của đại đội trưởng Bảy Đen, ta đã bẻ gãy nhiều đợt tấn công của địch có cả trực thăng và xe M113 yểm trợ. Đến chiều tối, sau nhiều đợt tấn công thất bại quân địch đã rút khỏi trận địa. Kết quả chúng đã thất bại thảm hại, với: 450 tên chết và bị thương, trong đó có 10 cố vấn Mỹ; 3 xe lội nước M 113 bị tiêu diệt; 8 máy bay trực thăng bị bắn rơi; 1 tàu chìm và 2 chiếc tàu khác bị hỏng. Hiện nay, Khu di tích là một quần thể kiến trúc nằm trong khuôn viên gần 3 ha bao gồm: nhà trưng bày, khu tái hiện hoạt động của quân và dân Ấp Bắc trong chiến đấu, tượng đồng 3 chiến sĩ gang thép, khu trưng bày những chiến lợi phẩm sau trận đánh: xe bọc thép, máy bay lên thẳng, pháo 105 ly; khu mộ 3 chiến sĩ gang thép: Nguyễn Văn Đừng, Đỗ Văn Trạch và Hùng (không biết họ); nhà quản trang, xen kẽ là vườn hoa lúc nào cũng khoe sắc và toả hương thơm ngát. Có lẽ ấn tượng nhất trong khuôn viên là tượng đồng 3 chiến sĩ gang thép cao sừng sững, nặng 18 tấn: người cầm súng, người cầm thủ pháo hiên ngang đứng trên xe tăng địch, hình ảnh uy nghi của các anh như đưa chúng ta trở về cảnh súng nổ, bom rền hơn 50 năm về trước. Chiến thắng Ấp Bắc là mốc son chói lọi trong lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm của nhân dân Tiền Giang và dân tộc ta. Đã nói lên ý chí quật cường của dân tộc Việt Nam, sức mạnh vô địch của chiến tranh nhân dân. Ngày 7/1/1993 di tích lịch sử Ấp Bắc đã được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) xếp hạng di tích cấp quốc gia. Nguồn: Sở Văn Hóa, Thể Thao Và Du Lịch Tỉnh Tiền Giang
Đồng Tháp 5432 lượt xem
Nhà và lò gạch Võ Công Tồn là nơi lưu niệm nhà yêu nước Võ Công Tồn - người đã cống hiến rất nhiều công của và cả tính mệnh cho Đảng trong thời kỳ tiền khởi nghĩa (1930-1945). Sở dĩ Di tích có tên gọi là Nhà và Lò gạch Võ Công Tồn bởi vì đây là một tổng thể kiến trúc gồm hai điểm: Ngôi nhà của ông Võ Công Tồn và lò gạch thuộc sở hữu của ông. Nhà và Lò gạch Võ Công Tồn tọa lạc tại ấp Lò Gạch, xã Long Hiệp, huyện Bến Lức, tỉnh Long An. Nhà Võ Công Tồn được xây dựng khoảng năm 1910, theo kiểu chữ công, ba gian, hai chái với chất liệu bê tông, mái ngói. Năm 1984, do bị xuống cấp, ngôi nhà bị phá bỏ, chỉ tận dụng lại móng, nền, ngói để dựng ngôi nhà mới có diện tích 128m2. Trang trí bên trong nhà mang phong cách chung của các ngôi nhà khá giả cuối thế kỷ XIX với bao lam, hoành phi, câu đối. Nổi bật ở nhà Võ Công Tồn là bao lam với đề tài đa dạng được thể hiện sinh động bởi kỹ thuật chạm lộng, chạm nổi, cẩn ốc xà cừ rất công phu và có giá trị về mặt điêu khắc, chạm gỗ. Lẫm lúa nhà Võ Công Tồn là nơi bác Tôn Đức Thắng mở lớp học truyền bá tư tưởng chống thực dân Pháp vào năm 1928. Lò gạch là nơi Võ Công Tồn sản xuất và kinh doanh gạch ngói tạo nguồn tài chính cung cấp cho Đảng. Cơ sở tin cậy của Đảng bộ Chợ Lớn, Xứ ủy Nam kỳ và các phong trào yêu nước trước năm 1945. Năm 1927, Nguyễn An Ninh là nhà cách mạng, nhà văn và nhà báo. Ông đã sáng lập tổ chức yêu nước Thanh niên Cao vọng Đảng, nhưng năm 1923, Võ Công Tồn đã sát cánh cùng Nguyễn An Ninh trong công tác làm báo. Mở trường lớp để nâng cao dân trí, tuyên truyền, thức tỉnh tinh thần quốc gia dân tộc cho quần chúng nhân dân, các lớp học ngắn ngày thường xuyên được tổ chức tại khu lò gạch Võ Công Tồn do Nguyễn An Ninh trực tiếp giảng huấn, thu hút đông đảo công nhân lò gạch. Vào năm 1935, Chi bộ Đảng của ấp Lò Gạch ra đời tại khu Lò gạch Võ Công Tồn. Mọi sinh hoạt, hội họp của Chi bộ đều diễn ra tại đây. Năm 1936, Nguyễn An Ninh và Nguyễn Thị Minh Khai mở lớp học 20 ngày để tuyên truyền vận động cách mạng, truyền bá chủ nghĩa Mác- Lênin cho đông đảo công nhân lò gạch. Năm 1937, có 40.000 truyền đơn phản đối toàn quyền Brevie và thanh tra lao động J.Godart sang Việt Nam cũng được in ra tại khu lò gạch của Võ Công Tồn. Những truyền đơn in từ lò gạch được rải khắp nơi từ Sài Gòn Chợ Lớn đến Tân An và Mỹ Tho. Khu lò gạch là nơi Võ Công Tồn trực tiếp sản xuất và kinh doanh, có lúc lên đến hơn 300 công nhân. Nơi đây chính là nguồn cung cấp tài chính quan trọng cho Đảng. Các nhà yêu nước hoạt động trong những năm đầu Đảng còn non trẻ. Nhà và Lò gạch Võ Công Tồn đã được Bộ Văn Hóa – Thông tin ra quyết định công nhận di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia ngày 19/01/2004. Nguồn: Cổng Thông Tin Tỉnh Ủy Long An
Tây Ninh 4023 lượt xem
Nhà lưu niệm và tượng đài anh hùng Võ Thị Sáu nằm ở ngã tư Đất Đỏ, thuộc xã Phước Long Thọ - Huyện Đất Đỏ. Ngôi nhà vách gỗ, mái ngói cổ xưa nơi mà chị đã từng sống thời niên thiếu cùng gia đình có các kỷ vật, vật dụng đơn sơ, có bàn thờ tổ tiên và bàn thờ chị đặt ở gian ngoài. Năm 1980 ngôi nhà được ủy ban nhân dân huyện Đất Đỏ tu bổ lại khang trang như ngày nay. Võ Thị Sáu là một nữ du kích trong Chiến tranh Việt-Pháp ở Việt Nam, người nhiều lần thực hiện các cuộc mưu sát nhắm vào các sĩ quan Pháp và những người Việt cộng tác với chính quyền thực dân Pháp tại miền Nam Việt Nam. Nhà nước Việt Nam xem cô như một biểu tượng Liệt nữ Anh hùng tiêu biểu trong cuộc kháng chiến chống Pháp và đã truy tặng cho cô danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân năm 1993. Võ Thị Sáu sinh năm 1933, là con ông Võ Văn Hợi và bà Nguyễn Thị Đậu. Về nguyên quán, trên bia mộ chỉ ghi tại huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Chị sinh ra trong một gia đình nghèo, cha làm nghề đánh xe ngựa chở khách thuê đi Long Điền, Phước Hải, mẹ buôn bán bún bì chả tại chợ Đất Đỏ, từ nhỏ, chị phải phụ giúp cha mẹ để sinh kế. Sau khi quân Pháp tái chiếm vùng Đất Đỏ, cuối năm 1945, các anh trai của chị Sáu đã thoát li gia đình, hoạt động kháng chiến cho phong trào Việt Minh. Chị đã bỏ dở việc học, ở nhà giúp mẹ cha kiếm sống và bí mật tiếp tế cho các anh, vốn công tác trong Chi đội Giải phóng quân của tỉnh Bà Rịa. Năm 1946, chị theo anh trai là Võ Văn Me vào khu kháng chiến, và trở thành liên lạc viên của Đội Công an xung phong Đất uân Pháp; đặc biệt là trận tập kích bằng lựu đạn tại lễ kỉ niệm Quốc khánh Pháp ngày 14 tháng 7 năm 1949 tại Đất Đỏ, gây được tiếng vang lớn ở vùng Đất Đỏ. Năm 1947, chị chính thức trở thành đội viên Công an xung phong Đất Đỏ khi mới 14 tuổi. Từ đó, chị tham gia nhiều trận tập kích bằng lựu đạn, ám sát các sĩ quan người Pháp và Việt gian cộng tác với Thực dân Pháp tạo được tiếng vang và sự ủng hộ của quần chúng nhân dân trong vùng. Vào tháng 12 năm 1949, trong một chuyến công tác tại Đất Đỏ, chị Võ Thị Sáu đã bị quân Pháp bắt được. Một số tài liệu khác ghi cô bị bắt vào tháng 2 năm 1950, sau khi chị và đồng đội dùng lựu đạn tập kích giết chết Cả Suốt và Cả Đay, là hương chức người Việt cộng tác đắc lực với quân Pháp, ở ngay phiên chợ Tết Canh Dần tại chợ Đất Đỏ. Trong ngục giam những người bị án tử hình, Chị vẫn hồn nhiên, vui tươi, tin tưởng vào ngày chiến thắng của Tổ Quốc. Dù các luật sư biện hộ cho chị đã phản ánh với lý do chưa đủ 18 tuổi nhưng thực dân Pháp vẫn ngoan cố tuyên án tử hình. Trước khi bị đưa ra thi hành án, Chị bị đày qua các nhà tù Chí Hòa, Bà Rịa và Côn Đảo. Vì quân Pháp không dám công khai thi hành bản án đối với Chị, chúng đã lén lút đem cô đi thủ tiêu. Chuyện vẫn kể rằng, khi nhóm đao phủ bảo chị quỳ xuống, Chị đã quát lại bọn chúng với một câu đã đi vào huyền thoại, Tao chỉ biết đứng, không biết quỳ. Chị bị xử bắn năm 1952 tại Côn Đảo khi chưa đủ 18 tuổi. Cách đó chừng 100m là công viên tượng đài và đền thờ anh hùng Võ Thị Sáu. Tượng chị được đặt ở đó, một nơi thoáng mát, bốn mùa ngát hương với hoa sứ, hoa ngọc lan, hoa lekima. Một nơi đẹp , yên bình và tĩnh lặng. Tượng được đúc bằng đồng, cao 7m, tạo theo thế chị Sáu ung dung ra pháp trường, tà áo vẫn tung bay trong gió. Một con người hiên ngang, bất khuất, kiên cường, và không bao giờ đầu hàng trước gian khó, hiểm nguy. Đền thờ là nơi cho dân chúng đến phúng viếng, tưởng niệm anh hùng và là nơi trưng bày hiện vật, giới thiệu hình ảnh về cuộc đời hoạt động của anh hùng liệt sỹ Võ Thị Sáu cùng một số hình ảnh về quê hương Đất Đỏ. Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
TP Hồ Chí Minh 5449 lượt xem
Di tích Quảng trường Sông Phố được Bộ Văn hóa Thông tin và Thể thao xếp hạng Di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 30 tháng 12 năm 1991. Quảng trường Sông Phố (còn gọi là công trường Sông Phố) là khu vực giao lộ của hai tuyến đường Cách Mạng Tháng Tám và đường 30 tháng 4. Người dân quen gọi Quảng trường Sông Phố với cái tên thân thương là Bùng binh trung tâm vì nó tọa lạc gần các công sở của tỉnh và từ đây có những ngã đường tỏa đến các địa điểm trên địa bàn thành phố Biên Hòa. Sau khi đánh chiếm và bình định Biên Hòa vào đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp đã tiến hành xây dựng nhiều công sở trên vùng đất này để phục vụ cho chính quyền thuộc địa. Quảng trường Sông Phố được xây dựng cùng với kiến trúc của Tòa bố Biên Hòa, Dinh Tỉnh trưởng tạo nên một khung cảnh hài hòa giữa lòng thành phố có quy mô vừa phải bên sông Đồng Nai thơ mộng. Đài phun nước là một tác phẩm gốm do nghệ nhân gốm Biên Hòa sáng tạo. Những con cá trong thế rồng dựng dáng vươn nước trông đẹp mắt qua các tia nước được phun lên. Quảng trường Sông Phố đã đi vào lịch sử xứ Biên Hòa từ những ngày sôi động khi quần chúng nổi dậy cướp chính quyền mùa thu năm 1945. Ngày 27.8.1945 nơi đây đã diễn ra cuộc mít tinh trọng thể chào mừng chính quyền cách mạng lâm thời đầu tiên của tỉnh Biên Hòa. Gần một vạn người từ các nơi kéo về đây tham dự. Trong không khí trào dâng của thắng lợi cách mạng, đồng chí Dương Bạch Mai - Cán bộ Xứ ủy Nam Kỳ đại diện Mặt trận Việt Minh ở Nam Bộ diễn thuyết về đường lối cách mạng của Đảng, được quần chúng nhiệt liệt hoan nghênh. Đồng chí Hoàng Minh Châu, Chủ tịch Ủy ban khởi nghĩa, tuyên bố chính quyền về tay nhân dân và công bố Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh Biên Hòa gồm các đồng chí: - Hoàng Minh Châu - Chủ tịch - Huỳnh Văn Hớn - Phó chủ tịch kiêm Trưởng ban Tuyên truyền - Nguyễn Văn Long - Phụ trách cảnh sát - Ngô Hà Thành - Phụ trách quốc gia tự vệ cuộc (Công an tỉnh) - Nguyễn Văn Tàng - Phụ trách Ban Quản trị tài sản quốc gia tỉnh Kết thúc cuộc mít tinh là lễ tuyên thệ. Hơn một vạn người thay mặt cho 15 vạn đồng bào trong tỉnh Biên Hòa giơ cao nắm tay tuyên thệ, sẵn sàng hy sinh tính mạng, tài sản, kiên quyết bảo vệ nền độc lập tự do cho tổ quốc. Kết thúc cuộc mít tinh, quần chúng hô vang khẩu hiệu “Việt Nam độc lập muôn năm”, “Việt Minh muôn năm”. Cuộc mít tinh kết thúc, hàng vạn đồng bào tuần hành biểu dương lực lượng. Đoàn người cuồn cuộn lẫn trong cờ hoa, biểu ngữ thật hào hùng. Cả thị xã Biên Hòa như bừng tỉnh hồi sinh sau bao năm tháng bị kẻ thù kìm kẹp, thống trị. Quảng trường Sông Phố tồn tại trong lòng người dân Biên Hòa như một biểu tượng của sự chiến thắng, vẫn còn đâu đó khí thế hân hoan của mùa thu Cách Mạng Tháng Tám năm 1945. Một thế kỷ trôi qua với bao sự thay đổi. Đài phun nước (công trường Sông Phố) vẫn còn đó, góp phần tô điểm làm đẹp thành phố, là niềm tự hào của người dân Biên Hòa. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Đồng Nai
Đồng Nai 4329 lượt xem
Di tích Địa điểm Chiến thắng Đồng Xoài tọa lạc tại phường Tân Phú, thành phố Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước. Đầu năm 1965, sau chiến thắng Bình Giã và sự sụp đổ của chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ, phong trào đấu tranh của nhân dân ta ở miền Nam đã có bước phát triển mới. Quân ủy và Bộ Chỉ huy Miền quyết định mở Chiến dịch Phước Long – Đồng Xoài, Đồng Xoài được chọn là chiến trường trọng điểm của chiến dịch. Để chuẩn bị cho chiến dịch, công tác hậu cần được chuẩn bị chu đáo. Nhân dân tích cực đóng góp sức người, sức của, tập trung đảm bảo dân công, lương thực, thực phẩm…Có thể nói, những ngày chuẩn bị cho Chiến dịch Đồng Xoài, cả rừng núi Phước Long ngày đêm không ngủ. Tiếng chày giã gạo, ánh đuốc lồ ô, tiếng bước chân, tiếng nói, tiếng cười dân công…tất cả đã tạo nên bức tranh hoàn thiện về toàn dân làm hậu cần, toàn dân kháng chiến của đồng bào các dân tộc vùng rừng núi miền Đông Nam Bộ. Trực tiếp tham gia trận đánh tại hướng chiến lược Đồng Xoài là các Trung đoàn 1 (Q761), Trung đoàn 2 (Q762), Trung đoàn 3 (Q763) thuộc Sư đoàn 9 chủ lực… Nhiều chiến sĩ viết khẩu hiệu lên nón, lên báng súng nội dung: “Quyết tử giải phóng Đồng Xoài”, “Bị thương nặng không kêu la, bị thương nhẹ không rời trận địa” hoặc “Quyết tâm dứt điểm Đồng Xoài, không dứt điểm Đồng Xoài không về”. Trận đánh chi khu Đồng Xoài diễn ra trong 3 ngày, bắt đầu từ ngày 09/6/1965 đến ngày 12/6/1965, ta hoàn thành nhiệm vụ đánh, tiêu diệt chi khu Đồng Xoài. Chiến thắng Đồng Xoài cùng với chiến thắng Bình Giã, Ba Gia đã góp phần làm thất bại hoàn toàn chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ và đã “thêm một trang vẻ vang vào lịch sử đấu tranh của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam chống cuộc chiến tranh của Đế quốc Mỹ xâm lược”. Di tích Địa điểm Chiến thắng Đồng Xoài được xây dựng năm 2005 với tổng diện tích 16.932,88m2, gồm các hạng mục công trình: Tượng đài chiến thắng, tranh phù điêu, nhà trưng bày lưu niệm, hệ thống cây xanh, đài phun nước…Một phần lịch sử hào hùng của Chiến dịch Phước Long – Đồng Xoài đã được tái hiện ở tượng đài với hình tượng 3 chiến sĩ trong tư thế hiệp đồng tác chiến, xông lên chiến đấu đã lột tả được tinh thần đấu tranh quả cảm. Phía sau tượng đài, 2 bức phù điêu minh họa khí thế của trận đánh Đồng Xoài rực lửa năm xưa bằng việc tái hiện sinh động toàn cảnh quá trình công tác chuẩn bị mọi mặt và diễn biến tấn công, thời khắc chiến thắng của quân và dân ta. Với những giá trị lịch sử to lớn, di tích Địa điểm Chiến thắng Đồng Xoài được Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quyết định xếp hạng di tích lịch sử quốc gia ngày 12/12/2014. Nguồn: Trang Thông Tin Điện Tử Bảo Tàng Tỉnh Bình Phước
Đồng Nai 4130 lượt xem
Ngay trong khuôn viên của Trung đoàn 726, xã Quảng Trực, huyện Tuy Đức (Đắk Nông) có 1 ngôi nhà cổ, màu trắng, xây theo kiểu kiến trúc Pháp. Theo nhận định của chuyên gia, nơi đây trước kia là địa điểm Sở Trà do người Pháp xây dựng tại Đắk Nông. Khoảng những năm 30 của thế kỷ XX, thực dân Pháp vào vùng đất Tây Nguyên mở các đồn điền, trồng các loại cây như cà phê, trà và thuê công nhân là người dân tộc thiểu số. Năm 1962, Đồn điền lúc đó rộng khoảng 20ha và có khoảng 80 công nhân làm việc tại đây. Trong đó, người dân tộc thiểu số làm việc tại đồn điền có khoảng 40 người. Đặc biệt, có 12 tù nhân chính trị bị bắt về làm việc tại đây. Những công nhân làm việc tại đồn điền được trả 30 đồng/tháng. Có những người không lấy tiền thì sẽ quy ra đổi thành gạo hoặc muối. Cuối năm sẽ được thưởng thêm bằng thịt bò. Một ngày, người công nhân tại đồn điền trà làm việc từ 7 giờ sáng đến 5 giờ chiều, buổi trưa sẽ được cho ăn uống và nghỉ ngơi. Khoảng năm 1966 thì đồn điền giải thể. Qua khảo sát, di tích lịch sử Sở Trà được bảo tồn khá nguyên vẹn với 1 công trình xây dựng bằng kết cấu bê tông cốt thép, theo kiểu kiến trúc Pháp những năm đầu thế kỷ XX. Hiện nay, về quá trình xây dựng ngôi nhà vào ngày tháng năm nào chưa có tư liệu cụ thể. Diện tích khuôn viên ngôi nhà khoảng 200m². Ngôi nhà gần như còn nguyên vẹn với 1 trệt, 1 lầu và 1 tầng lửng. Bên trong ngôi nhà có 8 gian phòng và có 1 lò sưởi ấm xây thông từ tầng trệt lên lầu 1 và tầng lửng để sưởi ấm khi giá lạnh. Phía sau phòng tầng trệt có một hầm bí mật thoát hiểm nhưng đã che đậy miệng hầm. Cho đến nay, dù được Trung đoàn 726 quản lý nhưng chưa khám phá khai thông căn hầm bí mật này. Lân cận khu vực công trình có một số cây ăn quả, cây trà cổ thụ mà theo người dân địa phương, những cây cổ thụ này khoảng 100 năm tuổi. Trong đó có 2 cây me tây đã được công nhận là cây di sản Việt Nam vào tháng 9/2022. Di tích lịch sử Sở Trà được công nhận là di tích lịch sử cấp tỉnh. Nguồn: Báo Đắk Nông điện tử
Lâm Đồng 3685 lượt xem
Tháp nước Phan Thiết nằm bên sông Cà Ty xây gần 90 năm trước, do hoàng thân Xuphanuvong (Lào) thiết kế, hiện là biểu tượng của tỉnh Bình Thuận. Tháp nước Phan Thiết (còn được gọi "Lầu nước") được người Pháp xây dựng 1928-1934 theo chủ trương quy hoạch đô thị của nhà cầm quyền đương thời, phục vụ cung cấp nước sinh hoạt cho Tòa Công sứ Pháp (nay là trụ sở UBND Bình Thuận) và người dân nội thị Phan Thiết. Vị trí xây dựng tháp nước nằm trên đất làng Long Khê, bên tả ngạn sông Cà Ty, cao ráo thoáng mát, cách Tòa Công sứ chừng 350 m. Bản thiết kế tháp nước do hoàng thân Xuphanuvong (Lào, khi đó ông là du học sinh trường Albert Sarraut tại Việt Nam) vẽ, được Sở Công chánh Hà Nội duyệt và công trình được đưa ra đấu thầu. Trong số hai nhà thầu Pháp và hai nhà thầu Việt, thì nhà thầu Ưng Du (người gốc Huế, làm việc ở Bình Thuận) trúng thầu. Tháp nước được xây dựng theo hình trụ bát giác đều. Chiều cao từ đế lên đỉnh tháp là 32 m. Tổng thể chia làm 3 phần, gồm: thân tháp, bầu đài và phần mái. Phần thân tháp có hình trụ bát giác, mỗi cạnh rộng 3,9 m càng lên cao càng thu nhỏ lại. Đường kính chân tháp dài 9 m, chu vi 31,2 m, diện tích sàn 73,4 m2. Dọc theo các cạnh của thân tháp từ trên xuống có bố trí 5 ô thông gió được trang trí các hoa văn chữ triện tương ứng với 5 chữ: "Hỷ", "Phúc", "Thọ", "Kiết", "Lộc". Hàm ý cầu chúc cho muôn người vui vẻ, hạnh phúc, trường thọ, thịnh vượng và no ấm. Riêng cạnh phía Tây ô thông gió chữ "Lộc" được thay bằng cửa sắt ra vào tháp. Phần bầu đài, tức là bồn nước, cũng được thiết kế hình bát giác cao 5 m, đường kính 9 m, chứa 350 m3 nước. Xung quanh bầu đài có 8 hình tròn được đắp nổi bằng mảnh sành sứ cách điệu bốn chữ U.E.P.T, viết tắt của cụm từ tiếng Pháp "Usine des Eaux de Phan Thiet" (nghĩa là Nhà máy nước Phan Thiết). Với đặc điểm kiến trúc vươn cao nên công trình cũng được sử dụng như một cột cờ. Thạc sĩ Nguyễn Chí Phú, Phó giám đốc Bảo tàng tỉnh Bình Thuận cho biết, trong quá trình xây dựng, các chuyên gia và nhân công đã tuân thủ nghiêm ngặt thiết kế kỹ thuật. Sỏi phải đem rửa 5 lần cho sạch cát bụi. Cát đúc cũng phải rửa 3 lần cho sạch chất bẩn. Sắt đúc phải dùng giấy nhám chà xát cho hết hoen rỉ. Ván dùng làm cốt pha phải bào láng để khi tháo ra không cần phải tô trét gì thêm. Nhờ đó, công trình được vững chãi, bền bỉ đến ngày hôm nay. Trải qua gần 90 năm tồn tại, dù trước bom đạn chiến tranh và môi trường khắc nghiệt, nhất là qua hai trận lũ lịch sử năm Nhâm Thìn (1952) và Quý Dậu (1993), tháp nước vẫn đứng vững uy nghi giữa lòng thành phố, trở thành biểu tượng thiêng liêng, đi vào thơ ca và âm nhạc của xứ biển Phan Thiết. Ngày 19/10/2018, tháp nước Phan Thiết đã được UBND Bình Thuận quyết định xếp hạng di tích cấp tỉnh. nguồn: Du lịch Phan Thiết
Lâm Đồng 4305 lượt xem
Đình Tấn Lộc thuộc khu phố 4, phường Tấn Tài, thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận. Đình được xây dựng ở đầu làng. Theo các cụ già trong làng thì vào năm Minh Mạng thứ 11 sau khi ông Phan Văn Nghi xin thành lập làng Tấn Lộc thuộc Kinh Dinh, phủ Ninh Thuận thì Đình Tấn Lộc lúc bấy giờ có tên là Đình Dinh Thủy, mới được xây dựng ở cuối làng bằng các vật liệu thanh tre đơn giản. Đến năm Giáp Dần (1853) đời vua Tự Đức, Đình Dinh Thủy mới được dời về địa điểm hiện nay. Đình thờ Thần Thành Hoàng, Thiên Y A Na và Chưởng Thái Giám Bạch Mã. Theo tục lệ của tiền nhân lưu lại, hàng năm thôn Tấn Lộc tổ chức tại đình làng làm đại lễ theo Xuân kỳ vào tháng 2 Âm lịch và làm trung lễ theo thu lệ vào tháng 8 Âm lịch. Mỗi đợt tế được chia làm ba phần, với những nghi thức rất trang trọng, từ lễ Khai sắc, đến lễ kỵ Tiền hiền và lễ Tế tại Chánh điện. Đình Tấn Lộc phường Tấn Tài đã được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích lịch sử văn hoá , kiến trúc nghệ thuật. Đình Tấn Lộc được xây dựng trên một khu đất có diện tích là 1.950 mét vuông, xung quanh có tường rào bao bọc. Mặt trước của Đình hướng ra sông Dinh, mặt sau nhìn ra xa có ngọn núi Cà Đú là điểm tựa lưng vững chãi. Đình Tấn Lộc là một tổng thể kiến trúc bao gồm: từ ngoài vào là nghi môn, bình phong, sân gạch, cách chừng 15m là tòa chánh điện, nối chánh điện với nhà Kiều là một khoảng sân nhỏ mà các cụ thường gọi là Thiên Tĩnh (giếng trời). Liền với nhà Kiều là nhà Tiền Hiền. Hai bên hông của tòa Chánh điện là nhà Đông và nhà Tây, phía trước nhà Đông và nhà Tây là hai ngôi miếu nhỏ, miếu Đông thờ Ngũ hành, miếu Tây thờ Thổ thần, còn hai bên hông của nhà Kiều là hai nhà Trù (nhà bếp) nhưng chỉ còn một căn phía Đông, còn căn phía Tây đã bị đổ nát. Ở phía Đông, giữa nhà Đông với nhà Trù có một cổng nhỏ (còn gọi là cổng Đông) dùng để ra giếng lấy nước. Đình Tấn Lộc là một công trình kiến trúc, điêu khắc gỗ có giá trị. Về mặt kiến trúc Đình là một quần thể gồm nhiều ngôi nhà Tứ trụ ghép lại, sự có mặt của các kèo đâm, kèo khuyết làm cho diện tích của ngôi đình được nới rộng ra xung quanh. Đề tài trang trí ở Đình khá phong phú, hầu hết các mô típ cổ điển đều được sử dụng và mang tính triết lý sâu sắc như: “Tứ linh”: Rồng biểu trưng cho quyền lực, Lân biểu trưng cho ước vọng Thái Bình, Quy ngoài biểu trưng cho sự chịu đựng và sống lâu thì nó còn được quan niệm là hợp thể trong quan hệ đối đãi của trời cha đất mẹ, Phụng biểu hiện về ước vọng muôn đời của người dân Việt trong mối quan hệ với thần linh. Với đề tài bát bửu thì có Hoa mặt trời (trời) tượng trưng cho nơi ngự trị của thần linh mang tính linh thiêng. Gươm biểu hiện cho sức mạnh của con nhà võ diệt trừ xấu xa, ma quỷ. Quạt vả nhằm tiêu trừ độc hại ma quỷ. Đàn biểu hiện sự thanh cao của đạo nhân. Bầu rượu biểu trưng của Lý Thiết Quài đi tìm “lẻ quên” thoát khỏi sự ràng buộc xấu xa của cuộc đời và cây gậy Như Ý biểu hiện cho quyền lực… Hơn 100 năm qua, do sự tác động của thiên nhiên nên Đình đã qua nhiều lần tu bổ. Trong những lần tu sửa đó, do nhận thức có hạn nên một số kiến trúc như nhà Đông, nhà Tây đã được làm mới lại hoàn toàn trên nền cũ song cơ bản Chánh điện và nhà Tiền hiền vẫn giữ được những yếu tố nguyên gốc nên vẫn không làm mất đi dáng vẻ uy nghi, cổ kính của ngôi đình. Nguồn: Trung tâm Thông tin Xúc tiến Du lịch Ninh Thuận
Khánh Hòa 4382 lượt xem
Sau khi Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm vẫn cố tình vi phạm Hiệp định. Tại Phú Yên, Ngày 7/9/1954, ba đại đội thuộc tiểu đoàn 10 quân đội Quốc gia Việt Nam (quân nguỵ phản quốc) đến Ngân Sơn tiếp quản. Đại đội 1 đóng trên quốc lộ, đại đội 2 đóng ở phía đông trường tiểu học, đại đội 3 do đại úy Đê chỉ huy đóng tại trường học. Đại úy Đê đi ra sau trường, vào nhà ông Bành Liến thấy trên bàn thờ có ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh liền giật xuống. Vợ ông Bành Liến lúc bấy giờ đang quét sân, dùng chổi đánh viên sĩ quan này. Anh ta quay ra xô xát với chủ nhà. Cả nhà cùng tri hô. Nhiều người chạy đến, một lúc sau nhân dân các vùng Ngân Sơn, An Thạch, An Dân… kéo đến phản đối lính Quốc gia Việt Nam. Bất ngờ, đại úy Đê (sách Lịch sử Đảng bộ và nhân dân thị trấn Chí Thạnh viết là tên Võ Duy Đệ) ra lệnh cho lính bắn thẳng vào đám đông trong sân trường. Chín người trúng đạn chết ngay tại chỗ, mười người khác bị thương. Dân chúng vô cùng căm phẫn khiến lính Quốc gia Việt Nam vội vã rút vào Chí Thạnh. Cơ sở Đảng Lao động Việt Nam hoạt động bí mật ở Ngân Sơn vận động nhân dân khiêng những người chết, bị thương đi vào Chí Thạnh tiếp tục đấu tranh với chính quyền Quốc gia Việt Nam. Lúc này nhân dân các xã An Ninh, An Định, An Cư… cũng rầm rộ kéo đến ủng hộ cuộc đấu tranh. Từ dốc Nhà Thương (nay là phía bắc khu phố Trường Xuân, thị trấn Chí Thạnh), lính Quốc gia Việt Nam đặt súng đại liên bắn thẳng vào đoàn người từ hướng An Ninh lên. Hàng loạt người đổ gục xuống ruộng. Nhân dân từ phía An Định kéo xuống cũng bị lính bắn chết, nhiều người khác cũng gục ngã tại chùa Trường Giác (nay thuộc khu vực sân vân động huyện Tuy An). Trong buổi chiều 7/9/1954 có 79 người chết, 76 người bị thương. Sự phẫn nộ của dân chúng ngày càng dâng cao. Ngày 7/9/1954 (tức ngày 11/8 năm Giáp Ngọ), người dân Ngân Sơn - Chí Thạnh nói riêng và nhân dân Phú Yên nói chung mãi mãi không bao giờ quên những địa danh: Trường Ngân Sơn - điểm đầu tiên nổ ra vụ thảm sát; dốc Nhà Thương và khu Nhà hát Nhân dân huyện - nơi kẻ thù điên cuồng bắn vào đoàn người biểu tình. Để tưởng nhớ tinh thần đấu tranh và hy sinh anh dũng của nhân dân huyện Tuy An, chính quyền địa phương đã xây dựng đài tưởng niệm tại trung tâm thị trấn Chí Thạnh. Ngày 18/6/1997, Bộ Văn hoá - Thông tin ra quyết định công nhận Nơi diễn ra vụ thảm sát Ngân Sơn - Chí Thạnh là Di tích lịch sử cấp Quốc gia. Nguồn: Phú Yên online
Đắk Lắk 4335 lượt xem
Quần thể di tích chùa Đọi Sơn, xã Đọi Sơn, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam, trấn Sơn Nam xưa. Chùa được xây dựng trên đỉnh núi Đọi, trong khuôn viên 2 ha vườn rừng. Theo sử liệu thành văn và các truyền thuyết có liên quan, chùa Đọi Sơn vốn là một am nhỏ tồn tại từ thế kỷ 10 đến 11. Thời kỳ này, chùa gắn với tên tuổi của vị sư Đàm Cứu Chỉ, ông chính là người thay kiến trúc tranh tre, nứa lá của thời trước để xây dựng chùa bằng gạch ngói là vật liệu bền vững hơn. Đến thế kỷ XII, vua Lý Nhân Tông trên đường kinh lý qua đây thấy cảnh sắc còn đó mà chùa đã bị đổ nát nên đã cho xây dựng lại chùa và dựng tháp Sùng Thiện Diên Linh. Công trình bắt đầu xây dựng năm 1118 đến năm 1121 hoàn thành. Từ đó, chùa Đọi Sơn trở thành đại danh lam kiêm hành cung, một trong những trung tâm Phật giáo quan trọng thời Lý với ý nghĩa trấn giữ phía Nam kinh thành Thăng Long. Chùa Đọi Sơn đứng vững hơn 300 năm. Đầu thế kỷ 15, khi giặc Minh xâm lược nước ta, chùa và tháp bị phá hủy hoàn toàn. Đến các triều hậu Lê, nhà Mạc, nhà Nguyễn, chùa Đọi Sơn đã được xây dựng và tu tạo liên tục, dần dần được khôi phục với 125 gian, được xây theo kiểu nội công ngoại quốc gồm có tòa bái đường, thiên hương và thượng điện, hai dãy hành lang hai bên thờ thập bát La hán. Trong kháng chiến chống Pháp, một lần nữa ngôi chùa cổ kính này lại bị tàn phá. Sau ngày hòa bình lập lại ở miền Bắc, chính quyền cùng nhân dân địa phương đã tích cực tiến hành trùng tu lại ngôi chùa. Lần sửa chữa lớn vào năm 1958 đã hoàn tất những công trình chính tại đây. Trải qua bao biến cố thăng trầm của lịch sử, ngôi chùa vẫn giữ được nét cổ kính, linh thiêng, mang đậm phong cách kiến trúc, mỹ thuật thời Lý. Đây là ngôi chùa có lịch sử lâu đời, phản ánh một thời kỳ hưng thịnh của Phật giáo trong lịch sử dân tộc và là niềm tự hào của người dân nơi đây. Một trong số những hiện vật có giá trị lịch sử văn hóa nổi bật được lưu giữ tại chùa Đọi Sơn hiện nay chính là tấm bia Sùng Thiện Diên Linh. Tấm bia với nghệ thuật chạm khắc độc đáo chứa đựng nhiều thông tin quý hiếm cho việc nghiên cứu lịch sử, văn hóa thời Lý. Đặc biệt, tấm bia Sùng Thiện Diên Linh còn là tấm bia duy nhất cung cấp những thông tin quý hiếm về Hội đèn Quảng Chiếu ở kinh thành Thăng Long, nghệ thuật múa rối nước, nghi lễ phật giáo, việc tu sửa chùa Diên Hựu (chùa Một Cột), quá trình xây dựng tháp Sùng Thiện Diên Linh. Chùa Đọi Sơn cũng là một trong số ít những ngôi chùa hiện nay còn lưu giữ được nhiều hiện vật mỹ thuật thời Lý có giá trị như: Tượng Đà Bảo Như Lai, tượng Kim Cương, tượng đầu người mình chim (kinari) - tác phẩm thể hiện sự giao thoa văn hóa giữa hai nền kiến trúc nghệ thuật Chămpa và Đại Việt thời Lý. Cùng với các hạng mục kiến trúc và hệ thống hiện vật, đồ thờ tự, chùa Đọi Sơn còn lưu giữ kho tàng di sản Hán Nôm phong phú, đa dạng và rất có giá trị. Đây là nguồn tư liệu quý giá đã đúc kết tinh hoa văn hoá ở nhiều triều đại, từ tri thức dân gian đến tri thức bác học, là tài sản hết sức độc đáo có giá trị vô giá mà ít nơi có được. Với chiều dài lịch sử cùng nhiều biến cố, chùa còn mang đậm giá trị khảo cổ học. Trong hố khai quật nằm giữa hậu cung của chùa và nhà hậu đã tìm thấy nền móng, các vật liệu kiến trúc cùng nhiều hiện vật thời Lý như tiêu bản trang trí, đồ gốm, đồ sành, kim khí. Di tích lịch sử chùa Đọi Sơn thể hiện sự sáng tạo về khoa học xây dựng công trình, sản xuất vật liệu xây dựng cũng như kỹ thuật khai thác, tận dụng điều kiện tự nhiên của các thế hệ cha ông ở các triều đại phong kiến với kỹ thuật xây dựng khéo léo các vật liệu gỗ, đá, gạch tạo nên những công trình kiến trúc có giá trị nghệ thuật cao. Với những giá trị lịch sử, văn hóa tiêu biểu trên, ngày 23/12/2017, di tích chùa Đọi Sơn, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam đã được Thủ tướng Chính phủ ký quyết định xếp hạng là Di tích quốc gia đặc biệt. Nguồn: Báo Hà Nam điện tử
Ninh Bình 3699 lượt xem
Đền Tả Phủ nằm ở trung tâm phố chợ Kỳ Lừa, nay thuộc phường Hoàng Văn Thụ, thành phố Lạng Sơn. Đền Tả Phủ được xây dựng năm Chính Hòa thứ 4 (1683) thờ vị quan thời Hậu Lê tên là Thân Công Tài, chức Tả Đô đốc Hán Quận công, người có công xây dựng, mở mang phố chợ Kỳ Lừa. Cửa chính đền quay hướng Tây, nằm trên thế đất cao, tạo nên vẻ uy nghi, linh thiêng. Kiến trúc của đền theo lối chữ Công, gồm hai tòa nhà Đại bái và Hậu cung, nối với nhau theo kiểu ống muống. Các kết cấu cột, vì kèo đều được làm bằng gỗ, tường xây gạch chỉ, mái lợp ngói âm dương, không trang trí hoa văn, họa tiết cầu kỳ. Hiện vật có giá trị nhất trong đền là tấm bia đá được dựng vào năm Quý Hợi niên hiệu Chính Hòa thứ 4 (1683). Bia có tiêu đề là: Tôn sự phụ bi, nghĩa là tôn Tả Đô đốc Thân Công Tài làm thầy, làm cha; mặt bên ghi dòng chữ: Lưỡng quốc khách nhân. Nội dung bia nói về việc nhân dân hai nước ghi tạc công lao của Hán Quận công Thân Công Tài với Lạng Sơn, với thương nhân hai nước Việt Nam - Trung Quốc và việc mở mang thương trường buôn bán tại phố chợ Kỳ Lừa. Bia đá được đặt trong nhà bia phía trong đền, bia được tạo tác theo hình khối, thân bia hình trụ vuông, cao 2,1m; đế bia có hai tầng, tầng trên được chạm khắc theo kiểu sập gụ chân quỳ đỡ thân bia, tầng dưới chạm khắc các cánh sen chồng ba lớp chạy xung quanh. Đỉnh bia được thu dần lên phía trên, có một bông sen hai tầng cánh cách điệu ôm lấy đỉnh chóp; hiện nay bia chỉ còn ba mặt đọc được, một mặt đã bị mờ. Có thể nói đây là một bia đá được tạo tác cân đối, đẹp về mỹ thuật; có giá trị sử liệu về nhân vật Hán Quận công Thân Công Tài được thờ tại đền và công lao của ông. Năm 1993, đền Tả Phủ đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng di tích cấp Quốc gia. Lễ hội của đền được tổ chức từ ngày 22 đến 27 tháng Giêng hằng năm, thu hút đông đảo du khách tham dự đã được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể cấp Quốc gia vào năm 2015. Nguồn: Trang Tin Điện Tử Bảo Tàng Tỉnh Lạng Sơn
Lạng Sơn 3837 lượt xem
Nơi đây trong thời kỳ tiền khởi nghĩa tháng 8/1945, cùng với xã Hiền Lương đã hình thành khu căn cứ cách mạng Tu Lý, Hiền Lương, 1 trong 4 khu căn cứ cách mạng của tỉnh nằm trong hệ thống chiến khu Hòa, Ninh, Thanh (Chiến khu Quang Trung). Tại khu căn cứ này đã tổ chức lớp huấn luyện quân sự đầu tiên của tỉnh. Từ đây, phong trào cách mạng lan rộng ra các vùng xung quanh. Ngược dòng lịch sử, tháng 2/1945, Trung ương Đảng quyết định thành lập chiến khu Hòa - Ninh -Thanh. Theo Chỉ thị của Trung ương Đảng, việc thành lập các khu căn cứ gấp rút chuẩn bị khởi nghĩa và đón giải phóng quân Nam tiến qua Hòa Bình bằng con đường từ Phú Thọ vào khu vực Tu Lý - Hiền Lương là một trong những cơ sở, điều kiện quan trọng hình thành và phát triển khu căn cứ cách mạng Hiền Lương - Tu Lý. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của xứ ủy Bắc kỳ, Ban cán sự Đảng tỉnh đã quyết định thành lập khu căn cứ cách mạng Tu Lý - Hiền Lương. Ngày 10/2/1945 (ngày 28 Tết năm ất Dậu) được anh Đinh Công Hậu dẫn đường, đồng chí Vũ Thơ đã đến gặp anh Đinh Công Sắc ở xóm Tình Tràng - xã Tu Lý để bắt mối gây dựng cơ sở cách mạng. Từ đây, gia đình anh Đinh Công Sắc trở thành địa điểm liên lạc, hội họp, bàn kế hoạch xây dựng khu căn cứ Tu Lý - Hiền Lương và mở lớp huấn luyện quân sự đầu tiên cho lực lượng vũ trang tỉnh. Trên cơ sở phong trào phát triển tốt và có đủ điều kiện lập khu căn cứ, Ban cán sự Đảng tỉnh quyết định mở lớp huấn luyện quân sự đầu tiên tại nhà ông Xa Văn Bình, bưa Đồng Miếng, xóm Giằng Sèo với 20 đội viên tự vệ cứu quốc của thị xã Hòa Bình và huyện Mai Đà. Trong sự đùm bọc, che giấu của nhân dân Hiền Lương - Tu Lý, các học viên hoàn thành khóa học trở về nhanh chóng thành lập và phát triển các đội tự vệ cứu quốc, chuẩn bị khởi nghĩa cướp chính quyền. Lớp học quân sự thắng lợi đã đưa thanh thế của Việt Minh lên cao, lan truyền sâu rộng trong mọi tầng lớp. Các hào lý khuất phục, nhân dân phấn khởi, tin tưởng vào cách mạng. Lực lượng cách mạng tại khu căn cứ ngày một lớn mạnh góp phần quan trọng vào thắng lợi của cuộc khởi nghĩa giành chính quyền tháng 8/1945 tại tỉnh lỵ, châu lỵ chợ Bờ, Suối Rút, phố Vãng (Hòa Bình) và Mộc Châu (Sơn La). Năm 1946, lực lượng khu căn cứ cách mạng Tu Lý - Hiền Lương đã phối hợp chặt chẽ với các lực lượng cách mạng khác của tỉnh tiêu diệt gọn Đảng Đại Việt Duy Dân đến chiếm Mường Diềm làm đại bản doanh và âm mưu lật đổ chính quyền cách mạng ở Hòa Bình. Để ghi dấu những chứng tích lịch sử, tại xóm Mạ - xã Tu Lý và xóm Rồng - xã Hiền Lương đã xây dựng Nhà bia lưu niệm khu di tích lịch sử cách mạng Tu Lý - Hiền Lương. Đây là những công trình có ý nghĩa lịch sử, văn hóa, là nơi giáo dục truyền thống cách mạng cho lớp lớp thế hệ vùng Tu Lý - Hiền Lương tiếp bước cha anh trong công cuộc bảo vệ thành quả cách mạng, xây dựng, đổi mới quê hương. Khu di tích đã được xếp hạng di tích lịch sử cách mạng cấp quốc gia. Nguồn: Báo Hòa Bình Điện Tử
Phú Thọ 3384 lượt xem
Công trình đền Phja Khao được bà con địa phương góp sức xây dựng trên đỉnh núi Phja Khao, xã Bản Thi, huyện Chợ Đồn từ năm 1933. Đây là nơi sinh hoạt văn hóa tâm linh quen thuộc, gắn bó lâu đời với đời sống của người dân địa phương. Đền Phja Khao thờ Đức Thánh Trần, người đã có công đánh đuổi giặc Nguyên Mông thế kỷ thứ XIII để giữ vững bờ cõi cho quốc thái, dân an. Phối thờ những công nhân mỏ quặng, đã bị thực dân Pháp giết hại. Năm 2017, đền được công nhận là di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh. Đỉnh Phja Khao có rất nhiều mỏ chì kẽm là chứng tích lịch sử ghi lại sự bóc lột của thực dân Pháp đối với công nhân mỏ Bản Thi, từ năm 1909 – 1941. Tại đây hơn trăm năm trước, khi Công ty Khai thác và luyện kim Đông Dương đã bỏ nhiều vốn đầu tư vào mỏ, nhất là xây dựng công trình cáp treo dài hơn 3km và đường sắt vận chuyển quặng. Được biết, hồi toàn thịnh, khu mỏ có tới 5.000 công nhân, 80 thư ký, đến năm 1942 chỉ còn 500 thợ và 5 người Âu quản lý. Trong vòng 27 năm (1914 - 1941), Pháp đã mang về nước trên 350.000 tấn quặng kẽm. Phja Khao là nơi mang lại lợi nhuận cho thực dân, đồng thời cũng là nơi tập trung nhiều thành phần phức tạp, hay xảy ra cướp bóc, chém giết. Trên đỉnh Phja Khao, Cách điểm di tích chừng 15m là một vực sâu mà theo như người dân bản địa, từ trên miệng vực không thể nhìn được tới đáy bởi quanh năm mù sương. đó là nơi mà thực dân Pháp ném những cu li (phu mỏ) ốm yếu hoặc người dám phản kháng từ trên núi xuống. Tại đây có những khu nghỉ dưỡng của thực dân Pháp, nơi nhân viên quản lý mỏ dưỡng nhàn. Khu nghỉ dưỡng được xây dựng cách đây cả 100 năm giờ chỉ còn là phế tích, cây đã mọc kín vách tường tạo nét cổ kính, rêu phong. Hoà bình lặp lại nơi đây không còn những khu mỏ, những khu nhà nghỉ dưỡng của thực dân Pháp. Đỉnh Phja Khao lại trở về vẻ bình yên, tĩnh lặng vốn có của núi rừng. nơi đây trở thành khu bảo tồn sinh quyển. Khu bảo tồn loài và sinh cảnh ở đây rất đa dạng về động thực vật. Có cả voọc, vạc hoa, những loài có tên trong Sách đỏ đặc biệt cần được bảo vệ trước nguy cơ tuyệt chủng. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Bắc Kạn
Thái Nguyên 3592 lượt xem
Khu Tưởng niệm anh hùng liệt sỹ Lý Tự Trọng thuộc địa phận thôn Tân Long, xã Việt Xuyên, Thạch Hà, Hà Tĩnh. Đây là công trình của tuổi trẻ cả nước và nhân dân tỉnh nhà nhằm tri ân sự hy sinh anh dũng của anh hùng liệt sỹ Lý Tự Trọng – người đoàn viên Thanh Niên Cộng Sản đầu tiên. Anh hùng liệt sĩ Lý Tự Trọng tên thật là Lê Hữu Trọng, sinh năm 1914 tại Bản Mạy, thuộc tỉnh Nakhon Phanom - Thái Lan, nguyên quán huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Anh sinh ra trong gia đình có bố mẹ đều là những Việt kiều yêu nước. Sinh ra trong cảnh “nước mất nhà tan”, gia đình phải phiêu bạt sang Thái Lan sinh sống, luôn mang trong mình nỗi niềm thương nhớ quê nhà nơi đang bị kẻ thù xâm lược. Từ khi còn nhỏ, Lê Hữu Trọng là người chăm chỉ, ham học hỏi và sớm giác ngộ cách mạng, Anh là một trong 8 thiếu nhi được Hồ Tùng Mậu lựa chọn đưa sang Quảng Châu - Trung Quốc học tập và hoạt động trong hội thanh niên yêu nước, tại đây Lê Hữu Trọng được đồng chí Nguyễn Ái Quốc đổi tên là Lý Tự Trọng. Sau khi về nước hoạt động. Năm 1931, trong buổi mít tinh kỷ niệm một năm cuộc khởi nghĩa Yên Bái tổ chức tại Sài Gòn, Lý Tự Trọng đã bắn chết viên mật thám Le Grand để bảo vệ diễn giả Phan Bôi đang diễn thuyết tại Quảng Trường Lareni. Anh bị địch bắt sau đó và bị kết án tử hình khi mới 17 tuổi. Dù ngã xuống khi tuổi đời còn rất trẻ, nhưng anh hùng Lý Tự Trọng đã để lại cho các thế hệ thanh niên Việt Nam một di sản quý giá, đó chính là lòng yêu nước, tinh thần dũng cảm và nhiệt huyết tuổi trẻ. Lý Tự Trọng đã đi vào lịch sử với câu nói nổi tiếng trước tòa án kẻ thù, “Con đường của thanh niên chỉ là con đường cách mạng, không thể có con đường nào khác”, đã trở thành kim chỉ nam, là tấm gương sáng chói cho lớp lớp thanh niên Việt Nam học tập và noi theo. Ngày 30/4/2011, 80 năm sau ngày mất, hài cốt của Anh được tìm thấy và đưa về an táng tại quê nhà. Thể theo nguyện vọng tha thiết của cán bộ, chiến sỹ, nhân dân Hà Tĩnh và đoàn viên thanh niên cả nước, Ban Bí thư Trung ương Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Hồ Chí Minh đã phê duyệt Dự án đầu tư xây dựng Khu tưởng niệm Lý Tự Trọng tại xã Việt Xuyên, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Đây là công trình tri ân đối với người thanh niên cộng sản trẻ tuổi; có ý nghĩa lịch sử, văn hóa tâm linh; giáo dục truyền thống cho thanh thiếu nhi cả nước. Ngày 20/10/2011, nhân kỷ niệm 97 năm ngày sinh của anh hùng Lý Tự Trọng, Ban Thường vụ Tỉnh đoàn Hà Tĩnh đã tổ chức Lễ khởi công xây dựng Khu tưởng niệm. Đến ngày 20/10/2014 công trình được hoàn thành đúng vào dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Anh. Nguồn: Trung Tâm Lưu Trữ Lịch Sử Tỉnh Hà Tĩnh
Hà Tĩnh 4043 lượt xem
Khu di tích Láng Le Bàu Cò tọa lạc tại xã Tân Nhựt, huyện Bình Chánh, Tp HCM. Láng Le Bàu Cò gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược vào năm 1948 với những trận đánh lớn đi vào lịch sử. Di tích Láng Le Bàu Cò được công nhận là di tích lịch sử cấp thành phố vào năm 2003. Sở dĩ được gọi tên là khu di tích Láng Le Bàu Cò vì Tên gọi của khu di tích Láng Le Bàu Cò là do người dân địa phương đặt ra. Xóm làng được thành lập cạnh những con kênh rạch chằng chịt và dòng sông. Láng Le Bàu Cò có vị trí nằm ở bên trong cánh đồng có diện tích rộng lớn và có rất nhiều tôm, cua, cá. Cùng với nhiều loài chim như vịt trời, cò, con le le, cúm núm, cồng cộc, đa đa, diệc, đỏ nách tới kiếm ăn tại đây. Vì vậy, người dân Tân Nhựt gọi với cái tên thân thuộc và mộc mạc đó là Láng Le Bàu Cò. Di tích Láng Le Bàu Cò được xem là cửa ngõ để di chuyển tới trung tâm căn cứ Vườn Thơm và tấn công cơ quan đầu não của quân địch tại Sài Gòn. Trước đây khu di tích Láng Le Bàu Cò vốn là cánh đồng lau sậy mọc um tùm. Vào ngày 15/4/1948 thực dân Pháp đưa 3 nghìn quân lính cùng nhiều vũ khí hiện đại đồng loạt tấn công khu vực Láng Le Bàu Cò nhằm tiêu diệt căn cứ Vườn Thơm. Khi đó lực lượng vũ trang cách mạng ở Láng Le - Bàu vì lực lượng nhỏ và vũ khí thô sơ tuy nhiên được sự giúp đỡ của người dân địa phương cùng với lợi thế về địa hình. Chỉ sau hơn nửa ngày đấu tranh đã chuyển sang tấn công khiến quân Pháp bị thương vong với số lượng lớn. Chiến thắng Láng Le Bàu Cò đã tiêu diệt 300 tên địch và bắt sống 30 lính đánh thuê cùng phá hủy nhiều máy móc, xe nhà binh, súng các loại của quân giặc. Tuy nhiên, về phía ta có nhiều cán bộ chiến sĩ đã anh dũng hy sinh với tuổi đời còn rất trẻ. Ngày 14/10/1966 tại Láng Le tiểu đoàn biệt động quân Việt Nam Cộng Hòa bị dân quân du khách tiêu diệt. Khu di tích Láng Le Bàu Cò có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với người dân Sài Gòn nói riêng và cả nước nói chung. Trước lòng căm thù thực dân Pháp, quân dân Láng Le Bàu Cò đã có cuộc chiến vang lừng lịch sử và có ý nghĩa to lớn mở đầu cho phía ta và phía địch. Đối với phía ta trận đánh mở đầu cho sự anh dũng trong tư thế kháng chiến vững mạnh. Còn với quân địch đã phải lùi vào thế bỏ chiến lược và bị tiêu diệt. Thực dân Pháp không còn định hình được chiến lược đánh bại Việt Minh. Hơn thế, tại căn cứ Vườn Thơm, Láng Le Bàu Cò còn diễn ra trận chiến quyết tâm bảo vệ căn cứ của ta và đập tan mọi kế hoạch phá hoại của quân giặc. Khu di tích Láng Le Bàu Cò sau phong trào Đồng Khởi vào năm 1960 còn là hậu cần, bàn đạp của lực lượng vũ trang để giải phóng Long An - Sài Gòn - Gia Định. Để tưởng nhớ sự hy sinh của đồng bào và các chiến sĩ của ta, vào năm 1988 huyện Bình Chánh đã xây dựng công trình lịch sử tại vùng đất Láng Le Bàu Cò với diện tích rộng 1000m2. Nguồn: Báo thông tin điện tử TP Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 13214 lượt xem
Nhà lao Tân Hiệp còn có tên là "Trung tâm cải huấn Tân Hiệp" tọa lạc ở khu phố 6, phường Tân Tiến, TP Biên Hòa. Di tích Nhà lao Tân Hiệp đã được Bộ Văn Hoá Thể Thao xếp hạng là di tích cấp quốc gia ngày 15-1-1994. Nhà lao Tân Hiệp là một trong sáu nhà tù lớn nhất miền Nam Việt Nam và là nhà tù lớn nhất vùng Đông Nam bộ, được xây dựng ở vị trí quân sự quan trọng, án ngữ phía đông bắc thị xã Biên Hòa. Phía trước là quốc lộ 1; phía sau là đường xe lửa Bắc - Nam. Đây là vị trí biệt lập, thuận tiện trong giao thông, dễ dàng cho việc bảo vệ, canh gác, nhận tù từ nơi khác đến và chuyển tù đi Côn Đảo, Phú Quốc... Nhà lao Tân Hiệp có diện tích 46.520m2 với 8 trại giam, trong đó có 5 trại giam những người tù cộng sản, người yêu nước. Xung quanh nhà tù được bao bọc bởi 4 lớp kẽm gai bùng nhùng với 9 lô cốt, 3 tháp canh cùng đội lính bảo vệ và hệ thống báo động tối tân. Mang tên "Trung tâm cải huấn" nhưng thực chất bên trong là kho súng, phòng xét hỏi, tra tấn với những dụng cụ hiện đại bậc nhất. Mỗi trại giam chỉ có diện tích gần 200m2 nhưng giam giữ từ 300-400 người, có lúc lên đến cả ngàn người. Đặc biệt ở đây có các phòng "cải hối", "chuồng cọp" rất nhỏ hẹp và điều kiện sinh hoạt cực kỳ khắc nghiệt, tù nhân sống chẳng khác gì trong lò thiêu xác. Chế độ ăn uống cực kỳ mất vệ sinh, bọn cai ngục mua gạo mục, cá thối dùng để bón ruộng, chiên bằng dầu luyn cho tù nhân ăn dẫn đến nhiều người bị ngộ độc. Với quyết tâm thoát khỏi nhà tù đế quốc, trở về với Đảng, với nhân dân để tiếp tục chiến đấu, giải phóng dân tộc, ngày 2-12-1956, được sự nhất trí của Liên Tỉnh ủy miền Đông, những chiến sĩ cộng sản bị "câu lưu" trong nhà lao Tân Hiệp dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Trọng Tâm (Bảy Tâm) - phụ trách Đảng ủy nhà tù và một số đồng chí khác đã bất thần làm một cuộc phá xiềng tập thể giải thoát gần 500 đồng chí, đồng bào yêu nước. Sự kiện này đã làm xôn xao cả Lầu Năm Góc. Mỹ - Diệm vội vã huy động cả quân chủ lực lẫn bảo an, dân vệ đang trấn thủ 3 tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một và hai biệt đoàn biệt động quân đến bủa lưới bao vây, truy bắt đoàn tù nhưng đều thất bại. Các đồng chí, đồng bào của ta thoát khỏi nhà lao Tân Hiệp đã được sự giúp đỡ, che chở của các cơ sở địa phương, trở về căn cứ an toàn. Trong số tù nhân vượt ngục có các đồng chí: Bảy Tâm, Hai Thông, Lý Văn Sâm... đã trở thành những hạt nhân nòng cốt cho phong trào Đồng Khởi sau này. Năm 2001, để tái hiện phần nào tội ác của Mỹ - Diệm đối với các đồng chí, đồng bào ta bị giam cầm tại nhà lao Tân Hiệp và diễn tả lại toàn bộ cuộc nổi dậy phá khám Tân Hiệp ngày 2-12-1956, Bảo tàng Đồng Nai đã tiến hành sưu tầm hình ảnh, tài liệu, hiện vật trưng bày tại di tích và làm một sa bàn để phục vụ nhu cầu nghiên cứu, tham quan của mọi tầng lớp nhân dân. Hàng ngày, di tích luôn mở cửa đón khách tham quan. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 12017 lượt xem
Di tích chiến thắng La Ngà (tại km số 104-112 trên quốc lộ 20 đi Đà Lạt, thuộc xã Phú Ngọc, huyện Định Quán) được Bộ Văn hóa xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 12-12-1986. Để cổ vũ cho chiến thắng Việt Bắc thu - đông 1947 và cũng để giáng cho kẻ thù một đòn chí mạng, Ban chỉ huy chi đội 10 đã quyết định phải tổ chức một trận đánh lớn, để quân giặc thấy rằng dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam không dễ dàng chịu khuất phục trước bất kì một kẻ thù nào; Bằng tinh thần quả cảm và sự khôn khéo sau gần nửa năm chuẩn bị, nghiên cứu địa hình, chọn địa điểm: vào lúc 15 giờ 12 phút ngày 1/3/1948 trận chiến phục kích La Ngà bắt đầu và kết thúc vào lúc 15 giờ 57 phút cùng ngày, chỉ trong vòng 45 phút. Chiến thắng La Ngà đã làm nức lòng nhân dân Định Quán nói riêng, quân dân Đồng Nai nói chung. Đây là chiến thắng thể hiện sự mưu trí, dũng cảm của quân và dân ta làm cho địch một phen kinh hồn, bạt phía. Từ chiến thắng này lực lượng ta ngày càng thêm lớn mạnh, góp phần đánh bại kế hoạch đánh nhanh, thắng nhanh của địch, buộc chúng phải rơi vào thế bị động. Quần thể danh thắng đá Chồng, Thác Mai, sông La Ngà và Tượng đài chiến thắng La Ngà là một quần thể du lịch kì thú của Định Quán. Vẻ đẹp kỳ thú của Hòn Ba Chồng, Núi Đá Voi, Hòn Dĩa, cùng với ngôi chùa thiên nhiên dưới chân núi đá là những cụm tiêu biểu tạo thành cảnh đẹp hài hòa cho khu danh thắng Đá Chồng. Quần thể Đá Chồng Định Quán còn là nơi lưu lại những dấu tích của cuộc sống người tiền sử. Tại đây dưới các mái đá, ven các khe suối và cả các sườn dốc ven thung lũng đã phát hiện nhiều công cụ sản xuất, sinh hoạt của người xưa bằng đá, đồng, đất nung. Trong suốt cuộc kháng chiến dài 30 năm. Định Quán là một phần quan trọng của Chiến khu Đ. Đá Chồng đã chứng kiến sự hình thành, phát triển, trú quân, triển khai chiến đấu của lực lượng cách mạng. Ngày nay, một phần đất của khu danh thắng Đá Chồng Định Quán đã được sử dụng, xây dựng thành khu Trung tâm văn hóa thể thao huyện Định Quán. Tương lai không xa khu danh thắng Đá Chồng Định Quán sẽ được đầu tư tôn tạo góp phần làm cho cảnh quan thiên nhiên ngày càng tươi đẹp, là địa điểm du lịch sinh thái hấp dẫn. Nguồn: Uỷ Ban Nhân Dân Huyện Định Quán
Đồng Nai 9844 lượt xem
Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh còn gọi là đình Bình Kính tọa lạc bên tả ngạn sông Đồng Nai, xưa kia thuộc ấp Bình Kính, thôn Bình Hoành, tổng Trấn Biên, nay là ấp Nhị Hòa, xã Hiệp Hòa, TP Biên Hòa, đã được Bộ Văn Hoá – Thông Tin – Thể Thao & Du Lịch xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 25-3-1991. Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ 18, ban đầu ngôi đền có qui mô nhỏ, vách làm bằng ván, mái ngói âm dương, cách ngôi đền hiện tại khoảng 400m về hướng Nam. Các tư liệu cho biết: ngôi đền được xây dựng lại lần đầu tiên vào năm Tự Đức thứ tư (1851); đến năm 1923, đền được tái thiết lại ở địa điểm hiện nay. Nguyễn Hữu Cảnh sinh vào năm 1650 tại Gia Miêu, huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa trong một gia đình có nhiều bậc danh tướng đương triều. Ông là người văn võ song toàn, lập được nhiều chiến công lớn và được chúa Nguyễn tin yêu, trọng vọng. Mùa Xuân năm Mậu Dần (1698), ông vâng lệnh chúa Nguyễn vào kinh lược xứ Đàng Trong khi ấy còn rất hoang vu. Đến đất Đồng Nai, ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố (nay là xã Hiệp Hòa); lấy đất Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn, đất đai mở mang ngàn dặm. Ông chiêu mộ lưu dân đến lập nghiệp, tổ chức bộ máy hành chính từng bước có qui củ, khuyến khích khai hoang, thúc đẩy Cù lao Phố phát triển thành một trong những cảng thị sầm uất, năng động nhất đàng Trong suốt thế kỷ 18 và chính thức sáp nhập vùng đất mới phương Nam vào bản đồ Đại Việt. Sau khi kinh lược phương Nam trở về, năm sau ông lại phụng mệnh chúa Nguyễn Phúc Chu thống lĩnh đại binh dẹp vua Chân Lạp giữ vững miền biên ải phương Nam. Tháng 4 năm Canh Thìn (1700), sau khi hoàn thành sứ mệnh, trên đường trở về đến Rạch Gầm (Tiền Giang) thì ông thọ bệnh qua đời nhằm ngày 16 tháng 5 âm lịch, thọ 51 tuổi. Trên đường di quan ông về quê an táng, quan tài của ông được đình lại khu đất khi xưa ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố để cho nhân dân địa phương có dịp bái biệt ông lần cuối. Nơi đình quan đã được nhân dân địa phương xây một ngôi mộ vọng để ghi nhớ sự kiện này. Khi hay tin Nguyễn Hữu Cảnh mất, Chúa Nguyễn vô cùng thương tiếc đã phong tặng ông là Thượng đẳng công thần đặc Trấn phủ Chưởng cơ với tước: Lễ Thành Hầu và đưa bài vị của ông vào thờ tại Thái miếu. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 9811 lượt xem
Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt, tọa lạc ấp Xóm Tháp, xã Tân Phong, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử - văn hóa ngày 23 tháng 7 năm 1993. Đồng thời là một trong ba công trình tháp cổ cuối cùng còn lại ở miền Nam nước ta. Trải qua nhiều lần trùng tu vào các năm 1938, 2003 và gần đây nhất là vào năm 2013. Mặc dù trải qua các đợt trùng tu tôn tạo, nhưng khu di tích tháp cổ Chót Mạt đã mang cho mình một diện mạo mới nhưng vẫn giữ nguyên được tinh thần kiến trúc cổ. Toàn bộ tòa Tháp được xây dựng bằng gạch và đá phiến với phần đỉnh tháp nhọn dần lên, từ mặt đất lên nơi cao nhất của đỉnh tháp được ước tính là 10m. Ngoài ra, ngọn tháp cổ này nằm trên gò đất cao giữa cánh đồng nên nhìn từ xa nó tựa như ngọn bút đang vươn lên cao dần. Năm 2003 Uỷ ban nhân dân tỉnh Tây Ninh quyết định phê duyệt dự án đầu tư trùng tu tôn tạo bảo tồn di tích tháp Chót Mạt và được tiến hành triển khai trùng tu tôn tạo phục hồi, trưng bày mở hố khai quật năm 2003 đưa vào sử dụng. Ngày 27/11/2019 UBND tỉnh ban hành Quyết định Quy định về phân cấp quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. Quyết định giao UBND huyện Tân Biên trực tiếp quản lý 4 di tích, trong đó có di tích cấp Quốc gia di tích Lịch sử- văn Hóa Tháp Chót Mạt. Đặc biệt Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt trên địa bàn xã Tân Phong, huyện Tân Biên được chọn nằm trong chũi liên kết phát triển du lịch của Tỉnh Tây Ninh. Đây là một địa điểm tham quan rất đáng để khám phá, góp phần phát triển du lịch trên địa bàn xã Tân Phong nói riêng và huyện Tân Biên nói chung. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Tây Ninh
Tây Ninh 9470 lượt xem
Dinh Quận Hóc Môn tọa lạc tại số 1, đường Lý Nam Đế, thị trấn Hóc Môn, (cạnh trụ sở UBND huyện) là nơi để lại nhiều sự kiện đấu tranh nổi bật suốt chặng đường dài lịch sử từ 1885 đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng của Nhân dân 18 Thôn vườn trầu. Sau khi hạ được Đại đồn Chí Hòa, thực dân Pháp xây dựng tại nơi đây một ngôi nhà gỗ cao 3 tầng dùng làm Đồn binh. Khi tên Trần Tử Ca về nhậm chức Đốc Phủ, dùng Đồn làm Dinh huyện Bình Long. Vốn là một tay say quỷ quyệt của thực dân Pháp, Trần Tử Ca bị nhóm do các ông Phan Văn Hớn (Quản Hớn) và Nguyễn Văn Quá (Chánh Lãnh Binh) cầm đầu gần 1.000 nghĩa quân tiến về đốt Dinh Quận, bắt và cắt đầu bêu giữa chợ. Đó là ngày 8/2/1885 Tết Ất Dậu. Sau đó, Dinh Quận Hóc Môn được xây dựng lại với nền móng đá xanh, tường gạch, có hệ thống phòng thủ từ lầu cao đến tận vòng rào. Lối kiến trúc y như Đồn binh nên người địa phương gọi là Đồn Hóc Môn. Trấn nhậm thay Trần Tử Ca là Đốc phủ Ngôn, đến Quận Trà rồi Quận Thọ. Đây là khoảng thời gian dài người dân vùng Hóc Môn hứng chịu bao cảnh tham tàn, bỉ ổi của thực dân Pháp và bọn tay sai đầu sỏ kể trên. Với truyền thống kiên cường bất khuất của Nhân dân Hóc Môn. Ngày 4/6/1930, khoảng 6 giờ sáng trước Dinh Quận, hàng trăm bà con Hóc Môn kéo biểu tình đòi “bãi bỏ thuế thân, giảm các thuế môn bài và thuế chợ, cấp đất cho dân cày nghèo”. Quận Trà cho mời những người cầm đầu vào Dinh thương lượng, nhưng chúng xảo quyệt bắt giữ họ trong đó có ông Lê Văn Uôi (Bí thư xã Tân Thới Nhì), là người cầm đầu cuộc biểu tình. Mọi người không nao núng, quyết liệt đòi hỏi Quận Trà phải thả những người bị cầm giữ. Đoàn biểu tình càng lúc càng đông, khí thế đấu tranh có phần lan rộng, khiến Quận Trà nhượng bộ. Một mặt chúng thả những người bị giữ, mặc khác chúng gọi điện cho quan thầy ở Sài Gòn cứu viện. 2 giờ sau, cuộc đấu tranh bị 2 tên Blachôlê và Nobbot chỉ huy bắn xối xả vào đoàn biểu tình, gây thương vong nhiều người. Nhưng sự kiện lịch sử gây ấn tượng nhất tại Dinh Quận Hóc Môn là cuộc khởi nghĩa Nam kỳ ngày 23/11/1940. Đồn Hóc Môn rất kiên cố, xây bằng đá xanh như là một pháo đài, cao khoảng 15 thước, có ụ súng và hệ thống phòng thủ lỗ châu mai do một trung đội lính khố xanh trấn giữ. Ngày 22/11/1940, Pháp tăng cường thêm 1 trung đội để đối phó với tình hình. Chiều 22/11/1940, cánh quân của ông Đỗ Văn Cội đột nhập vào thị trấn, giả dạng thường dân, phục kích sau lưng Đồn chờ lệnh cướp Đồn. Một cánh quân khác có nhiệm vụ phá cầu, đốn cây ngăn lộ, đánh chiếm các công sở, nhà việc... Cánh quân từ Phước Vĩnh An, Tân Thông, Tân An Hội, Tân Phú Trung do ông Phạm Văn Sáng và Đặng Công Bỉnh chỉ huy, xuất phát từ ấp Bến Đò, đánh chiếm nhà việc, diệt 1 tên, thu 4 súng, làm chủ tình hình tại đây (Tân Phú trung). Liền đó cánh quân này được lệnh kéo về Hóc Môn. Cánh quân Long Tuy Thượng do ông Bùi Văn Hoạt chỉ huy. Cánh quân thuộc Tổng Long Tuy Trung do ông Đỗ Văn Dậy và Lê Bình Đẳng chỉ huy. Khoảng 24 giờ đêm ngày 22/11/1940, vẫn chưa nghe thấy tiếng pháo lệnh ở Sài Gòn. Sau khi hội ý, các vị chỉ huy những cánh quân thống nhất tấn công Đồn giặc. Lập tức các cánh quân tiến thẳng về Đồn Hóc Môn, nơi trú ngụ của tên Quận trưởng Bùi Ngọc Thọ. 2 nghĩa quân tên Nghé và Kinh xung phong vào cổng trước, hy sinh. Nghĩa quân bốn phía xông vào Đồn như nước vỡ bờ. Trước sức mạnh của nghĩa quân và quần chúng, bọn lính trong Đồn không còn tinh thần kháng cự, bỏ chạy tán loạn. Nghĩa quân chiếm lĩnh hoàn toàn bên trong Đồn nhưng trên lầu, địch vẫn ngoan cố dùng súng bắn tẻ, cùng lúc gọi điện về Sài Gòn, Thủ Dầu Một cấp cứu. Vì nóng lòng bắt cho được tên Quận Thọ nên đồng chí Đỗ Văn Dậy bám ống máng nước để leo lên tầng trên Đồn. Đến lưng chừng bị trúng đạn, đồng chí bị rơi xuống và hy sinh sau đó. Cuộc chiến đấu đang thế giằng co thì viện binh địch đến. Không thể cầm cự, nghĩa quân rút khỏi thị trấn, phân tán về các làng, lực lượng vũ trang rút về ấp Bến Đò (Tân Phú Trung) rồi di chuyển sang ấp Mỹ Hạnh (Đức Hòa). Cuộc tiến công Đồn Hóc Môn (sau gọi là Dinh Quận Hóc Môn) tuy thất bại nhưng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng mọi người dân sự khâm phục lòng dũng cảm của các chiến sĩ cách mạng trong cuộc chiến đấu chống thực dân cướp nước. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, 7 giờ sáng ngày 30/4/1975, thị trấn Hóc Môn hoàn toàn được giải phóng, lá cờ Tổ quốc phất phới bay trên Dinh Quận, nơi tên Quận trưởng Nguyễn Như Sang và bọn tay sai đã chạy trốn từ tối đêm trước. Ngày nay Dinh Quận Hóc Môn được chọn làm Bảo tàng huyện, nơi đây tập trung nhiều tư liệu trưng bày, minh họa các giai đoạn lịch sử thăng trầm cũng như khí thế đấu tranh cách mạng của quân và dân trong huyện Hóc Môn qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Một Tượng đài đặt trước di tích Dinh Quận Hóc Môn thể hiện gương hy sinh bất khuất của quân và dân 18 Thôn Vườn trầu, được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn: Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 8924 lượt xem
Thời kỳ nhà Mạc đóng đô ở Cao Bằng, để phòng bị quân nhà Lê tiến đánh, nhà Mạc đã tu bổ, sửa chữa thành Na Lữ (nay thuộc xã Hoàng Tung, Hòa An) và thành Bản Phủ (nay thuộc xã Hưng Đạo), thành Phục Hòa, ngoài ra còn xây dựng nhiều thành lũy khác ở Cao Bằng, làm cho Cao Bằng trở thành một trung tâm chính trị và quân sự ở vùng biên viễn Đông Bắc thời bấy giờ. Thành Na Lữ và thành Phục Hoà là hai thành được xây dựng từ trước. Theo ghi chép của Bế Hựu Cung trong Cao Bằng thực lục, thành Na Lữ và thành Phục Hòa mở đầu từ đời Đường Ý Tông năm Giáp Thân, niên hiệu Hàm Thông thứ 5 (874). Căn cứ vào sự hiện diện của nhiều ngôi mộ cổ có đá khắc ghi bia mộ tên, địa chỉ, quê quán những người phu dịch xây thành chết ở đây từ thời Hàm Thông có thể khẳng định hai thành này xây từ đời Đường. Thành Na Lữ được xây qua nhiều triều đại khác nhau. Khi nhà Mạc lên Cao Bằng đã cho xây lại bằng gạch. Thành Na Lữ có hình gần chữ nhật, có tổng diện tích khoảng 37,5 ha, chiều dài khoảng 800 m, chiều rộng khoảng 600 m, thành có 4 cửa. Thành Bản Phủ tại kinh đô Nam Bình, nước Nam Cương của Thục Phán khi xưa ở Cao Bình (Cao Bằng), nhà Mạc đã tu bổ thành Vương phủ tại vòng trong của kinh đô cũ Nam Bình và được gọi là thành Bản Phủ hay Vương phủ. Tại kinh đô Nam Bình xưa của nước Nam Cương và của nhà Mạc, thành Bản Phủ vẫn còn dấu tích khá rõ nét. Kinh đô Nam Bình gồm có hai vòng thành, để bảo vệ kinh thành, vòng ngoài có chu vi khoảng 5 km, gồm cả một vùng gò đồi thấp, quanh chân đồi được bạt dựng đứng như một bức tường thành, thuận lợi cho việc xây dựng phòng tuyến bảo vệ. Bờ thành phía Tây chạy song song với bờ sông Bằng đến đầu làng Bó Mạ, nối bờ thành Đông Nam chảy qua trước mặt Bản Phủ theo chân đồi ra gặp quốc lộ 4, phía Đông Bắc chạy theo chân đồi sát phía ngoài quốc lộ 4, lên đến Đầu gò là phía Tây Bắc tiếp tục chạy theo chân đồi, ra đến bờ sông gặp bờ thành phía Tây tạo thành một vòng thành khép kín. Khi nhà Mạc lên đóng đô đã tu sửa lại và xây dựng thêm một số công trình, trong đó thành Bản Phủ (thành nội - nơi của vua làm việc) được xây lên cao hơn trên các tường thành cũ từ thời kỳ Thục Phán, thành nằm trên một khu đất bằng phẳng. Cùng với việc xây dựng lại kinh thành, nhà Mạc còn xây dựng một hệ thống đồn bốt, thành lũy khá dày xung quanh kinh đô và một số điểm biên giới quan trọng, tạo thành một hệ thống bảo vệ kinh thành và bảo vệ biên giới. Thành Phục Hòa (huyện Phục Hoà) được xây theo kiểu hình vuông, mỗi chiều khoảng 400 m, gồm hai vòng thành, khoảng cách giữa hai vòng là 80 m. Hiện nay, tường thành phía Nam đã bị phá huỷ hoàn toàn. Thành Phục Hòa có 2 cổng chính: Cổng phía Bắc được mở thông ra quốc lộ đi Cửa khẩu Tà Lùng ngày nay, nhân dân thường gọi là Pác Cổng, cổng này được xây theo kiểu hình chữ nhật, rộng 8 m, cao 5 m, gồm hai cánh cổng làm bằng gỗ nghiến dày rất chắc chắn; cổng thứ hai ở phía Nam, mở thông ra bờ sông. Cả hai cổng đều bị san phẳng từ lâu, hiện nay không còn vết tích. Gần thành, tại phía Tây Bắc ngoại thành dọc bờ sông còn có nhiều vết tích lò nung gạch, nhân dân cho biết trong quá trình lao động, khai phá đã tìm thấy ở khu vực này nhiều lò gạch còn nguyên vẹn. Qua nghiên cứu, khảo sát cho thấy, tại Cao Bằng, nhà Mạc đã tu bổ, tôn tạo và xây dựng thêm nhiều thành, đồn luỹ, trong đó tu bổ, tôn tạo xây lại thành Bản Phủ, thành Na Lữ, thành Phục Hoà. Các đồn luỹ này đã tạo thành một hệ thống liên hoàn bảo vệ kinh thành khá vững chắc. Đến nay, những thành cổ nhà Mạc xây dựng thời kỳ đóng đô ở Cao Bằng, một số thành xây dựng bằng đất chỉ còn vết tích, nhưng các thành được xây bằng đá vẫn còn rất rõ. Nguồn: Báo Cao Bằng điện tử
Cao Bằng 8922 lượt xem
Di tích tòa Đại sứ Mỹ còn được gọi "Nhà trắng phương Đông" là nơi xuất phát các âm mưu thâm độc về quân sự lẫn chính trị nhằm thôn tính lâu dài đất nước Việt Nam, địa điểm di tích là tòa nhà 5 tầng xây dựng theo kiến trúc hiện đại, tọa lạc tại góc đường Mạc Đĩnh Chi - Lê Duẩn, Phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, trên một mảnh đất rộng gần 5.000m2. Trước đó, tòa đại sứ Mỹ nằm tại số 39 đường Hàm Nghi. Khoảng 10 giờ sáng ngày 30/3/1963, tòa đại sứ Mỹ trên đường Hàm Nghi đã bị đội Biệt động F21 đánh chất nổ làm sập 3 tầng lầu: 1, 2, 3 do đó Mỹ đã quyết định xây lại. Tòa nhà được khởi công xây dựng vào năm 1965, hầu hết vật liệu cũng như máy móc xây dựng đều được chở từ Mỹ sang, dưới sự điều khiển của kỹ sư người Mỹ. Theo thiết kế, tòa nhà bao bọc bởi 7.800 viên đá Taredo có khả năng chống đỡ mìn, đạn pháo. Cửa chính trang bị bằng thép dầy, những cửa khác chắn bởi lớp kín dầy đặc biệt chống đạn. Tất cả cửa sử dụng hệ thống tự động kể cả cửa sắt chắn lối lên các tầng lầu. Bên trong tòa nhà gồm 140 phòng với 200 nhân viên phục vụ ngày đêm ngoài ra bên cạnh tòa nhà còn được xây thêm một dãy nhà phụ gọi là khu "Norodom" dành riêng cho nhân viên C.I.A. Khi khánh thành, tòa nhà chỉ có 3 tầng. Cuối năm 1966 xây thêm 2 tầng và 1 sân thượng dùng làm nơi hạ cánh cho máy bay lên thẳng. Bao quanh tòa nhà là bức tường cao 3m, hai đầu tường sát đường Lê Duẩn xây 2 lô - cốt cao, canh gác ngày đêm. Tòa Đại sứ hoàn thành tháng 9/1967 với một hệ thống phòng thủ như là một pháo đài có 60 lính gác, một hầm tránh bom, một hệ thống màn hình ra-đa nhằm kiểm soát mặt tiền. Ngay sau khi tòa nhà hoàn tất, ngày 24/9/1967, hàng ngàn sinh viên, học sinh kéo đến trước cổng Đại sứ quán Mỹ đấu tranh đòi "Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc", "Mỹ cút về nước" và ra thông báo tố cáo Mỹ "chà đạp và vi phạm nghiêm trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam". Nhưng sự kiện nổi bật xảy ra tại Tòa Đại sứ Mỹ là trận đánh của Biệt động thành trong Tổng Tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968. Mục tiêu đánh Đại sứ quán Mỹ được bổ sung ngày 24/ 1/1968 do Ngô Thành Vân phụ trách chung. Đội Biệt động 11 nhận lãnh nhiệm vụ quan trọng này gồm đội trưởng Út Nhỏ (đội trưởng trinh sát quân khu) và các chiến sĩ: Bảy Truyền, Tước, Thanh, Chức, Trần Thế Ninh, Chính, Tài, Văn, Đực, Cao Hoài Vinh, Mang, Sáu và 2 lái xe: Trần Sĩ Hùng và Ngô Văn Thuận. Một sự kiện khác cũng không kém phần tủi nhục cho Toà Đại sứ Mỹ là cảnh hỗn loạn tháo chạy xảy ra trong 2 ngày 29 và 30/04/1975 của Mỹ và đồng bọn. Trước sức tấn công thần tốc của quân và dân Việt Nam trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, trên 1.000 người Mỹ và hơn 5.000 người Việt thân Mỹ đã chen lấn, xô đẩy, đạp nhau để tranh giành một chỗ trên sân thượng của toà nhà hòng được trực thăng cứu thoát. Di tích này đã được cấp bằng công nhận của Bộ Văn hoá ngày 25/6/1976. Hiện nay, toà nhà Đại Sứ Mỹ đã bị phá bỏ, xây mới thành lãnh sự quán tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng cạnh đó một bia tưởng niệm ghi nhớ mãi chiến công của các chiến sĩ biệt động đã hy sinh trong trận đánh. Nguồn: Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 8811 lượt xem
Mai Xuân Thưởng là người lãnh đạo phong trào Cần Vương chống Pháp cuối thế kỷ XIX ở Bình Định. Mai Xuân Thưởng sinh năm Canh Thân 1860, mất năm Đinh Hợi 1887 người thôn Phú Lạc, tổng Phú phong, huyện Tuy Viễn, tỉnh Bình Định (nay là thôn Phú Lạc, xã Bình Thành, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Cha là Mai Xuân Tín làm Bố chánh ở Cao Bằng, mẹ là Huỳnh Thị Nguyệt con của một nhà quyền quý trong làng. Mai Xuân Thưởng vốn là người thông minh, ham học. Năm 18 tuổi (1878) ông đỗ Tú tài tại Trường thi Bình Định. năm 25 tuổi (1885) thi đỗ cử nhân. Hưởng ứng chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi, Mai Xuân Thưởng về quê Phú Lạc, chiêu mộ nghĩa binh, lập căn cứ ở hòn Sưng dựng cờ cần vương chống Pháp, sau đó Mai Xuân Thưởng đã đem lực lượng của mình gia nhập vào nghĩa quân do Đào Doãn Địch lãnh đạo và được Đào Doãn Địch phong giữ chức Tán lương quân vụ (phụ trách về lương thực của nghĩa quân). Kể từ đó cho đến năm 1887, phong trào cần vương ở Bình Định phát triển mạnh mẽ và lan ra đến Quảng Ngãi, Phú Yên...thu hút hàng chục ngàn người thuộc mọi tầng lớp tham gia. Ngày 20/9/1885 Đào Doãn Địch mất, giao toàn bộ lực lượng cho Mai Xuân Thưởng. Ông chọn vùng núi Lộc Đổng (nay thuộc xã Bình Tường, huyện Tây Sơn) làm đại bản doanh và tổ chức lễ tế cờ , truyền hịch kêu gọi sỹ phu, văn thân, nhân dân tham gia phong trào cần Vương chống Pháp. Trong buổi lễ ấy, nghĩa quân nhiều vùng trong tỉnh Bình Định đã nhất trí suy tôn ông làm Nguyên soái lãnh đạo cuộc khởi nghĩa và nêu cao khẩu hiệu: “Tiền sát tả, hậu đả Tây”. Đầu năm 1887, quân Pháp dưới sự chỉ huy của Trung tá Cherrean và quân triều đình do Trần Bá Lộc chỉ huy cùng với Công sứ Trira đã mở cuộc tấn công lớn lên căn cứ đại bản doanh của phong trào Cần Vương Bình Định, trận giao chiến giữa lực lượng nghĩa quân với giặc Pháp diễn ra vô cùng ác liệt, cuộc chiến đấu không cân sức, cuối cùng lực lượng khởi nghĩa bị đẩy lùi. Tháng 3 năm 1887, sau trận ác chiến ở Bàu Sấu (thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định), Mai Xuân Thưởng bị thương nặng, nghĩa quân rút về Mật khu Linh Ðổng. Ngày 21 tháng 4 năm 1887, Trần Bá Lộc bao vây đánh chiếm căn cứ mật khu Linh Đổng và bắt được một số nghĩa quân, trong đó có thân mẫu Mai Nguyên Soái. Đêm 30 tháng 4 năm 1887, Mai Xuân Thưởng đã cử một đội quân cảm tử đột nhập doanh trại Trần Bá Lộc, giải vây cho những người bị bắt, ông cùng đoàn thuộc hạ gồm 50 người vượt núi vào Phú Yên, tiếp tục kháng chiến, nhưng khi đến đèo Phú Quý (ranh giới giữa Bình Định và Phú Yên) thị bị phục binh Trần Bá Lộc bắt và đưa ra xử trảm tại Gò Chàm (Phía đông Thành Bình Định). Di tích Lăng mộ nhà yêu nước Mai Xuân Thưởng tọa lạc trên ngọn đồi cao của dãy núi Ngang (thuộc thôn Hòa Sơn, xã Bình Tường, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định) cách thành phố Quy Nhơn khoảng 50km về hướng Tây Bắc; Lăng mộ được xây dựng trên khu đất rộng 1988m2, khánh thành ngày 22 tháng 1 năm 1961.Về tổng thể, Lăng được thiết kế theo kiểu lăng mộ cổ, xung quanh có thành thấp bao bọc. Cổng Lăng (tam quan) là 4 trụ vuông, phía trên thắt lại theo kiểu bầu lọ mang dáng dấp kiến trúc cổng đình, miếu cuối thế kỷ XIX. Giữa nhà Lăng là mộ phần Mai Xuân Thưởng hình khối chữ nhật theo hướng Đông - Tây; Phía đầu mộ dựng tấm Bia đá khắc bài ký ghi tiểu sử và sự nghiệp của Mai Xuân Thưởng: Di tích được Bộ Văn hóa Thông tin quyết định xếp hạng cấp Quốc Gia ngày 20 tháng 4 năm 1995. Nguồn: UBND Huyện Tây Sơn tỉnh Bình Định
Gia Lai 8637 lượt xem
Di tích Ngã Ba Giồng là di tích lịch sử cách mạng thuộc Ấp 5, xã Xuân Thới Thượng, huyện Hóc Môn. Được bao quanh bởi ba con đường: Phan Văn Hớn, Nguyễn Văn Bứa và tỉnh lộ 19. Khu di tích Ngã Ba Giồng là khu tưởng niệm về những sự kiện lịch sử trong hai cuộc khácg chiến chống ngoại xâm. Được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia vào năm 2002. Ngã ba Giòng (còn có tên gọi đầy đủ là Ngã ba Giòng Bằng Lăng) nằm trên địa phận thôn Xuân Thới Tây thuộc 18 thôn vườn trầu xưa được hình thành từ những năm 1698 đến năm 1731. Từ lâu đời, Ngã ba Giồng là 1 địa danh có tên gọi dân gian đã đi vào lịch sử của quê hương 18 thôn vườn trầu Hóc Môn – Bà Điểm. Tục truyền rằng xưa kia nơi đây là 1 vùng đất giồng tương đối cao ráo và là nơi mọc nhiều cây bằng lăng nên địa danh này có tên gọi từ đó. Sau khi cuộc khởi nghĩa Nam kỳ (23/11/1940) bị thất bại, thực dân Pháp đã tăng cường đàn áp, khủng bố khốc liệt phong trào cách mạng vùng Hóc Môn – Bà Điểm. Chúng đã lập ra ở Hóc Môn 3 trường bắn để giết hại các đồng chí lãnh đạo Đảng, các đồng chí đồng bào yêu nước của quê hương Hóc Môn và các vùng lân cận. Ngã ba Giồng là trường bắn thứ ba ghi lại tội ác tày trời của giặc pháp và bọn tay sai đối với nhân dân Hóc Môn. Rút kinh nghiệm từ 2 trường bắn trước (1 tại rạp hát cũ trung tâm Quận lỵ Hóc Môn, 1 cạnh giếng nước sau Bệnh viện Hóc Môn ngày nay), chúng xử bắn công khai, bắt nhân dân đến xem nhằm mục đích uy hiếp tinh thần cách mạng của nhân dân Hóc Môn. Nhưng cách xử bắn đó đã phản tác dụng, nhân dân Hóc Môn đã tận mắt chứng kiến sự tàn ác của thực dân Pháp, sự hy sinh cao cả của các chiến sĩ cộng sản nên ngọn lửa yêu nước của họ càng bùng lên mãnh liệt. Trường bắn thứ 3 này, chúng không dám xây dựng gần trung tâm Quận lỵ nữa mà đưa ra khu vực Ngã ba Giồng là vùng hoang vắng, thưa dân để tránh sự phản kháng của nhân dân. Tại đây, chúng xây dựng thành 1 trường bắn có mô đất kiên cố dài 12m, cao 2,2m, phía trước có trồng 6 cột bắn, mỗi cột cao 1.7m, hướng bắn quay về phía đồng ruộng (bưng Tràm Lạc). Vào năm 1941, tại đây chúng lén lúc xử bắn rất nhiều lần, không cho nhân dân xem, hàng trăm chiến sĩ cộng sản và đồng bào yêu nước bị chúng giết hại. Với ý nghĩa lịch sử vô cùng thiêng liêng của Ngã ba Giồng, nơi ghi dấu tội ác dã man của giặc Pháp, nơi thể hiện ý chí chiến đấu bất khuất kiên cường và sự hy sinh cao cả của đồng chí và đồng bào ta sau cuộc khởi nghĩa Nam kỳ (23/11/1940); sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (30/4/1975), huyện Hóc Môn đã nhanh chóng khôi phục và tôn tạo khu di tích lịch sử cách mạng Ngã ba Giồng nhằm giáo dục truyền thống cho các thế hệ thanh thiếu niên. Nơi đây đã trở thành điểm tham quan, nơi tổ chức lễ hội truyền thống trong những ngày lễ lớn hàng năm của huyện Hóc Môn và thành phố đặc biệt là lễ kỷ niệm ngày Nam kỳ Khởi nghĩa (23/11). Hiện nay được sự nhất trí của thành phố, huyện đang tiến hành tôn tạo xây dựng Ngã ba Giồng thành “Khu tưởng niệm liệt sĩ Ngã ba Giồng”. Nguồn: Cổng thông tin điện tử Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 8521 lượt xem