Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch Travelviet
Tải ứng dụng Travelviet
Đình thần Thới An tọa lạc tại khu vực Thới Trinh A, thuộc quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ. Đình Thới An được xây dựng vào đầu thế kỷ XIX, được người dân ấp Thới Thuận làng Thới An dựng lên với quy mô nhỏ vật liệu bằng tre lá để thờ thần. Đến năm 1852 vua Tự Đức phê sắc phong cho Đình làng Thới An là “Bổn cảnh Thành Hoàng”. Từ khi có sắc phong, dân làng đã chọn địa điểm và chung sức cùng nhau xây dựng ngôi đình mới khang trang cách ngôi đình cũ 1km. Đó chính là Đình thần Thới An ngày nay. Đình xây dựng theo hình chữ nhất, mặt quay về hướng đông, với lối kiến trúc nghệ thuật độc đáo, mang đậm nét kiến trúc truyền thống của dân tộc. Cũng như một số ngôi đình làng ở Đồng Bằng Sông Cửu Long, đình Thới An thờ “Thành Hoàng Bổn Cảnh” thờ các bậc tiền nhân có công khai khẩn đất hoang, lập nên làng xã, mở mang cơ nghiệp cho làng xóm ngày càng trù phú, phát đạt; thờ những quan chức, chiến sĩ hy sinh cho đất nước, thờ những vị tổ sư dạy nghề cho dân làng, sau khi nước nhà thống nhất, Ban tế tự Đình thần Thới An lập thêm bàn hương án thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Trong giai đoạn chín năm kháng chiến chống thực dân pháp xâm lược, đình Thới An còn là trụ sở của Ủy ban kháng chiến hành chính lâm thời huyện Ô Môn. Hằng năm, người dân Thới An đều long trọng tổ chức hai kỳ lễ hội: Thượng điền và Hạ điền, cầu cho mưa thuận gió hòa, dân cư ấm no hạnh phúc. Đây cũng là dịp mọi người tưởng nhớ đến các bậc anh hùng liệt sĩ, những người có công với đất nước quê hương. Trải qua nhiều biến cố lịch sử, đình Thới An vẫn hiên ngang tồn tại. Đây là một trong những ngôi đình đẹp và cổ kính còn lại không nhiều ở Thành phố Cần Thơ, cũng như ở khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long. Với những gía trị đó vào ngày 15/11/2004 UBND thành phố Cần Thơ đã xếp hạng đình Thới An là Di tích lịch sử văn hóa cấp thành phố. Nguồn: Du lịch Cần Thơ
Cần Thơ 2667 lượt xem
Đêm 10.11.1929, tại một căn chòi ngang lẫm lúa của đồn điền Cờ Đỏ (thuộc làng Thới Đông, tổng Thới Bảo, quận Ô Môn, tỉnh Cần Thơ), đồng chí Hà Huy Giáp - Ủy viên Ban Chấp hành Đặc ủy An Nam Cộng sản Đảng Hậu Giang được Đặc ủy phân công về Ô Môn phối hợp cùng đồng chí Nguyễn Văn Nhung và đồng chí Bảy Núi đã thành lập Chi bộ An Nam Cộng sản Đảng, do đồng chí Hà Huy Giáp làm Bí thư. Chi bộ An Nam Cộng sản Đảng Cờ Đỏ đã tuyên truyền, vận động nâng cao giác ngộ cách mạng cho đông đảo nông dân lao động, hướng dẫn đấu tranh đòi quyền lợi và chọn lọc quần chúng tích cực đưa vào các tổ chức đảng. Chi bộ nhanh chóng đẩy mạnh việc xây dựng, phát triển các tổ chức cơ sở đảng trong toàn tỉnh để lãnh đạo phong trào cách mạng. Sự ra đời của chi bộ này không chỉ thúc đẩy phong trào cách mạng ở Cần Thơ mà còn tác động mạnh mẽ đến nhiều địa phương trong vùng như Ðồng Tháp, An Giang... Từ Chi bộ đầu tiên, trong tỉnh có thêm nhiều chi bộ khác được thành lập... Các tổ chức quần chúng của Ðảng như Công hội đỏ, Nông hội đỏ, Thanh niên, Phụ nữ phản đế cũng được tổ chức ở nhiều nơi, dưới sự lãnh đạo của các chi bộ đã tập hợp đông đảo nhân dân, đẩy mạnh phong trào đấu tranh cách mạng. Để giữ gìn, phát huy giá trị lịch sử, thành phố đã đầu tư xây dựng Dự án bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị di tích lịch sử Địa điểm thành lập Chi bộ An Nam Cộng sản Đảng Cờ Đỏ với diện tích gần 40.000m2. Công trình đã hoàn thành đưa vào sử dụng năm 2019 ngay trên nền đất cũ đồn điền năm xưa, cũng chính là trung tâm huyện Cờ Đỏ ngày nay. Khu di tích xây dựng theo kiểu công viên mở, có không gian thoáng mát, gồm các hạng mục: Tượng đài, bức phù điêu, nhà bia, quảng trường, hồ sen. Ngày 31.10.2013, Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch đã có quyết định xếp hạng địa điểm thành lập Chi bộ An Nam Cộng sản Đảng Cờ Đỏ là Di tích lịch sử cấp quốc gia. Hiện nay, Khu di tích là địa điểm tham quan, học tập, sinh hoạt truyền thống, sinh hoạt văn hoá văn nghệ, thể dục thể thao của các tầng lớp nhân dân và du khách gần xa. Nguồn: Uỷ ban nhân dân thành phố Cần Thơ
Cần Thơ 2840 lượt xem
Di tích lịch sử địa điểm chuyển quân, trạm quân y tiền phương và nơi cất giấu vũ khí thuộc lộ vòng cung Cần Thơ tọa lạc tại xã Mỹ Khánh, huyện Phong Điền, thành phố Cần Thơ. Lộ Vòng Cung dài gần 30 km, nối Quốc lộ 1A từ cầu Cái Răng vào huyện Phong Ðiền, phần lớn qua các xã: Mỹ Khánh, Nhơn Ái, Tân Thới, Giai Xuân và kết thúc tại lộ tẻ Ba Se (phường Phước Thới, quận Ô Môn). Ngay từ thời kỳ Pháp thuộc, bọn tay sai thực dân đã đàn áp, bắt bớ nhân dân làm phu đắp lộ với âm mưu xây dựng tuyến đường thành vành đai phòng thủ bảo vệ cơ quan đầu não của chúng tại nội ô Cần Thơ. Dưới chế độ chính quyền Sài Gòn, tuyến lộ Vòng Cung vẫn được tiếp tục xây dựng vừa làm hàng rào phòng thủ để bảo vệ trung tâm đầu não vùng IV chiến thuật, sân bay Trà Nóc và các cơ quan đại diện của Mỹ tại Cần Thơ, vừa là nơi thử nghiệm mọi thủ đoạn tàn bạo nhất để quét trắng các cơ sở cách mạng trên tuyến lộ Vòng Cung, đồng thời làm bàn đạp tấn công lực lượng cách mạng của ta ở Căn cứ U Minh. Đối với ta, lộ Vòng Cung vừa là cửa ngõ có tính chất liên hoàn thuận lợi về đường bộ và đường thủy, vừa là nơi vận chuyển, cung cấp lương thực, vũ khí, nhu yếu phẩm và nuôi chứa cán bộ lãnh đạo cách mạng cho các đơn vị bộ đội, tạo thành đường dây kết nối vững chắc giữa các lực lượng của huyện, tỉnh và của Khu tập kết để đưa các lực lượng vào Vòng Cung, tấn công trung tâm đầu não của địch ở thành phố Cần Thơ. Trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ, Lộ Vòng Cung là địa điểm chuyển quân (ấp Mỹ Nhơn); Trạm Quân y Tiền phương (ấp Mỹ Long); nơi cất giấu vũ khí (ấp Mỹ Thuận) của lực lượng cách mạng. Tại đây, ta đã tổ chức vận chuyển lương thực, vũ khí, nhu yếu phẩm nuôi chứa cán bộ cách mạng, các đơn vị bộ đội và là nơi tập kết của các lực lượng cách mạng. Do đó, đế quốc Mỹ tiến hành nhiều đợt phi pháo càn quét, bắn phá tan hoang nhà cửa, ruộng vườn của bà con nhân dân và rải chất khai quang hủy diệt sự sống, với quyết tâm đánh bật lực cách mạng ra khỏi Vòng Cung, cắt đường dây kết nối liên lạc giữa lực lượng cách mạng và nhân dân nơi đây. Nhiều cuộc chiến đấu giữa ta và địch diễn ra vô cùng gay go ác liệt, có biết bao máu xương của chiến sĩ, đồng bào đã ngã xuống mảnh đất Vòng Cung. Nhưng với truyền thống yêu nước và tuyệt đối tin tưởng vào cách mạng, bà con nhân dân nơi đây không quản ngại hy sinh, gian khổ vẫn quyết tâm bám trụ đùm bọc, nuôi chứa, bảo vệ cán bộ, bộ đội đứng chân chiến đấu cho đến ngày thống nhất đất nước, góp phần tô thắm những trang sử vẻ vang về truyền thống đấu tranh cách mạng của Đảng bộ, quân và dân Cần Thơ. Vì vậy, Lộ Vòng Cung Cần Thơ không chỉ là địa danh mà còn có ý nghĩa lịch sử trong kháng chiến chống ngoại xâm của Cần Thơ. Ngoài địa điểm chuyển quân, Trạm Quân y Tiền phương và nơi cất giấu vũ khí của lực lượng cách mạng, nơi đây còn lưu lại dấu ấn sâu đậm về tình nghĩa quân dân gắn liền với những đau thương, mất mát, hy sinh của những đồng bào, chiến sĩ đã ngã xuống vì Tổ quốc. Ngày 7 tháng 2 năm 2013, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã xếp hạng Địa điểm chuyển quân, Trạm Quân y Tiền phương và nơi cất giấu vũ khí thuộc Lộ Vòng Cung Cần Thơ trong kháng chiến chống Mỹ là Di tích lịch sử cấp Quốc gia. Nguồn: Trang thông tin di tích lịch sử - văn hóa Cần Thơ
Cần Thơ 2668 lượt xem
Di tích lịch sử Khám lớn Cần Thơ hiện tọa lạc tại số 8, đường Ngô Gia Tự, phường Tân An, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ. Để phục vụ cho bộ máy cai trị tại Cần Thơ, từ năm 1876 đến năm 1886, thực dân Pháp đã xúc tiến xây dựng nhiều cơ quan, công sở… trong đó có trại giam mang tên “Prison Provinciale”. Trại giam được xây dựng trên diện tích rộng 3.762m2, liền kề Dinh Tỉnh trưởng, đối diện Tòa Hành chánh và biệt lập với khu dân cư, nhân dân thường gọi là Khám lớn Cần Thơ. Khi Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết năm 1954, chính quyền Sài Gòn đổi tên tỉnh Cần Thơ thành tỉnh Phong Dinh, Khám lớn Cần Thơ được đổi tên thành Trung tâm cải huấn. Nhưng dù được gọi với tên gọi nào chăng nữa thì Khám lớn Cần Thơ thực chất vẫn là địa ngục trần gian - là nơi thực dân đế quốc giam cầm, đày đọa những chiến sĩ cách mạng và đồng bào yêu nước của ta. Cổng Khám Lớn có hình vòm, bên trái cổng là dãy nhà giám thị trực, bên phải là văn phòng làm việc và là nơi ở của giám thị trưởng. Chung quanh Khám lớn được bao bọc bởi bức tường cao từ 3,6m đến 5m trên được cắm đầy những mảnh ve chai và dây kẽm gai rào kín. Ở mỗi góc tường là một tháp canh cao 6m có lính gác và đèn pha chiếu sáng về đêm để kiểm soát tù nhân. Bên trong Khám lớn có 21 phòng giam tập thể cùng nhiều phòng biệt giam. Giữa các dãy nhà giam là một sân rộng để tù nhân ra phơi nắng. Trong khoảng sân này thực dân, đế quốc còn cho xây dựng nhà chùa, nhà thờ để tỏ ra tôn trọng tín ngưỡng, tôn giáo của tù nhân. Khoảng năm 1963, hai dãy nhà lầu được xây dựng thêm trên phần sân phía sau nhà chùa, tầng trệt không vách tường - có thời gian được dùng làm nhà hướng nghiệp cho tù nhân… Sức chứa quy định trong mỗi phòng giam tập thể chỉ khoảng 30 đến 40 người nhưng có lúc số tù nhân lên đến 70 đến 80 người. Nhất là sau cuộc Khởi nghĩa Nam kỳ, địch điên cuồng dùng mọi thủ đoạn khủng bố, trả thù nhân dân ta. Nhiều cán bộ lãnh đạo, đảng viên và quần chúng đã bị thực dân Pháp bắt giam tại Khám lớn Cần Thơ. Ngoài ra, địch còn đưa hàng trăm quần chúng tham gia khởi nghĩa và các đồng chí lãnh đạo ở các tỉnh Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau… về đây giam giữ, tra tấn dã man. Đặc biệt trong thời kỳ đế quốc Mỹ dùng “Luật do chế độ Việt Nam Cộng hòa ban hành ngày 6 tháng 5 năm 1959 để khủng bố, kềm kẹp nhân dân ta, bắt giam tất cả những người tình nghi là “Việt cộng”, lúc này số tù nhân trong mỗi phòng có khi lên đến hơn 100 người. Nhiều tù nhân không chịu nổi chế độ giam cầm, tra tấn, ăn uống khắc nghiệt đã phải chết dần chết mòn trong nhà lao tối tăm này. Số người còn lại bị nhiễm đủ các bệnh: ghẻ lở, sốt rét, thương hàn, lao phổi… Đối với những tù chính trị thuộc loại đặc biệt địch nhốt riêng ở các phòng biệt giam, bị tra tấn đến bại liệt nhưng vẫn một lòng trung thành với Đảng với dân, giữ tròn khí tiết đến hơi thở cuối cùng. Mặc dù bị tra tấn cực hình, các đồng chí đảng viên trong tù vẫn có Chi bộ, Đảng bộ, sinh hoạt học tập, tổ chức đấu tranh với địch từng giờ từng phút kiên quyết giữ gìn phẩm chất cách mạng. Chính tinh thần đấu tranh bất khuất và lòng yêu nước thương dân của những người tù chính trị đã cảm hóa và giáo dục giác ngộ cách mạng được nhiều giám thị, lính gác nhà giam và họ tình nguyện làm cơ sở nội tuyến của ta, thông báo cho các đồng chí tù chính trị biết được tình hình của ta, địch ở bên ngoài để đề phòng hoặc có phương sách đấu tranh với địch trong nhà giam. Miền Nam hoàn toàn giải phóng, Khám lớn Cần Thơ trở thành chứng tích khắc sâu bao tội ác không phai mờ của thực dân, đế quốc. Chính nơi đây, biết bao người con ưu tú của quê hương Cần Thơ và các tỉnh lân cận đã ngã xuống để góp phần viết nên trang sử vẻ vang hào hùng của dân tộc. Ngày 28/6/1996 Bộ Văn hóa - Thông tin đã xếp hạng Khám lớn Cần Thơ là Di tích lịch sử cấp quốc gia. Nguồn: Cổng thông tin du lịch Cần Thơ
Cần Thơ 2777 lượt xem
Khu tưởng niệm thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa tọa lạc tại đường Huỳnh Mẫn Đạt, phường Bùi Hữu Nghĩa, quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ. Đây là nơi yên nghỉ của Thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa – một nhà thơ yêu nước, tác gia tiên phong của sân khấu tuồng Việt Nam, người được mệnh danh là anh hùng tứ kiệt hay một trong bốn Rồng vàng của Nam Bộ. Bùi Hữu Nghĩa, hiệu Nghi Chi, sinh ra tại thôn Bình Thủy, tổng Vĩnh Định, châu Định Viễn, dinh Vĩnh Trấn (nay thuộc quận Bình Thủy, TP Cần Thơ) trong một gia đình ngư dân nghèo. Năm Ất Mùi (1835) ông đỗ Giải Nguyên (Thủ khoa) trong khoa thi Hương Trường Gia Định, vì thế người đời thường gọi ông là Thủ khoa Nghĩa. Ông được triều đình nhà Nguyễn bổ làm Tri huyện Phước Chánh, phủ Phước Long, tỉnh Biên Hòa (nay là tỉnh Đồng Nai); rồi Tri huyện phủ Trà Vang (nay thuộc tỉnh Trà Vinh). Năm 1848, vì bênh vực cho dân nghèo trong vụ án “Rạch Láng Thé”, ông bị quan lại, cường hào vu oan và bị triều đình kết tội chết. Vợ ông – bà Nguyễn Thị Tồn đã ra tận kinh đô Huế kêu oan cho chồng. Bùi Hữu Nghĩa được tha chết nhưng bị đày ra trấn thủ biên giới Vĩnh Thông (Châu Đốc). Năm 1862, ông từ quan về Long Tuyền – Cần Thơ mở trường dạy học, bốc thuốc chữa bệnh cho dân nghèo, rồi tham gia phong trào yêu nước chống thực dân Pháp. Ông mất ngày 21 tháng Giêng năm Nhâm Thân (1872), thọ 65 tuổi. Thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa là tấm gương sáng về sự công minh, chính trực, hết lòng vì dân, vì nước..Vở tuồng nổi tiếng Kim Thạch Kỳ Duyên của ông được coi là cổ nhất Việt Nam, đã được trình diễn khắp đất nước và cũng là vở tuồng đầu tiên của Việt Nam được dịch ra tiếng Pháp. Ông là một trong những danh nhân văn hóa của đất Cần Thơ được nhân dân tin yêu, trọng phục. Tên tuổi ông tỏa sáng về tinh thần đấu tranh chống xâm lược, chống áp bức, bất công; nghĩa khí và những cống hiến to lớn cho nền văn học nước nhà là niềm tự hào không chỉ của người dân Cần Thơ mà là cả vùng Nam bộ. Khâm phục tài năng và phẩm giá của ông, nhân dân làng Bình Thủy đã đưa hình ảnh vào thờ trong đình Bình Thủy; các học trò lập bài vị thờ ông tại chùa Nam Nhã. Phần mộ của Thủ khoa xây dựng bằng đá ong luôn được các thế hệ người Cần Thơ chăm sóc và thường xuyên được tu bổ, tôn tạo. Khu tưởng niệm có khuôn viên khoảng 10.000m2 với tổng kinh phí xây dựng hơn 50 tỷ đồng. Công trình đã khánh thành vào ngày 1/3/2013 – dịp kỷ niệm 141 năm ngày mất của ông. Kiến trúc chủ đạo của Khu Di tích là phong cách giả cổ với các cột cái đường kính khoảng 1m được sơn màu nâu đỏ; vách ngăn, ban thờ bằng gỗ được trạm trổ công phu; mái lợp ngói xanh mát mắt. Đỉnh mái nhấn mạnh bằng biểu tượng đôi cá hóa long, bốn góc mái được điểm tô bằng những cánh chim phượng đang bay lên. Bên trong khu tưởng niệm có khuôn viên vườn rộng thoáng mát, đầy cây xanh. Khu tưởng niệm có bốn công trình chính gồm ba tòa nhà lớn trong đó chính giữa là nhà thờ, bên trái nhà trưng bày, bên phải nhà khách và một nhà bia ngay cổng vào để lược ghi tài năng, công đức của ông và một số công trình phụ khác để phục vụ du khách xa gần đến tham quan kính viếng. Nguồn: Du lịch Cần Thơ
Cần Thơ 2682 lượt xem
Chùa Nam Nhã hay Nam Nhã đường, tên đầy đủ là Nam Nhã Phật đường, tọa lạc tại số 612 đường Cách mạng Tháng 8, phường Bùi Hữu Nghĩa, quận Bình Thủy, TP Cần Thơ. Đây không chỉ là nơi sinh hoạt tôn giáo của các tín đồ theo đạo Minh Sư, mà còn là cơ sở hoạt động cách mạng của các phong trào yêu nước ở Cần Thơ nói riêng, Nam Bộ nói chung vào cuối thế kỷ XIX , đầu thế kỷ XX. Người lập chùa Nam Nhã là ông Nguyễn Giác Nguyên (1850-1919), bí danh Nguyễn Phương Thảo, đạo danh Long Khê đạo nhân, đạo hiệu Nguyễn Đạo Cơ. Khoảng năm 1890, ông Nguyễn Giác Nguyên bắt đầu tham gia phong trào Đông Du. Thoạt đầu, ông dời nhà từ Rạch Sao ra chợ Bình Thủy, lập tiệm thuốc bắc Nam Nhã đường ở gần cầu Rạch Miễu làm cơ sở liên lạc chống Pháp. Năm 1895, ông Nguyễn Giác Nguyên thôi làm tiệm thuốc Bắc, chuyển ra vàm sông Bình Thủy lập một ngôi chùa nhỏ ba gian cũng mang tên là Nam Nhã đường. Đến năm 1905, chùa được tái thiết quy mô hơn với năm căn hai chái. Trải qua thời gian, ngôi chùa hư hại nhiều, những người trong đạo muốn xây dựng lại nhưng Pháp không cho vì chùa còn đang bị theo dõi, phải xin vận động với nhà cầm quyền Pháp mới được phép xây dựng. Năm 1917, chùa được xây lại bằng gạch ngói, nhiều vật liệu được đặt mua từ bên Pháp. Cũng như nhiều ngôi chùa khác, chùa Nam Nhã được xây cất gần bờ sông để khách thập phương thuận tiện tới lui chiêm bái, bởi giao thông ngày trước chủ yếu là phương tiện đường thủy. Vì vậy, cổng chùa cũng hướng ra rạch Bình Thủy. Nhiều tài liệu mô tả cổng chùa xây bằng gạch, lợp ngói. Sân chùa lát gạch tàu, được bao quanh bởi một khu vườn lớn trải dài ra tận bờ sông Bình Thủy. Giữa vườn là hòn non bộ cao trên 2m được đặt trong một bồn nước xây bằng gạch. Trong vườn trồng nhiều cây tùng, cây trắc bá diệp và các cây cổ thụ khác. Chánh điện là một ngôi nhà gạch kiên cố, gồm 5 gian, lợp ngói âm dương, trên có hình lưỡng long tranh châu. Đặc biệt, mặt tiền chánh điện có kiểu kiến trúc Á - Âu kết hợp hồi đầu thế kỷ XX, và khá khác với kiểu chùa truyền thống ở Nam Bộ. Bên trong chánh điện, ở khu trung tâm được bài trí rất trang trọng, dùng làm nơi đặt bàn thờ Tam giáo Thánh nhân (có ba pho tượng thờ bằng đồng là Đức Thích Ca Văn Phật, Đức Khổng Tử Chí Thánh và Đức Lão Tử Đạo Tổ). Sau chính điện là một hành lang dài có hai căn phòng tiếp khách. Bên phải và bên trái chùa là hai dãy nhà lợp ngói gọi là Càn Đạo Đường (dãy nhà Đông Lang) dùng cho nam giới và Khôn Đạo Đường (dãy nhà Tây Lang) dùng cho nữ giới ăn thông với nhà bếp. Hiện nay, chùa Nam Nhã còn có nhiều ruộng vườn, đặc biệt phía sau chùa là cả một vườn cây ăn trái, hoa kiểng xanh tươi, tỏa mát cả không gian yên tĩnh của chùa. Ngoài việc sinh hoạt tôn giáo, chùa Nam Nhã còn là cơ sở hoạt động cách mạng. Chùa là “trụ sở hoạt động của phong trào Đông Du ở Cần Thơ. Tại đây, vào tháng 2-1913, sau khi từ Pháp trở về nước, chí sĩ yêu nước Cường Để cùng với ông Nguyễn Giác Nguyên bàn quốc sự vận động phong trào yêu nước ở Nam kỳ, bị thực dân Pháp theo dõi phát hiện nên cho đóng cửa chùa. Tuy nhiên, nơi đây vẫn tiếp tục duy trì là cơ sở bí mật hoạt động cách mạng. Năm 1929 khi Đặc ủy An Nam Cộng sản Đảng Hậu Giang được thành lập ở Bình Thủy, chùa Nam Nhã chính là cơ sở liên lạc giữa Đặc ủy Hậu Giang với Xứ ủy Nam kỳ của những nhà cách mạng, trong đó có đồng chí Ngô Gia Tự, Bí thư Cấp ủy Lâm thời Đảng bộ Nam kỳ”. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, chùa Nam Nhã luôn đi liền với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Với những giá trị về mặt kiến trúc và lịch sử như vậy, ngày 25 tháng 1 năm 1991, chùa Nam Nhã đã được Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch xếp hạng là Di tích lịch sử cấp quốc gia. Nguồn: Báo Cần Thơ online
Cần Thơ 2410 lượt xem
Di tích lịch sử Đặc Ủy An Nam Cộng Sản Đảng Trên đường vào phường Long Hoà, Long Tuyền (Quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ) bên phía tay phải có căn nhà mang số 34/7 đường Bùi Hữu Nghĩa, phường Bình Thuỷ, quận Bình Thuỷ ngày xưa là căn nhà được thuê làm cơ quan của Đặc Uỷ An Nam Cộng Sản Đảng Hậu Giang. Di tích lịch sử Đặc Ủy An Nam Cộng Sản Đảng Hậu Giang Trung tuần tháng 9/1929 tại đây đã diễn ra sự kiện rất quan trọng đối với Đảng bộ miền Hậu Giang. Đó là Hội nghị thành lập tổ chức “Đặc ủy An Nam Cộng Sản Đảng Hậu Giang” do đồng chí Châu Văn Liêm chủ trì và chỉ đạo bầu Ban chấp hành Đặc uỷ gồm đồng chí: Ung Văn Khiêm, Hà Huy Giáp, Nguyễn Văn Tây, Nguyễn Văn Trí... do đồng chí Ung Văn Khiêm làm Bí Thư. Sau 5 tháng hoạt động Đặc ủy An Nam Cộng Sản Đảng Hậu Giang đã xây dựng các cơ sở Đảng khắp miền Hậu Giang, góp phần quan trọng trong việc tiến tới thống nhất Đảng thành một tổ chức Đảng duy nhất, để lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam. Sau ngày 3/2/1930, thống nhất ba tổ chức đảng thành Đảng Cộng sản Việt Nam, Đặc ủy trực thuộc Xứ Uỷ Nam kỳ. Đồng chí Ung Văn Khiêm được phân công làm Ủy viên thường vụ Xứ ủy Nam Kỳ. Đồng chí Hà Huy Giáp làm Bí thư Đặc ủy Hậu Giang. Tháng 04/1930 do yêu cầu bảo toàn cho Đặc ủy, nên cơ quan Đặc ủy chuyển sang tỉnh Sa Đéc. Đặc ủy An Nam Cộng sản Đảng có giá trị lịch sử, đã đặt nền tảng đầu tiên, là tiền đề quan trọng trong việc xây dựng và phát triển Đảng bộ và phong trào cách mạng ở các tỉnh miền Hậu Giang. Do đó, ngày 25-01-1991, Bộ Văn hoá Thông tin công nhận cơ quan Đặc ủy An Nam Cộng Sản Đảng Hậu Giang là di tích lịch sử cấp Quốc gia. Năm 1995 Ủy ban Nhân dân TP Cần Thơ cùng với nhân dân phường Bình Thủy đã xây dựng công trình bia tưởng niệm Đặc ủy An Nam Cộng sản Đảng Hậu Giang, tại phường Bình Thuỷ. Nguồn: Cổng thông tin du lịch Cần Thơ
Cần Thơ 2539 lượt xem
Di tích lịch sử mộ nhà thơ Phan Văn Trị tọa lạc ở ấp Nhơn Lộc 1, thị trấn Phong Điền, huyện Phong Điền, thành phố Cần Thơ. Đây là nơi yên nghỉ của nhà thơ yêu nước Cử nhân Phan Văn Trị, một nhà nho đã suốt đời lấy thơ ca làm vũ khí đấu tranh cho sự tồn vong và phát triển của dân tộc và được người đời mệnh danh là nhà thơ – chiến sĩ. Khu mộ đã được công nhận là di tích cấp quốc gia vào năm 1991. Trước đây, khu mộ của nhà thơ chỉ được xây dựng bằng xi măng đơn giản, nằm giữa bãi cỏ xanh với một chiếc mộ bia. Đến năm 1990, trước lòng tôn kính của nhân dân, bà con đã chung tay trùng tu lại mộ nhà thơ Phan Văn Trị bằng đá mài, mộ thờ đi lên bậc tam cấp, với văn bia đá mài lộng lẫy, có hàng rào, có cỏ xanh tạo thêm chút thơ, đẹp, lại có chút góc cạnh như sự can trường từ ngòi bút và khí chất của nhà thơ khi còn sống. Đến năm 2005, Di tích được trùng tu với quy mô lớn hơn, trên diện tích rộng 2.060 m2. Bao gồm các hạng mục: nhà Tưởng niệm, nhà Trưng bày, phần mộ, cuốn sách và các bia đá (trên có ghi lại những câu thơ nổi tiếng của Cử nhân Phan Văn Trị), ao sen, cây kiểng, nhà chờ…. Ấn tượng nhất trong khuôn viên của khu mộ chính là bia đá, được xây dựng dựa trên cảm hứng từ ngòi bút trên trang viết của nhà thơ. Ngòi bút hướng lên trên, ở giữa là các áng thơ nổi tiếng của ông. Ngay sau đài tưởng niệm là tượng chân dung của nhà thơ Phan Văn Trị được xây dựng đầy nét hồn hậu, chân phương. Nhà thơ Phan Văn Trị sinh năm 1830 tại xã Thạnh Phú Đông, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre, trong một gia đình nho giáo, trọng đạo lý và giàu truyền thống yêu nước. Từ nhỏ ông đã nổi tiếng thông minh và đậu cử nhân năm 20 tuổi tại kỳ thi Hương của trường Gia Định năm 1849. Tuy là nhà nho học, nhưng trước chính sách bóc lột nhân dân quá nặng nề cùng chủ trương cấm đạo và bế quan tỏa cảng của triều đình nhà Nguyễn đưa nước nhà đến chỗ suy nhược đã làm cho ông vô cùng thất vọng và không ra làm quan mà lui về vui với nghề dạy học và thơ. Tại Gia Định, ông đã tham gia sáng lập ra nhóm “Bạch Mai Thi Xã”. Đây là nơi hội tụ ngâm thơ vịnh cảnh của các nhà khoa bảng, tao nhân, mặc khách. Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng tấn công Đà Nẵng, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta. Lúc này, Phan Văn Trị dời về làng Bình Cách, Tân An (nay thuộc tỉnh Tiền Giang), sau đó về Vĩnh Long mở trường dạy học, hốt thuốc chữa bệnh cho dân nghèo. Năm 1868, Phan Văn Trị về làng Nhơn Ái, Phong Điền thuộc tỉnh Cần Thơ trú ngụ, tiếp tục mở trường dạy học và sáng tác thơ văn chỉ trích bọn quan lại “mãi quốc cầu vinh”, đồng thời ca ngợi sĩ khí của các nghĩa quân, sĩ phu yêu nước. Mỗi dòng thơ của ông đều in dấu một tâm hồn dạt dào lòng yêu nước, thương dân, phân biệt bạn thù dứt khoát. Ngày 16 tháng 5 năm Canh Tuất (ngày 22/6/1910 dương lịch), Nhà thơ yêu nước, Cử nhân Phan Văn Trị đã yên nghỉ tại làng Nhơn Ái, Phong Điền trong một ngôi nhà lá đơn sơ như tấm lòng thanh bạch của cụ, để lại biết bao niềm thương tiếc trong nhân dân. Nơi an nghỉ của Cử nhân Phan Văn Trị luôn được nhân dân địa phương tôn tạo, gìn giữ qua các thế hệ. Hiện nay, Di tích lịch sử Mộ Nhà thơ Phan Văn Trị đã trở thành điểm tham quan, học tập, sinh hoạt truyền thống, giao lưu văn hóa. Đặc biệt, vào ngày 22/6 dương lịch hàng năm – nhân dịp ngày mất của Cử nhân Phan Văn Trị, chính quyền địa phương và nhân dân trong vùng tổ chức Lễ giỗ rất trang trọng và các hoạt động văn hóa văn nghệ để tưởng nhớ một nhà thơ – người chiến sĩ, tạo thành ngày hội hàng năm của Di tích nói riêng, của huyện Phong Điền và thành phố Cần Thơ nói chung. Nguồn: Cổng thông tin du lịch Cần Thơ
Cần Thơ 2494 lượt xem
Văn miếu Diên Khánh tọa lạc tại khóm Phú Lộc Tây, thị trấn Diên Khánh, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa. Văn miếu là nơi thờ Đức Khổng Tử, người sáng lập Nho Giáo và những bậc hiền triết là học trò của Ngài; đồng thời cũng là nơi sinh hoạt của giới nho sĩ, khoa mục ở địa phương, tôn vinh những người đỗ đạt thành danh trong các kỳ khoa bảng. Năm 1803, vua Gia Long ra chỉ dụ lập Văn Miếu tại xã Phú Lộc, huyện Hoà Châu - thị trấn Bình Hoà, nay thuộc khóm Phú Lộc Tây - thị trấn Diên Khánh - tỉnh Khánh Hoà. Văn Miếu được xây dựng với quy mô lớn từ năm 1853 và đến năm sau thì cơ bản hoàn thành: phía trước có nhà bi đình, chính giữa có tòa tiền đường và chánh đường cao rộng, làm bằng gỗ xây tường gạch bao, các cột kèo được chạm trổ sơn son thếp vàng đẹp đẽ, uy nghiêm. Văn miếu Diên Khánh được xây trên một khu đất rộng, bằng phẳng, với tổng diện tích 1.500m2. Khi khởi dựng, Văn miếu có các công trình kiến trúc: miếu Chính và miếu Khải Thánh, được lợp bằng cỏ tranh. Năm 1849, Văn miếu được tu bổ hệ mái, thay mái tranh bằng mái ngói và dựng thêm Tả vu, Hữu vu, Khải miếu, Quan cư, Từ miếu… với quy mô rất bề thế, vững chắc. Năm 1959, Văn miếu được xây dựng lại trên nền cũ ở thôn Phú Lộc, nhưng quy mô nhỏ hơn, bao gồm: Nghi môn ngoại và tường thành; Nghi môn nội ; nhà bia (Thạch Bi đình); sân miếu; cột cờ; nhà Đông, nhà Tây (Tả Vu – Hữu Vu); Bái đường; Chánh tẩm. Về cơ bản kết cấu gian Chánh tẩm và Bái đường đưa từ Văn chỉ Phước Điền chuyển về, xây dựng thêm Tả vu, Hữu vu theo kiểu nhà cấp bốn ba gian. Tường vách xây bằng gạch thẻ, không có chái. Mái lợp ngói âm dương, sau này trùng tu thay bằng ngói Tây; hệ cửa gỗ đóng theo kiểu ván bưng, thay kiểu thượng song hạ bản cổ xưa; không phục dựng lại Khải miếu, Quan cư và Từ miếu. Hiện tại, Văn Miếu chỉ còn giữ được 2 tấm bia đá thời Tự Đức 11 (1858) giúp ta hiểu biết hơn về lịch sử, văn hoá, sinh hoạt của nhân dân Khánh Hoà và quá trình hoàn thiện khu Văn Miếu năm 1854. Ngoài ra còn có một Bài minh ở Bái Đường nói rõ hơn về sự đỗ đạt của các vị văn võ, khoa bảng, hào mục, chức sắc và các học sinh địa phương từ đầu triều Nguyễn đến thời Tự Đức. Với bề dày lịch sử, khu Văn Miếu mang giá trị to lớn về quá trình học tập, tiếp nhận tri thức và biểu hiện sự tôn sư trọng đạo, làm phong phú thêm kho tàng di sản văn hoá dân tộc. Di tích Văn miếu Diên Khánh được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích Quốc gia ngày 15/10/1998. Nguồn: Sở văn hoá thể thao tỉnh Khánh Hoà
Khánh Hòa 3695 lượt xem
Thành cổ Diên Khánh nằm trên đường Lý Tự Trọng, khóm Đông Môn, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa. Đây là nơi đã diễn ra nhiều sự kiện lịch sử quan trọng của dân tộc ta thời Nhà Nguyễn. Thành cổ Diên Khánh nằm trên diện tích khoảng 36.000m2; gồm 6 đoạn tường thành chạy uốn khúc theo hình lục giác, dài khoảng 2.694m, xây cao khoảng 3,5m. Thành Diên Khánh được xây dựng vào năm 1793 dưới thời chúa Nguyễn Phúc Ánh. Sau khi nhà Tây Sơn suy yếu, Nguyễn Ánh cùng Võ Tánh và Nguyễn Văn Trương đã xây dựng Diên Khánh thành một căn cứ vững chắc. Hoàng tử Cảnh đã trực tiếp trông coi công cuộc xây dựng thành với hơn 3000 nhân lực từ Bình Thuận và Thuận Thành, chỉ sau hơn một tháng thì thành được xây xong. Khi xây xong, thành Diên Khánh do hoàng tử Cảnh và Bá Đa Lộc chỉ huy trấn giữ. Trước đây trong thành có hoàng cung, bên trái là dinh Tuần Vũ, phía sau là dinh Án Sát, sâu trong phía sau nữa là dinh Lãnh Binh, phía dưới là dinh Tham Tri, ngoài ra còn có nhà kho, nhà lao kiên cố. Thành cổ Diên Khánh được đắp trên một khu đất trống, có hình dáng nhô cao giống như lưng con rùa - linh vật tượng trưng cho sự trường tồn và vững chắc. Thành có hệ thống hào sâu bên ngoài và hai bậc thang bên trong dùng làm đường lên xuống. Các góc thành được đắp nhô ra ngoài để dễ dàng quan sát, mỗi góc có một khoảng đất rộng dùng làm chỗ trú quân với một ụ đất cao khoảng 2m để đặt súng đại bác, gọi là pháo đài góc - đặc điểm nổi bật của kiến trúc quân sự theo kiểu Vauban. Trên thành được trồng nhiều tre và cây gai để tăng độ vững chắc và tạo thành một hàng rào phòng ngự theo truyền thống của người Việt. Hệ thống hào bên ngoài thành có độ sâu từ 3m đến 5m, rộng hẹp không đều tùy theo địa hình. Dưới lòng hào thường xuyên có nước và nhiều chướng ngại vật. Phía ngoài hào có đường hào ngoại. Để vào trong thành phải đi qua cầu bắc qua hào nước. Ban đầu, thành Diên Khánh có 6 cửa (cổng), nhưng 2 cửa Tả và cửa Hữu đã bị lấp năm 1823, đến nay chỉ còn 4 cửa Ðông - Tây - Tiền (Nam) - Hậu (Bắc). Các cổng của thành được xây bằng gạch nung và trát vôi vữa tạo thành hình khối dài khoảng 15m. Các cổng có vòm cuốn ở giữa, rộng 2,88m và cao 2,44m, có lối đi phía dưới. Mặt ngoài cổng xây thẳng đứng, mặt trong xây tường gạch cao 1,7m dài 5m. Đường đi trên bờ thành rộng 5,35m. Hai bên cổng xây bậc cấp rộng 3m để đi lên phía trên cổng thành. Phía trên cổng thành có lầu tứ giác và bốn cửa ở bốn hướng, trên cùng là cổ lầu có mái uốn cong lợp ngói âm dương. Cổ lầu cao 4,1m so với nền. Hai bên lầu tứ giác có lan can cao 0,85cm. Nối liền với bốn cổng là hệ thống tường thành đắp bằng đất thoai thoải phía bên trong, thẳng đứng phía bên ngoài. Ngày nay các đoạn tường bằng đất không còn nối liền mạch như xưa. Tổng chiều dài tường thành bằng đất hiện nay dài khoảng 1.656m, cao 3m và bề mặt rộng 5m. Qua hơn 200 năm lịch sử, Thành Cổ Diên Khánh đã trải qua nhiều biến động thăng trầm. Để bảo tồn giá trị lịch sử, văn hóa của di tích này, ngày 16/11/1988, Bộ Văn Hóa quyết định xếp hạng nơi đây là di tích lịch sử - văn hóa Quốc Gia. Trải qua sự tàn phá theo thời gian, Thành cổ Diên Khánh ngày nay đã mất nhiều đoạn tường và hào. Năm 2003, Thành Diên Khánh đã được trùng tu, sơn sửa bốn cổng và gia cố những nơi bị nứt tường do mưa. Năm 2010 thành được tỉnh triển khai tu bổ và bảo vệ các khu vực xung quanh. Cuối năm 2014 thì nơi đây được xây dựng thành phố đi bộ và phục hồi các công trình có giá trị lịch sử để phục vụ du lịch. Nguồn: Sở văn hoá thể thao tỉnh Khánh Hoà
Khánh Hòa 2845 lượt xem
Đền Trần Quý Cáp tọa lạc tại tổ 5, thị trấn Diên Khánh, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa. Trần Quý Cáp tự là Thích Phu, hiệu Thái Xuyên, sinh năm 1870 tại thôn Thai La, làng Bất Nhị, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Trần Quý Cáp khi nhỏ là người thông minh, học giỏi, ham hiểu biết và là người có chí khí lớn. Trần Quý Cáp sinh ra và lớn lên trong bối cảnh xã hội Việt Nam đầy biến động. Ngay từ khi 13 tuổi ông đã chứng kiến đám tang của Tổng đốc Hoàng Diệu, khi thành Thăng Long thất thủ (1882); ba năm sau ông lại chứng kiến một biến động chính trị to lớn, đó là phong trào Cần Vương yêu nước do các văn thân ở quê ông lãnh đạo nhân dân đứng lên theo hịch Cần Vương của vua Hàm Nghi, kêu gọi mọi người đứng lên đánh Pháp. Năm 1904 ông đi thi và đậu tiến sĩ cùng với Huỳnh Thúc Kháng, (hiện nay còn bia đề danh tiến sĩ tại triều đình Huế). Lúc này ở nước ta nền Hán học thoái trào, nền Tân học bắt đầu khởi xướng. Trần Quý Cáp thường xuyên qua lại với cụ Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu nghiên cứu những sách báo mới, nắm bắt những tư tưởng tiến bộ và ông tự xác định trách nhiệm của mình là đề cao tân học, thông qua cải cách giáo dục để nâng cao dân trí, ý thức dân quyền, tự lực tự cường dân tộc. Tại Quảng Nam, Phan Bội Châu đã cùng với các đồng chí của mình trong đó có Trần Quý Cáp sáng lập ra tổ chức “Duy Tân hội” – một tổ chức tiền cách mạng, nó đánh dấu sự phân hóa của tầng lớp trí thức tại Việt Nam. Duy Tân hội đã chọn lọc nhiều thanh niên ưu tú để đưa đi học ở Trung Quốc, Nhật Bản…học tập ở tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, quân sự… làm nòng cốt cho phong trào cách mạng nước nhà sau này. Năm 1906 ông được xung là Giáo thọ huyện Tân Định, phủ Ninh Hòa (nay là huyện Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa). Ông là đại diện những nhà ái quốc cách mạng trong phong trào Duy Tân, cổ súy cho phong trào kháng chiến chống Pháp ở miền Trung. Ông cùng một số người thành lập hội nông học, hội thương, trường học… Là người có tài thao lược, giỏi trong việc vận động nhân dân, được mọi người đánh giá cao về tài năng, đức độ. Vì vậy thực dân Pháp và bọn quan lại phong kiến biết được vai trò quan trọng của ông trong giới sĩ phu và quần chúng lao động. Ông đã mở các lớp Tân học, rước thầy dạy chữ Quốc ngữ, chữ Pháp ngay trong trường Phủ. Bọn quan lại ở đây rất căm tức và tìm mọi cách hãm hại ông, chúng bắt ông giữa lúc ông đang dạy học, về giam tại nhà lao Thành Diên Khánh – lúc đó là thủ phủ của Khánh Hòa. Ngày 15/6/1908, sau khi bị bắt hai tháng ông bị tuyên “trảm nêu” tại Cầu Sông Cạn (nay là cầu Trần Quý Cáp). Nhân dân Khánh Hòa thương tiếc ông, cảm phục tấm lòng trung nghĩa của ông đã hưởng ứng đấu tranh xây đền thờ Trần Quý Cáp vào năm 1970. Trần Quý Cáp mặc dù không phải là người sinh ra và lớn lên trên đất Khánh Hòa nhưng cuộc đời ông và sự nghiệp của ông gắn với mảnh đất này. Cuộc đời và sự nghiệp của một danh nhân như ông không thuộc về riêng một ai, mà ông thuộc về Tổ quốc, về nhân dân Việt Nam anh hùng! Đền được xây dựng trong khuôn viên Trung tâm Văn hóa - Thể thao và Sân vận động Trần Quý Cáp của huyện Diên Khánh, nhằm nâng cao giá trị di tích, tôn vinh truyền thống văn hóa, gắn kết các hoạt động văn hóa truyền thống với hoạt động văn hóa, thể thao. Đền Trần Quý Cáp đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng là di tích Quốc gia, ngày 30/8/1991. Nguồn: Sở văn hoá thể thao tỉnh Khánh Hoà
Khánh Hòa 2822 lượt xem
Hai bia chủ quyền trên đảo Song Tử Tây và đảo Nam Yết là một trong những dấu tích cổ xưa trên quần đảo Trường Sa được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia. Cùng với quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa có ý nghĩa là cột mốc tiền tiêu trên biển Đông của Tổ quốc. Trường Sa nằm phía Đông Nam quần đảo Hoàng Sa, với hơn 100 hòn đảo nổi và chìm, đá, cồn cát, san hô và bãi san hô, dàn trải trên một vùng biển từ đông sang tây khoảng 800km. Quần đảo chiếm một diện tích biển khoảng 160.000km2 đến 180.000km2. Đảo gần nhất là đảo Đá Lát, nằm phía tây đảo Trường Sa, cách vịnh Cam Ranh gần 250 hải lý (450km về phía đông), cách đảo Hải Nam (Trung Quốc) trên 600 hải lý. Các đảo có độ cao trung bình so với mặt nước biển từ 3 mét đến 5 mét. Đảo có diện tích lớn nhất là đảo Ba Bình rộng khoảng 0,6km, sau đó đến các đảo Song Tử Tây, Trường Sa, Nam Yết, Sinh Tồn … Trước đây, Trường Sa có tên gọi là Đại Trường Sa, hay Vạn Lý Trường Sa được ghi trong sách Phủ biên tạp lục – quyển sách nổi tiếng của nhà bác học Lê Quý Đôn viết năm 1776 . Bia chủ quyền đảo Song Tử Tây thuộc xã Song Tử Tây, huyện Trường Sa, tỉnh Khánh Hoà. Bia chủ quyền đảo Nam Yết thuộc xã Sinh Tồn, huyện Trường Sa, tỉnh Khánh Hoà. Các chữ trên thân các bia được khắc lõm chìm vào trong, có nội dung được ghi: “Quần đảo Trường Sa trực thuộc tỉnh Phước Tuy. Phái bộ quân sự thị sát nghiên cứu đến viếng quần đảo này ngày 22 tháng 8 năm 1956 dưới sự hướng dẫn của Hải quân Việt Nam”. Các chữ trên thân bia được khắc lõm chìm vào trong, với nội dung: “Quần đảo Trường Sa trực thuộc tỉnh Phước Tuy. Trải qua thời gian cùng những biến động của lịch sử, đến nay chỉ có đảo Song Tử Tây và đảo Nam Yết còn tồn tại bia chủ quyền và đó cũng là 2 bia cũ nhất còn được bảo tồn ở quần đảo Trường Sa hiện nay. Hiện nay, bia chủ quyền tại đảo Song Tử Tây còn khá nguyên vẹn, gồm phần tháp và thân bia; bia chủ quyền tại đảo Nam Yết chỉ còn phần thân. Hai bia chủ quyền này đã được UBND tỉnh Khánh Hòa xếp hạng di tích cấp tỉnh ngày 3/11/2011. Năm 2012, Sở VHTTDL tỉnh Khánh Hòa đã có văn bản đề nghị Bộ VHTTDL công nhận cụm bia chủ quyền nói trên là Di tích lịch sử cấp quốc gia. Ghi nhận những giá trị lịch sử tiêu biểu của di tích và góp phần khẳng định chủ quyền ở quần đảo Trường Sa, ngày 13/6/2014 Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã xếp hạng di tích Bia chủ quyền quần đảo Trường Sa tại đảo Song Tử Tây và đảo Nam Yết là di tích lịch sử Quốc gia. Việc công nhận 2 bia chủ quyền trên đảo Trường Sa là Di tích lịch sử cấp quốc gia không chỉ là lời khẳng định chủ quyền biển đảo của Việt Nam, mà 2 bia này cũng là bằng chứng có giá trị trong việc chứng minh chủ quyền của đất nước ta với thế giới. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Khánh Hòa
Khánh Hòa 2765 lượt xem
Theo Đại Nam Nhất Thống Chí, từ thời vua Gia Long đến Minh Mệnh năm thứ 1 (1820), Phủ đường Ninh Hòa là trụ sở hành chính cấp huyện; đến thời Minh Mệnh năm thứ 12 (1831) lỵ sở này được xây dựng lại với quy mô khang trang, tương xứng là trụ sở hành chính cấp huyện (sau đó là Phủ). Hiện nay, Phủ đường Ninh Hòa nằm trong khuôn viên Ủy ban nhân dân huyện Ninh Hòa thuộc phường Ninh Hiệp, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa. Phủ đường Ninh Hòa là công trình kiến trúc có dạng hình chữ nhật với bốn cạnh là tường hồi bít đốc, mặt tiền quay về hướng Đông Nam. Về tổng thể, di tích được kết cấu theo mô típ nhà truyền thống của vùng đồng bằng Khánh Hòa theo kiểu 3 gian 2 chái. Riêng phần tường phía trước hiên và phần mái trang trí theo mô típ cấu trúc thành cổ ở cố đô Huế - kiến trúc truyền thống của thời Nguyễn. Chính điều này tạo cho di tích vừa có nét cổ kính, vừa có sự trang nghiêm mang tính chất một công đường; kết cấu kiến trúc hài hòa, giá trị nghệ thuật cao. Năm 1930, đồng thời với việc thành lập Đảng bộ tỉnh Khánh Hòa thì Đảng bộ huyện Tân Định cũng được thành lập. Thực hiện quyết định của Xứ ủy Nam Kỳ, trên cơ sở đánh giá cao phong trào cách mạng của huyện Tân Định, Tỉnh ủy lâm thời Khánh Hòa chỉ thị cho Đảng bộ Tân Định huy động quần chúng biểu tình đấu tranh hưởng ứng phong trào ở Nghệ An. Khoảng 5 giờ sáng ngày 16/7, đoàn biểu tình tiến vào Quốc lộ 1 đoạn ngã ba quốc lộ 1 lên Bệnh viện thị xã hiện nay. Nhiều người hưởng ứng rất nhiệt tình, họ kéo nhau đi cùng đoàn biểu tình và cùng hô vang khẩu hiệu, đoàn biểu tình mỗi lúc một đông, lên đến cả ngàn người, khí thế mỗi lúc một mạnh. Đoàn biểu tình tiến vào Huyện đường, Tri huyện Đinh Bá Cẩn và bọn nha lại khiếp sợ không dám có hành động gì chống đối. Giành được thắng lợi, đoàn biểu tình tỏa ra đường diễu hành qua phố rồi tập trung trước chợ Dinh làm lễ mít tinh. Nhân dân trong khu phố và đồng bào đang mua bán trong chợ đến nghe rất đông. Đồng chí Dương Chước đứng lên vạch rõ âm mưu, tội ác của bọn thực dân, phong kiến, đồng thời nói vắn tắt chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, kêu gọi đồng bào đoàn kết đứng lên đấu tranh chống ách áp bức bóc lột. Thắng lợi của cuộc biểu tình ngày 16/7/1930 là dấu son chói lọi mở đầu thời kỳ đấu tranh cách mạng rạng rỡ của Đảng bộ và nhân dân huyện Ninh Hòa. Để đánh dấu sự kiện trọng đại này, Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân tỉnh Khánh Hòa ra Nghị quyết, lấy ngày 16/7 hàng năm làm “Ngày truyền thống đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và nhân dân tỉnh Khánh Hòa”. Năm 1931, huyện Tân Định và 3 tổng của huyện Quảng Phước được sát nhập thành Phủ Ninh Hòa, huyện đường Tân Định trở thành Phủ đường Ninh Hòa. Tháng 8/1945, cuộc khởi nghĩa ở Vạn Ninh bùng nổ và giành thắng lợi mở màn cho khí thế cách mạng ở Khánh Hòa. Phong trào cách mạng giành chính quyền ở Phủ Ninh Hòa lên cao, nhân dân Ninh Hòa nổi dậy khởi nghĩa giành chính quyền ở hầu hết các vùng nông thôn. Sau khi giành thắng lợi trong cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945, Ủy ban Cách mạng lâm thời Phủ Ninh Hòa đóng tại Phủ đường Ninh Hòa. Ngày 02/9/1945, các cán bộ cách mạng và nhân dân địa phương đã tập trung về Phủ đường để nghe qua Radio bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tại quảng trường Ba Đình (Hà Nội). Phủ đường Ninh Hòa cũng là nơi Ủy ban Cách mạng lâm thời Phủ Ninh Hòa đã tổ chức phát động các phong trào yêu nước như: Tuần lễ vàng, Quỹ độc lập, Hũ gạo kháng chiến, Hũ gạo nuôi quân… trong những ngày đầu giành độc lập. Ngoài ra, Phủ đường Ninh Hòa cũng là nơi diễn ra các sự kiện khác như: Nơi thành lập và đóng quân của Bộ chỉ huy Tiền phương Mặt trận Nha Trang và Tây Nguyên; nơi nhân dân tập trung để nghe đồng chí Lê Văn Hiến đọc thư Bác gửi cho đồng bào, chiến sĩ Khánh Hòa; nơi tiến hành Tổng tuyển cử bầu Quốc hội nước Việt Nam; nơi đồng chí Võ Nguyên Giáp đến làm việc và sinh hoạt trong thời gian kiểm tra tình hình chiến đấu của quân và dân Khánh Hòa… Với những giá trị lịch sử-văn hóa của Phủ đường Ninh Hòa, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã xếp hạng Phủ đường Ninh Hòa là di tích lịch sử-văn hóa Quốc gia ngày 21/8/2000 . Nguồn: Trung tâm bảo tồn di tích tỉnh Khánh Hoà
Khánh Hòa 2684 lượt xem
Lăng Bà Vú (còn gọi là Lăng Nhũ Mẫu) tọa lạc tại tổ 9, phường Ninh Hiệp, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa. Lăng Bà Vú là nơi chôn cất người phụ nữ đã có công giúp chúa Nguyễn Phúc Ánh (sau này là vua Gia Long) qua cơn hoạn nạn lúc giao tranh với nhà Tây Sơn. Công trình do vua chỉ đạo xây dựng theo kiến trúc lăng tẩm để đền ơn đáp nghĩa nên dân gian gọi là lăng. Ngược dòng lịch sử, từ năm 1775 trở đi, Khánh Hòa là vùng đất thường xuyên xảy ra việc tranh chấp giữa quân Tây Sơn và quân Chúa Nguyễn. Sách Đại Nam thực lục của Quốc sử quán triều Nguyễn ghi chép: Nguyễn Ánh đã 5 lần đem quân ra đánh chiếm phủ Bình Khang (Khánh Hòa ngày nay) và trong tất cả những lần đó, Nguyễn Ánh đều bị quân Tây Sơn đánh cho tan tác, bị đuổi chạy khắp nơi, điển hình như trận thủy chiến ở khu vực Hòn Thị (1784). Khi giao tranh với nhà Tây Sơn, Nguyễn Ánh nhiều lần thất bại phải kéo tàn quân bỏ chạy, trong một lần khi chạy đến làng Mỹ Hiệp thì lương thực cạn kiệt, trong mình lại đang bị bệnh, quân lính vừa đói vừa kiệt sức…tình thế vô cùng nguy khốn. Trong đêm tối, Nguyễn Ánh cùng đoàn tùy tùng đến gõ cửa nhà một người dân để xin bát cơm đỡ dạ. Chủ nhà (tương truyền là bà Trương Thị Tiềm) động lòng trắc ẩn nên mời Nguyễn Ánh và đám tùy tùng vào nhà nghỉ ngơi. Sau đó, bà cho người giúp việc giết heo làm thịt, nấu cơm đãi tất cả mọi người, đồng thời cung cấp thêm lương thực để đi đường. Riêng đối với Nguyễn Ánh, ngoài việc lo thuốc men chu đáo, bà còn cho người vắt sữa bò cho ông uống để mau phục hồi sức khỏe. Nhờ sự chăm sóc tận tình và đối đãi tử tế ấy mà Nguyễn Ánh sớm lành bệnh, tướng sĩ dần dần phục hồi sức khỏe để tiếp tục kéo quân về phương Nam. Sau khi Nguyễn Ánh thống nhất giang sơn, lên ngôi Hoàng đế và lấy hiệu là Gia Long (1802-1819). Nhớ lại ơn người cứu giúp năm xưa, vua sai người về làng Mỹ Hiệp đưa bà cụ ra kinh đô phụng dưỡng. Tuy nhiên, khi sứ giả tới nơi thì bà cụ đã mất. Để tỏ lòng tri ân, vua Gia Long truy phong cho bà danh hiệu “Nhũ Mẫu” (người Vú nuôi). Đồng thời, vua ra lệnh cho bộ Công cử một số thợ giỏi đang xây dựng cung điện nhà vua ở kinh đô lúc bấy giờ vào Mỹ Hiệp phối hợp với thợ địa phương xây dựng lăng mộ cho người Vú nuôi theo quy cách lăng tẩm của hoàng tộc. Khu lăng mộ được xây dựng trong hai năm, từ năm 1802 đến năm 1804 hoàn thành. Buổi lễ khánh thành được tổ chức cúng rất lớn và do quan đầu tỉnh trực tiếp làm chủ lễ. Bên cạnh đó, vì bà không có con cháu để nhang khói và tế tự, vua còn cấp ruộng đất cho bà con trong vùng cày cấy không phải nộp thuế để lo cúng giỗ của Bà (truyền khẩu là ngày 16 tháng Chạp). Hàng năm, cứ đến ngày giỗ của Bà, chức sắc và dân làng tập trung làm lễ giỗ rất trọng thể, đủ lễ nhạc như các lăng tẩm ở triều đình. Từ đó, việc nhang khói, cúng tế ở lăng Bà Vú vẫn do quan Tuần Vũ Khánh Hòa đến làm chủ lễ theo lệ Xuân Thu nhị kỳ. Ngày nay, Ban quản lý di tích cùng chính quyền và nhân dân địa phương vẫn tổ chức lễ giỗ Bà Vú vào ngày 16 tháng Chạp hàng năm. Lăng Bà Vú là một Di sản văn hóa được Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng là Di tích lịch sử - văn hóa Quốc gia ngày 12/02/1999. Di tích không chỉ có ý nghĩa về mặt đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” mà còn có giá trị rất lớn về mặt kiến trúc nghệ thuật phản ánh sự tài hoa của các nghệ nhân dưới triều nhà Nguyễn cách đây hơn hai thế kỷ. Nguồn: Trung tâm bảo tồn di tích tỉnh Khánh Hoà
Khánh Hòa 3296 lượt xem
Miếu Trịnh Phong tọa lạc tại xóm 1, thôn Phú Ân Nam 4, xã Diên An, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa. Miếu được khởi dựng năm 1886. Trịnh Phong sinh ra ở làng Phú Vinh, tổng Xương Hà, huyện Vĩnh Xương (nay là thôn Phú Vinh, xã Vĩnh Thạnh, thành phố Nha Trang), thuở nhỏ ông là người thông minh, học giỏi. Năm 1864 ông thi đậu Cử nhân võ và được triều đình nhà Nguyễn phong đến chức Đề đốc, nhậm chức tại Quảng Nam. Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng vào cửa biển Đà Nẵng và sau đó phát động chiến tranh xâm lược trên khắp nước ta. Sau đó không bao lâu chúng đã chiếm được Lục tỉnh Nam Kỳ và có tham vọng chiếm luôn cả vùng đất thuộc quyền quản lý của nhà Nguyễn. Trước dã tâm xâm lược của thực dân Pháp ngày càng bộc lộ rõ, trong khi đó, triều đình nhà Nguyễn chia làm hai phe: phe chủ chiến và phe chủ hòa; ông đã từ quan, trở về quê hương nung nấu ý chí, chờ đợi thời cơ đánh đuổi quân xâm lược. Theo Hiệp ước năm 1884 thì Khánh Hòa là tỉnh bên trong vùng quản lý của triều đình nhà Nguyễn (thuộc Trung Kỳ). Năm 1885 vua Hàm Nghi lên ngôi, là một vị vua trẻ có lòng yêu nước nồng nàn, được Tôn Thất Thuyết – một viên tướng cầm đầu phái chủ chiến ở triều đình ủng hộ. Năm 1885, cuộc phản công ở Kinh thành Huế do Tôn Thất Thuyết chỉ huy đã nổ súng tấn công trước khi quân Pháp kịp tấn công. Cuộc phản công không thành, Tôn Thất Thuyết đã đưa vua Hàm Nghi ra Quảng Trị, chuẩn bị kháng chiến lâu dài và ra Chiếu Cần Vương kêu gọi nhân dân cả nước đứng lên giúp vua cứu nước. Chiếu Cần Vương đã như một hiệu lệnh thống nhất cho phong trào yêu nước ở các địa phương. Trên phạm vi cả nước, nhân dân đã nổi dậy kháng chiến ở nhiều nơi, phong trào phát triển ngày một mạnh mẽ. Tại Khánh Hòa, Trịnh Phong đã cùng các thân hào nhân sĩ uy tín đứng lên thành lập. “Bình Tây cứu quốc đoàn” với khẩu hiệu: “Tiểu tặc trừ gian bình quốc loạn; Hưng binh ứng nghĩa phục giang san”, kêu gọi nhân dân gia nhập nghĩa quân, đóng góp lương thực, luyện tập binh sĩ, đúc rèn vũ khí sẵn sàng chiến đấu chống thực dân Pháp xâm lược. Do tài trí và đức độ hơn người Trịnh Phong được nghĩa quân và nhân dân tôn làm Bình Tây đại tướng, thống lĩnh nghĩa quân. Phong trào “Cần Vương” ở Khánh Hòa do Trịnh Phong đứng đầu đã được các tầng lớp nhân dân tích cực ủng hộ nhất là về lương thực, thực phẩm, vận động thanh niên tham gia nghĩa quân. Phong trào Cần Vương ở Khánh Hòa tuy bị dập tắt, nhưng tinh thần chiến đấu anh dũng kiên cường bất khuất đã để lại trong lòng nhân dân Khánh Hòa một tình cảm đặc biệt sâu sắc, nhân dân đã suy tôn ba thủ lĩnh của phong trào Cần Vương tại Khánh Hòa là Trịnh Phong, Trần Đường, Nguyễn Khanh với danh hiệu “Khánh Hòa tam kiệt”. Miếu thờ Trịnh Phong được vua Thành Thái thứ 13 (1901) ban tặng sắc phong cho “Đại Đức Khôi Tinh”, sau đó vào đời vua Khải Định thứ 9 (1924) tiếp tục phong tặng sắc phong với mỹ tự: Dực Bảo Trung Hưng Linh Phò Thuần Chính. Ghi nhận những giá trị lịch sử - văn hóa của di tích, năm 1991 Bộ Văn hóa–Thông tin đã ra quyết định xếp hạng di tích Miếu Trịnh Phong là di tích cấp Quốc gia, ngày 30/8/1991. Nguồn: Sở văn hoá và thể thao tỉnh khánh Hoà
Khánh Hòa 2341 lượt xem
Di tích Địa điểm lưu niệm sự kiện Tàu C235 (đường Hồ Chí Minh trên biển) thuộc xã Ninh Vân, thị xã Ninh Hòa. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vĩ đại của nhân dân ta, để chi viện vũ khí, trang bị cho cách mạng miền Nam, cùng với đường Hồ Chí Minh trên bộ; tháng 7/1959, theo Chỉ thị của Bộ Chính trị, Tổng Quân ủy Trung ương quyết định thành lập Đoàn 759 tổ chức đường vận chuyển trên biển mang tên “Đường Hồ Chí Minh trên biển”. Đây là một trong những nhiệm vụ vô cùng quan trọng, có ý nghĩa chiến lược trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam.Đặc biệt là chuẩn bị cho cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, Bộ Tư lệnh Hải quân chỉ đạo Đoàn 125 cho tàu C235 sẵn sàng làm nhiệm vụ. Tàu C235 gồm 21 cán bộ, chiến sĩ do Trung úy Nguyễn Phan Vinh làm Thuyền trưởng và Trung úy Nguyễn Tương làm Chính trị viên, chỉ huy. Tàu C235 có 2 chuyến đi: Chuyến thứ nhất xuất phát lúc 18h 30 phút ngày 6/02/1968, chở 16 tấn vũ khí rời cảng ở căn cứ A2 vào bến Hòn Hèo (thôn Đầm Vân - nay là thôn Tây, xã Ninh Vân, thị xã Ninh Hòa). Ngày 10 tháng 2, khi còn cách bờ 38 hải lý, tàu bị tàu chiến và máy bay địch bám theo. 12 giờ ngày 11/2, Sở chỉ huy lệnh cho tàu quay trở lại cảng A3. Ở A3, tàu được ngụy trang và sẵn sàng làm nhiệm vụ tiếp. Chuyến thứ 2, Tàu C235 rời bến lúc 11 giờ 30 phút ngày 27/2 từ vị trí A3.Đến 18 giờ ngày 29/2 khi đến ngang vùng biển Nha Trang, Tàu C235 bị máy bay trinh sát địch phát hiện. Lúc 23 giờ 30 phút, tất cả đèn của tàu địch đều tắt, chúng phục kích, theo dõi tàu ta bằng ra đa. Cuộc săn đuổi Tàu C235 mà sau này địch gọi là chiếc tàu “ma” rất quyết liệt. Chúng nã đạn dữ dội rồi gọi máy bay đến thả pháo sáng và bắn rốc-két. Các thủy thủ liên tiếp dùng DKZ 14 ly 5 bắn về phía tàu địch. Cuộc chiến đấu mỗi lúc một ác liệt. Cuối cùng, khi tàu vào gần bờ, quân ta nhảy khỏi tàu bơi vào bờ và cho nổ tàu để dịch mất dấu. 14 cán bộ, chiến sỹ tàu C235 đã anh dũng hy sinh. Tàu C235 còn lại 7 đồng chí, tất cả đều thương tích đầy mình. Anh em cố gắng dìu nhau di chuyển khắp vùng núi đá Hòn Hèo để tránh sự lùng sục của địch và tìm du kích bến. Mười một ngày phơi dưới nắng, không lương thực, không nước uống, những chiến sĩ Tàu C235 kiệt sức. Đến ngày thứ 12 các cán bộ chiến sĩ mới liên lạc được với du kích ở bến và lúc này chỉ còn lại 5 đồng chí. Sau thời gian điều trị và phục hồi sức khỏe, họ đã vượt núi, băng qua đại ngàn Trường Sơn và trở lại miền Bắc tiếp tục nhận nhiệm vụ mới. Với giá trị tiêu biểu về lịch sử, quân sự, sự chiến đấu và anh dũng hy sinh của các cán bộ, chiến sĩ tàu C235 thể hiện tính nhân văn cao đẹp và sâu sắc, thể hiện truyền thống đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc. Ngày 26/4/2014, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã xếp hạng Địa điểm lưu niệm sự kiện Tàu C235 (đường Hồ Chí Minh trên biển) là di tích lịch sử cấp Quốc gia. Nguồn: Sở văn hoá thể thao tỉnh Khánh Hoà
Khánh Hòa 2340 lượt xem
Khu di tích Tháp Bà Ponagar toạ lạc trên đỉnh một ngọn đồi đá hoa cương sát cửa sông Cái tại phường Vĩnh Phước, TP Nha Trang (Khánh Hoà). Đây là một trong những quần thể kiến trúc tiêu biểu của nền văn hoá Chăm Pa và gần như còn nguyên vẹn qua thời gian... Tổng thể kiến trúc Tháp Bà Ponagar bao gồm 3 cấp, trong đó, cấp thấp nhất nằm ngang bằng mặt đất là ngôi tháp cổng. Cấp thứ 2 có mặt bằng rộng là 2 hàng 10 cột lớn, cùng hai bên là 2 hàng 12 cột nhỏ xung quanh. Chính giữa đặt một bàn thờ, nơi từng diễn ra các hoạt động múa hát của người Chăm cổ vào mỗi dịp hội hè, lễ, Tết. Đây cũng là nơi được gọi là Mandapa với ý nghĩa là nhà khách, dành cho khách hành hương nghỉ ngơi, chuẩn bị lễ vật và sửa soạn trang phục trước khi làm lễ chính thức ở trên tháp. Cấp trên cùng gồm 4 tháp: Tháp chính (còn gọi là dinh Bà, thờ nữ thần Ponagar, tiếng Chăm có nghĩa là Mẹ xứ sở), tháp giữa (dinh Ông), tháp đông (dinh Cố), tháp Tây Bắc (dinh Cô, dinh Cậu). Ở đây, nổi bật nhất là Tháp Bà Ponagar với bốn tầng, tượng trưng cho sắc đẹp, nghệ thuật và sự sáng tạo, bên trong có tượng nữ thần cao 2,6 mét, tạc bằng đá hoa cương màu đen, ngồi trên bệ đá uy nghiêm hình đài sen, lưng tựa phiến đá lớn hình lá bồ đề. Đây là một kiệt tác về điêu khắc Chăm Pa, là sự kết hợp hài hoà giữa kỹ thuật tượng tròn và chạm nổi. Các tháp khác thờ thần Shiva, thần Sanhaka và thần Ganeca. Tháp Bà Ponagar là di tích lịch sử - văn hoá, là công trình tiêu biểu cho nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc dân tộc Chăm trên đất Việt. (Tên gọi Tháp Ponagar được dùng để chỉ chung cho cả công trình kiến trúc này nhưng thực chất nó là tên của ngọn tháp lớn nhất, cao gần 23m). Các tháp ở đây đều được xây bằng gạch, trang trí nghệ thuật bằng chất liệu đá - gốm, nội dung thể hiện gắn liền với các vị thần được thờ. Đặc biệt nhất là những viên gạch xây chồng khít lên nhau mà không cần bất kỳ một loại chất kết dính nào, đây là bí ẩn mà cho đến nay các nhà nghiên cứu vẫn chưa khám phá ra được người Chăm đã làm thế nào để được như vậy. Hàng năm, cứ vào ngày lễ vía Bà (từ 20 đến 23 tháng 3 âm lịch), Khu di tích Tháp Bà Ponagar lại đón hàng vạn du khách tới hành hương. Lễ hội Tháp Bà Ponagar được coi là một trong những lễ hội lớn nhất khu vực Nam Trung bộ và Tây Nguyên. Các nghi lễ chính của lễ hội gồm lễ mục dục (tắm tượng), lễ tế gia quan (lễ thay y) diễn ra vào giờ Ngọ ngày 20-3 (âm lịch), tiếp đến là lễ tế sanh, dâng cúng đồ tế, múa bóng mời Thiên y Thánh mẫu và các bậc thần linh về dự lễ. Theo nghi thức, lễ cúng Thánh mẫu thường mở đầu bằng lễ khai kinh cầu quốc thái dân an. Lễ tế sanh bắt đầu vào giờ Tý đêm 22-3 (âm lịch) do những người cao tuổi thực hiện, sau đó lễ cầu cúng chính thức diễn ra vào lúc 4 giờ sáng ngày hôm sau. Việc hành lễ do chánh lễ, bồi tế, đông hiến, tây hiến và đội học trò thực hiện, lần lượt dâng rượu, dâng trà, đọc văn tế rất cung kính, tôn nghiêm. Sau cùng, từng đoàn người đại diện cho các pa-lei, thôn, xóm đến hành lễ… Một trong những di sản văn hoá phi vật thể độc đáo nhất trong lễ hội vía Bà ở Tháp Bà Ponagar là múa bóng ca ngợi công đức, bày tỏ lòng biết ơn “Mẹ xứ sở”. Các nhà nghiên cứu lịch sử văn hoá nhận định, khoảng từ giữa thế kỷ XVII đến nay, nghi lễ thờ cúng Mẹ xứ sở được người Chăm và người Kinh tổ chức chu đáo tại Tháp Bà Ponagar. Khoảng năm 1653, những lưu dân Việt từ ngoài Bắc, theo chúa Nguyễn vào phương Nam mở cõi, đã dừng chân bên cửa sông Cái (Nha Trang), tạo lập nên làng mạc, xóm thôn… Và chính họ đã mang theo phong tục thờ cúng Mẫu của người Kinh ở vùng châu thổ đồng bằng Bắc Bộ vào đây. Theo thời gian và xu thế phát triển của xã hội, nghi thức lễ hội hiện nay đã có nhiều thay đổi; nhưng dù thế nào, trong ngày lễ trọng, người Kinh vẫn náo nức tổ chức hàng trăm đoàn múa bóng, dâng hoa quả, múa quạt và người Chăm thì tưng bừng vỗ trống ghinăng, paranưng, thổi kèn saranai, say sưa kéo đàn kanhi và hát dân ca… Cả những bữa ăn chung của hàng trăm người, hoan hỉ nói cười, chan hoà niềm vui thái bình, no ấm… Lễ hội Tháp bà Ponagar đã được Bộ VH,TT và DL công nhận là Di sản văn hoá phi vật thể của quốc gia. Để bảo tồn, phát huy giá trị cũng như giới thiệu rộng rãi những nét văn hoá độc đáo của người Chăm đến với du khách, Ban Quản lý Khu di tích Tháp Bà Ponagar đã tổ chức một số vũ công, nhạc công, nghệ nhân của dân tộc Chăm đến đây hàng ngày biểu diễn dệt thổ cẩm, các vũ điệu Chăm... Hiện nay, mỗi ngày Tháp Bà Ponagar thu hút hàng ngàn du khách tới tham quan. Nguồn: Cục du lịch quốc gia Việt Nam
Khánh Hòa 2785 lượt xem
Chùa Linh Sơn nằm trên sườn ngọn đồi ở số 120 đường Nguyễn Văn Trỗi, thuộc địa phận phường 2, TP Đà Lạt là một trong những ngôi chùa lớn và lâu đời ở thành phố Đà Lạt. Đây cũng là nơi đặt trụ sở Tỉnh hội Phật giáo Lâm Đồng. Chùa được xây năm 1938 theo đề nghị của bà Từ Cung (thân mẫu vua Bảo Đại) với Giáo hộ Tăng già Trung Phần từ năm 1936, sau lần bà từ Đà Lạt trở về kinh đô Huế. Chùa Linh Sơn hoàn thành và đưa vào sử dụng từ năm 1940 do Hòa thượng Thích Trí Thủ trụ trì. Chùa mang tên một ngọn núi ở Ấn Độ, được nhiều lần trùng tu tôn tạo. Chùa Linh Sơn nằm trên ngọn đồi gần 4 ha, là quần thể gồm nhiều công trình kiến trúc có quy mô lớn nhỏ khác nhau. Chùa Linh Sơn được xây dựng trên một khu đất rộng khoảng 4 ha theo những đặc trưng kiến trúc các quốc gia Á Đông hài hòa và giản dị, lối thiết kế nơi đây chịu ảnh hưởng từ kiến trúc của các ngôi chùa cổ ở Cố đô Huế. Trên đỉnh mái của chùa có đắp thêm phần đuôi rồng uốn lượn rất bay bổng. Tòa chính điện bố trí theo hình chữ đinh. Bậc cấp dẫn vào chánh điện có hai con rồng chầu ở hai bên. Đi qua cổng tam quan theo những bậc cấp vào chùa, xung quanh có những hàng cây sao, cây thông và bạch đàn cao vút. Gần đến sân chùa có hai bên là trụ gạch khảm những lời Phật dạy. Ở phía trước sân chùa là tượng Quán Thế Âm Bồ Tát đứng trên tòa sen. Phía bên trái sân chùa có một hồ nước với những hòn non bộ và cây cảnh rất tinh tế, phía bên phải là tòa bảo tháp gồm ba tầng hình bát giác và có mái ngói cao 4 mét. Ở giữa là tòa chính điện gồm hai căn nhà với hai bên bậc cấp là cặp rồng chầu tượng trưng Long thần bảo hộ độ trì Phật pháp. Bên trong chính điện chùa Linh Sơn bài trí nghiêm trang, tiền đường có bốn trụ gỗ lớn chạm khắc đôi câu đối bằng chữ Nho sơn son thếp vàng mang nặng ý nghĩa tâm linh: Chính giữa là ban thờ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni tọa đài sen, ở trên có pho tượng đồng nặng 1,25 tấn và cao 1,7 mét, được đúc vào năm 1952, được khánh thành dưới sự chứng minh của Hòa thượng Thích Tịnh Khiết, Hội chủ Tổng hội Phật giáo Việt Nam. Phía bên trái của chính điện là nơi Tổ đường thờ Đạt Ma Sư Tổ, và đặt bài vị những sư thầy đã viên tịch hay những người đã khuất được thân nhân đưa lên chùa để linh hồn được thanh tịnh. Ở ngoài là chiếc trống lớn đường kính 0,75 mét. Bên phải chính điện có tượng Hộ pháp Di Đà và Ðại Hồng Chung nặng 450 kg treo trên khung bằng gỗ quý. Trong chùa Linh Sơn còn có phòng phát hành kinh bổn và nhà vãng sinh, là nơi quàn thi hài Phật tử mà gia quyến họ muốn cử hành tang lễ tại chùa. Ngoài ra, chùa Linh Sơn còn có một giảng đường khá lớn được xây dựng từ năm 1972 và hiện tại là trường cơ bản Phật học của tỉnh Lâm Ðồng. Nguồn: Giáo hội Phật Giáo tỉnh Lâm Đồng
Lâm Đồng 2737 lượt xem
Nhà lao thiếu nhi Đà Lạt, được chế độ cũ dựng lên với tên gọi mỹ miều: “Trung tâm giáo huấn thiếu nhi Đà Lạt”. ở số 9A, Hồ Xuân Hương, thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng. Di tích lịch sử cách mạng này được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là Di tích quốc gia vào ngày 22/6/2009. “Trung tâm giáo huấn thiếu nhi Đà Lạt” được thành lập vào đầu năm 1971. Chế độ cũ dùng hình thức mị dân để đánh lừa công luận, che đậy âm mưu thâm độc nhằm cách ly, đàn áp, tiến tới thủ tiêu tinh thần cách mạng của thế hệ trẻ miền Nam. “Trung tâm” này thực chất chính là một nhà lao thiếu nhi, thể hiện đầy đủ bản chất của một nhà tù đế quốc. Nhà lao đặc biệt này đã từng giam giữ hơn 600 thiếu nhi từ 12 - 17 tuổi có tinh thần cách mạng, được tập trung từ tất cả các nhà tù ở miền Nam. Nhà lao được thiết kế thành một khối chữ nhật khép kín với tường đá bao quanh. Hai dãy nhà dọc hai bên chủ yếu là các phòng giam, xà lim; các dãy nhà ngang tạo hai khoảnh sân ở giữa để phục vụ các hoạt động của tù nhân khi ra ngoài phòng giam. Những khi được cho ra sân tắm nắng, các tù nhân chỉ được phép di chuyển giới hạn trong các ô nhỏ kẻ vạch trên sân tiếp giáp cửa ra vào của mỗi phòng giam. Phía trước là khối nhà chữ A bình thường, đó là các phòng làm việc của bộ máy quản lý nhà lao. Mọi hoạt động của tù nhân thiếu nhi đều khép kín phía sau, trong những bức tường đá kiên cố, với rất nhiều cuộn dây kẽm gai ken dày trên mái, chỉ giao tiếp với bên ngoài thông qua 2 lớp cửa kiên cố nhưng hầu như lúc nào cũng đóng kín. Qua 2 lớp cửa của khối nhà chữ A là khu vực sân cờ, cột cờ khi đó treo thường trực cờ của chính quyền Sài Gòn. Mỗi sáng đầu tuần, tất cả tù nhân thiếu nhi phải tập trung tại đây để chào cờ và hát quốc ca. Những ai chống đối, không chào cờ, không hát quốc ca sẽ bị tra tấn cho đến khi khuất phục. Nhà lao có 8 phòng giam, chia thành 2 khu: khu giam tù nhân nam có 6 phòng và khu giam tù nhân nữ có 2 phòng. Diện tích mỗi phòng khoảng 30 m2, thường giam từ 60 - 70 tù nhân, có phòng lúc cao điểm giam gần 100 tù nhân. Cuối hành lang hai khu phòng giam là các dãy xà lim biệt giam những chiến sỹ chống đối. Đặc biệt, có một hầm đá xây khuất sau hành lang xà lim, không có mái che mà chỉ có lưới kẽm gai chăng dày bên trên để địch thực hiện hình phạt phơi sương, phơi nắng tù nhân. Ngày 23/4/1971, chính quyền Sài Gòn đưa 126 tù thiếu nhi từ nhà tù Kho đạn (Đà Nẵng) vào giam tại Trung tâm giáo huấn thiếu nhi Đà Lạt, đánh dấu hoạt động chính thức của nhà lao này. Sau đó, tù thiếu nhi từ Hội An, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Bến Tre… tiếp tục được chuyển về; đặc biệt cuối năm 1971, chính quyền Sài Gòn tập trung các chiến sĩ cách mạng nhỏ tuổi giam cầm ở nhà lao Côn Đảo và nhà lao Chí Hòa về giam tại đây. Từ đây, các chiến sĩ cách mạng nhỏ tuổi đã tập hợp lực lượng nòng cốt, thành lập bộ phận chỉ huy thống nhất, đề ra các yêu sách cụ thể để tiến hành các biện pháp đấu tranh liên tục, bền bỉ, xuyên suốt quá trình tồn tại của nhà lao. Trong quá trình đấu tranh, dù còn nhỏ tuổi, các tù nhân thiếu nhi vẫn bị hành hạ, tra tấn dã man bằng nhiều hình thức: còng tréo, đánh bằng roi tết từ dây điện, dây kẽm gai, gậy hướng đạo, hay dùng bóng điện cao áp sáng nóng ấn vào mặt... Tại xà lim, giữa đêm Đà Lạt lạnh giá, nhiệt độ xuống dưới 15 độ C, kẻ địch còn dội nước lạnh để hành hạ các tù nhân biệt giam. Các chiến sĩ nhỏ tuổi phải ngủ trên nền xi măng, san sẻ cho nhau từng hạt cơm, ngụm nước, chỗ nằm… Các chiến sĩ nhỏ tuổi cũng đã bảy lần tổ chức vượt ngục, thể hiện khát vọng tự do, mong muốn được trở về tiếp tục chiến đấu. Một sự kiện gây chấn động tại nhà lao thiếu nhi Đà Lạt vào tối ngày 23/01/1973 là các tù nhân thiếu nhi tổ chức tiêu diệt tên cai ngục Nguyễn Cương, kẻ cam tâm làm tay sai cho giặc. Chính phong trào đấu tranh gan dạ, bất khuất của các chiến sĩ cách mạng nhỏ tuổi đã làm thất bại âm mưu thâm độc của kẻ địch khi thành lập nhà lao này, buộc nó phải giải tán vào giữa năm 1973. Sau ngày thống nhất Tổ quốc năm 1975, các cựu tù nhà lao thiếu nhi Đà Lạt tản mạn về các địa phương, tiếp tục phát huy truyền thống đấu tranh bất khuất trong lao tù, tích cực góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Với thành tích đặc biệt xuất sắc trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, năm 2009, tập thể cựu tù nhà lao thiếu nhi Đà Lạt đã được Chủ tịch nước trao tặng danh hiệu Tập thể Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân. Di tích quốc gia Nhà lao thiếu nhi Đà Lạt (1971 - 1973) nay trở thành một địa điểm tham quan đầy ý nghĩa của tỉnh Lâm Đồng. Đây chính là một “địa chỉ đỏ” trong giáo dục lý tưởng cách mạng, truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc cho thế hệ trẻ. Nguồn: Bảo tàng Lâm Đồng
Lâm Đồng 3830 lượt xem
Hổ Quyền là đấu trường cổ, thuộc thôn Trường Đá, phường Thủy Biều, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Nơi đây từng diễn ra những trận chiến sinh tử giữa voi và hổ dành cho vua cùng dân chúng thưởng lãm. Các trận đấu này vừa mang tính giải trí vừa là cách để triều đình rèn luyện tượng binh. Trước khi xây dựng đấu trường Hổ Quyền, các trận chiến sinh tử giữa voi và hổ dưới thời nhà Nguyễn được tổ chức ở đảo Dã Viên trên sông Hương. Trong giai đoạn này, có rất nhiều sự cố nguy hiểm liên quan đến trận đấu. Vào năm 1750, chúa Nguyễn Phúc Khoát đã chứng kiến một cuộc đấu đẫm máu với 40 con voi tàn sát 18 con hổ. Đặc biệt, một con hổ đã tát ngã người quản tượng, sau đó ông lại bị chính con voi mình huấn luyện giẫm chết. Đến thời vua Minh Mạng, khi nhà vua đang ngồi xem giao đấu trên sông Hương thì một con hổ đã bơi về phía thuyền rồng, may mắn là có đội quân hộ giá kịp thời. Chính vì vậy, vào năm Minh Mạng thứ 11 tức năm 1830, vua đã cho xây dựng một đấu trường kiên cố tại vùng đất ở thôn Trường Đá, làng Nguyệt Biều, thuộc phía Tây kinh thành. Hổ Quyền được xây dựng theo hình vành khăn với hai vòng tường thành. Vòng trong có chiều cao 5.9m, vòng ngoài cao 4.75m, nghiêng góc 15 độ tạo thế vững chãi. Chu vi phía tường ngoài là 140m, phần đường kính lòng chảo là 44m. Hổ Quyền được tôn tạo bởi gạch vồ, vôi vữa và đá thanh. Khán đài được chia làm 2 nơi, cho vua và quan dân, binh lính. Nơi vua ngồi nằm ở phía Bắc, được xây cao hơn các vị trí khác. Bên trái là 24 bậc cấp dành cho hoàng tộc và đại thần. Bên phải dành cho quan và binh lính phẩm cấp thấp hơn. Đối diện khán đài là hệ thống 5 chuồng cọp có các cửa gỗ đóng mở bằng cách kéo dây từ phía trên xuống. Trên tường thành còn một cửa cao 8 thước, rộng 7 tấc là nơi đưa voi vào trường đấu. Nghi thức tổ chức trận đấu giữa voi và hổ tại Hổ Quyền rất trang trọng. Xung quanh đấu trường có bày nghi trượng, cờ lọng. Binh lính cầm khí giới cung kính đứng hai bên đường đã sẵn trải chiếu hoa để chào đón nhà vua. Đến chính ngọ, vua và đoàn tùy tùng sẽ ngự thuyền rồng đến. Khi thuyền gần sát bờ sông, vua rời thuyền, sang kiệu che bốn lọng vàng cùng bốn tàn vàng. Đi phía trước sẽ là lính ngự lâm, phía sau theo thứ tự là thị vệ cầm cờ tam tài, cờ ngũ hành, cờ nhị thập bát tú, gươm tuốt trần và đến cuối cùng là đội nhạc cung đình. Trận tử chiến tại đấu trường Hổ Quyền diễn ra hằng năm và kết thúc khi voi quật chết hổ. Hổ Quyền đã được công nhận là di tích cấp Quốc gia ngày 26/9/1998. Nguồn: Cổng thông tin du lịch Thừa Thiên Huế
Thừa Thiên Huế 2665 lượt xem
Chùa Thiên Mụ là ngôi chùa cổ nhất của Huế, tọa lạc trên đồi Hà Khê, tả ngạn sông Hương. Chùa Thiên Mụ là một danh lam thắng cảnh vào bậc nhất của cố đô Huế. Chùa được xây trên đỉnh một ngọn đồi cao ngay bên bờ sông Hương đối diện vùng đất Long Thọ. Trước cửa chùa có tháp kiến trúc theo hình bát giác, một kiểu bố cục theo hình bát quái. Tháp này gồm có 6 tầng đều nhau nhưng càng lên cao thì diện tích lại được thu nhỏ lại. Mỗi tầng có một mái nhỏ chìa ra với những đường nét trang trí khá tinh vi, đều đặn và sinh động lạ thường. Mỗi mặt có một cửa cuốn khá lớn hình chữ nhật nhưng chung quanh có nhiều mô hình long nguyệt. Trên cùng là một mái nhỏ 8 cạnh. Chính giữa có trang trí một hình nậm rượu có mũi nhọn. Chung quanh có những mô hình vân vũ. Truyền thuyết kể rằng, khi chúa Nguyễn Hoàng vào làm Trấn thủ xứ Thuận Hóa kiêm trấn thủ Quảng Nam, ông đã đích thân đi xem xét địa thế ở đây nhằm chuẩn bị cho mưu đồ mở mang cơ nghiệp, xây dựng giang sơn cho dòng họ Nguyễn sau này. Trong một lần rong ruổi vó ngựa dọc bờ sông Hương ngược lên đầu nguồn, ông bắt gặp một ngọn đồi nhỏ nhô lên bên dòng nước trong xanh uốn khúc, thế đất như hình một con rồng đang quay đầu nhìn lại, ngọn đồi này có tên là đồi Hà Khê. Người dân địa phương cho biết, nơi đây ban đêm thường có một bà lão mặc áo đỏ quần lục xuất hiện trên đồi, nói với mọi người: "Rồi đây sẽ có một vị chân chúa đến lập chùa để tụ linh khí, làm bền long mạch, cho nước Nam hùng mạnh". Vì thế, nơi đây còn được gọi là Thiên Mụ Sơn. Tư tưởng lớn của chúa Nguyễn Hoàng dường như cùng bắt nhịp được với ý nguyện của dân chúng. Nguyễn Hoàng cả mừng, vào năm 1601 đã cho dựng một ngôi chùa trên đồi, ngoảnh mặt ra sông Hương, đặt tên là "Thiên Mụ". Với quy mô được mở rộng và cảnh đẹp tự nhiên, chùa Thiên Mụ đã trở thành ngôi chùa đẹp nhất xứ Đàng Trong. Trải qua bao sóng gió lịch sử, chùa Thiên Mụ từng được dùng làm đàn Tế Đất dưới triều Tây Sơn (khoảng năm 1788), rồi được trùng tu tái thiết nhiều lần dưới triều vua nhà Nguyễn. Năm 1884, nhân dịp mừng lễ “bát thọ” (mừng sinh nhật thứ 80) của bà Thuận Thiên Cao Hoàng hậu (vợ vua Gia Long, bà nội của vua Thiệu Trị), vua Thiệu Trị kiến trúc lại ngôi chùa một cách quy mô hơn: Xây thêm tháp Từ Nhân (sau đổi là tháp Phước Duyên), đình Hương Nguyện và dựng hai tấm bia ghi chép thơ văn của nhà vua. Khuôn viên chùa được chia làm hai khu vực: Khu vực trước cửa Nghi Môn gồm có các công trình kiến trúc: Bến thuyền có 24 bậc tam cấp lên xuống, cổng tam quan là bốn trụ biểu xây sát đường cái, từ cổng tam quan bước lên 15 bậc tam cấp là đình Hương Nguyện (nay chỉ còn lại nền đất và bộ móng xây bằng đá thanh) sau đình Hương Nguyện là tháp Phước Duyên xây bằng gạch vồ bảy tầng cao vời vợi, hai bên đình Hương Nguyện có hai lầu bia hình tứ giác (dựng thời Thiệu Trị), lui về phía trong có hai lầu hình lục giác một lầu để bia và một lầu để chuông (dựng thời Nguyễn Phúc Chu). Đây là những công trình có tính chất lưu niệm (bia, tháp). Khu vực phía trong cửa Nghi Môn gồm các điện Đại Hùng, điện Địa Tạng, điện Quan âm, nhà Trai, nhà Khách, vườn hoa, phía sau cùng là vườn thông tĩnh mịch. Chùa Thiên Mụ như một chứng nhân lịch sử diễn ra trên đôi bờ sông Hương. Ngôi chùa vẫn luôn tồn tại trong tâm thức người dân Huế nói riêng và đời sống văn hóa người Việt Nam nói chung. Nguồn: Cục du lịch quốc gia Việt Nam
Thừa Thiên Huế 2771 lượt xem
Lăng Gia Long nằm trong dãy núi Thiên Thọ, thuộc xã Hương Thọ, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế, cách trung tâm Tp Huế 16km. Lăng Gia Long là một quần thể nhiều lăng tẩm trong hoàng quyến. Kiến trúc lăng có vẻ đơn sơ nhưng hoành tráng. Toàn bộ khu lăng này là một quần sơn với 42 đồi, núi lớn, nhỏ, trong đó có Ðại Thiên Thọ là ngọn núi lớn nhất được chọn làm tiền án của lăng và là tên gọi của cả quần sơn này. Lăng bắt đầu được xây dựng từ năm 1814 và đến năm 1820 mới hoàn tất. Từ bờ sông Hương đi vào lăng có con đường rộng, hai bên trồng thông và sầu đông cao vút, xanh um, tạo ra một không khí trong mát, tĩnh mịch. Hai cột trụ biểu uy nghi nằm ở ngoài cùng, báo hiệu khu vực lăng. Lăng tẩm nhà vua nằm trên một quả đồi bằng phẳng, rộng lớn. Trước có ngọn Ðại Thiên Thọ án ngữ, sau có 7 ngọn núi làm hậu án. Bên trái có 14 ngọn núi làm "tả thanh long" và bên phải có 14 ngọn làm “hữu bạch hổ”. Tổng thể lăng được chia làm 3 khu vực: Chính giữa là lăng mộ vua và Thừa Thiên Cao Hoàng Hậu. Qua khỏi sân chầu có các hàng tượng đá uy nghiêm và bảy cấp sân tế là Bửu Thánh ở đỉnh đồi. Trong Bửu Thánh có 2 ngôi mộ đá được sáng tác theo quan niệm “Càn Khôn hiệp đức” biểu tượng cho hạnh phúc và thuỷ chung. Bên phải là khu tẩm điện mà điện Minh Thành là trung tâm nơi thờ Hoàng đế và Hoàng hậu thứ nhất. Trước đây trong điện Minh Thành có thờ nhiều kỷ vật gắn bó với cuộc đời chinh chiến của Gia Long. Bên trái khu lăng là Bi Đình, nay chỉ còn tấm bia lớn ghi bài “Thánh Ðức Thần Công” của vua Minh Mạng soạn, ca ngợi vua cha được chạm khắc tinh tế, sắc sảo. Ngoài ra còn có các lăng phụ cận trong khu vực này như lăng Quang Hưng (bà vợ thứ hai của chúa Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần), lăng Vĩnh Mậu (vợ chúa Ngãi vương Nguyễn Phúc Trăn); lăng Toại Thánh (vợ thứ hai của Nguyễn Phúc Luân và là thân mẫu của Gia Long),...lăng Thiên Thọ Hữu của bà Thuận Thiên Cao Hoàng Hậu, thân mẫu của vua Minh Mạng, bên cạnh có điện Gia Thành dùng để thờ. Lăng Gia Long là một bức tranh tuyệt vời giữa thiên nhiên và kiến trúc đã tạo nên nét hùng vĩ hoành tráng của cảnh quan. Vua Gia Long tên thật là Nguyễn Phúc Ánh, tên húy là Chủng, sinh năm 1762, con thứ ba của Nguyễn Luân. Năm 1773, Tây Sơn khởi nghĩa, Nguyễn Phúc Ánh 12 tuổi, theo chúa Nguyễn Phúc Thuần vào Quảng Nam. Mùa thu năm Ðinh Dậu (1777) Nguyễn Phúc Thuần tử trận, Nguyễn Phúc Ánh một mình chạy thoát ra đảo Thổ Chu, rồi sau chạy sang ẩn náu nhờ bên đất Xiêm. Tháng 7/1792, vua Quang Trung mất, con là Quang Toản còn ít tuổi. Nguyễn Phúc Ánh đã tổ chức tấn công và tiêu diệt nhà Tây Sơn. Ông lên ngôi hoàng đế, lấy niên hiệu là Gia Long đóng đô tại thành Phú Xuân (Huế) và đặt tên nước là Việt Nam. Ngày Ðinh Mùi tháng 12 năm Kỷ Mão (1819), Gia Long mất, thọ 59 tuổi, ở ngôi chúa 25 năm, ở ngôi vua 17 năm. Lăng Gia Long (hay còn gọi là Thiên Thọ Lăng) là nơi an nghỉ của vị vua đầu tiên sáng lập ra triều Nguyễn. Nguồn: Tổng cục du lịch Việt Nam
Thừa Thiên Huế 2428 lượt xem
Lăng Minh Mạng thuộc Xã Hương Thọ, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Lăng Minh Mạng (Hiếu Lăng) nằm trên ngọn núi Cẩm Kê cách thành phố Huế khoảng 14km, gần ngã ba Bằng Lãng, nơi hợp nguồn tạo thành sông Hương. Lăng được khởi công xây dựng vào tháng 9 năm 1840 và được Vua Thiệu Trị tiếp tục xây dựng hoàn tất vào năm 1843. Lăng Minh Mạng là một mô hình kiến trúc quy mô gồm 40 công trình lớn nhỏ, bao gồm cung điện, đền miếu và đài tạ... được bố trí trên một trục dọc theo đường Thần đạo dài 700m từ Đại Hồng môn ở ngoài cùng tới chân tường của la thành sau mộ vua. Hình thế của lăng tựa dáng một người đang nằm nghỉ trong tư thế đầu gối lên núi Kim Phụng, chân duỗi ra ngã ba sông trước mặt, hai nửa hồ Trừng Minh như đôi cánh tay buông xuôi tự nhiên. Mở đầu Thần đạo là Đại Hồng môn (cổng chính vào Lăng), cao 9m, rộng 12m, cổng này có ba lối đi, lối đi giữa chỉ mở một lần để đưa quan tài nhà vua vào lăng sau đó đóng chặt, ngoài ra còn có hai cổng phụ Tả Hồng môn và Hữu Hồng môn. Sau Đại Hồng Môn là sân rộng 45m x 45m, hai bên có hai hàng tượng quan viên, voi ngựa. Cuối sân là Bi đình, trên bia có bài “Thánh Đức thần công” (ghi công của Vua Minh Mạng). Tiếp theo là sân triều lễ; Hiển Đức môn mở đầu cho khu vực tẩm điện, được giới hạn trong một lớp thành hình vuông biểu trưng cho mặt đất. Điện Sùng Ân nằm ở trung tâm, xung quanh có Tả, Hữu, Phối điện (trước) và Tả Hữu Tùng phòng (sau) cũng được giới hạn trong lớp tường thành hình vuông. Hoàng Trạch môn là công trình kết thúc khu vực tẩm điện. Đi qua ba cây cầu bắc qua hồ Trừng Minh là tới Minh Lâu, Minh Lâu là lầu sáng là nơi vua suy ngẫm và là nơi đi về của linh hồn Tiên đế. Một cái hồ hình trăng non tên Tân Nguyệt ôm lấy Bửu thành hình tròn nằm ở giữa, đây là nơi bắt đầu của thế giới vô biên, nơi yên nghỉ của nhà Vua giữa tâm một quả đồi mang tên Khai Trạch Sơn. Hai bên trục chính của lăng còn có nhiều công trình phụ nằm đối xứng nhau theo từng cặp. Lăng Minh mạng với hai hồ và kiến trúc trang hoàng tuyệt đẹp, là một trong những lăng tẩm uy nghi, đường bệ nhất trong các lăng tẩm của vua nhà Nguyễn. Công trình được công nhận là di tích cấp quốc gia ngày 29/4/1997. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Thừa Thiên Huế
Thừa Thiên Huế 2370 lượt xem
Lăng Tự Đức có địa chỉ tại Phường Thủy Xuân, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Lăng Tự Đức (Khiêm Lăng) được xây dựng trong một thung lũng hẹp thuộc làng Dương Xuân Thượng (nay là thôn Thượng Ba, phường Thủy Xuân, thành phố Huế). Đây là một trong những công trình đẹp nhất của kiến trúc cung đình thời Nguyễn. Lăng nằm giữa một rừng thông bát ngát, cách Huế 8km. Tổng thể kiến trúc Lăng nằm trong một vòng La thành rộng khoảng 12ha, gồm gần 50 công trình kiến trúc lớn nhỏ dàn trải thành từng cụm trên những thế đất cao, thấp hơn nhau chừng 10m. Bố cục khu lăng gồm hai phần chính, trên hai trục song song với nhau lấy núi Giáng Khiêm ở phía trước làm Tiền án, núi Dương Xuân làm Hậu chẩm, hồ Lưu Khiêm làm yếu tố Minh Đường. Các công trình trong Lăng ở cả hai khu vực tẩm điện và lăng mộ đều có chữ Khiêm đặt tên gọi. Toàn cảnh lăng Tự Đức như một công viên rộng lớn. Qua cửa Vụ Khiêm, đến khu vực hồ Lưu Khiêm, trên hồ có Xung Khiêm tạ và Dũ Khiêm tạ, nơi nhà Vua thường đến ngắm hoa, làm thơ và đọc sách. Đi tiếp ba bậc tam cấp bằng đá thanh dẫn vào Khiêm Cung môn, rồi đến điện Hòa Khiêm, đây vốn là nơi làm việc của Vua nhưng nay dùng để thờ phụng Vua và Hoàng hậu. Sau điện Hòa Khiêm đến điện Lương Khiêm, trước là chỗ nghỉ của Vua và sau này trở thành nơi thờ mẹ Vua, bà Từ Dũ. Bên phải điện Lương Khiêm là Ôn Khiêm đường, nơi cất đồ ngự dụng. Phía trái điện Lương Khiêm có nhà hát Minh Khiêm để Vua xem hát, đây được coi là nhà hát cổ nhất Việt Nam hiện còn được bảo tồn. Ngay sau hai hàng tượng quan văn võ uy nghi là Bi đình (nhà bia), tấm bia làm bằng đá thanh lớn có khắc bài Khiêm Cung ký của Vua Tự Đức dài 4.935 chữ để nói về cuộc đời, vương nghiệp cùng những lỗi lầm và sai phạm của mình. Trên ngọn đồi nằm bên kia hồ bán nguyệt Tiểu Khiêm Trì là Bửu Thành xây bằng gạch, chính giữa có ngôi nhà nhỏ xây bằng đá thanh, nơi Vua yên nghỉ. Lăng Tự Đức là một bài thơ tuyệt tác, một bức tranh sơn thủy hữu tình. Công trình được công nhận là di tích cấp quốc gia ngày 29/4/1979. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Thừa Thiên Huế
Thừa Thiên Huế 2766 lượt xem
Lăng Khải Định hay còn gọi là Ứng Lăng ở Xã Thủy Bằng, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Vua Khải Định (1916-1925) là vị vua thứ 12 của triều Nguyễn và là người cuối cùng xây dựng lăng tẩm, chuẩn bị cho sự “ra đi” của một ông vua. Lăng Khải Định được xây dựng trên triền núi Châu Chữ (còn gọi là Châu Ê) cách trung tâm thành phố Huế 10km. Lăng khởi công ngày 4/9/1920 và kéo dài trong 11 năm mới hoàn thành. Vua Khải Định cử người sang Pháp mua sắt, thép, xi măng, ngói ác đoa, sang Trung Quốc, Nhật Bản mua đồ sứ, thủy tinh để kiến thiết công trình. So với các Lăng trong hệ thống lăng tẩm ở Huế, lăng Khải Định có diện tích nhỏ (117m 48,5m) nhưng rất công phu và tốn nhiều thời gian. Nó là kết quả hội nhập của nhiều dòng kiến trúc Á, Âu, Việt Nam cổ điển và hiện đại. Tổng thể của Lăng là một khối nổi hình chữ nhật vươn cao tới 127 bậc. Núi đồi, khe suối của một vùng rộng lớn quanh Lăng được dùng làm các yếu tố phong thủy: tiền án, hậu chẩm, tả thanh long, hữu bạch hổ, minh đường, thủy tụ, tạo cho lăng Khải Định một ngoại cảnh thiên nhiên hùng vĩ. Cung Thiên Định ở vị trí cao nhất và là kiến trúc chính của Lăng. Công trình này gồm 5 phần liền nhau: Hai bên là Tả, Hữu Trực phòng dành cho lính hộ lăng, phía trước là điện Khải Thành - nơi để án thờ và chân dung vua Khải Định, chính giữa là Bửu án, pho tượng nhà vua và mộ phần ở phía dưới, trong cùng là khám thờ với bài vị của vị vua quá cố. Giá trị nghệ thuật cao nhất của Lăng là phần trang trí nội thất cung Thiên Định. Ba gian giữa trong cung đều được trang trí phù điêu ghép bằng sánh sứ và thủy tinh màu. Đặc biệt chiếc Bửu tán trên pho tượng đồng, nặng 1 tấn với những đường lượn mềm mại, thanh thoát khiến người xem có cảm giác làm bằng nhung lụa rất nhẹ nhàng. Bên dưới Bửu tán là pho tượng đồng Vua Khải Định được đúc tại Pháp năm 1922 theo yêu cầu của nhà vua. Người chịu trách nhiệm chính trong việc kiến tạo những tuyệt tác nghệ thuật trong lăng Khải Định là nghệ nhân Phan Văn Tách, tác giả của ba bức bích họa “Cửu long ẩn vân” lớn vào bậc nhất nước ta, được trang trí trên trần ba gian giữa cung Thiên Định. Lăng Khải Định là đỉnh cao của nghệ thuật tạo hình sành sứ và thủy tinh, đây thực sự là một công trình có giá trị nghệ thuật và kiến trúc. Lăng Khải Định được công nhận là di tích cấp quốc gia ngày 29/4/1979. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Thừa Thiên Huế
Thừa Thiên Huế 2252 lượt xem
Đại Nội Huế có địa chỉ tại Đường 23/8, phường Thuận Hòa, Thành phố Huế, Tỉnh Thừa Thiên Huế, bên bờ sông Hương thơ mộng. Đại Nội Huế được xây dựng từ nửa đầu thế kỉ XX, đây là một trong số các di tích được UNESCO công nhận là di sản văn hóa Thế giới từ năm 1993. Đại Nội Huế chính là nơi sinh hoạt và diễn ra các hoạt động của vua chúa Nguyễn cùng triều đình phong kiến cuối cùng của nước ta. Huế là vùng đất bình yên và thơ mộng, nên vua Gia Long đã lựa chọn nơi này để xây dựng công trình Đại Nội Huế vào năm 1803. Phải mất 30 năm, công trình này mới chính thức được hoàn thành trọn vẹn. Đại Nội Huế được xây dựng với lối kiến trúc cung đình Huế vì vậy từng đường nét, cách thức bài trí đều rất tinh xảo. Đại Nội Huế có hai khu vực chính là Hoàng thành và Tử Cấm thành, mỗi khu vực lại bao gồm nhiều công trình khác nhau. Khu Hoàng thành gồm có cổng Ngọ Môn, Điện Thái Hòa. Tử Cấm thành là khu vực dành riêng cho vua và hoàng tộc, gồm Đại Cung Môn, Tả Vu và Hữu Vu, Điện Cần Chánh, Thái Bình Lâu, Cung Diên Thọ... 1. Khu Hoàng thành Cổng Ngọ Môn được xây dựng đồ sộ, hoành tráng với các đường nét hoa văn hết sức kỳ công, tinh xảo và vững chắc. Ngọ Môn không chỉ đơn giản là cổng ra vào mà còn là bộ mặt đại diện cho Đại Nội cung đình Huế nên được thiết kế gồm nhiều lớp với hệ thống hào nước xung quanh. Cổng Ngọ Môn của Hoàng thành Huế nhìn về phía Nam kinh thành và có 5 cửa, cửa chính ở giữa dành cho vua đi, hai cổng bên dành cho quan văn và quan võ. Còn lại, khu vực hai cổng bên quanh là dành cho binh lính cùng voi ngựa theo hầu vua để bảo vệ cũng như hầu hạ vua. Điện Thái Hòa là một biểu tượng về quyền lực của Hoàng triều nhà Nguyễn thời bấy giờ. Điện Thái hòa là công trình quan trọng bậc nhất trong tổng thể Đại Nội Kinh Thành Huế, nơi đây cùng Sân Đại Triều Nghi từng là nơi diễn ra các buổi thiết triều của triều đình nhà Nguyễn mà đa số đây đều là những buổi thiết triều quan trọng. Điện Thái Hòa sử dụng chất liệu là gỗ lim. Phần mái điện, cột… được điêu khắc hình rồng uốn lượn đầy tinh tế, tỉ mỉ. Chính giữa điện là ngai vàng của vua được đặt ở vị trí trang nghiêm, nơi vua ngồi trong các buổi thiết triều. 2. Khu Tử Cấm thành Đại Cung Môn là cửa chính (hướng Nam) vào Tử Cấm thành, gồm có 5 gian 3 cửa và được xây dựng vào thời vua Minh Mạng, năm 1833. Cửa ở gian chính giữa chỉ dành cho vua đi, mặt sau hai bên có hai hành lang nối với Tả Vu, Hữu Vu. Đại Cung Môn nhìn ra sân trước hướng ra Điện Thái Hòa, được xây dựng hoàn toàn bằng gỗ, phía trên lợp bằng ngói hoàng lưu ly. Tả Vu và Hữu Vu là hai tòa nhà ngay đối diện điện Cần Chánh, xây dựng đầu thế kỷ 19. Tòa nhà Tả Vu được xây dựng cho các quan văn, Hữu Vu là nơi dành cho các quan võ trong triều. Hai tòa nhà này là nơi để chuẩn bị cho các nghi thức trước buổi thiết triều, nơi tổ chức các cuộc thi Đình hay yến tiệc. Điện Cần Chánh nằm thẳng với Điện Thái Hòa theo hướng Bắc Nam, đây là nơi để vua thiết triều. Điện Cần Chánh được xem là điện có kết cấu gỗ lớn và đẹp nhất trong toàn bộ Tử Cấm thành. Các bộ cột bằng gỗ lim, phần khung phía trên được trạm trổ tinh xảo, công phu. Thái Bình Lâu nằm ở bên trong Tử Cấm thành của khu Đại Nội Huế, nơi đây sẽ dùng để nhà vua nghỉ ngơi lúc rảnh rỗi, đọc sách, viết văn hay làm thơ thư giãn . Thái Bình Lâu được xây dựng vào những năm 1919 do vua Khải Định khởi công được hoàn thành vào năm 1921. Trong số nhiều cung điện trong Hoàng thành Huế, Cung Diên Thọ được xem là một hệ thống kiến trúc cung điện mang tầm cỡ quy mô nhất ở Huế . Nơi đây là nơi ở của các Hoàng Thái Hậu và các Thái Hoàng Thái Hậu những người phụ nữ quyền lực ở bên cạnh vua. Đại Nội Huế là công trình có quy mô đồ sộ nhất lịch sử Việt Nam với thời gian xây dựng kéo dài trong nhiều năm với hàng vạn người thi công cùng các hoạt động lấp sông, đào hào, đắp thành, bên cạnh đó là khối lượng đất đá khổng lồ lên tới hàng triệu mét khối. Đến thăm quan quần thể di tích Đại Nội Huế, bạn sẽ được chiêm ngưỡng hàng trăm công trình miếu thờ, đền đài và cung điện nguy nga bề thế. Với vẻ đẹp tráng lệ kết hợp với nét kiến trúc độc đáo hứa hẹn sẽ là điểm đến mang lại cho bạn nhiều trải nghiệm thú vị. Nguồn: Cổng thông tin du lịch Thừa Thiên Huế
Thừa Thiên Huế 2831 lượt xem
Nhà Lưu Niệm Bác Hồ ở số 112 (số mới 158) Mai Thúc Loan, Phường Thuận Lộc, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Đây là ngôi nhà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sống khi theo gia đình vào Huế lần thứ nhất từ 1895 - 1901. Năm 1894, ông Nguyễn Sinh Sắc (thân sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh) thi đỗ Cử nhân ở trường thi Hương Nghệ An, năm 1895 ông vào Huế thi Hội nhưng không đỗ. Để chuẩn bị cho kỳ thi sau, ông xin vào học trường Quốc Tử Giám - Huế và được chấp nhận. Để có điều kiện chăm sóc con cái, và gia đình cũng là nguồn động viện ông trong những tháng ngày đèn sách, ông về quê, cùng vợ là bà Hoàng Thị Loan đưa hai con trai là Nguyễn Sinh Khiêm và Nguyễn Sinh Cung vào Huế. Nhờ người quen giới thiệu, ông thuê được một gian nhà nhỏ ở đường Đông Ba (là ngôi nhà di tích hiện nay). Tại ngôi nhà này, Cậu Nguyễn Sinh Cung (Tên Bác Hồ lúc nhỏ) đã sống những năm tháng hạnh phúc cùng gia đình: Người cha mẫu mực nhưng nghiêm khắc, đêm ngày chuyên tâm chăm lo việc đèn sách; người mẹ hiền từ, đảm đang, tảo tần bên khung cửi và niềm vui khi đón em Nguyễn Sinh Xin chào đời. Nhưng tại ngôi nhà này cũng in đậm trong tâm hồn Nguyễn Sinh Cung nỗi đau mất mẹ, tiếng khóc khát sữa của em thơ. Và sự yêu thương, đùm bọc của bà con nghèo xứ Huế. Nghĩa tình sâu nặng đó chính là những giá trị văn hóa góp phần hình thành nhân cách đạo đức và chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh - Người suốt đời phấn đấu vì độc lập, tự do của dân tộc, hạnh phúc của nhân dân. Nhà lưu niệm Bác Hồ tại 112 Mai Thúc Loan là một ngôi nhà gỗ rộng ba gian, gồm 4 vài cột, kiến trúc theo kiểu nhà rường truyền thống của Huế, với mái lợp ngói liệt, tường bao quanh bằng gạch vồ, mặt trước là hệ thống cửa bản khoa “thượng song, hạ đố”; nối với nhà chính là nhà bếp, vách trát đất, mái lợp tranh. Ngôi nhà nằm trong một tổng thể nhà - sân - vườn hoàn chỉnh. Đặc biệt, ngôi nhà này là nơi bà Hoàng Thị Loan sinh người con thứ tư là cậu bé Nguyễn Sinh Xin và cũng là nơi bà trút hơi thở cuối cùng ở tuổi 33 vào ngày 22 tháng Chạp năm Canh Tý (tức 10/2/1901). * Nhà lưu niệm Bác Hồ tại đường Mai Thúc Loan, Ngôi nhà đã được Bộ Văn Hoá Thông tin công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 02/02/1993. * Ngày 31/12/2020, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định xếp hạng Hệ thống di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Thừa Thiên Huế là di tích lịch sử cấp Quốc gia đặc biệt. (gồm 4 di tích đã được xếp hạng Quốc gia trước đây là: Nhà lưu niệm Bác Hồ ở đường Mai Thúc Loan; Địa điểm Trường Quốc Học Huế; Nhà lưu niệm thời niên thiếu của Chủ tịch Hồ Chí Minh ở làng Dương Nỗ và Đình làng Dương Nỗ). Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Thừa Thiên Huế
Thừa Thiên Huế 2849 lượt xem
Bảo tàng Hồ Chí Minh tại Huế thành lập ngày 16/9/1980, theo chỉ đạo của Tỉnh ủy Bình Trị Thiên, trên cơ sở Nhà trưng bày về thân thế và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ngày 30 tháng 6 năm 1982, Bảo tàng Hồ Chí Minh Bình Trị Thiên chính thức trở thành thành viên của hệ thống Bảo tàng và di tích lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh. Từ năm 1989, sau khi tỉnh Bình Trị Thiên tách ra làm ba tỉnh, Bảo tàng Hồ Chí Minh Bình Trị Thiên đổi thành Bảo tàng Hồ Chí Minh Thừa Thiên Huế, chức năng và nhiệm vụ không thay đổi. Ngày 19 tháng 5 năm 1998, nhân kỷ niệm 108 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bảo tàng Hồ Chí Minh Thừa Thiên Huế chính thức được khởi công xây dựng lại và khánh thành vào ngày 19 tháng 5 năm 2000. Năm 2007, Bảo tàng Hồ Chí Minh Thừa Thiên Huế được xếp hạng là bảo tàng hạng II ngày 27 tháng 9 năm 2007 của UBND tỉnh Thừa Thiên Huế. Bảo tàng Hồ Chí Minh Thừa Thiên Huế trải qua hơn 40 năm hình thành và phát triển đã có một cơ sở vật chất khang trang, hiện đại. Thừa Thiên Huế, mảnh đất đã nuôi dưỡng tuổi thơ của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong những năm tháng Người cùng gia đình sinh sống, học tập và tham gia các hoạt động yêu nước giai đoạn 1895 -1901 và 1906 - 1909. Chính nơi đây đã góp phần hun đúc và hình thành tư tưởng yêu nước của Người, để từ đó thôi thúc Người quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân. Di sản Hồ Chí Minh - Những năm tháng Bác Hồ ở Huế dưới góc độ “vật thể”, là hệ thống di tích của Người để lại. Đến nay theo thống kê ở Thừa Thiên Huế có khoảng 20 di tích và địa điểm di tích lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong đó có 4 di tích được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là di tích cấp quốc gia đặc biệt: Nhà lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh tại đường Mai Thúc Loan (số mới 158); Trường Quốc Học Huế; Nhà lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh ở làng Dương Nỗ; Đình làng Dương Nỗ và 5 di tích cấp tỉnh. Về di sản “phi vật thể” có hàng ngàn tư liệu thành văn và dân gian viết về Người, nói về Người, hồi ức của chính Người về thời kỳ ở Huế và tấm lòng của Bác Hồ với Thừa Thiên Huế, Thừa Thiên Huế với Bác Hồ. Di sản mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và gia đình Người để lại trên mảnh đất Thừa Thiên Huế là niềm tự hào, là tài sản vô giá mà Bảo tàng Hồ Chí Minh Thừa Thiên Huế có vinh dự và trách nhiệm trong việc bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị, nhằm góp phần từng bước đưa tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh vào cuộc sống, động viên mọi tầng lớp nhân dân đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh, xây dựng Thừa Thiên Huế giàu về kinh tế, đẹp về văn hóa, mạnh về quốc phòng an ninh. Nguồn: Bảo tàng Hồ Chí Minh Thừa Thiên Huế
Thừa Thiên Huế 2215 lượt xem
Di Tích Trường Quốc Học Huế có địa chỉ tại số 12 Lê Lợi, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Trường Quốc Học Huế nay là trường trung học phổ thông chuyên Quốc Học Huế. Ngôi trường là nơi chứng kiến những tháng năm miệt mài học tập và hoạt động sôi nổi của Bác Hồ trong phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, trường Quốc Học Huế vẫn là nơi hun đúc, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước và lưu giữ trong mình truyền thống, nhiệt huyết của những thiên tài cách mạng. Trường Quốc Học được thành lập theo chỉ dụ ngày 17 tháng 9 năm Thành Thái thứ 8 (23/10/1896) và Nghị định ngày 18/11/1896 của Phủ Toàn quyền Đông Dương. Đây là trường Pháp - Việt chính yếu của toàn xứ Đông Dương. Tháng 5 năm 1906 ông Nguyễn Sinh Sắc vào kinh đô Huế nhận chức Thừa biện Bộ Lễ, Nguyễn Tất Thành cùng anh trai là Nguyễn Tất Đạt theo cha vào Huế sinh sống và học tập. Được cha đưa vào học Trường Tiểu học Pháp - Việt Đông Ba, Nguyễn Tất Thành thông minh, ham học và học giỏi. Là học sinh xuất sắc của trường, kỳ thi Primaire 1908, Thành là một trong mười học sinh giỏi nhất trường Tiểu học Pháp - Việt Đông Ba thi vượt cấp vào học lớp đệ nhị niên trung học của trường Quốc Học niên khóa 1908 - 1909. Vào học ở trường Quốc Học, Nguyễn Tất Thành có điều kiện tiếp thu nền văn minh phương Tây sâu sắc hơn, nhưng anh cũng hiểu rõ hơn bản chất khai hoá mị dân của khẩu hiệu “Tự do - Bình đẳng - Bác ái” mà thực dân Pháp đang rao giảng. Những năm đầu thế kỷ XX, phong trào yêu nước do các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Lương Văn can ... khởi xướng đã tác động rất lớn đến nhận thức của Nguyễn Tất Thành, anh đã tham gian làm liên lạc cho các tổ chức yêu nước và vận động bạn cùng lớp ủng hộ các phong trào yêu nước. Đây là những hoạt động đánh dấu bước khởi đầu cho sự nghiệp đấu tranh yêu nước của Nguyễn Tất Thành, để từ đó anh quyết định tạm biệt mái trường Quốc Học, đi dần vào miền Nam, ra nước ngoài tìm đường cứu nước. Năm 1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng, nước nhà độc lập thống nhất, trường THPT Quốc Học thật sự trở thành ngôi trường XHCN, nơi thu hút và đào tạo học sinh năng khiếu của Thừa Thiên Huế, góp phần đào tạo nhân tài cho đất nước. Năm 1990, kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, để tưởng nhớ đến người học trò xuất sắc của trường, Bảo tàng Hồ Chí Minh Thừa Thiên Huế cùng với trường Quốc Học đã xây dựng tượng anh Nguyễn Tất Thành ở ngay vị trí trung tâm của trường. Trường Quốc Học tự hào đã góp phần bồi đắp nên một nhân cách lớn, một bản lĩnh lớn, một lãnh tụ thiên tài cho dân tộc: Hồ Chí Minh. * Di tích Trường Quốc Học được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là Di tích Lịch sử cấp Quốc gia vào ngày 26/3/1990, được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng di tích cấp Quốc gia đặc biệt vào ngày 31/12/2020. Nguồn: Cổng thông tin điện tử Thừa Thiên Huế
Thừa Thiên Huế 2647 lượt xem
Khu di tích Láng Le Bàu Cò tọa lạc tại xã Tân Nhựt, huyện Bình Chánh, Tp HCM. Láng Le Bàu Cò gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược vào năm 1948 với những trận đánh lớn đi vào lịch sử. Di tích Láng Le Bàu Cò được công nhận là di tích lịch sử cấp thành phố vào năm 2003. Sở dĩ được gọi tên là khu di tích Láng Le Bàu Cò vì Tên gọi của khu di tích Láng Le Bàu Cò là do người dân địa phương đặt ra. Xóm làng được thành lập cạnh những con kênh rạch chằng chịt và dòng sông. Láng Le Bàu Cò có vị trí nằm ở bên trong cánh đồng có diện tích rộng lớn và có rất nhiều tôm, cua, cá. Cùng với nhiều loài chim như vịt trời, cò, con le le, cúm núm, cồng cộc, đa đa, diệc, đỏ nách tới kiếm ăn tại đây. Vì vậy, người dân Tân Nhựt gọi với cái tên thân thuộc và mộc mạc đó là Láng Le Bàu Cò. Di tích Láng Le Bàu Cò được xem là cửa ngõ để di chuyển tới trung tâm căn cứ Vườn Thơm và tấn công cơ quan đầu não của quân địch tại Sài Gòn. Trước đây khu di tích Láng Le Bàu Cò vốn là cánh đồng lau sậy mọc um tùm. Vào ngày 15/4/1948 thực dân Pháp đưa 3 nghìn quân lính cùng nhiều vũ khí hiện đại đồng loạt tấn công khu vực Láng Le Bàu Cò nhằm tiêu diệt căn cứ Vườn Thơm. Khi đó lực lượng vũ trang cách mạng ở Láng Le - Bàu vì lực lượng nhỏ và vũ khí thô sơ tuy nhiên được sự giúp đỡ của người dân địa phương cùng với lợi thế về địa hình. Chỉ sau hơn nửa ngày đấu tranh đã chuyển sang tấn công khiến quân Pháp bị thương vong với số lượng lớn. Chiến thắng Láng Le Bàu Cò đã tiêu diệt 300 tên địch và bắt sống 30 lính đánh thuê cùng phá hủy nhiều máy móc, xe nhà binh, súng các loại của quân giặc. Tuy nhiên, về phía ta có nhiều cán bộ chiến sĩ đã anh dũng hy sinh với tuổi đời còn rất trẻ. Ngày 14/10/1966 tại Láng Le tiểu đoàn biệt động quân Việt Nam Cộng Hòa bị dân quân du khách tiêu diệt. Khu di tích Láng Le Bàu Cò có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với người dân Sài Gòn nói riêng và cả nước nói chung. Trước lòng căm thù thực dân Pháp, quân dân Láng Le Bàu Cò đã có cuộc chiến vang lừng lịch sử và có ý nghĩa to lớn mở đầu cho phía ta và phía địch. Đối với phía ta trận đánh mở đầu cho sự anh dũng trong tư thế kháng chiến vững mạnh. Còn với quân địch đã phải lùi vào thế bỏ chiến lược và bị tiêu diệt. Thực dân Pháp không còn định hình được chiến lược đánh bại Việt Minh. Hơn thế, tại căn cứ Vườn Thơm, Láng Le Bàu Cò còn diễn ra trận chiến quyết tâm bảo vệ căn cứ của ta và đập tan mọi kế hoạch phá hoại của quân giặc. Khu di tích Láng Le Bàu Cò sau phong trào Đồng Khởi vào năm 1960 còn là hậu cần, bàn đạp của lực lượng vũ trang để giải phóng Long An - Sài Gòn - Gia Định. Để tưởng nhớ sự hy sinh của đồng bào và các chiến sĩ của ta, vào năm 1988 huyện Bình Chánh đã xây dựng công trình lịch sử tại vùng đất Láng Le Bàu Cò với diện tích rộng 1000m2. Nguồn: Báo thông tin điện tử TP Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 9008 lượt xem
Nhà lao Tân Hiệp còn có tên là "Trung tâm cải huấn Tân Hiệp" tọa lạc ở khu phố 6, phường Tân Tiến, TP Biên Hòa. Di tích Nhà lao Tân Hiệp đã được Bộ Văn Hoá Thể Thao xếp hạng là di tích cấp quốc gia ngày 15-1-1994. Nhà lao Tân Hiệp là một trong sáu nhà tù lớn nhất miền Nam Việt Nam và là nhà tù lớn nhất vùng Đông Nam bộ, được xây dựng ở vị trí quân sự quan trọng, án ngữ phía đông bắc thị xã Biên Hòa. Phía trước là quốc lộ 1; phía sau là đường xe lửa Bắc - Nam. Đây là vị trí biệt lập, thuận tiện trong giao thông, dễ dàng cho việc bảo vệ, canh gác, nhận tù từ nơi khác đến và chuyển tù đi Côn Đảo, Phú Quốc... Nhà lao Tân Hiệp có diện tích 46.520m2 với 8 trại giam, trong đó có 5 trại giam những người tù cộng sản, người yêu nước. Xung quanh nhà tù được bao bọc bởi 4 lớp kẽm gai bùng nhùng với 9 lô cốt, 3 tháp canh cùng đội lính bảo vệ và hệ thống báo động tối tân. Mang tên "Trung tâm cải huấn" nhưng thực chất bên trong là kho súng, phòng xét hỏi, tra tấn với những dụng cụ hiện đại bậc nhất. Mỗi trại giam chỉ có diện tích gần 200m2 nhưng giam giữ từ 300-400 người, có lúc lên đến cả ngàn người. Đặc biệt ở đây có các phòng "cải hối", "chuồng cọp" rất nhỏ hẹp và điều kiện sinh hoạt cực kỳ khắc nghiệt, tù nhân sống chẳng khác gì trong lò thiêu xác. Chế độ ăn uống cực kỳ mất vệ sinh, bọn cai ngục mua gạo mục, cá thối dùng để bón ruộng, chiên bằng dầu luyn cho tù nhân ăn dẫn đến nhiều người bị ngộ độc. Với quyết tâm thoát khỏi nhà tù đế quốc, trở về với Đảng, với nhân dân để tiếp tục chiến đấu, giải phóng dân tộc, ngày 2-12-1956, được sự nhất trí của Liên Tỉnh ủy miền Đông, những chiến sĩ cộng sản bị "câu lưu" trong nhà lao Tân Hiệp dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Trọng Tâm (Bảy Tâm) - phụ trách Đảng ủy nhà tù và một số đồng chí khác đã bất thần làm một cuộc phá xiềng tập thể giải thoát gần 500 đồng chí, đồng bào yêu nước. Sự kiện này đã làm xôn xao cả Lầu Năm Góc. Mỹ - Diệm vội vã huy động cả quân chủ lực lẫn bảo an, dân vệ đang trấn thủ 3 tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một và hai biệt đoàn biệt động quân đến bủa lưới bao vây, truy bắt đoàn tù nhưng đều thất bại. Các đồng chí, đồng bào của ta thoát khỏi nhà lao Tân Hiệp đã được sự giúp đỡ, che chở của các cơ sở địa phương, trở về căn cứ an toàn. Trong số tù nhân vượt ngục có các đồng chí: Bảy Tâm, Hai Thông, Lý Văn Sâm... đã trở thành những hạt nhân nòng cốt cho phong trào Đồng Khởi sau này. Năm 2001, để tái hiện phần nào tội ác của Mỹ - Diệm đối với các đồng chí, đồng bào ta bị giam cầm tại nhà lao Tân Hiệp và diễn tả lại toàn bộ cuộc nổi dậy phá khám Tân Hiệp ngày 2-12-1956, Bảo tàng Đồng Nai đã tiến hành sưu tầm hình ảnh, tài liệu, hiện vật trưng bày tại di tích và làm một sa bàn để phục vụ nhu cầu nghiên cứu, tham quan của mọi tầng lớp nhân dân. Hàng ngày, di tích luôn mở cửa đón khách tham quan. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 8231 lượt xem
Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh còn gọi là đình Bình Kính tọa lạc bên tả ngạn sông Đồng Nai, xưa kia thuộc ấp Bình Kính, thôn Bình Hoành, tổng Trấn Biên, nay là ấp Nhị Hòa, xã Hiệp Hòa, TP Biên Hòa, đã được Bộ Văn Hoá – Thông Tin – Thể Thao & Du Lịch xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 25-3-1991. Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ 18, ban đầu ngôi đền có qui mô nhỏ, vách làm bằng ván, mái ngói âm dương, cách ngôi đền hiện tại khoảng 400m về hướng Nam. Các tư liệu cho biết: ngôi đền được xây dựng lại lần đầu tiên vào năm Tự Đức thứ tư (1851); đến năm 1923, đền được tái thiết lại ở địa điểm hiện nay. Nguyễn Hữu Cảnh sinh vào năm 1650 tại Gia Miêu, huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa trong một gia đình có nhiều bậc danh tướng đương triều. Ông là người văn võ song toàn, lập được nhiều chiến công lớn và được chúa Nguyễn tin yêu, trọng vọng. Mùa Xuân năm Mậu Dần (1698), ông vâng lệnh chúa Nguyễn vào kinh lược xứ Đàng Trong khi ấy còn rất hoang vu. Đến đất Đồng Nai, ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố (nay là xã Hiệp Hòa); lấy đất Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn, đất đai mở mang ngàn dặm. Ông chiêu mộ lưu dân đến lập nghiệp, tổ chức bộ máy hành chính từng bước có qui củ, khuyến khích khai hoang, thúc đẩy Cù lao Phố phát triển thành một trong những cảng thị sầm uất, năng động nhất đàng Trong suốt thế kỷ 18 và chính thức sáp nhập vùng đất mới phương Nam vào bản đồ Đại Việt. Sau khi kinh lược phương Nam trở về, năm sau ông lại phụng mệnh chúa Nguyễn Phúc Chu thống lĩnh đại binh dẹp vua Chân Lạp giữ vững miền biên ải phương Nam. Tháng 4 năm Canh Thìn (1700), sau khi hoàn thành sứ mệnh, trên đường trở về đến Rạch Gầm (Tiền Giang) thì ông thọ bệnh qua đời nhằm ngày 16 tháng 5 âm lịch, thọ 51 tuổi. Trên đường di quan ông về quê an táng, quan tài của ông được đình lại khu đất khi xưa ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố để cho nhân dân địa phương có dịp bái biệt ông lần cuối. Nơi đình quan đã được nhân dân địa phương xây một ngôi mộ vọng để ghi nhớ sự kiện này. Khi hay tin Nguyễn Hữu Cảnh mất, Chúa Nguyễn vô cùng thương tiếc đã phong tặng ông là Thượng đẳng công thần đặc Trấn phủ Chưởng cơ với tước: Lễ Thành Hầu và đưa bài vị của ông vào thờ tại Thái miếu. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 6275 lượt xem
Di tích chiến thắng La Ngà (tại km số 104-112 trên quốc lộ 20 đi Đà Lạt, thuộc xã Phú Ngọc, huyện Định Quán) được Bộ Văn hóa xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 12-12-1986. Để cổ vũ cho chiến thắng Việt Bắc thu - đông 1947 và cũng để giáng cho kẻ thù một đòn chí mạng, Ban chỉ huy chi đội 10 đã quyết định phải tổ chức một trận đánh lớn, để quân giặc thấy rằng dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam không dễ dàng chịu khuất phục trước bất kì một kẻ thù nào; Bằng tinh thần quả cảm và sự khôn khéo sau gần nửa năm chuẩn bị, nghiên cứu địa hình, chọn địa điểm: vào lúc 15 giờ 12 phút ngày 1/3/1948 trận chiến phục kích La Ngà bắt đầu và kết thúc vào lúc 15 giờ 57 phút cùng ngày, chỉ trong vòng 45 phút. Chiến thắng La Ngà đã làm nức lòng nhân dân Định Quán nói riêng, quân dân Đồng Nai nói chung. Đây là chiến thắng thể hiện sự mưu trí, dũng cảm của quân và dân ta làm cho địch một phen kinh hồn, bạt phía. Từ chiến thắng này lực lượng ta ngày càng thêm lớn mạnh, góp phần đánh bại kế hoạch đánh nhanh, thắng nhanh của địch, buộc chúng phải rơi vào thế bị động. Quần thể danh thắng đá Chồng, Thác Mai, sông La Ngà và Tượng đài chiến thắng La Ngà là một quần thể du lịch kì thú của Định Quán. Vẻ đẹp kỳ thú của Hòn Ba Chồng, Núi Đá Voi, Hòn Dĩa, cùng với ngôi chùa thiên nhiên dưới chân núi đá là những cụm tiêu biểu tạo thành cảnh đẹp hài hòa cho khu danh thắng Đá Chồng. Quần thể Đá Chồng Định Quán còn là nơi lưu lại những dấu tích của cuộc sống người tiền sử. Tại đây dưới các mái đá, ven các khe suối và cả các sườn dốc ven thung lũng đã phát hiện nhiều công cụ sản xuất, sinh hoạt của người xưa bằng đá, đồng, đất nung. Trong suốt cuộc kháng chiến dài 30 năm. Định Quán là một phần quan trọng của Chiến khu Đ. Đá Chồng đã chứng kiến sự hình thành, phát triển, trú quân, triển khai chiến đấu của lực lượng cách mạng. Ngày nay, một phần đất của khu danh thắng Đá Chồng Định Quán đã được sử dụng, xây dựng thành khu Trung tâm văn hóa thể thao huyện Định Quán. Tương lai không xa khu danh thắng Đá Chồng Định Quán sẽ được đầu tư tôn tạo góp phần làm cho cảnh quan thiên nhiên ngày càng tươi đẹp, là địa điểm du lịch sinh thái hấp dẫn. Nguồn: Uỷ Ban Nhân Dân Huyện Định Quán
Đồng Nai 6262 lượt xem
Di tích tòa Đại sứ Mỹ còn được gọi "Nhà trắng phương Đông" là nơi xuất phát các âm mưu thâm độc về quân sự lẫn chính trị nhằm thôn tính lâu dài đất nước Việt Nam, địa điểm di tích là tòa nhà 5 tầng xây dựng theo kiến trúc hiện đại, tọa lạc tại góc đường Mạc Đĩnh Chi - Lê Duẩn, Phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, trên một mảnh đất rộng gần 5.000m2. Trước đó, tòa đại sứ Mỹ nằm tại số 39 đường Hàm Nghi. Khoảng 10 giờ sáng ngày 30/3/1963, tòa đại sứ Mỹ trên đường Hàm Nghi đã bị đội Biệt động F21 đánh chất nổ làm sập 3 tầng lầu: 1, 2, 3 do đó Mỹ đã quyết định xây lại. Tòa nhà được khởi công xây dựng vào năm 1965, hầu hết vật liệu cũng như máy móc xây dựng đều được chở từ Mỹ sang, dưới sự điều khiển của kỹ sư người Mỹ. Theo thiết kế, tòa nhà bao bọc bởi 7.800 viên đá Taredo có khả năng chống đỡ mìn, đạn pháo. Cửa chính trang bị bằng thép dầy, những cửa khác chắn bởi lớp kín dầy đặc biệt chống đạn. Tất cả cửa sử dụng hệ thống tự động kể cả cửa sắt chắn lối lên các tầng lầu. Bên trong tòa nhà gồm 140 phòng với 200 nhân viên phục vụ ngày đêm ngoài ra bên cạnh tòa nhà còn được xây thêm một dãy nhà phụ gọi là khu "Norodom" dành riêng cho nhân viên C.I.A. Khi khánh thành, tòa nhà chỉ có 3 tầng. Cuối năm 1966 xây thêm 2 tầng và 1 sân thượng dùng làm nơi hạ cánh cho máy bay lên thẳng. Bao quanh tòa nhà là bức tường cao 3m, hai đầu tường sát đường Lê Duẩn xây 2 lô - cốt cao, canh gác ngày đêm. Tòa Đại sứ hoàn thành tháng 9/1967 với một hệ thống phòng thủ như là một pháo đài có 60 lính gác, một hầm tránh bom, một hệ thống màn hình ra-đa nhằm kiểm soát mặt tiền. Ngay sau khi tòa nhà hoàn tất, ngày 24/9/1967, hàng ngàn sinh viên, học sinh kéo đến trước cổng Đại sứ quán Mỹ đấu tranh đòi "Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc", "Mỹ cút về nước" và ra thông báo tố cáo Mỹ "chà đạp và vi phạm nghiêm trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam". Nhưng sự kiện nổi bật xảy ra tại Tòa Đại sứ Mỹ là trận đánh của Biệt động thành trong Tổng Tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968. Mục tiêu đánh Đại sứ quán Mỹ được bổ sung ngày 24/ 1/1968 do Ngô Thành Vân phụ trách chung. Đội Biệt động 11 nhận lãnh nhiệm vụ quan trọng này gồm đội trưởng Út Nhỏ (đội trưởng trinh sát quân khu) và các chiến sĩ: Bảy Truyền, Tước, Thanh, Chức, Trần Thế Ninh, Chính, Tài, Văn, Đực, Cao Hoài Vinh, Mang, Sáu và 2 lái xe: Trần Sĩ Hùng và Ngô Văn Thuận. Một sự kiện khác cũng không kém phần tủi nhục cho Toà Đại sứ Mỹ là cảnh hỗn loạn tháo chạy xảy ra trong 2 ngày 29 và 30/04/1975 của Mỹ và đồng bọn. Trước sức tấn công thần tốc của quân và dân Việt Nam trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, trên 1.000 người Mỹ và hơn 5.000 người Việt thân Mỹ đã chen lấn, xô đẩy, đạp nhau để tranh giành một chỗ trên sân thượng của toà nhà hòng được trực thăng cứu thoát. Di tích này đã được cấp bằng công nhận của Bộ Văn hoá ngày 25/6/1976. Hiện nay, toà nhà Đại Sứ Mỹ đã bị phá bỏ, xây mới thành lãnh sự quán tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng cạnh đó một bia tưởng niệm ghi nhớ mãi chiến công của các chiến sĩ biệt động đã hy sinh trong trận đánh. Nguồn: Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 4948 lượt xem
Thời kỳ nhà Mạc đóng đô ở Cao Bằng, để phòng bị quân nhà Lê tiến đánh, nhà Mạc đã tu bổ, sửa chữa thành Na Lữ (nay thuộc xã Hoàng Tung, Hòa An) và thành Bản Phủ (nay thuộc xã Hưng Đạo), thành Phục Hòa, ngoài ra còn xây dựng nhiều thành lũy khác ở Cao Bằng, làm cho Cao Bằng trở thành một trung tâm chính trị và quân sự ở vùng biên viễn Đông Bắc thời bấy giờ. Thành Na Lữ và thành Phục Hoà là hai thành được xây dựng từ trước. Theo ghi chép của Bế Hựu Cung trong Cao Bằng thực lục, thành Na Lữ và thành Phục Hòa mở đầu từ đời Đường Ý Tông năm Giáp Thân, niên hiệu Hàm Thông thứ 5 (874). Căn cứ vào sự hiện diện của nhiều ngôi mộ cổ có đá khắc ghi bia mộ tên, địa chỉ, quê quán những người phu dịch xây thành chết ở đây từ thời Hàm Thông có thể khẳng định hai thành này xây từ đời Đường. Thành Na Lữ được xây qua nhiều triều đại khác nhau. Khi nhà Mạc lên Cao Bằng đã cho xây lại bằng gạch. Thành Na Lữ có hình gần chữ nhật, có tổng diện tích khoảng 37,5 ha, chiều dài khoảng 800 m, chiều rộng khoảng 600 m, thành có 4 cửa. Thành Bản Phủ tại kinh đô Nam Bình, nước Nam Cương của Thục Phán khi xưa ở Cao Bình (Cao Bằng), nhà Mạc đã tu bổ thành Vương phủ tại vòng trong của kinh đô cũ Nam Bình và được gọi là thành Bản Phủ hay Vương phủ. Tại kinh đô Nam Bình xưa của nước Nam Cương và của nhà Mạc, thành Bản Phủ vẫn còn dấu tích khá rõ nét. Kinh đô Nam Bình gồm có hai vòng thành, để bảo vệ kinh thành, vòng ngoài có chu vi khoảng 5 km, gồm cả một vùng gò đồi thấp, quanh chân đồi được bạt dựng đứng như một bức tường thành, thuận lợi cho việc xây dựng phòng tuyến bảo vệ. Bờ thành phía Tây chạy song song với bờ sông Bằng đến đầu làng Bó Mạ, nối bờ thành Đông Nam chảy qua trước mặt Bản Phủ theo chân đồi ra gặp quốc lộ 4, phía Đông Bắc chạy theo chân đồi sát phía ngoài quốc lộ 4, lên đến Đầu gò là phía Tây Bắc tiếp tục chạy theo chân đồi, ra đến bờ sông gặp bờ thành phía Tây tạo thành một vòng thành khép kín. Khi nhà Mạc lên đóng đô đã tu sửa lại và xây dựng thêm một số công trình, trong đó thành Bản Phủ (thành nội - nơi của vua làm việc) được xây lên cao hơn trên các tường thành cũ từ thời kỳ Thục Phán, thành nằm trên một khu đất bằng phẳng. Cùng với việc xây dựng lại kinh thành, nhà Mạc còn xây dựng một hệ thống đồn bốt, thành lũy khá dày xung quanh kinh đô và một số điểm biên giới quan trọng, tạo thành một hệ thống bảo vệ kinh thành và bảo vệ biên giới. Thành Phục Hòa (huyện Phục Hoà) được xây theo kiểu hình vuông, mỗi chiều khoảng 400 m, gồm hai vòng thành, khoảng cách giữa hai vòng là 80 m. Hiện nay, tường thành phía Nam đã bị phá huỷ hoàn toàn. Thành Phục Hòa có 2 cổng chính: Cổng phía Bắc được mở thông ra quốc lộ đi Cửa khẩu Tà Lùng ngày nay, nhân dân thường gọi là Pác Cổng, cổng này được xây theo kiểu hình chữ nhật, rộng 8 m, cao 5 m, gồm hai cánh cổng làm bằng gỗ nghiến dày rất chắc chắn; cổng thứ hai ở phía Nam, mở thông ra bờ sông. Cả hai cổng đều bị san phẳng từ lâu, hiện nay không còn vết tích. Gần thành, tại phía Tây Bắc ngoại thành dọc bờ sông còn có nhiều vết tích lò nung gạch, nhân dân cho biết trong quá trình lao động, khai phá đã tìm thấy ở khu vực này nhiều lò gạch còn nguyên vẹn. Qua nghiên cứu, khảo sát cho thấy, tại Cao Bằng, nhà Mạc đã tu bổ, tôn tạo và xây dựng thêm nhiều thành, đồn luỹ, trong đó tu bổ, tôn tạo xây lại thành Bản Phủ, thành Na Lữ, thành Phục Hoà. Các đồn luỹ này đã tạo thành một hệ thống liên hoàn bảo vệ kinh thành khá vững chắc. Đến nay, những thành cổ nhà Mạc xây dựng thời kỳ đóng đô ở Cao Bằng, một số thành xây dựng bằng đất chỉ còn vết tích, nhưng các thành được xây bằng đá vẫn còn rất rõ. Nguồn: Báo Cao Bằng điện tử
Cao Bằng 4921 lượt xem
Di tích Ngã Ba Giồng là di tích lịch sử cách mạng thuộc Ấp 5, xã Xuân Thới Thượng, huyện Hóc Môn. Được bao quanh bởi ba con đường: Phan Văn Hớn, Nguyễn Văn Bứa và tỉnh lộ 19. Khu di tích Ngã Ba Giồng là khu tưởng niệm về những sự kiện lịch sử trong hai cuộc khácg chiến chống ngoại xâm. Được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia vào năm 2002. Ngã ba Giòng (còn có tên gọi đầy đủ là Ngã ba Giòng Bằng Lăng) nằm trên địa phận thôn Xuân Thới Tây thuộc 18 thôn vườn trầu xưa được hình thành từ những năm 1698 đến năm 1731. Từ lâu đời, Ngã ba Giồng là 1 địa danh có tên gọi dân gian đã đi vào lịch sử của quê hương 18 thôn vườn trầu Hóc Môn – Bà Điểm. Tục truyền rằng xưa kia nơi đây là 1 vùng đất giồng tương đối cao ráo và là nơi mọc nhiều cây bằng lăng nên địa danh này có tên gọi từ đó. Sau khi cuộc khởi nghĩa Nam kỳ (23/11/1940) bị thất bại, thực dân Pháp đã tăng cường đàn áp, khủng bố khốc liệt phong trào cách mạng vùng Hóc Môn – Bà Điểm. Chúng đã lập ra ở Hóc Môn 3 trường bắn để giết hại các đồng chí lãnh đạo Đảng, các đồng chí đồng bào yêu nước của quê hương Hóc Môn và các vùng lân cận. Ngã ba Giồng là trường bắn thứ ba ghi lại tội ác tày trời của giặc pháp và bọn tay sai đối với nhân dân Hóc Môn. Rút kinh nghiệm từ 2 trường bắn trước (1 tại rạp hát cũ trung tâm Quận lỵ Hóc Môn, 1 cạnh giếng nước sau Bệnh viện Hóc Môn ngày nay), chúng xử bắn công khai, bắt nhân dân đến xem nhằm mục đích uy hiếp tinh thần cách mạng của nhân dân Hóc Môn. Nhưng cách xử bắn đó đã phản tác dụng, nhân dân Hóc Môn đã tận mắt chứng kiến sự tàn ác của thực dân Pháp, sự hy sinh cao cả của các chiến sĩ cộng sản nên ngọn lửa yêu nước của họ càng bùng lên mãnh liệt. Trường bắn thứ 3 này, chúng không dám xây dựng gần trung tâm Quận lỵ nữa mà đưa ra khu vực Ngã ba Giồng là vùng hoang vắng, thưa dân để tránh sự phản kháng của nhân dân. Tại đây, chúng xây dựng thành 1 trường bắn có mô đất kiên cố dài 12m, cao 2,2m, phía trước có trồng 6 cột bắn, mỗi cột cao 1.7m, hướng bắn quay về phía đồng ruộng (bưng Tràm Lạc). Vào năm 1941, tại đây chúng lén lúc xử bắn rất nhiều lần, không cho nhân dân xem, hàng trăm chiến sĩ cộng sản và đồng bào yêu nước bị chúng giết hại. Với ý nghĩa lịch sử vô cùng thiêng liêng của Ngã ba Giồng, nơi ghi dấu tội ác dã man của giặc Pháp, nơi thể hiện ý chí chiến đấu bất khuất kiên cường và sự hy sinh cao cả của đồng chí và đồng bào ta sau cuộc khởi nghĩa Nam kỳ (23/11/1940); sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (30/4/1975), huyện Hóc Môn đã nhanh chóng khôi phục và tôn tạo khu di tích lịch sử cách mạng Ngã ba Giồng nhằm giáo dục truyền thống cho các thế hệ thanh thiếu niên. Nơi đây đã trở thành điểm tham quan, nơi tổ chức lễ hội truyền thống trong những ngày lễ lớn hàng năm của huyện Hóc Môn và thành phố đặc biệt là lễ kỷ niệm ngày Nam kỳ Khởi nghĩa (23/11). Hiện nay được sự nhất trí của thành phố, huyện đang tiến hành tôn tạo xây dựng Ngã ba Giồng thành “Khu tưởng niệm liệt sĩ Ngã ba Giồng”. Nguồn: Cổng thông tin điện tử Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 4646 lượt xem
Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt, tọa lạc ấp Xóm Tháp, xã Tân Phong, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử - văn hóa ngày 23 tháng 7 năm 1993. Đồng thời là một trong ba công trình tháp cổ cuối cùng còn lại ở miền Nam nước ta. Trải qua nhiều lần trùng tu vào các năm 1938, 2003 và gần đây nhất là vào năm 2013. Mặc dù trải qua các đợt trùng tu tôn tạo, nhưng khu di tích tháp cổ Chót Mạt đã mang cho mình một diện mạo mới nhưng vẫn giữ nguyên được tinh thần kiến trúc cổ. Toàn bộ tòa Tháp được xây dựng bằng gạch và đá phiến với phần đỉnh tháp nhọn dần lên, từ mặt đất lên nơi cao nhất của đỉnh tháp được ước tính là 10m. Ngoài ra, ngọn tháp cổ này nằm trên gò đất cao giữa cánh đồng nên nhìn từ xa nó tựa như ngọn bút đang vươn lên cao dần. Năm 2003 Uỷ ban nhân dân tỉnh Tây Ninh quyết định phê duyệt dự án đầu tư trùng tu tôn tạo bảo tồn di tích tháp Chót Mạt và được tiến hành triển khai trùng tu tôn tạo phục hồi, trưng bày mở hố khai quật năm 2003 đưa vào sử dụng. Ngày 27/11/2019 UBND tỉnh ban hành Quyết định Quy định về phân cấp quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. Quyết định giao UBND huyện Tân Biên trực tiếp quản lý 4 di tích, trong đó có di tích cấp Quốc gia di tích Lịch sử- văn Hóa Tháp Chót Mạt. Đặc biệt Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt trên địa bàn xã Tân Phong, huyện Tân Biên được chọn nằm trong chũi liên kết phát triển du lịch của Tỉnh Tây Ninh. Đây là một địa điểm tham quan rất đáng để khám phá, góp phần phát triển du lịch trên địa bàn xã Tân Phong nói riêng và huyện Tân Biên nói chung. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Tây Ninh
Tây Ninh 4598 lượt xem
Dinh Quận Hóc Môn tọa lạc tại số 1, đường Lý Nam Đế, thị trấn Hóc Môn, (cạnh trụ sở UBND huyện) là nơi để lại nhiều sự kiện đấu tranh nổi bật suốt chặng đường dài lịch sử từ 1885 đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng của Nhân dân 18 Thôn vườn trầu. Sau khi hạ được Đại đồn Chí Hòa, thực dân Pháp xây dựng tại nơi đây một ngôi nhà gỗ cao 3 tầng dùng làm Đồn binh. Khi tên Trần Tử Ca về nhậm chức Đốc Phủ, dùng Đồn làm Dinh huyện Bình Long. Vốn là một tay say quỷ quyệt của thực dân Pháp, Trần Tử Ca bị nhóm do các ông Phan Văn Hớn (Quản Hớn) và Nguyễn Văn Quá (Chánh Lãnh Binh) cầm đầu gần 1.000 nghĩa quân tiến về đốt Dinh Quận, bắt và cắt đầu bêu giữa chợ. Đó là ngày 8/2/1885 Tết Ất Dậu. Sau đó, Dinh Quận Hóc Môn được xây dựng lại với nền móng đá xanh, tường gạch, có hệ thống phòng thủ từ lầu cao đến tận vòng rào. Lối kiến trúc y như Đồn binh nên người địa phương gọi là Đồn Hóc Môn. Trấn nhậm thay Trần Tử Ca là Đốc phủ Ngôn, đến Quận Trà rồi Quận Thọ. Đây là khoảng thời gian dài người dân vùng Hóc Môn hứng chịu bao cảnh tham tàn, bỉ ổi của thực dân Pháp và bọn tay sai đầu sỏ kể trên. Với truyền thống kiên cường bất khuất của Nhân dân Hóc Môn. Ngày 4/6/1930, khoảng 6 giờ sáng trước Dinh Quận, hàng trăm bà con Hóc Môn kéo biểu tình đòi “bãi bỏ thuế thân, giảm các thuế môn bài và thuế chợ, cấp đất cho dân cày nghèo”. Quận Trà cho mời những người cầm đầu vào Dinh thương lượng, nhưng chúng xảo quyệt bắt giữ họ trong đó có ông Lê Văn Uôi (Bí thư xã Tân Thới Nhì), là người cầm đầu cuộc biểu tình. Mọi người không nao núng, quyết liệt đòi hỏi Quận Trà phải thả những người bị cầm giữ. Đoàn biểu tình càng lúc càng đông, khí thế đấu tranh có phần lan rộng, khiến Quận Trà nhượng bộ. Một mặt chúng thả những người bị giữ, mặc khác chúng gọi điện cho quan thầy ở Sài Gòn cứu viện. 2 giờ sau, cuộc đấu tranh bị 2 tên Blachôlê và Nobbot chỉ huy bắn xối xả vào đoàn biểu tình, gây thương vong nhiều người. Nhưng sự kiện lịch sử gây ấn tượng nhất tại Dinh Quận Hóc Môn là cuộc khởi nghĩa Nam kỳ ngày 23/11/1940. Đồn Hóc Môn rất kiên cố, xây bằng đá xanh như là một pháo đài, cao khoảng 15 thước, có ụ súng và hệ thống phòng thủ lỗ châu mai do một trung đội lính khố xanh trấn giữ. Ngày 22/11/1940, Pháp tăng cường thêm 1 trung đội để đối phó với tình hình. Chiều 22/11/1940, cánh quân của ông Đỗ Văn Cội đột nhập vào thị trấn, giả dạng thường dân, phục kích sau lưng Đồn chờ lệnh cướp Đồn. Một cánh quân khác có nhiệm vụ phá cầu, đốn cây ngăn lộ, đánh chiếm các công sở, nhà việc... Cánh quân từ Phước Vĩnh An, Tân Thông, Tân An Hội, Tân Phú Trung do ông Phạm Văn Sáng và Đặng Công Bỉnh chỉ huy, xuất phát từ ấp Bến Đò, đánh chiếm nhà việc, diệt 1 tên, thu 4 súng, làm chủ tình hình tại đây (Tân Phú trung). Liền đó cánh quân này được lệnh kéo về Hóc Môn. Cánh quân Long Tuy Thượng do ông Bùi Văn Hoạt chỉ huy. Cánh quân thuộc Tổng Long Tuy Trung do ông Đỗ Văn Dậy và Lê Bình Đẳng chỉ huy. Khoảng 24 giờ đêm ngày 22/11/1940, vẫn chưa nghe thấy tiếng pháo lệnh ở Sài Gòn. Sau khi hội ý, các vị chỉ huy những cánh quân thống nhất tấn công Đồn giặc. Lập tức các cánh quân tiến thẳng về Đồn Hóc Môn, nơi trú ngụ của tên Quận trưởng Bùi Ngọc Thọ. 2 nghĩa quân tên Nghé và Kinh xung phong vào cổng trước, hy sinh. Nghĩa quân bốn phía xông vào Đồn như nước vỡ bờ. Trước sức mạnh của nghĩa quân và quần chúng, bọn lính trong Đồn không còn tinh thần kháng cự, bỏ chạy tán loạn. Nghĩa quân chiếm lĩnh hoàn toàn bên trong Đồn nhưng trên lầu, địch vẫn ngoan cố dùng súng bắn tẻ, cùng lúc gọi điện về Sài Gòn, Thủ Dầu Một cấp cứu. Vì nóng lòng bắt cho được tên Quận Thọ nên đồng chí Đỗ Văn Dậy bám ống máng nước để leo lên tầng trên Đồn. Đến lưng chừng bị trúng đạn, đồng chí bị rơi xuống và hy sinh sau đó. Cuộc chiến đấu đang thế giằng co thì viện binh địch đến. Không thể cầm cự, nghĩa quân rút khỏi thị trấn, phân tán về các làng, lực lượng vũ trang rút về ấp Bến Đò (Tân Phú Trung) rồi di chuyển sang ấp Mỹ Hạnh (Đức Hòa). Cuộc tiến công Đồn Hóc Môn (sau gọi là Dinh Quận Hóc Môn) tuy thất bại nhưng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng mọi người dân sự khâm phục lòng dũng cảm của các chiến sĩ cách mạng trong cuộc chiến đấu chống thực dân cướp nước. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, 7 giờ sáng ngày 30/4/1975, thị trấn Hóc Môn hoàn toàn được giải phóng, lá cờ Tổ quốc phất phới bay trên Dinh Quận, nơi tên Quận trưởng Nguyễn Như Sang và bọn tay sai đã chạy trốn từ tối đêm trước. Ngày nay Dinh Quận Hóc Môn được chọn làm Bảo tàng huyện, nơi đây tập trung nhiều tư liệu trưng bày, minh họa các giai đoạn lịch sử thăng trầm cũng như khí thế đấu tranh cách mạng của quân và dân trong huyện Hóc Môn qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Một Tượng đài đặt trước di tích Dinh Quận Hóc Môn thể hiện gương hy sinh bất khuất của quân và dân 18 Thôn Vườn trầu, được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn: Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 4587 lượt xem
Mai Xuân Thưởng là người lãnh đạo phong trào Cần Vương chống Pháp cuối thế kỷ XIX ở Bình Định. Mai Xuân Thưởng sinh năm Canh Thân 1860, mất năm Đinh Hợi 1887 người thôn Phú Lạc, tổng Phú phong, huyện Tuy Viễn, tỉnh Bình Định (nay là thôn Phú Lạc, xã Bình Thành, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Cha là Mai Xuân Tín làm Bố chánh ở Cao Bằng, mẹ là Huỳnh Thị Nguyệt con của một nhà quyền quý trong làng. Mai Xuân Thưởng vốn là người thông minh, ham học. Năm 18 tuổi (1878) ông đỗ Tú tài tại Trường thi Bình Định. năm 25 tuổi (1885) thi đỗ cử nhân. Hưởng ứng chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi, Mai Xuân Thưởng về quê Phú Lạc, chiêu mộ nghĩa binh, lập căn cứ ở hòn Sưng dựng cờ cần vương chống Pháp, sau đó Mai Xuân Thưởng đã đem lực lượng của mình gia nhập vào nghĩa quân do Đào Doãn Địch lãnh đạo và được Đào Doãn Địch phong giữ chức Tán lương quân vụ (phụ trách về lương thực của nghĩa quân). Kể từ đó cho đến năm 1887, phong trào cần vương ở Bình Định phát triển mạnh mẽ và lan ra đến Quảng Ngãi, Phú Yên...thu hút hàng chục ngàn người thuộc mọi tầng lớp tham gia. Ngày 20/9/1885 Đào Doãn Địch mất, giao toàn bộ lực lượng cho Mai Xuân Thưởng. Ông chọn vùng núi Lộc Đổng (nay thuộc xã Bình Tường, huyện Tây Sơn) làm đại bản doanh và tổ chức lễ tế cờ , truyền hịch kêu gọi sỹ phu, văn thân, nhân dân tham gia phong trào cần Vương chống Pháp. Trong buổi lễ ấy, nghĩa quân nhiều vùng trong tỉnh Bình Định đã nhất trí suy tôn ông làm Nguyên soái lãnh đạo cuộc khởi nghĩa và nêu cao khẩu hiệu: “Tiền sát tả, hậu đả Tây”. Đầu năm 1887, quân Pháp dưới sự chỉ huy của Trung tá Cherrean và quân triều đình do Trần Bá Lộc chỉ huy cùng với Công sứ Trira đã mở cuộc tấn công lớn lên căn cứ đại bản doanh của phong trào Cần Vương Bình Định, trận giao chiến giữa lực lượng nghĩa quân với giặc Pháp diễn ra vô cùng ác liệt, cuộc chiến đấu không cân sức, cuối cùng lực lượng khởi nghĩa bị đẩy lùi. Tháng 3 năm 1887, sau trận ác chiến ở Bàu Sấu (thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định), Mai Xuân Thưởng bị thương nặng, nghĩa quân rút về Mật khu Linh Ðổng. Ngày 21 tháng 4 năm 1887, Trần Bá Lộc bao vây đánh chiếm căn cứ mật khu Linh Đổng và bắt được một số nghĩa quân, trong đó có thân mẫu Mai Nguyên Soái. Đêm 30 tháng 4 năm 1887, Mai Xuân Thưởng đã cử một đội quân cảm tử đột nhập doanh trại Trần Bá Lộc, giải vây cho những người bị bắt, ông cùng đoàn thuộc hạ gồm 50 người vượt núi vào Phú Yên, tiếp tục kháng chiến, nhưng khi đến đèo Phú Quý (ranh giới giữa Bình Định và Phú Yên) thị bị phục binh Trần Bá Lộc bắt và đưa ra xử trảm tại Gò Chàm (Phía đông Thành Bình Định). Di tích Lăng mộ nhà yêu nước Mai Xuân Thưởng tọa lạc trên ngọn đồi cao của dãy núi Ngang (thuộc thôn Hòa Sơn, xã Bình Tường, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định) cách thành phố Quy Nhơn khoảng 50km về hướng Tây Bắc; Lăng mộ được xây dựng trên khu đất rộng 1988m2, khánh thành ngày 22 tháng 1 năm 1961.Về tổng thể, Lăng được thiết kế theo kiểu lăng mộ cổ, xung quanh có thành thấp bao bọc. Cổng Lăng (tam quan) là 4 trụ vuông, phía trên thắt lại theo kiểu bầu lọ mang dáng dấp kiến trúc cổng đình, miếu cuối thế kỷ XIX. Giữa nhà Lăng là mộ phần Mai Xuân Thưởng hình khối chữ nhật theo hướng Đông - Tây; Phía đầu mộ dựng tấm Bia đá khắc bài ký ghi tiểu sử và sự nghiệp của Mai Xuân Thưởng: Di tích được Bộ Văn hóa Thông tin quyết định xếp hạng cấp Quốc Gia ngày 20 tháng 4 năm 1995. Nguồn: UBND Huyện Tây Sơn tỉnh Bình Định
Bình Định 4548 lượt xem