Ứng dụng thuyết minh khám phá du lịch Việt Nam

Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch Travelviet

Tải ứng dụng Travelviet

Logo Travelviet

Di tích lịch sử

Việt nam

Chùa Ông

Chùa Ông (Quan Thánh Tự ) tọa lạc tại thị tứ Thu Xà, xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, cách thành phố Quảng Ngãi 10km về hướng đông. Chùa được 4 bang người Hoa Minh hương (Phúc Kiến, Triều Châu, Hải Nam, Quảng Đông) sống tại vùng Thu Xà kiến lập vào năm Minh Mạng thứ hai (1821) và đã trải qua 4 lần trùng tu vào các năm 1881, 1894, 1920, 1991. Chùa Ông thờ Quan Vũ ở gian chính điện, thờ Quán Thế Âm Bồ Tát (người vùng biển Trung Hoa và Việt Nam gọi là Phật Quan Âm Nam Hải) ở gian hậu cung theo mô hình “Tiền thánh hậu phật”. Ngoài ra ở hậu cung còn thờ Thiên Hậu, Kim Đẩu và 12 bà mụ. Về quy mô, tuy chùa Ông có vẻ khiêm nhường so với các ngôi chùa thờ Quan Công ở Hội An (Quảng Nam), nhưng ở đây có sự kết hợp hài hòa các yếu tố kiến trúc Hoa – Việt trong một tổng thể giàu tính thẩm mỹ. Theo hồ sơ của Bảo tàng Tổng hợp tỉnh Quảng Ngãi, chùa có tổng diện tích 2.730m2, bao gồm vườn chùa, tam quan, sân chùa và chùa. Tất cả được bao bọc bởi vòng 1, thành cao 1,2m, dày 0,5m theo kiểu chấn song con tiện. Chùa quay mặt về hướng đông. Từ ngoài vào, các công trình kiến trúc được bố trí trên một trục đạo, bố cục chặt chẽ, đăng đối theo tuần tự gồm: cổng tam quan, bình phong - trụ biểu, lầu trống - lầu chuông và chùa. Hai bên mặt tiền có hai cổng phụ thấp, phía sau chùa là miếu thờ Tiêu Diện Đại Sỹ. Cổng tam quan cấu trúc một gian, bốn cột, hai bộ vì chống rường trái bí, theo lối tam hoành. Hoành thứ 3 uốn cong hình thuyền trang trí đầu rồng đuôi phượng. Các hoành liên kết với nhau qua các vì chồng và gác qua đầu cột. Mái tam quan lợp ngói âm dương, đỉnh mái uốn cong dáng thuyền, trang trí hình rồng, đuôi phủ dây leo thực vật. Bờ mái trang trí dạng ô hộc với năm ô trang trí. Hai bên tả hữu cổng tam quan là miếu thờ bà Thiên Hậu. Bình phong cao 2m, bằng tam hợp chất, mặt trước đắp nổi hình mãnh hổ nhe răng vểnh đuôi trông rất sống động, mặt sau đắp nổi hình con ly trên cụm mái. Hai bên bình phong là hai trụ biểu. Lầu chuông, lầu trống xây dựng đăng đối qua trục đạo. Chùa Ông hiện còn giữ 6 bia đá, văn bia chữ Hán, tạo dựng vào các năm 1895 (Thành Thái thứ 7 ), 1920 (Khải Định thứ 5), là các năm chùa trùng tu. Bia đá trang trí chạm nổi lưỡng long tranh châu ở trán bia, diềm bia trang trí đầu rồng mình quấn dây leo thực vật. Văn bia ghi lại danh sách những người cúng tiền trùng tu gồm tên người, nơi ở, số tiền cúng. Nhìn chung, nghệ thuật trang trí ở chùa Ông đạt đến trình độ khá tinh xảo, đặc biệt là kỹ thuật đắp nổi, chạm nổi, chạm thủng, chạm lộng trên các bình phong, vách gỗ, khám thờ, vì kèo, bẫy hiên, trụ chồng, tượng, diềm bia...Chùa Ông có sự giao thoa, kết hợp hài hòa các yếu tố kiến trúc của người Việt và người Hoa. Bên cạnh cấu kiện và vật liệu chủ yếu của nhà rường truyền thống ở miền Trung (các vì kèo chồng rường chày cối, vì kèo chồng rường giả thủ) còn có sự xuất hiện vì kèo trốn trính chuyền của đồng bằng Bắc Bộ và bộ vì kèo chồng rường trái bí phong cách Hoa Bắc. Chùa Ông được Bộ Văn hóa Thông tin và Thể thao (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận Di tích quốc gia theo quyết định số 43 Văn Hóa /Quyết Định ngày 7/1/1993. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Ngãi.

Quảng Ngãi 365 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Chùa Linh Quang

Từ khi tạo dựng đến nay, người dân trên đảo gọi tên chùa là “Linh Quang Tự” nhằm cầu mong hào quang, ánh sáng của chùa luôn linh hiển soi sáng để cứu độ dân chúng trên đảo có cuộc sống an bình và hạnh phúc. Linh Quang Tự là ngôi chùa khởi đầu gắn liền với sự truyền bá ánh sáng Phật Giáo ở Phú Quý. Không chỉ là một nơi có quang cảnh đẹp, mà Linh Quang Tự là ngôi chùa tiêu biểu trên các lĩnh vực lịch sử, văn học, nghệ thuật so với các ngôi chùa khác ở trên đảo. Linh Quang Tự là ngôi chùa cổ nổi tiếng về qui mô cũng như nghệ thuật kiến trúc, tôn giáo, lễ nghi, có những cảnh trí thiên nhiên đa dạng xứng đáng là danh lam thắng cảnh của đảo Phú Quý. Nếu tính niên đại chính thức của ngôi chùa theo gia phả để lại thì chùa được kiến tạo, tu bổ lại vào năm Đinh Mão 1747 đời Vua Lê Hiển Tông – niên hiệu Cảnh Hưng thứ 8. Đến nay (2017) ngôi chùa đã có niên đại 270 năm và cũng đến nay đây là một trong những ngôi chùa có niên đại sớm nhất ở Bình Thuận. Với những giá trị và ý nghĩa tiêu biểu đó, chùa Linh Quang được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng thắng cảnh cấp Quốc gia tại Quyết định số 51 Quyết Định /Bộ Trưởng ngày 12/01/1996. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Phú Quý, tỉnh Bình Thuận.

Bình Thuận 411 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đồi Cát Trắng Mũi Né ( Bàu Trắng)

Bàu Trắng (hay Bàu Cát, Bạch Hồ, Bàu Sen) là một hồ nước ngọt ở tỉnh Bình Thuận, cách thành phố Phan Thiết khoảng 62 km về hướng Đông Bắc, thuộc thôn Hồng Lâm, xã Hòa Thắng, huyện Bắc Bình (trước đây thuộc xã Bình Nhơn, huyện Hòa Đa cũ). Theo truyền thuyết nơi đây là một hồ lớn, sau người dân đắp đập cát chạy vắt ngang hồ để đi qua. Hồ lớn này từ đó bị chia thành 2 phần: tiểu hồ và đại hồ. Do "Bàu" trong tiếng địa phương nghĩa là "hồ" nên từ rất lâu, người địa phương đã gọi là tiểu hồ là Bàu. Năm 1867 khi Hồ Chí Thông đi ngang qua đây, thấy cảnh đẹp của Bàu Trắng mà cụ gọi là "Bạch Hồ". "Bạch Hồ" bắt đầu xuất hiện trong thơ của Nguyễn Thông và cũng từ đó trở thành tên mà giới thi nhân gán cho Bàu Trắng. Bàu Trắng chia thành 2 phần bởi một đồi cát vắt ngang qua. Nhân dân ở đây từ xưa đã gọi là Bàu Ông và Bàu Bà. Bàu bà rộng hơn Bàu Ông và chứa lượng nước nhiều hơn. Độ sâu của Bàu Bà là 19m vào mùa mưa. Xung quanh Bàu Bà trồng rất nhiều sen. Sen được cư dân trồng với mục đích thu hoạch hạt và ngó. Chính vì việc trồng sen tại khu vực này khiến cho cảnh quan thêm phần đặc sắc. Nhỏ hơn Bàu Bà, thế nhưng có một con đê ngăn cách giữa 2 hồ lại. Bàu ông nước cạn hơn và không ngọt bằng Bàu Bà. Sở hữu vẻ đẹp thiên nhiên hiếm có, Bàu Trắng là điểm tham quan nổi tiếng mà hầu hết du khách không thể bỏ qua mỗi khi chọn Bình Thuận là nơi nghỉ dưỡng, tham quan, vui chơi giải trí. Với tổng diện tích khoảng 45 ha, điểm du lịch bao gồm 23,2 ha thuộc đất 3 loại rừng do Ban Quản lý rừng phòng hộ Lê Hồng Phong quản lý, còn lại 2,8 ha đất và 19 ha mặt nước do Uỷ Ban Nhân Dân xã Hòa Thắng quản lý. Năm 2013, nơi đây được công nhận là địa điểm nằm trong top 100 điểm đến ấn tượng của Việt Nam, trong giai đoạn 2014 - 2016 tiếp tục nhận danh hiệu điểm đến ưa thích Asean và top 100 điểm yêu thích khu vực phía Nam. Đặc biệt năm 2019, Bàu Trắng vinh dự đón nhận Bằng xếp hạng di tích danh lam thắng cảnh cấp quốc gia theo Quyết định của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Nguồn Cổng thông tin huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận.

Bình Thuận 402 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Chùa núi Tà Cú

Chùa núi Tà Cú (người địa phương hay gọi đơn giản là chùa Núi) là một ngôi chùa tọa lạc trên núi Tà Cú ở độ cao hơn 400 m, thuộc thị trấn Thuận Nam, huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận, gần Quốc lộ 1, cách Phan Thiết 28 km về phía Nam. Chùa này là một di tích lịch sử - văn hóa quốc gia của Việt Nam. Vào giữa thế kỷ 19 nhà sư Trần Hữu Đức (1812-1887) pháp danh Thông Ân, pháp hiệu Hữu Đức từ Phú Yên vào Bình Thuận dựng một thảo am ở làng Kim Thạnh (Bàu Trâm) vừa tu hành vừa bốc thuốc. Ông đã từng tu hành và góp nhiều công sức chăm lo Phật sự ở nhiều chùa tại Bình Thuận như chùa Cổ Thạch, Linh Sơn (Tuy Phong), Phước Hưng (Phan Thiết) và một số chùa ở đảo Phú Quý. Năm 1872 nhà sư lên núi Tà Cú tu hành trong một hang đá (sau này gọi là hang Tổ). Cho đến lúc mất, sư Hữu Đức không xuống núi nữa. Lúc đương thời nhà sư Hữu Đức là một thầy thuốc giỏi. Năm Tự Đức thứ 33 (1880) hoàng thái hậu bệnh nặng, chư thần tâu xin rước sư về giúp trị bệnh nhưng nhà sư từ chối, chỉ gởi người về triều. Bệnh hoàng thái hậu hết, vua Tự Đức mới ban cho tên chùa là Linh Sơn Trường Thọ và nhà sư là "Đại lão hòa thượng". Đến khi nhà sư Hữu Đức viên tịch (nhằm ngày 5 tháng 10 năm 1887 âm lịch) thì sư Tâm Hiền lập ngôi chùa mới ở phía dưới, sau này gọi là chùa Dưới hay chùa Long Đoàn và chùa Linh Sơn Trường Thọ là chùa Trên. Phía trên chùa, cách hang Tổ khoảng 50 m là tượng Phật Thích Ca nhập Niết Bàn dài 49 m, cao 7 m. Tác phẩm do ông Trương Định Ý chủ trì, được đúc bằng bê tông cốt thép trong đợt trùng tu năm 1963. Cách pho tượng khoảng 50 m về phía dưới là nhóm tượng Di đà Tam tôn xếp thành hàng ngang, xây trên đài sen: tượng A Di Đà ở giữa cao 7 m, bên trái là tượng Quán Thế Âm và bên phải tượng Đại Thế Chí đều cao 6,5 m. Tháp mộ của Tổ và của các nhà sư trụ trì đã qua đời được chia thành hai cụm ở trước điện thờ và sau điện thờ. Tháp Tổ nằm trước điện thờ, bên cạnh có mộ con cọp tương truyền là đã được sư Hữu Đức thuần hóa. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bình Thuận.

Bình Thuận 376 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đình làng Tú Luông

Đình Tú Luông được gọi theo tên của làng Tú Luông ngày trước. Thuở sơ khai, đình dựng bằng tranh lá đơn sơ và dần dần nhiều thập niên sau đó mới được tôn tạo bề thế trang nghiêm. Như những đình khác ở Bình Thuận, đình Tú Luông do toàn thể hương chức và Nhân dân trong làng đóng góp công của tạo dựng nên. Năm 1995 - 1996, qua khảo sát, đối chiếu từ kết cấu kiến trúc, kỹ thuật xây dựng, nghệ thuật trang trí tạo hình, các di vật cổ còn lại ở đình và tìm hiểu gia phả của một số tộc họ định cư lâu đời ở trong làng, Bảo tàng và Sở Văn hóa thông tin Bình Thuận xác định niên đại tạo dựng đình Tú Luông vào khoảng đầu thế kỷ XIX. Hiện ngôi đình tọa lạc tại phường Đức Long, cách trung tâm thành phố Phan Thiết khoảng 1,5 km về hướng Tây Nam. Theo ông Nguyễn Hữu Tứ - Trưởng Ban quản lý đình làng Tú Luông, lúc mới khai lập, Tú Luông là một trong những làng quê có vị thế tọa lạc lý tưởng, thuận tiện cho việc làm ăn sinh sống và sớm có kinh tế ổn định ở Phan Thiết. Ở đình Tú Luông còn lưu giữ bức hoành cổ khắc ghi chữ Hán nói rõ về địa dư và cảnh quan của làng. Quần thể kiến trúc đình Tú Luông lúc mới tạo dựng khá quy mô, bề thế bao gồm đình thờ Thần, Tiền đường, cổng Tam quan, bình phong, gian thờ Tiền hiền, nhà Võ ca, nhà Nhóm, nhà bếp, cổng hậu và bức tường thành bao bọc xung quanh. Đình Tú Luông có một kết cấu kiến trúc đặc sắc riêng, ở đây sử dụng đồng thời 2 dạng kiến trúc dân gian tiêu biểu ở địa phương, đó là dạng kiến trúc “tứ trụ” và “trùng thiềm điệp ốc” phối kết hợp. Trong kết cấu kiến trúc, gỗ, gạch đóng vai trò quan trọng. Trong đó gỗ là vật liệu chính yếu để tạo nên bộ khung liên kết của từng nóc đình, tiếp đến là chất vữa pha chế bằng kinh nghiệm dân gian từ vôi, vỏ sò, cát, mật đường, nhựa cây... để làm chất kết dính xây dựng nên các bức tường vững chắc và các nóc đình trang nghiêm, cổ kính. Các vật liệu lợp và lát nền vẫn còn bảo lưu, đó là ngói âm dương cổ và gạch bát tràng vốn được sử dụng phổ biến trong các công trình kiến trúc dân gian lúc bấy giờ ở địa phương. Ngoài ra, ở đình còn lưu lại 2 chiếc đại hồng chung đúc đồng có niên đại vào cuối thế kỷ XIX. Cả 2 chiếc đại hồng chung đóng vai trò quan trọng trong việc hòa âm nhạc lễ hàng năm của đình. 6 long khám, 4 hương án, 3 bức bao lam và 2 chiếc án thư. Đây là những di vật đóng ghép bằng gỗ quý, được chạm trổ, điêu khắc công phu, sắc nét. Những di vật này có chức năng quan trọng trong việc bài trí thờ phụng ở nội thất. 20 bức hoành phi và 16 câu đối, toàn bộ chạm khắc chữ Hán cổ sắc nét trên những loại gỗ tốt. Mỗi bức có kích cỡ khác nhau, một số có chạm lộng viền quanh những hình tượng giao long, hoa lá thanh nhã. Nội dung ca ngợi uy quyền của thần linh, truyền lại cho con cháu về công ơn to lớn của ông bà, tổ tiên; chỉ giáo thế hệ đi sau nếp thuần phong mỹ tục và truyền thống tốt đẹp của dân tộc… Đình Tú Luông đã được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia vào năm 2001. Đây là nơi diễn ra các lễ hội dân gian trong không gian văn hóa. Hằng năm đình đều tổ chức rất nhiều đợt tế lễ. Lớn nhất là hai lệ xuân thu nhị kỳ vào tháng 2 và tháng 8 âm lịch. Thông qua đây, thế hệ hôm nay hiểu hơn về lịch sử địa phương, từ đó có ý thức trong việc giữ gìn giá trị văn hóa tốt đẹp của tiền nhân xưa. Nguồn Cổng thông tin điện tử phường Đức Long, thành phố Phan Thiết , tỉnh Bình Thuận.

Bình Thuận 431 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đền thờ và khu mộ cụ Nguyễn Thông

Ông sinh ngày 28/5/1827 tại làng Bình Thạnh, tổng Thạch Hội Hạ, huyện Tân Thạnh, phủ Tân An, tỉnh Gia Định (nay là xã Phú Ngãi Trị, huyện Châu Thành, tỉnh Long An), có tên tự là Hy Phần, hiệu Kỳ Xuyên, biệt hiệu Độn Am. . Thông minh, ham học nhưng Nguyễn Thông lại sớm mồ côi. Với sự nỗ lực vươn lên của mình, ông đã làm Tu Nghiệp Quốc Tử Giám. Khi Pháp xâm chiếm Nam Kì, ông cùng các sĩ phu nơi đây không chịu hợp tác và đi tị địa tại Bình Thuận. Cả cuộc đời mình, ông hết lòng lo cho nước, cho dân…Khi ông tròn 10 tuổi thì mẹ bạo bệnh qua đời. 7 năm sau thì cha ông cũng mất. Gia đình ông từ đấy lâm vào cảnh khốn khó, do đó Thông phải bươn chải kiếm sống để lo cho cả nhà. Ham học nhưng chẳng có thầy giáo kèm cặp nên hai anh em phải tự học với nhau. Cho đến khi ông Nguyễn Nhữ Hiền được triều đình bổ nhiệm đến làm phủ ở Tân An thì hai anh em tìm đến xin thọ giáo. Thời gian học thầy Hiền chẳng được bao lâu thì thầy lại bị điều về kinh đô. Năm 1849 (năm Kỷ Dậu, triều vua Tự Đức), Nguyễn Thông đã thi đỗ cử nhân, nhưng đến kì thi hội ông đã bị đánh rớt chỉ vì lí do là tập bài thi bị dính mực. Cũng bởi nhà nghèo nên Thông không thể tiếp tục sự nghiệp đèn sách được nữa và ông nhận chức huấn đạo tại Phú Phong – tỉnh An Giang. Năm 1855, ông ra Huế, rồi sau đó một năm được thăng chức Hàn Lâm viện tu soạn, vào làm trong nội các, tham gia soạn sách “Nhân sự kim giám” (Gương vàng soi việc người). Khi Pháp xâm chiếm miền Đông Nam Kì vào năm 1859, Nguyễn Thông đã tình nguyện tòng quân và làm tham mưu đắc lực cho Thống đốc quân vụ Tôn Thất Hiệp, trông coi việc cơ mật. Đại đồn Chí Hòa bị thất thủ năm 1861, rồi tỉnh Biên Hòa cũng bị Pháp chiếm đóng. Sau khi chiến đấu ở trận Chí Hòa, cậu ông là Trịnh Quang Nghi cùng bạn là Phan Văn Đạt lại chiêu mộ nghĩa binh chống quân Pháp ở Gò Công và Tân An. Nguyễn Thông đã tham gia phong trào ấy. Phan Văn Đạt bị Pháp bắt giết, còn Thông may mắn thoát được. Năm sau cậu ông lại giúp Trương Định rất đắc lực trong chức Tham tán quân vụ. Đến năm 1862, Pháp buộc ta phải nhượng 3 tỉnh miền Đông, nhờ cụ Phan Thanh Giản đề cử nên Nguyễn Thông được bổ nhiệm làm Đốc học Vĩnh Long. Tại đây ông vẫn giữ liên lạc với cậu, đồng thời vẫn liên lạc với các sĩ phu yêu nước, trong đó có những sĩ phu dời gia đình từ miền Đông sang. Cũng thời gian này, ông đã cho xây dựng lại Văn Thánh Miếu Vĩnh Long. Năm 1867, Pháp đã bức chiếm thành Vĩnh Long, ông và nhiều sĩ phu Nam Kì không chịu hợp tác nên đã tị địa ra tại Bình Thuận. Nguyễn Thông đã cùng chiến hữu bàn nhau việc điều tra, liên lạc với Biên Hòa, đồng thời cũng tích cực phát triển nghề nông, sản xuất lương thực lo kế lâu dài đánh Pháp. Chính ông đã tổ chức việc đi thám hiểm các vùng cao nguyên La Ngư, Ba Dầu (Bình Tuy), ghi rõ địa hình, địa thế khả năng khai hoang và vẽ rõ địa đồ. Sau đó, ông bị điều động đi Khánh Hòa, rồi ra Quảng Ngãi, Huế. Cuối 1867, ông làm Án Sát tỉnh Khánh Hòa và dâng sớ xin truy tặng tên thụy cho cụ Phan Thanh Giản và điều trần 4 vấn đề ích nước lợi dân nhưng bị triều đình Huế bác bỏ. Năm 1870, Nguyễn Thông làm Biện lí Bộ hình rồi Bố Chánh Quảng Ngãi. Đặc biệt ở Quảng Ngãi trong 3 năm, ông đã làm nhiều việc có lợi ích cho nông dân, nhất là công tác thủy lợi. Cũng thời gian này, ông bị mang một nỗi oan án là bị tố cáo xử án thất xuất nên bị triều đình cách chức, bị tống giam vào ngục và bị xử trượng. Người dân và quân lính đều rất thương mến ông nên đứng ra xin quan Khâm sai Nguyễn Bính mới vào nhậm chức tại Quảng Ngãi xem xét lại tội trạng của ông. Có người còn tự nguyện đến tận kinh thành gặp vua kêu oan cho ông. Vua thương tình nên tha cho ông và cho điều tra lại mới hay vụ việc này là do tên cường hào Lê Doãn vu cáo ông. Thời gian này, ông được triều đình chấp nhận 2 nguyện vọng, đó là: tổ chức trồng cây và định rõ việc học sử, xin ban cấp sách học các trường. Đến năm 1876, ông trở ra Huế làm Tu nghiệp Quốc Tử Giám. Ông cùng các ông Bùi Ước, Hoàng Dung Tân khảo duyệt bộ “Khâm định Việt sử cương mục”. và cũng nhân dịp về kinh đô Huế lần này, ông soạn bộ “Việt sử cương giám khảo lược”. Đồng thời ông dâng sớ và được chuẩn y việc khai khẩn vùng Tây Nguyên từ biên giới Campuchia đến Quảng Trị, thu nạp dân Nam Kì ra. Thế nhưng cuối cùng việc này đã bị quân Pháp phản đối nên triều đình Nguyễn ra lệnh bãi bỏ. Năm 1880, Nguyễn Thông làm Phó sứ diễn nông kiêm Đốc học tỉnh Bình Thuận, ông còn bàn với những người đồng hương tị địa chính thức lập Đồng Châu Xã để họ có tổ chức tương tự làm ăn, sản xuất ổn định cuộc sống tại Bình Thuận sau khi chạy lánh từ trong Nam ra. Ông dựng một ngôi nhà nhỏ bên cạnh sông Phan Thiết (nay là khu vực di tích Dục Thanh), đặt tên là Ngọa Du Sào (Tổ nằm chơi) để đọc sách, làm thơ, trên vách có vẽ một số cảnh tiêu biểu mà đời ông trãi qua. Ông chính thức coi Bình Thuận là quê hương thứ 2 của mình. Năm 1884, Nguyễn Thông mất. Mộ ông được xây cất dưới chân núi Cố (núi Ngọc Sơn) thuộc thôn Ngọc Sơn – phường Phú Hài – thành phố Phan Thiết – Bình Thuận. Ngôi mộ cụ Doanh điền sứ Bình Thuận Nguyễn Thông được xây dựng khá đơn giản và gần gũi. Mộ có chiều dài gần 9 mét rưỡi, rộng gần 6 mét rưỡi. Phần chính mộ đắp hình con lân như những ngôi mộ cổ của người đời xưa. Xung quanh khu mộ được trồng cây cảnh rất đẹp, nhìn vào khu lăng mộ Doanh điền sứ Bình Thuận bây giờ trông rất hoành tráng. Khu lăng mộ này đã được Nhà nước xếp hạng di tích lịch sử năm 1999. Tham quan khu lăng mộ, chúng tôi thật sự bồi hồi khi nhớ tới công lao của nhà hoạt động chính trị, xã hội, nhà giáo dục, nhà văn, nhà viết sử… Nguyễn Thông đối với dân tộc ta. Nguồn Cổng thông tin điện tử phường Phú Hài, thành phố Phan Thiết , tỉnh Bình Thuận.

Bình Thuận 430 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Danh lam thắng cảnh Vịnh Vĩnh Hy

Vịnh Vĩnh Hy nằm trên địa bàn xã Vĩnh Hải, huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận. Vĩnh Hy có nghĩa là mong muốn việc buôn bán sầm uất, náo nhiệt với nhiều cơ hội, nhiều may mắn, hướng về 1 cuộc sống an hòa, vui vẻ, bình yên. Vịnh Vĩnh Hy còn có tên gọi khác là Vũng Căng và Vũng Găng. Vịnh Vĩnh Hy cách trung tâm thành phố Phan Rang – Tháp Chàm khoảng 42km về phía Đông Bắc. Địa danh này là một trong những điểm đến thu hút đông đảo khách du lịch và được Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Thuận đưa vào đề án “Xây dựng và phát triển tuyến du lịch trọng điểm tỉnh Ninh Thuận” bao gồm: Làng nghề gốm Bàu Trúc, dệt Mỹ Nghiệp, tháp Pô Klong Garai, vườn nho Thái An và vịnh Vĩnh Hy. Vịnh Vĩnh Hy là một danh thắng đã được Tổ chức kỷ lục Việt Nam xác lập vào top 10 vịnh đẹp nhất của Việt Nam, nằm trong Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030. Từ bến tàu Vĩnh Hy đi theo hướng trái khoảng 5 phút đường biển, đầu tiên sẽ gặp Bãi Cóc trong và ngoài liền kề nhau. Đây là một bãi đá nổi lên mặt nước với hình dáng của 1 con cóc là “Cậu ông trời”. Tiếp đến là mũi Cá Voi hay còn gọi là mũi Tây Sa, là hình ảnh của một chú cá voi khổng lồ nhô lên mặt nước, hướng về phía biển như trấn giữ, che chở một cách thầm lặng nhằm mang lại sự bình yên cho vùng biển, vùng đất Vĩnh Hy. Đây là tác phẩm của thiên nhiên, là sự kiến tạo của đá núi và biển khơi, nhưng với người dân Vĩnh Hy, nó còn mang ý nghĩa tâm linh sâu sắc. Vì cá voi hay cá ông được vua triều Nguyễn ban sắc phong với danh hiệu là Nam Hải Cự Tộc Ngọc Lân tôn thần và người dân nơi đây luôn tôn kính loài cá Ông vì đã có công lao che chở, bảo vệ và đem lại may mắn cho những vụ mùa bội thu. Tiếp đến là Hòn Tai, rồi đến Đá Cột Buồm, Hòn Quy được thiên nhiên tạo ra trên vùng biển Vĩnh Hy.Tiếp theo về phía hướng tay phải, điểm dừng chân đầu tiên sẽ là Bãi Bà Điên, Hòn Gan (còn gọi là Hòn Sư tử) - là những bãi tắm đẹp, sản phẩm của thiên nhiên ban tặng cho vịnh Vĩnh Hy, với bãi cát mịn trắng, nước biển trong xanh là điểm dừng chân lý tưởng của du khách khi đến thăm quan vịnh. Tiếp đến là địa điểm Đá Robot với những phiến đá ngang, dọc nằm chồng lên nhau tạo nên hình dáng robot. Điểm đến tiếp theo trên vịnh chính là Hang Yến, là nơi cư ngụ của loài chim yến và cũng là điểm nhấn riêng của vịnh Vĩnh Hy. Hang được tạo thành bởi những khối đá đa dạng về kích cỡ, phong phú về hình thái, vừa gồ ghề, vừa không kém phần sinh động, tạo ra một bức tranh đầy màu sắc sinh được pha phối một cách ngẫu hứng. Tiếp sau là Gành Đen, Bãi Hỏm, Bãi Kinh, mũi Đá Vách… hình ảnh những mỏm núi đang vươn ra biển. Khí hậu nơi đây là nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ trung bình năm khoảng 27 độ C, độ ẩm trung bình 71%, vịnh tập trung nhiều loài cá, tôm, đồi mồi, víc,…và đặc biệt có nhiều rạn san hô tuyệt đẹp. Nằm ngay sát vịnh khoảng 10m còn có 1 công trình kiến trúc Lăng Thần Nam Hải thôn Vĩnh Hy, được xây dựng bằng xi măng cốt thép kiên cố. Lăng có diện tích 1.016m2, chiều dài lăng 36m, rộng 28m gồm các công trình: cổng lăng, án phong, cột cờ, sân võ ca, nhà chánh bái, nhà tiền hiền, nhà kho, nhà bếp, miếu thủy long. Với những giá trị về thẩm mỹ nêu trên, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã xếp hạng vịnh Vĩnh Hy là Danh lam thắng cảnh quốc gia tại Quyết định số 44/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao Du Lịch ngày 07/01/2020. Nguồn Cục Di Sản Văn Hóa.

Ninh Thuận 443 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Chùa Ông

Chùa Ông có diện tích xây dựng 400 mét vuông tọa lạc tại phường Kinh Dinh, Thành phố Phan Rang- Tháp Chàm. Đây là cơ sở thờ Đức Quan Thánh của cộng đồng người Hoa có kiến trúc đặc sắc phản ảnh đỉnh cao kỹ năng xây dựng đình chùa của cư dân địa phương vào cuối thế kỷ XIX. Chùa Ông được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cấp Bằng xếp hạng di tích Quốc gia vào ngày 14/4/2011. Ông Hàng Thái Châu, Trưởng Ban quản lý di tích Chùa Ông cho biết, theo các bia ký tại chùa cho thấy đồng bào Hoa từ các tỉnh Phúc Kiến, Triều Châu di dân đến Ninh Thuận vào đầu thế kỷ XIX. Năm 1831, bà con lập miếu thờ ngài Quan Công biểu thị lòng trung nghĩa nhằm mục đích động viên cộng đồng Hoa kiều đoàn kết, trung thực, hiếu nghĩa. Ngôi miếu xây cất nhỏ nằm ven đường thiên lý Bắc Nam rất thuận lợi cho việc đi lại giao lưu của cộng đồng Hoa kiều. Đến năm 1909, Chùa Ông chính thức được trùng tu xây dựng có quy mô lớn mang đậm văn hóa tín ngưỡng của đồng bào Hoa tồn tại đến ngày nay. Chùa Ông xây cất theo hình chữ Tam gồm có ba gian: Gian thánh điện thờ Quan Công; gian bái đình có khoảng sân rộng cho nhân dân đến cúng bái; gian hội quán làm nơi trao đổi của cộng đồng Hoa kiều. Hệ thống cột cái, đòn dông, vĩ kèo được chạm khắc tinh xảo, phản ảnh đỉnh cao trong nghệ thuật kiến trúc đình chùa vào cuối thế kỷ XIX. Trên nóc chùa được trang trí hình tượng lưỡng long tranh châu; các mái được chạm khắc lân, phụng, hoa lá đường nét sinh động, sắc màu tươi thắm. Chùa Ông còn lưu trữ nhiều vật dụng thờ cúng cổ có giá trị về nghệ thuật đúc đồng, gốm sứ, liễn thờ. Và bốn sắc phong của các đời vua Thiệu Trị, Tự Đức, Đồng Khánh. Chùa Ông diễn ra các hoạt động tế lễ hàng năm vào các ngày 13 tháng Giêng âm lịch cúng “ Đào viên kết nghĩa”; ngày 13 tháng năm âm lịch vía Quan Bình; ngày 24 tháng sáu vía Ngài Quan Thánh. Đặc biệt vào đêm Giao thừa, người Hoa địa phương đến thắp hương cầu mong quốc thái dân an, gia đình làm ăn thịnh vượng trong năm mới. Chùa Ông có kiến trúc đẹp nằm giữa trung tâm Tp. Phan Rang- Tháp Chàm là điểm đến tham quan của du khách . Nguồn Cổng thông tin điện tử thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận

Ninh Thuận 446 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Tháp Pô Klông Garai

Tháp Pô Klong Garai (còn được gọi là Tháp Pô Klông Giarai, tháp Pô Klaung Garai, PoKlaun Garai, tháp Bửu Sơn), thuộc phường Đô Vinh, thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận. Theo truyền thuyết của người Chăm, tháp Pô Klaung Garai được Chế Mân (vua Jaya Simhavarman III) cho xây dựng để thờ Pô Klaung Garai - vị vua có nhiều công trạng đối với người Chăm trong việc chống giặc ngoại xâm, khai mương, đắp đập làm cho ruộng đồng tươi tốt… Chính vì lẽ đó mà ông đã được người Chăm coi như một vị vua - tối thượng thần (Shiva) và được thờ phụng trong tháp Pô Klong Garai đến nay. Tháp Pô Klong Garai gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển của Panduranga - vùng đất cực Nam của vương quốc Chămpa xưa, nay thuộc địa bàn các tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận. Dựa trên bia ký, phong cách kiến trúc, nghệ thuật trang trí, cùng hiện vật gắn với di tích và một số tư liệu khác…, có thể tin rằng, tại vị trí đền tháp hiện nay từng có một đền tháp thờ Siva (?), được xây dựng từ thế kỷ XI, sau đó được chuyển hóa thành tháp thờ vua Pô Klong Garai (kết hợp với Siva). Tức là, tháp Pô Klong Garai hiện nay có thể được xây dựng trên nền móng hoặc được tu bổ, tôn tạo trên cơ sở của một ngôi tháp cũ vào khoảng cuối thế kỷ XIII - đầu thế kỷ XIV. Đây là một vấn đề hết sức lý thú, cần được tiếp tục nghiên cứu và giải mã. Tuy nhiên, với đối tượng chính là tháp Pô Klong Garai gắn với chức năng thờ Pô Klong Garai, chúng tôi tạm xác định, ngôi tháp hiện nay có niên đại vào khoảng cuối thế kỷ XIII - đầu thế kỷ XIV. Di tích tọa lạc trên khu đất có tổng diện tích 86.969,3m2 (khu vực bảo vệ I: 1.571,5m2, khu vực bảo vệ: II 8.5397,8m2). Trong phạm vi di tích hiện nay, ngoài các hạng mục sân, vườn, tường rào, đường nội bộ, cổng (cổng vào di tích và cổng phía Đông), tổ hợp công trình phục vụ du lịch - văn hóa, kiến trúc phụ trợ, miếu thờ, phế tích kiến trúc…, còn 3 kiến trúc gốc tương đối hoàn chỉnh, gồm tháp trung tâm (KaLan), tháp cổng (Gopura) và tháp nhà. 1.Tháp trung tâm (KaLan) : Là tháp thờ chính, được xây dựng trên vị trí trung tâm ngọn đồi, có quy mô lớn nhất, cao trên 20m, bình đồ mặt bằng hình vuông, kích thước 10,5 x 10,5 mét. 2. Tháp cổng (Gopura) : Tháp có mặt bằng hình vuông và là hình ảnh thu nhỏ của tháp chính, cao khoảng 10m, nằm ở phía Đông tháp thờ chính, mở hai cửa theo hướng Đông Tây đồng trục với cửa ra vào lòng tháp thờ. 3. Tháp nhà : Được xây dựng phía trước tháp thờ, nằm xế về phía Đông - Nam, là tháp chứa đồ thờ trong nghi lễ hay còn cho là tháp thờ thần Hỏa (thần lửa Anhi). Tháp có mặt bằng hình chữ nhật, quay hướng Đông - Tây, dài 8m, rộng 4m, cao gần 10m. Lòng tháp chia làm hai phòng, mở ba cửa, hai cửa thông nhau theo trục Bắc - Nam và một cửa quay về hướng Đông. Tại di tích, hằng năm diễn ra nhiều sinh hoạt văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng của cộng đồng và khách thập phương, nhưng nổi bật và thu hút được sự quan tâm đặc biệt, chính là lễ Katê - Tết của người Chăm theo đạo Bàlamôn, với nhiều nghi lễ và trò diễn đặc trưng của người Chăm. Hiện chưa tư liệu nào khẳng định, lễ hội Katê/T ết Katê của người Chăm ở nước ta xuất hiện từ khi nào, nhưng chỉ biết rằng, lễ này thường được đồng bào Chăm theo đạo Bàlamôn tại 2 tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận tổ chức hằng năm vào ngày 30/6, 01/7 đến 10/7 theo lịch Chăm, tương ứng với khoảng thời gian vào tháng 9, 10 hoặc tháng 11 (Dương lịch), với ngày đầu tiên ở trên các đền - tháp; ngày thứ hai ở ngôi nhà chung của làng; ngày thứ ba ở nhà cả sư; từ ngày thứ tư đến hết ngày 10/7 lịch Chăm, thường dành cho các hộ gia đình. Với những giá trị đặc biệt tiêu biểu, di tích kiến trúc nghệ thuật Tháp Pô Klong Garai (thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận) được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt (tại Quyết định số 2499/Quyết Định -Thủ Tướng ngày 22/12/2016)./. Nguồn Cục Di Sản Văn Hóa.

Ninh Thuận 514 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt. Mở cửa

MŨI ĐÔI - HÒN ĐÔI (HÒN ĐẦU)

Danh lam thắng cảnh Mũi Đôi – Hòn Đôi (Hòn Đầu) ở bán đảo Hòn Gốm, thuộc xã Vạn Thạnh, huyện Vạn Ninh, nơi đón ánh bình minh trên đất liền đầu tiên của Tổ quốc. Mũi Đôi – Hòn Đôi (Hòn Đầu) có hai mũi đất liền nhô ra biển, mũi xa nhất nằm ở toạ độ khoảng 109028’0" kinh độ Đông và 12039’0" vĩ độ Bắc. Người dân địa phương thường gọi là Mũi Đôi và cách đó khoảng 500 mét, có một đảo nhỏ rộng khoảng 20.000 m2 là Hòn Đầu. Địa danh Mũi Đôi – Hòn Đầu được người dân Khánh Hoà biết đến nhiều hơn vào dịp lễ hội Festival biển Nha Trang năm 2005, khi cùng với vịnh Nha Trang được Bộ Văn hoá – Thông tin (nay là Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch) xếp hạng Danh lam thắng cảnh Quốc gia ngày 25/3/2005. Nhờ cấu tạo địa chất, những nhánh núi phía Nam Trường Sơn vươn xa ra biển Đông bị nước biển phủ kín nên vùng biển Khánh Hòa xuất hiện nhiều đảo lớn nhỏ, tạo thành nhiều đầm, vịnh. Bờ biển Khánh Hòa đa phần là vách đá chiếm 2/3, còn lại là bờ biển cát mịn. Do vậy, chính sóng biển từ biển Đông tràn vào đã xâm thực, bào mòn núi đá và thềm lục địa, tạo cho vùng bờ biển Khánh Hòa nhiều vách núi đá, gành đá rất hùng vĩ, đầy ấn tượng và những bãi biển xinh đẹp, đầy thơ mộng. Trong số đó, cảnh đẹp vùng biển bán đảo Hòn Gốm, có danh thắng quốc gia Mũi Đôi – Hòn Đôi (Hòn Đầu) là một điển hình. Đứng ở đây, ta có thể nhìn thấy tàu thuyền qua lại trên hải phận quốc tế. Nếu có dịp đến nơi Mũi Đôi – Hòn Đôi (Hòn Đầu), trú lại qua đêm để đón chờ bình minh ló dạng trên biển Đông mênh mông thì mới cảm nhận trọn vẹn cảnh đẹp của địa danh này. Cảnh sắc nơi đây có môi trường thiên nhiên còn nguyên sơ, trong lành, có chỗ như chưa có dấu chân người. Biển trời một màu xanh ngắt mênh mông bát ngát. Mắt thường có thể nhìn thấy ở độ sâu dưới biển cả chục mét. Lác đác, vài ba chiếc thuyền đánh cá ven đảo và các góc biển càng làm tăng thêm vẻ đẹp hoang sơ, hữu tình của một vùng biển đảo. Nguồn Bộ Văn hóa Thể Thao và Du Lịch.

Khánh Hòa 447 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

HÒN CHỒNG – HÒN ĐỎ

Danh thắng Hòn Chồng – Hòn Đỏ nằm bên bờ vịnh Nha Trang, thuộc hai phường Vĩnh Phước và Vĩnh Thọ, thành phố Nha Trang. Danh thắng gồm: Hòn Chồng, Hòn Đỏ, và Hội quán vịnh Nha Trang. Năm 1998, danh thắng được xếp hạng di tích Quốc gia. Danh thắng Hòn Chồng – Hòn Đỏ hình thành do sự kiến tạo của tự nhiên. Đó là những khối đá lớn nhỏ xếp chồng lên nhau thành nhiều tầng nhiều lớp trải dài từ chân đồi La San ra biển Đông tạo thành bố cục khá ấn tượng trong cảnh sắc thiên nhiên vịnh Nha Trang. Ở đó tạo nên những hình tượng kỳ thú và những bãi tắm tự nhiên đẹp và kín gió. Nhóm đá phía Bắc gọi là Hòn Chồng và nhóm đá nhỏ, thấp hơn ở phía Nam gọi là Hòn Vợ. Tạo hóa khéo sắp đặt bãi đá lô nhô thành những hình tượng kỳ thú như “Cổng trời”, “Cánh tay bám đá”, “Nụ hôn của biển”, “Tiên ông” … đã hình thành nên những truyền thuyết dân gian lôi cuốn, hấp dẫn và đậm chất nhân văn. Truyền thuyết về “Vợ chồng ngư phủ”: có một đôi vợ chồng ngư dân rất nghèo sống bằng nghề chài lưới ven biển. Hai vợ chồng thường ra khơi đánh bắt tôm cá nuôi sống gia đình. Một hôm sóng to gió lớn đánh dạt thuyền họ vào đây. Những khối đá lớn cùng sóng to nhấn chìm con thuyền nhỏ. Sóng đánh thuyền vỡ tan tành và cuốn người vợ ra xa, người chồng lao theo cứu vợ. Song mỗi lần kéo vợ gần vào đến bờ, những con sóng lớn dập vào đá lại đẩy hai vợ chồng ra xa. Người chồng cố cứu vợ, một tay bám vách đá, một tay níu giữ người vợ yêu dấu. Nhưng sóng lớn ào ạt dữ dội đã nhấn chìm đôi vợ chồng ngư dân và họ đã chết bên nhau. Ngày nay, tại danh thắng Hòn Chồng vẫn còn tảng đá lớn in hằn bàn tay năm ngón của người chồng, minh chứng cho tình nghĩa vợ chồng mặn nồng, sâu sắc và thủy chung. Truyền thuyết về chàng khổng lồ ngao du sơn thủy: thuở xa xưa ở trần gian đầy hoa thơm cỏ lạ, phong cảnh kì vĩ và nên thơ, cho nên các vị tiên thường xuống trần ngao du. Các tiên ông đánh cờ, các tiên nữ vui đùa thỏa thích, các chàng khổng lồ dạo chơi ngắm cảnh… Mỗi dịp giáng trần, các tiên nữ lại tha hồ đùa vui thỏa thích, trút bỏ xiêm y ngâm mình trong những suối nước mát hay phơi mình bên bờ biển xanh sóng vỗ rì rào… Một hôm có một chàng khổng lồ đang đi tìm cảnh đẹp thú vui, điểm lạ, vô tình chàng nhìn thấy các tiên nữ đang ngâm mình bên làn nước biển trong xanh. Mải mê ngắm nhìn, chàng bước sẩy chân suýt ngã. Trong khi chới với, chàng khổng lồ bám tay vào tảng đá, làm cho đá núi lở, rơi vương vãi khắp nơi, một hòn đá có dấu tay chàng lăn ra nằm lại Hòn Chồng, còn hòn đá có dấu chân chàng nằm lại suối Tiên (Diên Khánh). Ngày nay, hòn đá in dấu tay vẫn còn và trở thành minh chứng của tự nhiên về chàng khổng lồ ngẩn ngơ si tình ngắm các tiên nữ. Còn bãi tắm nơi các tiên nữ từng tắm được dân gian gọi là bãi tắm cô Tiên cách Hòn Chồng không xa. Cách Hòn Chồng khoảng 100m về phía Nam là Hòn Vợ, nhỏ nhắn và nằm ở vị trí kín đáo hơn. Trông từ xa Hòn Vợ như hình ảnh người vợ thủy chung ôm con ngồi hóa đá mòn mỏi chờ chồng ra khơi chưa trở về. Cũng có người hình dung đó là cảnh âu yếm của người vợ thủy chung. Từ Hòn Vợ nhìn sang Hòn Chồng trông giống như chú gà con mới nở mũm mĩm đang nằm nghỉ, đầu hướng về đất liền. Cách Hòn Chồng khoảng 300m về phía Đông Nam là Hòn Đỏ. Tên gọi Hòn Đỏ bắt nguồn từ hiện tượng có những phiến đá ánh lên sắc đỏ mỗi khi ánh nắng mặt trời chiếu rọi xuống đây. Trên Hòn đảo nhỏ vẫn còn lưu giữ những cảnh sắc thiên nhiên còn nguyên sơ, thơ mộng. Đó là những sắc đỏ của những cảnh hoa ti gôn, sắc trắng của hoa sứ bên những vách đá lớn. Trong tương lai đây sẽ là điểm đến hấp dẫn quý khách khi đến Nha Trang, được dạo chơi trên hòn đảo nhỏ chỉ cách đất liền vài trăm mét. Đứng ở Hòn Chồng – Hòn Đỏ ngắm núi Cô Tiên nằm ở phía Bắc, bên bờ vịnh Nha Trang là một điều lí thú khi quý khách đến với Nha Tang – Khánh Hòa. Lúc hoàng hôn và khi chiều tà ánh nắng vàng rực ôm lấy ngọn núi Cô Tiên càng làm cho ngọn núi thêm phần rực rỡ, lôi cuốn. Không cần tưởng tượng nhiều quý khách cũng có thể nhìn ngắm hình ảnh cô gái trẻ tràn đầy sức sống đang nằm bên vịnh Nha Trang. Mái tóc suôn dài ra tận biển, khuôn mặt bầu bĩnh, khuôn ngực thanh xuân căng đầy và vòng eo nhỏ nghiêng mình bên bờ biển. Xa xa phía trước Hòn Chồng là Hòn Rùa và đảo Yến như tiền tiêu và điểm nhấn cho du khách ngắm vịnh Nha Trang. Chếch về phía Đông Nam là đảo Hòn Tre như bức tường giữ cho vịnh Nha Trang luôn lặng sóng êm đềm. Trên đảo là khu du lịch Vinpearl land – Hòn ngọc Việt . Nguồn Bộ Văn hóa Thể Thao và Du lịch.

Khánh Hòa 434 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đình Phú Cang

Đình Phú Cang là tên gọi gắn liền với tên làng Phú Cang (thôn Phú Cang) thuộc xã Vạn Phú, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa. Đình do những cư dân người Việt di cư vào đây xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XVIII để thờ Thành Hoàng làng, phối thờ Thiên Y Thánh Mẫu, Tiền Hiền, Hậu Hiền (những người có công khai khẩn đất đai, quy dân, lập ấp, tạo dựng xóm làng…) và thờ các liệt sĩ là con dân của làng đã hy sinh trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Đình được xây dựng trên vị trí cao, rộng ngay đầu làng. Đình nằm trong một khuôn viên khá rộng, trên một khu đất cao, diện tích khoảng 1.700m2, quay về hướng Đông Bắc. Từ ngoài nhìn vào di tích gồm các công trình kiến trúc: Nghi môn (cổng), Án phong, Đại đình, nhà Đông, nhà Tây. Đại đình được xây dựng theo kết cấu truyền thống với bộ khung gỗ có 04 cột gỗ lớn chính giữa trông rất bề thế, vững chắc đỡ lấy hệ mái có cổ lầu là kiến trúc truyền thống của Khánh Hòa. Cùng với mái ngói âm dương, hệ cửa theo kiểu “Thượng song hạ bản” và những hình tượng linh vật: Lưỡng long tranh châu, con nghê, con dơi trên đỉnh mái, bờ dải và các đầu đao nổi bật lên nền trời xanh biếc. Đó là những giá trị kiến trúc nghệ thuật cổ đặc sắc của đình làng Việt Nam. Ngoài yếu tố kiến trúc nghệ thuật còn được bảo lưu khá hoàn chỉnh trải qua hàng trăm năm chịu nhiều biến thiên, ngôi đình còn mang đậm dấu ấn lịch sử cách mạng qua các thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Đặc biệt, đây là một trong những di tích tiêu biểu của thời kỳ đầu Cách mạng Tháng Tám năm 1945 tại tỉnh Khánh Hoà nói chung và huyện Vạn Ninh nói riêng. Năm 1885, hưởng ứng chiếu Cần Vương chống Pháp của vua Hàm Nghi, phong trào Cần Vương ở Khánh Hòa được các sĩ phu, văn thân yêu nước đứng lên tập hợp quần chúng nhân dân chống Pháp. Lãnh đạo phong trào là Bình Tây Đại tướng Trịnh Phong, và Phó tướng – tổng trấn phía Bắc Trần Đường. Ở Vạn Ninh và Ninh Hòa với sự chỉ huy của Tổng trấn Trần Đường đã đánh cho Pháp nhiều phen kinh hoàng và đình Phú Cang là nơi tập hợp quân sĩ tập luyện để đánh Pháp từ đèo Cả trở vào. Do thực dân Pháp được trang bị vũ khí tối tân, còn nghĩa quân chủ yếu sử dụng vũ khí thô sơ nên thế lực của nghĩa quân yếu dần và bị thực dân Pháp đàn áp, nghĩa quân phải rút lui. Năm 1886, quân Pháp không bắt được Trần Đường, nên ra sức đàn áp nhân dân và người nhà của Ông, Trần Đường đã ra hàng để thực dân Pháp không đàn áp nhân dân. Chúng đã giết ông và chặt đầu bêu ở chợ nhằm uy hiếp phong trào yêu nước. Sau khi ông chết, nhân dân đưa bài vị của Ông về thờ tại đình Phú Cang với tấm lòng thành kính tri ân vị anh hùng của địa phương. Năm 1930, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời đã lãnh đạo phong trào cách mạng yêu nước của nhân dân ta. Năm 1936, một số Đảng viên Đảng Cộng sản đang hoạt động tại quê nhà, trong đó có đồng chí Mai Dương đã tập hợp các đồng chí đảng viên tại đình Phú Cang để thành lập Chi bộ Đảng đầu tiên tại huyện Vạn Ninh. Từ đây, đình Phú Cang là cơ sở hoạt động của Đảng bộ huyện Vạn Ninh trong suốt thời kỳ kháng chiến chống Pháp đến khi giành độc lập dân tộc. Năm 1945, để chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân, tổ chức Việt Minh ở đây đã tập hợp thanh niên tập luyện vào ban đêm ngay tại sân đình, có người canh gác, cảnh giới báo động khi Pháp đi tuần. Cũng tại sân đình là nơi tổ chức hội họp, học tập 10 chính sách Mặt trận của Việt Minh, qua đó giác ngộ cho nhân dân về tư tưởng cách mạng, lòng yêu nước, yêu quê hương và trách nhiệm của toàn dân đánh Pháp giải phóng dân tộc. Từ đó, khí thế phong trào cách mạng ngày càng lên cao. Khi thời cơ chín muồi, ngày 14/8/1945 Mặt trận Việt Minh ở Vạn Ninh đã tập hợp nhân dân Vạn Ninh về đình Phú Cang, sử dụng trống của đình để làm hiệu lệnh tập hợp nhân dân phát động nhất tề đứng lên giành chính quyền. Trong giai đoạn 1945 – 1954, đình Phú Cang vẫn là nơi luyện tập của tự vệ, du kích địa phương, tăng cường cho cho Mặt trận Nha Trang – Khánh Hòa 101 ngày đêm chống Pháp (23/10/1945 – 02/02/1946) và bổ sung lực lượng cho đơn vị 365 của Liên khu. Lực lượng này đã tham gia chiến đấu dũng cảm tạo nên trận đánh oanh liệt, diệt xe tăng, xe bọc thép của Pháp ở đèo Cổ Mã. Thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đình Phú Cang vẫn là địa điểm gắn liền với cách mạng ở địa phương. Tại đây là nơi nuôi dấu cán bộ cách mạng, tiếp nhận thương binh của trận đánh tết Mậu Thân năm 1968. Trong những năm 1971 – 1972, đình Phú Cang là căn cứ cơ sở cách mạng của các đồng chí ở căn cứ địa cách mạng Đá Bàn (Ninh Hòa – Vạn Ninh), hoặc từ Vạn Ninh qua đèo Cổ Mã sang Phú Yên. Với những truyền thống đấu tranh cách mạng bao đời của nhân dân địa phương gắn liền với ngôi đình, đặc biệt là nơi phát động quần chúng nhân dân địa phương đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân sớm nhất ở Khánh Hòa, năm 1998 Bộ Văn hóa – Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) đã xếp hạng đình Phú Cang là di tích lịch sử – văn hóa Quốc gia. Nguồn Bộ Văn hóa Thể Thao và Du Lịch.

Khánh Hòa 490 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Miếu thờ Trịnh Phong

Trịnh Phong sinh ra ở làng Phú Vinh, tổng Xương Hà, huyện Vĩnh Xương (nay là thôn Phú Vinh, xã Vĩnh Thạnh, thành phố Nha Trang). Thuở nhỏ, ông là người thông minh, học giỏi, thi đậu Cử nhân võ (1864) và được triều đình nhà Nguyễn phong chức Đề đốc, nhậm chức tại Quảng Nam. Chứng kiến cảnh người dân cực khổ, triều đình chia bè phái dưới sự xâm lược của thực dân Pháp, ông đã từ quan, trở về quê hương chờ đợi thời cơ đánh đuổi quân xâm lược. Hưởng ứng lời kêu gọi của Vua Hàm Nghi qua “Chiếu Cần Vương”, cuộc khởi nghĩa “Bình Tây cứu quốc đoàn” do Trịnh Phong lãnh đạo diễn ra năm 1885 đã chiếm lại Thành Diên Khánh và làm chủ phần lớn tỉnh Khánh Hòa. Đến năm 1886, trước thế mạnh của địch, phong trào Cần Vương ở Khánh Hòa bị dập tắt nhưng tinh thần chiến đấu anh dũng kiên cường, bất khuất đã để lại trong lòng nhân dân địa phương một tình cảm đặc biệt sâu sắc. Trịnh Phong cùng hai thủ lĩnh khác là Trần Đường, Nguyễn Khanh được suy tôn là “Khánh Hòa tam kiệt”. Trong ảnh, tượng Trịnh Phong được đặt ở chính giữa bái đường trong miếu thờ. Di tích Miếu Trịnh Phong có tổng diện tích hơn 639 m2, nằm bên đường 23/10, bao quanh bởi nhiều nhà dân, ngay dưới tán cây Dầu đôi hơn 350 năm tuổi. Miếu được khởi dựng năm 1886, gắn liền với câu chuyện lưu truyền trong dân gian. Chuyện kể rằng khi Bình Tây Đại tướng Trịnh Phong thất trận, kẻ thù đã chém đầu ông rồi đưa về Thành Diên Khánh để thị uy. Sau đó thủ cấp của ông được người thân lén đem về chôn cất, nhưng bị kẻ thù theo dõi, đành treo túi vải đựng đầu người lên bụi duối bên cạnh cây Dầu đôi. Hôm sau, người dân địa phương đã phát hiện và đem đầu người đi chôn cất, lập am thờ nhưng không biết người xấu số là ai. Mãi đến khi có một người đàn ông “lên đồng” tự xưng là Trịnh Phong bị kẻ thù sát hại, bêu đầu, được bà con chôn cất, lập am thờ cúng, nay xin có lòng cảm tạ. Từ đó, am nhỏ được người dân gọi là Miếu Trịnh Phong hay miếu Cây Dầu Đôi. Sau đó, Miếu Trịnh Phong được vua Thành Thái thứ 13 (1901) ban tặng sắc phong cho “Đại Đức Khôi Tinh”, sau đó vào đời vua Khải Định thứ 9 (1924) tiếp tục phong tặng sắc phong với mỹ tự “Dực Bảo Trung Hưng Linh Phò Thuần Chính”, ghi nhớ người anh hùng vì nước quên thân. Miếu được xây theo lối kiến trúc một gian hai chái, ba cửa ra vào được thiết kế theo kiểu thượng song hạ bản, kết cấu khung gỗ mang nét đặc trưng di tích truyền thống ở Khánh Hòa. Chánh điện treo một bức hoành phi bằng gỗ khắc chữ Hán Nôm “Vạn An Miếu”. Hệ cửa thiết kế theo kiểu thượng song hạ bản. Chính giữa bái đường đặt một ban thờ gỗ đơn giản nhưng thể hiện sự cổ kính, trang nghiêm. Trải qua thời gian, miếu đã qua nhiều lần được tu bổ, tôn tạo. Bốn cột gỗ vuông đỡ hệ mái chánh điện, trên thân cột chạm khắc hai cặp câu đối bằng chữ Hán Nôm và được sơn son thếp vàng, phía trên chạm trổ hoa văn hình hoa lá. Phía trong chính điện treo hai cặp câu đối ca ngợi công đức của Trịnh Phong. Giữa chính điện đặt ban thờ hội đồng, hai bên đặt cặp lọng vải, phía trên ban thờ treo một bức chấn bằng vải. Giáp với tường hồi phía sau là khám thờ bằng gỗ được chạm trổ rất tỉ mỉ và khắc chữ Hán Nôm “Thần”. Còn cây Dầu đôi cao khoảng 30m, 4-5 người ôm không xuể đứng cạnh bên đã che chở cho Miếu Trịnh Phong trải qua bao thăng trầm của lịch sử. Theo các vị cao niên, không ai biết rõ cây Dầu đôi bao nhiêu tuổi, nhưng theo ghi chép, Chúa Nguyễn Phúc Tần cho cai cơ Hùng Ngọc Hầu khai hoang rừng, mở mang bờ cõi năm 1653 đã thấy cây Dầu đôi to lớn vượt trội giữa rừng già, cai cơ hạ lệnh không chặt phá để tạo bóng mát. Năm 2016, cây Dầu đôi được công nhận là cây di sản Việt Nam. Miếu thờ Trịnh Phong được Bộ Văn Hóa Thể Thao Du Lịch công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia năm 1991. Nguồn Bộ Văn hóa Thể Thao và Du Lịch.

Khánh Hòa 468 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đình Chiên Đàn

Đình Chiên Đàn là một trong những công trình kiến trúc đình làng cổ nhất Quảng Nam. Hiện đình tọa lạc tại thôn Đàn Trung, xã Tam Đàn, huyện Phú Ninh, cách quốc lộ 1A chưa đầy 1km. Theo tư liệu lịch sử, vùng đất Chiên Đàn xưa thuộc huyện Hà Đông, phủ Thăng Hoa. Để tưởng nhớ công ơn của các bậc tiền nhân, tiền hiền, hậu hiền đã có công khai sơn phá thạch lập nên địa hiệu Chiên Đàn; người dân trong làng, trong xã thời ấy đã cùng nhau xây dựng đình Chiên Đàn có quy mô bề thế và đặt tên "Chiên Đàn xã đình" Đình nằm trên một khu đất cao, bằng phẳng. Đình chính được xây dựng theo hình chữ nhất, mặt xoay về hướng đông nam, mái lợp ngói âm dương, hai đầu của mái trang trí hoa văn tinh xảo với hình tượng "Lưỡng long triều nguyệt", mái hiên đắp hai con kỳ lân. Toàn bộ khuôn viên của đình rộng 1.500m², riêng ngôi đình chính rộng 500m², có đủ chỗ cho trên 100 người. Đình gồm 5 gian, 2 chái với 30 cột bằng gỗ mít to hơn một vòng tay người lớn, 3 gian giữa dùng làm nơi thờ tự. Mặt chính là một hàng 6 cột phân cách ngôi đình theo bố cục ba gian hai chái. Phần xà ở phía trên ba gian (xuyên hông thượng nối liền liên kết hai bộ vì kèo) . Trong đình nhiều kèo, kiện được chạm trổ tinh xảo, uyển chuyển được các nghệ nhân làng mộc Văn Hà, xã Tam Thành, huyện Phú Ninh làm nên. Một cột gỗ được trùng tu. Từ khi xây dựng cho đến nay, đình đã trải qua nhiều lần tu sửa, gần đây nhất là vào các năm 1996, 2006 nhưng các yếu tố gốc của ngôi đình vẫn được bảo tồn tính nguyên vẹn của một công trình kiến trúc cổ. Theo truyền thuyết và lời kể của các cụ cao niên sống gần đình Chiên Đàn, khi vua Lê Thánh Tông đi chinh phạt, bình định phương nam, nhà vua đã sử dụng đình Chiên Đàn để nghỉ ngơi và đưa ra những quyết sách phù hợp để giành thắng lợi. Đình Chiên Đàn được xếp hạng Di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia (Quyết định số 39/2002/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thông Tin ngày 30.12.2002 của Bộ Văn hóa Thông tin).Hàng năm vào ngày 15/7 Âm lịch, người dân mở hội đình để tưởng nhớ công ơn cha ông. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Nam.

Quảng Nam 450 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Tháp Bình Lâm

Tháp Bình Lâm là một ngôi tháp Chămpa cổ tại thôn Bình Lâm, xã Phước Hòa, huyện Tuy Phước, cách Tp.Quy Nhơn 22km. Đây là một ngôi tháp tương đối đặc biệt ở Bình Định, vì khác với các tháp khác nằm trên đồi thì tháp Bình Lâm nằm ngay trên đồng bằng và như hòa mình vào thiên nhiên và khu dân cư bao quanh. Tháp có bình đồ vuông, mỗi cạnh khoảng 10m, cao khoảng 20m chia làm 3 tầng, trang trí hoa văn tinh tế, kiến trúc hài hòa với những đường nét vừa tinh tú vừa khỏe khoắn. Tháp được xếp hạng là di tích Kiến trúc Nghệ thuật vào năm 1993. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bình Định.

Bình Định 432 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đền thờ Đào Duy Từ

Đào Duy Từ (1572-1634) là một nhân vật lịch sử thế kỷ 17, một người tỏ ra xuất sắc trên nhiều lĩnh vực kinh tế, chính trị, quân sự và văn hóa. Đào Duy Từ sinh năm 1572 tại phủ Tĩnh Gia, Thanh Hóa (tức huyện Tĩnh Gia, Thanh Hóa ngày nay). Vốn là người tinh thông sử sách, lý số và binh pháp, nhưng do bị kìm hãm dưới Triều Lê-Trịnh, không cho ông thi vào hạng Cổng Cử (tức Cử nhân) vì xuất thân từ gia đình kép hát (xướng ca vô loài), nên ông uất chí bỏ vào Đàng Trong lập nghiệp. Đó là vào năm 1625, khi đó Đào Duy Từ đã 53 tuổi. Khi mới vào Nam, do gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống, ông phải ẩn thân đi ở chăn trâu cho nhà phú hộ Chúc Trịnh Long ở xã Bồ Đề (nay thuộc thị trấn Bồng Sơn, huyện Hoài Nhơn thuộc tỉnh Bình Định).Vì mến tài của Đào Duy Từ, quan Khám lý Trần Đức Hòa đã gả con gái cho đồng thời tiến cử Đào Duy Từ cho Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên (quan Khám lý Trần Đức Hòa (còn gọi là Cống Quận công) người cùng xã và cũng là anh em kết nghĩa với Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên (còn gọi là Thụy Quận Công). Chúa Sãi đã phong cho ông làm Nội tán, xem như người tâm phúc. Do được trọng dụng, ông đã hết lòng tận tụy giúp chúa Nguyễn về tổ chức quân sự, chính trị, văn hóa và đã đương đầu thành công với Chúa Trịnh ở Đàng Ngoài và được chúa Sãi ví như Ngọa Long Gia Cát (Khổng Minh) của mình. Sinh thời, ông sáng tác nhiều tác phẩm văn, thơ và là ông tổ của nghệ thuật hát tuồng, nổi tiếng với hai ngâm khúc là "Ngọa Long cương văn" và "Tư Dung vãn". Ông đồng thời là tác giả bộ sách quân sự đặc biệt "Hổ trướng khu cơ", được xem là một trong hai bộ sách về nghệ thuật quân sự (tác phẩm kia là "Binh thư yếu lược") của người Việt Nam. Ông mất năm Giáp Tuất (1634), thọ 62 tuổi. Sau khi mất, được Chúa Sãi phong tặng “ Hiệp niên đồng đức công thần, Đặc tiến kim tứ Vinh lộc đại phu” cho thờ ở Thái Miếu. Đến triều Minh Mạng, Đào Duy Từ được truy phong tước” Đại học sỹ -Thái Sư Hoằng Quốc công” và cho lập đền thờ tại nơi ở của ông - nay là thôn Ngọc Sơn, xã Hoài Thanh Tây, huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định. Đền thờ ngày nay vẫn giữ được khuôn viên của nó và vẫn được dòng họ và nhân dân địa phương thờ tự và gìn giữ. Ngày 15/10/1994, khu Đền thờ Đào Duy Từ được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử thị xã Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định.

Bình Định 493 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Di tích danh thắng Núi Đá Bia

Núi Đá Bia nằm trên dãy đèo Cả, phía nam huyện Đông Hòa. Núi cao 706m, phía đông liền với hòn Bà sát biển, chân núi phía tây là quốc lộ 1A, phía bắc liền với núi Đông Sơn, chân núi phía nam giáp Vũng Rô. Sườn núi Đá Bia rất dốc với nhiều tảng đá chồng chất lên nhau, cây cối um tùm, đường lên đỉnh khá vất vả. Trên đó một khối đá cao lớn gọi là Đá Bia. Tùy mỗi góc nhìn có thể thấy Đá Bia với những dáng vóc khác nhau. Tại đỉnh núi có độ dốc cao, thấy Đá Bia giống như con sư tử nằm xuôi theo sườn. Ở ngã ba Hảo Sơn - Đập Hàn nhìn lên, Đá Bia hao hao như tháp Nhạn. Từ Bãi Xép - Bãi Bàng (xã Hòa Tâm) trông vào, Đá Bia giống như người ngồi. Tại trường Hòa Tâm nhìn Đá Bia giống như một ông Phật đứng, cũng có thể nói là nhà sư đang xuống núi. Dưới chân núi có Bãi Tiên. Trong Phủ biên tạp lục, Lê Quí Đôn viết: “Núi Đá Bia ở Phú Yên là chỗ tiền triều phân địa giới với Chiêm Thành, núi đến rất xa, tự đầu nguồn liên lạc đến bờ biển. Núi này cao hơn núi khác. Khi Thánh Tông đánh được Chiêm Thành lấy đất này vào xứ Quảng Nam, lập dòng dõi Chiêm Thành cũ, phong cho từ đất ấy trở về phía tây, tạc đỉnh núi lập bia làm địa giới, lưng xoay về phía bắc, mặt về phía nam, lâu ngày chữ đã mòn mất”. Sách Đại Nam nhất thống chí viết: “Xét sách thủy lục trình chí của Trần Công Hiến có đoạn chép rằng: Núi này có một chi chạy đến biển, chia hai dòng nước, cỏ cây cũng phân rẽ, có một hòn đá lớn quay đầu hướng đông như hình người. Khi vua Lê Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành qua núi ấy, bùi ngùi than thở rằng: “Từ lúc trời đất sơ khai đã phân ranh giới, vì nghịch đạo trời nên phải chịu họa trời”. Nhân đó vua khiến chạm chữ trên đá. Việc vua Lê Thánh Tông có khắc chữ trên núi Đá Bia hay không? nhân dân vẫn xem đó là một huyền thoại, đánh dấu bước ngoặc lịch sử của vùng đất Phú Yên. Vì trong Đại Việt sử ký toàn thư có một đoạn nhật ký ghi cuộc nam chinh của vua như sau: “Ngày mùng một tháng 3 năm Tân Mão hạ thành Chà Bàn, ngày mồng 2 đã xuống chiếu lui quân”. Năm 1937, có cuộc khảo sát núi Đá Bia của tri phủ Tuy Hòa lúc ấy là Nguyễn Văn Thơ. Những năm gần đây có các cuộc khảo sát của thanh niên, sinh viên Phú Yên, họ cũng không tìm được một dấu tích nào cả. Núi Đá Bia (còn gọi là Thạch Bi Sơn) cao 706m, sừng sững uy nghi ở phía Bắc dãy Đèo Cả. Trên đỉnh núi là một khối đá khổng lồ cao 76m, có hình thù kỳ lạ, sáng sớm hay về chiều thường có mây trắng bao phủ chung quanh, khi ẩn khi hiện. Núi Đá Bia được công nhận di tích thắng cảnh cấp quốc gia năm 2008. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Phú Yên.

Phú Yên 448 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Vịnh Xuân Đài

Vịnh Xuân Đài nằm cách Thành Phố Tuy Hòa khoảng 45km về phía bắc với một vùng non xanh nước biếc, sơn thủy hữu tình lại chứa đựng nhiều sự kiện lịch sử quan trọng liên quan đến vùng đất Phú Yên. Với diện tích hơn 13.000ha, vịnh Xuân Đài nằm trên địa bàn TX Sông Cầu và huyện Tuy An. Bao quanh vịnh là những dãy núi cao và cũng chính là một phần của dãy Trường Sơn đâm thẳng ra biển. Ở phía đông có bán đảo Xuân Thịnh bắt đầu từ đèo Vận Lương chạy về hướng đông - nam ôm lấy vịnh Xuân Đài. Vịnh Xuân Đài còn là một địa danh chứng kiến nhiều sự kiện quan trọng gắn liền với tiến trình lịch sử 400 năm hình thành và phát triển của vùng đất Phú Yên. Vào cuối thế kỷ XVI, những người Việt đầu tiên theo ông Lương Văn Chánh vào Phú Yên đã chọn những vùng đất thuận lợi dọc các cửa sông, cửa biển để làm địa bàn sinh sống. Đó là các vùng Cù Mông, Bà Đài, Đà Diễn, Đà Nông. Một tài liệu có từ năm 1597, lưu giữ tại đền Lương Văn Chánh cho biết: “Lệnh Phù Nghĩa hầu (Lương Văn Chánh) dẫn đem những hộ dân mới tới đến các xứ Cù Mông, Bà Đài, Bà Diễn, Bà Nông, trên từ vùng sơn cước, dưới thì đến các cửa biển, cùng nhau lập nhà cửa, khai phá đất hoang thành ruộng vườn, trải qua 3 vụ thì nộp thuế như thường lệ”. Vùng Bà Đài lúc bấy giờ bao gồm vịnh Xuân Đài và hạ lưu sông Cái thuộc Tuy An hiện nay. Khu vực này vừa có diện tích canh tác màu mỡ nhờ phù sa sông Cái bồi đắp, lại vừa có vùng vịnh kín gió thuận lợi cho việc neo đậu tàu thuyền đánh bắt hải sản. Từ những điểm định cư đầu tiên, những lưu dân người Việt mở rộng địa bàn sinh sống, làm chủ cả vùng biển, đồng bằng và rừng núi rộng lớn phía tây, biến cả khu vực rộng lớn này trở nên trù phú, sầm uất. Đó cũng là cơ sở quan trọng để đến đầu thế kỷ XVII, khu vực vịnh Xuân Đài trở thành trung tâm hành chính của vùng đất Phú Yên. Vào năm 1629, thủ phủ của Phú Yên là thành Hội Phú được xây dựng tại cửa Tiên Châu ngay bên bờ vịnh Xuân Đài, địa điểm xây thành sử cũ ghi là có núi Xuân Đài gần kề rũ xuống. Trong thời kỳ giao tranh giữa nhà Tây Sơn với nhà Nguyễn, vịnh Xuân Đài đã trở thành chiến trường với nhiều trận thủy chiến lớn. Tháng 6/1775, sau khi quân Tây Sơn làm chủ đất Phú Yên, tướng của chúa Nguyễn là Tống Phước Hiệp chỉ huy đưa hơn hai vạn quân giành lại vùng đất này. Quân của Tống Phước Hiệp chủ yếu đồn trú tại khu vực thành Hội Phú và vịnh Xuân Đài. Để đối phó với quân của Tống Phước Hiệp, tướng Tây Sơn là Nguyễn Huệ lúc bấy giờ mới 23 tuổi đã đưa một đạo quân theo đường núi La Hiên kết hợp với lực lượng tại chỗ rồi bất ngờ đánh úp nên quân của Tống Phước Hiệp nhanh chóng tan rã, vịnh Xuân Đài lại trở thành một căn cứ thủy quân quan trọng của nhà Tây Sơn. Đến những năm cuối cùng của thế kỷ XVIII, khi lực lượng đã lớn mạnh, Nguyễn Ánh thường xuyên kéo quân theo đường thủy từ phía nam ra quấy nhiễu quân Tây Sơn và vịnh Xuân Đài trở thành chiến trường giao tranh ác liệt. Cuối thế kỷ XIX, cuộc khởi nghĩa hưởng ứng phong trào Cần Vương do Lê Thành Phương lãnh đạo nổ ra ở Phú Yên. Đến tháng 6/1897, quân viễn chinh dưới sự chỉ huy của Chevreux, Tirant và Trần Bá Lộc đã đổ bộ vào vịnh Xuân Đài để đàn áp cuộc khởi nghĩa. Căn cứ của nghĩa quân đóng ở vịnh Xuân Đài do Bùi Giảng chỉ huy bị thất thủ, hai tuần sau đó cuộc khởi nghĩa bị dập tắt. Tháng 4/1945 tàu hải quân của quân đội Nhật Hoàng tiến vào vịnh Xuân Đài đánh chiếm để làm bàn đạp tiến sâu vào đất liền, nhưng đã bị phi cơ Đồng Minh bắn chìm giữa vịnh. Thân tàu chìm khuất dưới làn nước sâu, chỉ còn nhô lên cột cờ tàu và đài quan sát. Cho đến những năm cuối thập niên 80 đầu 90 của thế kỷ XX vẫn còn dấu tích trong vịnh Xuân Đài. Vịnh Xuân Đài cũng là nơi diễn ra hoạt động ngoại giao đầu tiên giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Khu vực vịnh Xuân Đài còn là quê hương của danh nhân Đào Trí. Ông từng phục vụ dưới các triều vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức. Đào Trí từng giữ các chức Tả quân Đô thống và Tổng đốc Hà Ninh (Hà Nội, Bắc Ninh). Cho đến nay, những sự kiện lịch sử đã lui dần vào quá khứ, nhưng những chứng tích về một thời hào hùng thì vẫn còn lưu dấu ở khu vực vịnh Xuân Đài. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, vịnh Xuân Đài giờ đây đang bước vào một thời kỳ phát triển mới, tương xứng với những thế mạnh vốn có của một di tích danh thắng quốc gia. Ngày 20/11/2011, Vịnh Xuân Đài Phú Yên được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng di tích quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Phú Yên.

Phú Yên 474 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Di tích Mộ và địa điểm đền thờ Đào Trí

Di tích Mộ và địa điểm đền thờ Đào Trí là chứng tích về một danh nhân lịch sử của vùng đất Phú Yên, đã tham gia vào các sự kiện lịch sử quan trọng của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ XIX. Đào Trí sinh năm 1799, mất năm 1879, tại Vũng Lắm, khu phố Tân Thạnh, phường Xuân Đài, thị xã Sông Cầu, tỉnh Phú Yên. Ông xuất thân trong một gia đình ngư dân, chuyên sống bằng nghề chài lưới. Song với tư chất thông minh, trí dũng hơn người, ông đã trở thành một trong những vị quan võ cao cấp nhất trong hệ thống quân đội của nhà Nguyễn; lần lượt cả ba triều vua nhà Nguyễn là Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức. Năm Tự Đức thứ 21 (1868), Đào Trí được phong hàm Tả quân Đô thống phủ Chưởng phủ sự. Đào Trí vừa là một võ quan với những chiến công lừng lẫy, vừa là vị đại thần có nhiều công lao trong việc cai trị, giáo hóa nhân dân, được vua Tự Đức hết lời khen ngợi, ban thưởng tấm kim bài với chữ “Vị đức, vị dân”, sai sử quan soạn bài văn bia ghi chép công đức lưu truyền…Đào Trí mất năm 80 tuổi (1878) tại quê nhà làng Tân Thạnh và được hậu duệ ông thờ phụng. Hiện nay, hậu duệ Đào Trí ở làng Tân Thạnh gần nhất là đời thứ 5, ông Đào Vạn là người lớn tuổi nhất. Mộ Đào Trí hiện nằm phía sau làng Tân Thạnh, trên sườn phía Đông Bắc núi Hòn Vung, có độ cao 20m so với mặt biển, cách Quốc lộ 1 A khoảng 300m. Mộ quay mặt về hướng Bắc, quy mô xây dựng bề thế, có cổng mộ và tường rào bao quanh, nấm mộ đắp hình voi phục, phía trước có án phong… Địa điểm đền thờ Đào Trí nằm trong khuôn viên nhà ông Đào Vạn, cách mộ khoảng 1km về phía Bắc. Đền thờ Đào Trí bị tàn phá bởi chiến tranh, dấu tích còn lại chỉ còn nền móng có diện tích 7,2 nhân 8 mét và án phong đắp nổi kỳ lân đã bị rêu phong phủ bóng thời gian… Với những giá trị đó ngày 02/07/2015 Di tích Mộ và địa điểm đền thờ Đào Trí đã được xếp hạng di tích cấp quốc gia theo quyết định số 2247/Quyết Ðịnh -Bộ Văn Hóa Thể Thao Du Lịch Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Phú Yên.

Phú Yên 483 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Khu danh thắng Bãi Môn - mũi Đại Lãnh

Danh thắng Bãi Môn - Mũi Đại Lãnh thuộc địa phận thôn Đồng Bé, xã Hoà Tâm, huyện Đông Hoà, tỉnh Phú Yên), cách thành phố Tuy Hoà (Phú Yên) khoảng 35km về phía đông nam. Đặc điểm: Đây là nơi hội tụ nhiều nét đẹp của thiên nhiên với rừng, biển, suối và núi đồi. Nơi đây còn có ngọn hải đăng tỏa sáng hàng đêm giúp tàu thuyền qua lại trên biển và vào vịnh Vũng Rô. Mũi Đại Lãnh được tạo ra nhờ dãy núi Đại Lãnh - một nhánh của dãy Trường Sơn, đâm ra biển Đông. Mũi Đại Lãnh do một tướng người Pháp tên là Varella phát hiện ra vào cuối thế kỷ 19. Varella đã nhận thấy vai trò quan trọng của Mũi Đại Lãnh trên hải đồ quốc tế. Chính vì vậy, trên bản đồ cũ nó được gọi là Cap Varella (Mũi Varella). Điểm đặc biệt của Mũi Đại Lãnh là trông nó như một ngọn núi lại như một hòn đảo vì có một con suối nước ngọt tách nó ra khỏi đất liền nhưng thực chất nó lại liền đất liền. Phong cảnh ở núi Đại Lãnh từ xưa đã được liệt vào hàng những danh lam thắng cảnh đẹp của Việt Nam. Năm 1836, vua Minh Mạng đã cho thể hiện hình tượng núi Đại Lãnh vào Tuyên đỉnh - một trong 9 chiếc đỉnh đồng đặt tại Thế Miếu trong đại nội Kinh thành Huế (Thừa Thiên – Huế). Năm 1853, dưới triều vua Tự Đức, Đại Lãnh có tên trong từ điển quốc gia do triều đình biên soạn. Người dân địa phương còn gọi Mũi Đại Lãnh là Mũi Điện, vì trên đỉnh có ngọn hải đăng cao khoảng 26m, ở độ cao hơn 100m so với mặt nước biển và có thể phát tín hiệu ánh sáng đi xa 27 hải lý. Ngọn hải đăng có hình trụ tròn với đường kính trung bình gần 5m, bên trong trụ được lắp đặt 108 bậc cầu thang xoắn ốc bằng gỗ lên tận đỉnh. Đây là một trong 8 ngọn hải đăng có niên đại trên 100 năm trong tổng số 79 ngọn hải đăng đang hoạt động tại nước ta. Ngọn hải đăng được người Pháp xây dựng vào năm 1890 với mục đích định hướng cho tàu thuyền hoạt động trên biển và vào vịnh Vũng Rô. Ngọn đèn biển hoạt động được 55 năm thì ngừng và đến năm 1961, nó được chính quyền Sài Gòn trước đây khôi phục hoạt động trở lại. Tuy nhiên, ngọn hải đăng hoạt động chưa được bao lâu thì phải tạm dừng bởi Mũi Đại Lãnh nằm trong khu vực căn cứ Miền Đông của cách mạng, là hành lang đón các con tàu không số. Để ngăn chặn tuyến đường tiếp tế trên biển của cách mạng vào Vũng Rô, Mỹ đã ném bom dày đặc vào núi rừng khu vực vịnh Vũng Rô, phá hủy cả trạm hải đăng. Tháng 8/1996, Nhà nước đã cho sửa chữa, tu bổ và ngọn hải đăng chính thức hoạt động trở lại vào năm 1997. Dưới chân Mũi Đại Lãnh là Bãi Môn. Đây là một bãi biển vẫn còn khá hoang sơ, có hình vầng trăng khuyết với đường bờ biển dài khoảng 400m, độ dốc thoai thoải, cát trắng mịn, nước trong vắt như pha lê. Ở phía tây của Bãi Môn có một con suối nước ngọt. Sau khi len lỏi qua nhiều vách đá và khu rừng nguyên sinh Bắc Đèo Cả, con suối này chảy ngang qua bãi tắm rồi đổ ra đại dương mênh mông. Sự phối hợp tinh tế giữa thiên nhiên và con người tại Mũi Đại Lãnh - Bãi Môn đã tạo nên một quần thể danh lam thắng cảnh tuyệt đẹp được nhiều tạp chí trong nước và quốc tế biết đến, thực sự là tài sản quý giá của tỉnh Phú Yên. Tháng 8/2008, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ra Quyết định số 67/2008/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao Du Lịch, xếp hạng danh lam thắng cảnh Bãi Môn - Mũi Đại Lãnh (Mũi Điện) là di tích cấp Quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Phú Yên.

Phú Yên 435 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đầm Ô Loan

Đầm Ô Loan nằm sát quốc lộ 1A, dưới chân đèo Quán Cau, cách thành phố Tuy Hòa 22km. Đây là một địa danh gắn với phong trào Cần Vương của tỉnh Phú Yên. Đầm Ô Loan rộng khoảng 1.200 ha. Đứng trên đèo Quán Cau nhìn xuống, Ô Loan giống như con phượng đang xòe cánh, còn trên bản đồ, Ô Loan giống như con thiên nga đang thong thả bay. Phía tây đầm Ô Loan là những quả đồi nhỏ nằm san sát nhau. Phía đông là mả Cao Biền. Dân gian cho rằng trên đường đi ếm hại nhân tài nước Nam , Cao Biền đã bị trời chôn tại đây. Cao Biền chết tại Đồng Môn Trên Sơn dưới Thủy, trời chôn Cao Biền. Thật ra, đây không phải là mả mà là một cồn cát. Tuy nằm sát biển, sóng gió vô chừng nhưng nhờ có một luồng gió xoáy mang cát bồi đắp, nên không khi nào mả bị sụp xuống thấp. Ô Loan là một đầm nước lợ, gần như nằm trọn trong đất liền, có món đặc sản là sò huyết. Dưới thời phong kiến, các quan lại khi về Phú Yên thường ra đầm Ô Loan thưởng ngoạn phong cảnh và thưởng thức món sò huyết. Món đặc sản khác ở Ô Loan là hàu. Tản Đà (Nguyễn Khắc Hiếu) nhà thơ nổi tiếng sành ăn đã từng đi khắp nước, ăn khắp nơi, đến Phú Yên nếm món ngon vật lạ cũng khen rằng: “Phú Câu cước cá, Ô Loan miếng hàu”. Hàu sống dựa vào các tảng đá ngập mặn, có cạnh rất sắc. Hàu dùng để nấu cháo, nấu canh, xào, nhưng ngon và hấp dẫn nhất là món hàu tái hoặc hàu trộn với đậu phụng và cà chua. Món ngon vật lạ ở Ô Loan còn có cua đế, còn gọi là huỳnh đế hay hoàng đế. Mai cua hoàng đế màu đỏ hoặc vàng đậm, ngay khi cua còn sống ở dưới nước, đằng sau có một chùm lông vàng, ngắn. Đặc biệt, loài cua này không bò ngang mà bò tới, vì càng và que đều mọc ở đằng trước đầu. Ngoài ra, Ô Loan còn có tôm rằn, tôm bạc, mực, sứa, rau câu, điệp. Giữa đầm có hai tảng đá lớn chồng lên nhau gọi là hòn Chồng. Phong cảnh non xanh nước biếc của Ô Loan là nguồn cảm hứng vô tận cho các thi sĩ sáng tác. Nhà thơ Nguyễn Mỹ viết: Biển vào Ô Loan nằm ngủ thiếp Sò huyết sinh trong đáy giếng mờ xanh. Thi sĩ Xuân Diệu đã viết bài thơ đầm Ô Loan: Đầm Ô Loan, đầm Ô Loan. Nước trời cùng với mây liên hoàn Mặt đầm, đôi cánh chim loan mở Khí mát lan bay sắc đẹp tràn Cao thấp đồi quanh gấm dựng lên Lục thêu cùng biếc với xanh lam Sắn khoai sức tốt phây phây lượn Mía bắp trông xa một sắc liền.... Hàng năm đến ngày mùng 7 tháng giêng âm lịch, lễ hội cầu ngư của ngư dân vùng đầm Ô Loan được tổ chức. Hàng vạn người từ khắp nơi về tham dự. Đây là một nét đẹp của văn hóa dân gian truyền thống Phú Yên. Đầm Ô Loan đã được Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng là di tích danh thắng quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Phú Yên.

Phú Yên 437 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đập Đồng Cam.

Công trình Đập Đồng Cam nằm trên sông Ba thuộc thôn Phong Hậu, xã Hòa Hội, huyện Phú Hòa (phía bờ Bắc) và thôn Thành An thuộc xã Sơn Thành Đông, huyện Tây Hòa (phía bờ Nam), được chính thức khởi công xây dựng vào năm 1924 và được khánh thành vào ngày 07/9/1932, gồm hệ thống công trình đầu mối và mương dẫn thủy. Khi có hệ thống thủy nông Đồng Cam, toàn bộ sản xuất nông nghiệp ở đồng bằng Tuy Hòa có bước phát triển nhảy vọt. Từ một vùng đồng bằng chỉ sản xuất một vụ bấp bênh trở thành một vùng đồng bằng trù phú với 2 đến 3 vụ lúa, năng suất cao, đem lại đời sống ấm no hạnh phúc cho người dân Phú Yên. Thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, chính nhờ công trình này mà đồng bằng Tuy Hoà được ví như “dạ dày kháng chiến” của vùng tự do Nam Trung bộ và Tây Nguyên. Thực dân Pháp đã dùng nhiều thủ đoạn để phá hủy hệ thống thủy nông này nhưng quân và dân Phú Yên đã anh dũng “bẻ gãy” cuộc càn quét quy mô của địch tạo nên trận Sông Ba - Trường Lạc nổi tiếng; bảo vệ vững chắc đập đầu mối Đồng Cam và các công trình xung yếu. Từ lâu, hệ thống thuỷ nông Đồng Cam đã được xem là “mạch sống quê hương” ăn sâu vào ký ức của người dân ở Phú Yên. Cho đến nay, Đập Đồng Cam vẫn được xem là hình mẫu về kỹ thuật xây dựng công trình thuỷ nông phục vụ sản xuất nông nghiệp. Không chỉ thế, Đập Đồng Cam là một danh lam thắng cảnh nổi bật trên sông Ba. Những yếu tố tự nhiên trên đây đã làm cho khu vực đập Đồng Cam là một trong những nơi có phong cảnh thiên nhiên hữu tình, hấp dẫn của Phú Yên. Đã thành truyền thống, ngày mùng 8 tháng Giêng, hàng vạn người nô nức về dâng hương, tham gia lễ hội Đập Đồng Cam để tôn vinh, tưởng nhớ những người đã góp công sức, xương máu để xây dựng nên công trình này, thể hiện đạo lý “uống nước nhớ nguồn”. Với những giá trị lịch sử, văn hóa và cảnh quan thiên nhiên vô cùng ý nghĩa đó, Đập Đồng Cam đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng là di tích quốc gia danh lam thắng cảnh tại Quyết định số 2085 ngày 05/9/2022. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Phú Yên.

Phú Yên 422 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Quần thể Hòn Yến

Theo nguồn tin từ Cục Di sản Văn hóa (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch), danh lam thắng cảnh Quần thể Hòn Yến (xã An Hòa, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên) vừa được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là di tích cấp quốc gia. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đề nghị Uỷ Ban Nhân Dân các cấp nơi có di tích được xếp hạng thực hiện việc quản lý nhà nước đối với di tích theo quy định của pháp luật về di sản văn hóa trong phạm vi nhiệm vụ và quyền hạn của mình. Danh lam thắng cảnh Quần thể Hòn Yến là khu vực bao gồm Hòn Yến, Hòn Đụn (Hòn Sắt), Bàn Than, Gành Yến, Hòn Choi, Vũng Choi tạo thành một quần thể thắng cảnh tự nhiên bên bờ biển. Trong đó, Hòn Yến là điểm nhấn nổi bật của quần thể thắng cảnh này. Theo Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Phú Yên, đây là danh thắng rất có giá trị tự nhiên từ địa chất đến hệ động thực vật, đa dạng sinh học; có giá trị về văn hóa, lịch sử; có tiềm năng phát triển du lịch ven biển hấp dẫn. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Phú Yên.

Phú Yên 410 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Gành Đá Đĩa

Ngày 31/12, Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Đức Đam đã ký Quyết định xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt (đợt 11 năm 2020) cho 07 di tích, trong đó có danh lam thắng cảnh Gành Đá Đĩa, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên. Gành Đá Đĩa là một danh thắng thiên nhiên kỳ thú về cảnh quan và độc đáo về địa chất ở Việt Nam, thắng cảnh này nằm tại xã An Ninh Đông, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên. Là một tập hợp các trụ đá hình lăng trụ xếp liền nhau, hòn nọ nối hòn kia kề với sóng nước. Bãi đá trải rộng san sát nhau chung màu đen huyền bí. Có trụ thẳng đứng, có trụ nghiêng vẹo nhưng vẫn chồng chất tầng tầng trông như chồng bát đĩa nên có tên gọi là Gành Đá Đĩa. Nhìn từ xa, Gành đá trông giống một tổ ong thiên tạo khổng lồ vô cùng kỳ vĩ. Các cột đá badan của Gành Đá Đĩa được các nhà nghiên cứu cho là hình thành cách đây hàng triệu năm, khi các dòng nham thạch nóng chảy phun ra từ các núi lửa ở cao nguyên Vân Hoà (cách 30km) gặp nước biển lạnh nên đông cứng và nứt vỡ mà thành. Gành Đá Đĩa là một trong những danh thắng cảnh hấp dẫn bậc nhất ở nước ta, được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng Thắng cảnh Quốc gia vào năm 2005. Mỗi năm có hàng vạn du khách đến tham quan chiêm ngưỡng thắng cảnh này. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Phú Yên.

Phú Yên 440 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia đặc biệt. Mở cửa

Mộ Đào Tấn

Đào Tấn (Đào Đăng Tiến, Đào Tiến), tự Chỉ Thúc, hiệu Mộng Mai, Mai Tăng, sinh năm Ất Tỵ (năm 1845). Ông quê làng Vinh Thạnh, phủ Tuy Phước, nay thuộc thôn Vinh Thạnh, xã Phước Lộc, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Ông đậu cử nhân năm Đinh Mùi (năm 1867), 4 năm sau, vua Tự Đức mời ông vào Hiệu Thư triều đình Huế, chuyên soạn các vở tuồng theo lệnh nhà vua. Năm Giáp Thìn (năm 1904), ông về hưu sau khi giữ chức Thượng Thư Bộ Công. Ông là người yêu nước nổi tiếng thanh liêm, đồng thời là nhà thơ, nhà biên soạn và đạo diễn tuồng xuất sắc của Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Với những đóng góp to lớn, Đào Tấn được suy tôn là “Hậu Tổ” của nghệ thuật tuồng Việt Nam. Mộ Đào Tấn được khởi dựng sau khi ông qua đời tại quê nhà ngày 15.7.1907 (năm Thành Thái thứ 19) theo nghi lễ Quốc Triều. Mộ của ông toạ lạc trên núi Huỳnh Mai (Hoàng Mai) thuộc thôn Huỳnh Mai, xã Phước Nghĩa, huyện Tuy Phước, cách thành phố quy Nhơn 15 km. Mộ nhìn về hướng nam, hướng về ngôi làng nơi ông từng sinh sống. Mộ Đào Tấn dài 3 mét, rộng 2 mét, trước mộ có bia ghi thời điểm lập mộ và bình phong che chắn. Xung quanh mộ là khuôn viên hình chữ nhật được bo tròn, trước có trụ cổng, lưng có bình phong mang hình cuốn thư. Trước và sau ngôi mộ có 4 con sư tử đứng chầu, đuôi vểnh lên trên, mặt nhìn ra hướng chính diện. Di tích này đã được Bộ Văn hoá – thông tin xếp hạng ngày 24.1.1998. Năm 1994, Sở Văn hoá – Thông tin Bình Định phối hợp với Uỷ Ban Nhân Dân huyện Tuy Phước cùng với xã Phước Nghĩa tiến hành gia cố, trùng tu mộ Đào Tấn dựa trên nguyên bản. Ngày nay, di tích mộ Đào Tấn là địa điểm tham quan của du khách gần xa mến mộ người nghệ sĩ đã có nhiều cống hiến cho nghệ thuật, nơi dâng hương tưởng nhớ danh nhân tài hoa của đất nước do ngành Văn hoá – Thông tin tỉnh và Uỷ Ban Nhân Dân huyện Tuy Phước tổ chức ngày 15.7 âm lịch hàng năm. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bình Định.

Bình Định 488 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Chùa Nhạn Sơn

Chùa Nhạn Sơn tục gọi là chùa Ông Đá, thuộc địa phận thôn Bắc Nhạn Tháp, xã Nhơn Hậu, thị xã An Nhơn, cách thành phố Quy Nhơn 23km về phía Tây Bắc. Ngôi chùa nằm dưới bóng một vườn xoài, lưng dựa vào núi Long Cốt, phía trước là Hồ Sen với cảnh trí thơ mộng. Chùa Nhạn Sơn có giá trị lớn về lịch sử và nghệ thuật, là sự giao thua giữa văn hoá Chăm bản địa và văn hoá Việt mà đặc biệt hơn cả là hai pho tượng bằng đá sa thạch khổng lồ thờ bên trong khuôn viên chùa - một phong cảnh điêu khắc Chăm. Đây là hai tượng Dvarapalla( Môn Thần) với ý nghĩa người bảo vệ cho đạo pháp, đứng đối xứng nhau 2,3m rất sống động. Nghệ thuật điêu khắc mang phong cách điển hình của nghệ thuật điêu khắc Chămpa thế kỷ XII, XIII. Hai tượng đá được sơn đen, đỏ tượng trưng cho ông thiện và ông ác trong tín ngưỡng của người Việt. Năm 2011, ngôi chùa này được Bộ Văn hóa - Thể Thao và Du lịch xếp hạng Di tích kiến trúc nghệ thuật; nơi lưu giữ hai tượng môn thần - tác phẩm điêu khắc Chăm thế kỉ XIII. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bình Định.

Bình Định 448 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Di tích nơi cập bến tàu không số Lộ Diêu

Tàu không số cập bến Lộ Diêu là tàu không số vận chuyển vũ khí đầu tiên cho Quân khu 5 và là chuyến tàu không số duy nhất cập bến vùng biển Bình Định. Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, Trung tá Hồ Đắc Thạnh, nguyên Thuyền trưởng tàu không số là người tham gia vận chuyển 3 chuyến vũ khí vào tỉnh Phú Yên nói riêng và 12 chuyến vào miền Nam nói chung. Những vũ khí do những con tàu không số mang vào đã góp phần tạo nên chiến thắng An Lão, Đèo Nhông-Dương Liễu, góp phần thay đổi cục diện chiến trường miền Nam để đi đến thống nhất đất nước. Di tích Bến tàu không số Lộ Diêu được đầu tư 15,8 tỷ đồng, xây dựng trên diện tích 15.000m2. Điểm nhấn của di tích là một phần con tàu được làm bằng đá, mô phỏng con tàu không số năm xưa. Đây là nơi ghi nhớ công ơn của những chiến sỹ “tàu không số 401” và là địa điểm giáo dục truyền thống cách mạng đối với người dân huyện Hoài Nhơn. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bình Định.

Bình Định 466 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Tháp Phú Lốc (Tháp Vàng)

Tháp Phú Lốc còn có tên gọi là tháp Thốc Lốc, tháp Phốc Lốc, hay tháp Vàng (Tour d'Or) như những nhà nghiên cứu người Pháp đã gọi, là một ngôi tháp Chăm Pa cổ thuộc xã Nhơn Thành, thị xã An Nhơn cách Thành Phố Quy Nhơn 35km về phía bắc. Đây là một ngôi tháp thuộc phong cách Bình Định, nhưng đồng thời phong cách kiến trúc có ảnh hưởng một phần từ kiến trúc Angkor của người Khmer. Tháp được xây dựng trên một đỉnh đồi có độ cao là 76m, vì thế tháp Phú Lốc nổi bật lên giữa vùng đồng bằng tỉnh Bình Định như một ngọn hải đăng khổng lồ. Như các tháp mang phong cách Bình Định, các cột ốp, đặc biệt là các cột ốp ở góc, các ô dọc giữa các cột ốp nhô mạnh ra và hoàn toàn để trơn. Các cửa giả đều co ba thân và ba tầng như ở các tháp Cánh Tiên và tháp Thủ Thiện. Phần trên các tầng của các cửa giả là vòm cung nhọn khá dài trông như hình mũi giáo, cả hai tầng còn lại phía trên của tháp đều cùng lặp lại kiểu dáng và bố cục của phần thân. Tháp Phú Lộc, được xây dựng vào đầu thế kỷ 12, mang phong cách Bình Định. Đây là thời kỳ luôn có sự giao tranh thường xuyên giữa Chăm Pa và vương quốc Khmer, có nghiên cứu cho biết tháp này được xây dựng trong thời kỳ quân đội Khmer đang chiếm đóng kinh đô Vijaya, Bình Định bởi vị vua người Chăm là Vidyanandana do người Khmer dựng nên, vì thế kiến trúc và nghệ thuật Angkor ảnh hưởng rất nhiều trong việc xây dựng tháp này. Tháp có vẻ đẹp ngạo nghễ nhưng đượm buồn, đứng từ chân tháp du khách có thể nhìn khắp 4 hướng những cảnh trí kỳ vĩ xung quanh. Tháp được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng di tích Kiến trúc Nghệ thuật năm 1995. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bình Định.

Bình Định 474 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Tháp Dương Long(Tháp Ngà)

Tháp Long Dương ở xã Tây Bình, huyện Tây Sơn, cách Thành Phố Quy Nhơn khoảng 50km, được xây dựng vào cuối thế kỉ XII, đây là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất của nền văn hóa Champa. Cụm tháp này gồm ba tháp: Tháp giữa cao 42m, tháp Nam cao 36m và tháp Bắc cao 34m. Phần thân của các tháp xây bằng gạch, các góc được ghép bởi những tảng đá lớn chạm trổ công phu. Tính quy mô của tháp Dương Long được thể hiện không chỉ ở chiều cao của nó (cao nhất trong các tháp Chăm còn lại ở Việt Nam) mà còn ở lối kiến trúc độc đáo, đặc biệt là các hoa văn, hoạ tiết được khắc tạc trực tiếp trên những tảng đá đồ sộ đặt ngay trên đỉnh tháp với nghệ thuật điêu khắc chạm trổ điêu luyện, các đường nét thể hiện vừa hoành tráng vừa lộng lẫy, vừa tinh tế mềm mại, những con vật và họa tiết trang trí vừa sống động chân thực, vừa huyền ảo kì bí. Tháp Dương Long được đánh giá là một trong những tháp Chăm đẹp nhất Việt Nam. Tháp Dương Long được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng là di tích Kiến trúc Nghệ thuật năm 1980 và được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt ngày 23/12/2015. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bình Định

Bình Định 483 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia đặc biệt. Mở cửa

Điểm di tích nổi bật