Di tích lịch sử

Việt nam

Chùa Khả Lương

Chùa và đền Khả Lương ở làng Khả Lương, xã Ninh Thắng, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình. Chùa còn có tên chữ là Thắng Lâm Tự (chùa Thắng Lâm). Đền Khả Lương có địa thế đẹp nằm trên mảnh đất hình con rùa, phía trước sân là miệng con rùa, nên dân làng không san lấp, như một kiểu “thuỷ trì” là nơi tụ thuỷ, tụ phúc. Tương truyền chùa được khởi dựng từ thời Lý, đến thời Nguyễn dân làng di chuyển đền từ địa danh Mả La về phí trước chùa, tạo thành một kiểu kiến trúc “Tiền Thần, Hậu Phật”. Đền có cấu trúc kiểu chữ Đinh hậu cung nối thêm một hàng cột và một mảnh giường tạo thành Tiền Đường ba gian. Hậu Cung ba gian, bốn hàng chân cột bằng gỗ lim, lợp ngói vẩy, vì kèo ngoài, kiểu kèo mê, vì trong kiểu giá chiêng, được chạm khắc rồng hổ phù tứ linh: long, ly, quy, phượng, sơn son thếp vàng lộng lẫy. Đền là nơi thờ cúng Hộ Sinh Đại Vương, người có công cứu giúp dân làng khỏi đại nạn, được Nhà phong là Hộ Quốc Đại Vương, trở thành Thành Hoàng của làng Khả Lương. Chùa Khả Lương có kiến trúc kiểu chữ Nhị (=) Tiền Đường năm gian vì kèo kiểu “thượng giường, hạ kẻ”, ba hàng chân cột, trốn một hàng cột giữa , hàng cột trước được làm bằng đá xanh. Hậu Cung hay Chùa Thượng ba gian, những kèo kiểu “thượng giường, hạ kẻ”, ba hàng chân cột, hàng cột trước và hàng cột sau bằng đá xanh, phía trước có hai con rồng chầu bằng đá (tương truyền từ đời Lý). Chùa thờ Tam Thế, A Di Đà tam tôn, Thích ca sơ sinh, Thánh Tăng, Thổ Địa râu trắng, một tín ngưỡng dân gian với mong ước phù hộ che trở cho nhân dân và ngôi làng của mình. Ngoài ra chùa còn thờ Hàn Lâm, đó là nơi thờ các cô hồn, đây cũng là một việc thờ tự cổ xưa mang tính chất lương thiện tốt đẹp của người dân. Hàng năm chùa và đền Khả Lương diễn ra nhiều các hình thức sinh hoạt văn hóa như ngày hội kỷ niệm vua Trần Thái Tông, ngày xá tội vong nhân, ngày lễ Thích Ca thánh Phật, ngoài ra còn những ngày Tư, Rằm, mùng Một nhân dân trong làng đều thắp hương, cúng bái. Di tích trải qua các thời kỳ cũng là nơi diễn ra nhiều sự kiện cách mạng của địa phương. Trong kháng chiến chống Pháp chùa là cơ sở chữa trị cho thương binh, chùa còn là nơi sơ tán của trường Phổ thông cấp I, xã Ninh Thắng. Nhiều người đã trưởng thành trong mái trường này. Chùa và đền Khả Lương còn lưu giữ được nhiều hiện vật quý như: bia đá, chuông, rồng đá, sắc phong, long ngai, bài vị… đây là những hiện vật có giá trị đang được nhân dân trong làng bảo quản rất cẩn trọng để ghi nhớ công lao của các bậc tiền nhân. Đền và chùa Khả Lương xã Ninh Thắng là một ngôi đền, chùa cổ, có cảnh quan đẹp, cây cối toả bóng xanh mát quanh năm, đây còn là một kiến trúc thời Nguyễn mang phong cách truyền thống của dân tộc. Xuất phát từ những giá trị của di tích, UBND tỉnh Ninh Bình xếp hạng di tích Đền và chùa Khả Lương là Di tích lịch sử văn hóa cấp Tỉnh. Nguồn: Ban quản lý Quần thể danh thắng Tràng An

Ninh Bình 4527 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Đền Dâu

Đền Dâu thuộc địa phận phường Nam Sơn, thành phố Tam Điệp tỉnh Ninh Bình, đền có tên chữ là Tang Dã Linh Từ (nghĩa là: Đền Thiêng nương Dâu) thờ Liễu Hạnh Công chúa – một trong tứ bất tử của điện thần Việt Nam đã hoá thân vào người con gái địa phương giúp dân và quân lính Tây Sơn trồng dâu nuôi tằm. Đền Dâu toạ lạc trên một thế phong thuỷ đẹp, đền nằm trên một khu đất cao quay hướng đông nam, phía trước đền có núi Hồng Ngọc làm án, phía sau có núi Chong Đèn làm hậu chẩm, bên trái có núi Ngang(Hoành Sơn) làm Thanh Long, bên phải đền có núi Béo làm Bạch Hổ. Lễ hội đền Dâu hàng năm mở vào 15 tháng riêng, tương truyền đó là ngày hội đặt hom dâu và cũng là ngày mừng vua Quang Trung chiến thắng khải hoàn, kéo dài cho đến hết ngày 3-3 Âm lịch (Ngày kỵ của mẫu Liễu), ở địa phương còn lưu truyền câu ca dao: “Dù ai đi đâu về đâu. Nguyên tiêu lễ hội đền Dâu thì về. Dù ai bận rộn trăm bề. Nguyên Tiêu lễ hội thì về đền Dâu”. Trước đây lễ hội có tục rước tượng và kéo chữ “Mẫu Nghi thiên hạ”, “Thiên hạ thái bình” và “Lý Nhân vi mỹ” nhưng hiện nay tục rước tượng và kéo chữ chưa khôi phục được, chỉ còn lễ và tế nữ quan còn duy trì. Cũng như nhiều phủ, điện Mẫu khác, nơi đây có những nghi thức thờ cúng cơ bản như: hầu bóng, tôn lô nhang và trình đồng để cầu mong đức Thánh Mẫu và các vị thần thánh ban phúc, lộc, thọ và an khang cho trăm họ. Di tích đền Dâu là một trong những di tích có liên quan chặt chẽ tới Mẫu Liễu Hạnh như ở đền Sòng, Phố Cát (Thanh Hoá), Phủ đồi Ngang, đền Quán Cháo(Ninh Bình) liên quan tới con đường Thiên Lý cổ ra bắc vào Nam, gắn với không gian ảnh hưởng của Mẫu Liễu từ Phủ Tây Hồ (Hà Nội) qua Vân Cát (Nam Định), qua đèo Tam Điệp (Ninh Bình – Thanh Hoá) tới tận đèo Ngang (Hà Tĩnh – Quảng Bình). Di tích nằm trong không gian của phòng tuyến Tam Điệp – Biện Sơn gắn với các địa danh như luỹ Ông Ninh, thung Đong Quân, đèo Tam Điệp, luỹ Quèn Thờ đây là một phòng tuyến có ý nghĩa lịch sử quan trọng của dân tộc trong chiến thắng 20 vạn quân Thanh năm 1789. Nguồn: Trung tâm Xúc tiến du lịch Ninh Bình

Ninh Bình 3660 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền thờ Quý Minh Đại Vương

Đền thờ Quý Minh Đại Vương và hang Đền nằm ở chân núi Hàm Rồng, phía Đông Bắc thôn Bình Khê, xã Ninh Nhất, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình. Đền còn có tên gọi khác là đền Thánh Quý hay đền Thượng. Hang Đền hay còn gọi tên là hang Nhà Kho ở ngay phía sau đền. Đây là di tích đã được UBND tỉnh Ninh Bình xếp hạng là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh năm 2006. Đền là nơi thờ cúng Thánh Quý Minh Đại vương, một vị tướng của vua Hùng thứ 18. Theo truyền thuyết từ dân gian, Ngài là một trong ba anh em - ba vị tướng đã được phong Thánh (Đức thánh Tản Viên, Đức thánh Cao Sơn và Đức thánh Quý Minh), là người có công trấn ải Sơn Nam, bảo vệ đất nước thời vua Hùng Duệ Vương (tức Hùng Vương thứ 18). Ngài là một "Thượng đẳng Thần”, được các triều vua qua nhiều triều đại ban chiếu sắc phong, được nhân dân khắp nơi thờ phụng, trở thành Thành hoàng làng ở nhiều nơi. Đền được xây dựng theo kiểu kiến trúc hình chữ Đinh gồm Tiền đường và Hậu cung. Tòa Tiền đường gồm 3 gian nhà ngang dùng làm nơi tế lễ, mới được trùng tu năm 2015. Tòa Hậu cung gồm 3 gian dọc, hiện vẫn được gìn giữ hầu như nguyên vẹn, vì kèo ngoài là kiểu kèo mê phía trên trạm mặt hổ phù, phía dưới có 3 chữ “Cao Sơn Từ”. Bức mê bên trái trạm rồng, bức mê bên phải trạm “Phượng Vũ” (phượng múa), các vì kèo bên trong là kèo moi. Đền tựa vách núi đá xanh vững chãi, thâm nghiêm. Phía ngoài đền về bên trái có ban thờ các quan. Trong ngôi đền, ban thờ Thánh Quý Minh đại vương được đặt trang nghiêm ở chính giữa, phía bên phải là ban thờ Quan Sát, bên trái là ban thờ Sắc Nga công chúa. Trước cửa đền có hồ bán nguyệt, là nơi tụ thủy, tụ phúc. Hang Đền nằm ngay sau đền Thánh Quý. Bên trái hang là mộ ngựa, có ban thờ. Tương truyền có một con ngựa chiến quý đã chết ở đây. Hang Đền là một mái đá lớn, cửa hang rộng 10m, sâu khoảng 50m. Chỗ cao nhất khoảng 5m, giữa hang có một giếng nhỏ sâu hút vào thân núi gọi là đường xuống âm phủ và một đường leo ngược lên cao gọi là đường lên trời. Trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ trước đây, đền là trụ sở của nhiều cơ quan (trong đó lâu dài nhất Xí nghiệp in Ninh Bình), là nơi cất giữ vũ khí, đạn dược, quân lương. Ngoài ra còn là nơi in ấn tài liệu, sách báo, nơi sơ tán của nhân dân các vùng lân cận… Hiện nay, ở đền còn lưu giữ nhiều hiện vật quý như: 6 sắc phong của các vị Vua triều Nguyễn; Trùy đồng; Phủ việt; Quản tẩy; long ngai; đồ thờ tự… Hàng năm dân làng tổ chức tế Thánh tại di tích vào ngày 14 và 15 tháng 10 âm lịch. Ngoài ra, còn dâng lễ vào các ngày tuần, ngày rằm trong năm. Đền Quý Minh Đại vương và hang Đền nằm trong khu vực núi Hàm Rồng, là một thắng cảnh đẹp sơn thủy hữu tình, lại ở gần Cố Đô Hoa Lư lịch sử. Trong tương lai, đây sẽ là một điểm tham quan hấp dẫn ở vùng ngoại vi Cố Đô Hoa Lư. Nguồn: Ban Quản lý Quần thể danh thắng Tràng An

Ninh Bình 4164 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Đền thờ Công chúa Phất Kim

Đền thờ Thục tiết Công chúa còn có tên gọi khác gọi là phủ Bà chúa, đền thờ Công chúa Phất Kim, nằm trong khu di tích lịch sử văn hóa Cố đô Hoa Lư thuộc thôn Tam Kỳ, xã Trường Yên, huyện Hoa lư. Di tích nằm trên một mảnh đất rộng khoảng 500m2, được ngăn cách với đường liên thôn bởi bức tường bao có trang trí chữ “Thọ” cách điệu kiểu thông phong. Phía trên có bốn chữ Hán “Các Trung Đế Tử” (Lầu thờ con gái Vua) hai bên có hai cột động trụ xây liền tường. Di tích có giếng Ngọc hình bát giác gồm 8 cạnh, xây liền kề gần tường bao. Công chúa Phất Kim là con gái thứ ba của Vua Đinh Tiên Hoàng. Vì nghĩa lớn, Công chúa Phất Kim đã hy sinh hạnh phúc riêng tư, chấp nhận kết duyên cùng Ngô Nhật Khánh. Ngô Nhật Khánh xưng là An Vương, thủ lĩnh sứ quân ở Đường Lâm, một trong 12 sứ quân. Là phò mã, nhưng Ngô Nhật Khánh vẫn không nguôi oán hận và tìm cách cầu viện Chiêm Thành chống lại Nhà Đinh. Trước sự phản bội của chồng, lại thêm việc vua cha Đinh Tiên Hoàng và anh trai Đinh Liễn bị sát hại, Công chúa Phất Kim vì đau đớn và quá thất vọng đã gieo mình xuống giếng nước ở Lầu vọng nguyệt tự vẫn. Theo truyền lại trong nhân dân địa phương, vị trí ngôi đền thờ hiện nay chính là nền của cung điện Vọng Nguyệt - nơi ở của công chúa Phất Kim. Ngay sau khi công chúa tuẫn tiết để bảo toàn đức hạnh, nhân dân đã lập đền thờ công chúa. Trải qua các thời kỳ lịch sử di tích được tu sửa nhiều lần, dấu vết gần đây nhất là vào thời nguyễn. Kiến trúc đền theo kiểu chữ Đinh gồm hai tòa Tiền bái và Hậu cung. Tòa Tiền bái chiều dài 8,2m, chiều rộng 4,44m gồm 3 gian 2 dĩ, mái lợp ngói nam, hiên trước tòa Tiền bái làm theo kiểu chồng diêm, hai tầng. Bờ nóc của tòa Tiền bái ở chính giữa trang trí hình mặt nguyệt, hai đầu của bờ nóc trang trí hình hai đầu rồng chầu vào. Hàng cột thứ nhất gồm bốn cột gỗ đơn giản, hàng cột thứ hai gồm bốn cột bằng đá hình hộp chữ nhật, hàng cột thứ ba liền với tòa Hậu cung, hai cột giữa hình tròn, trang trí rồng mây bằng sơn ta. Kiến trúc vì kèo kiểu giá chiêng. Tòa Tiền bái có nhang án thờ các quan, dưới nhang án có thờ thần Bạch Hổ. Tất cả các họa tiết trang trí đều tinh xảo và mang đậm nét mỹ thuật thời Nguyễn. Tòa Hậu cung gồm 1 gian 2 dĩ, chạy dài ra phía sau là hai gian. Kiến trúc vì kèo đơn giản, chỉ có một hàng cột gồm hai cột gỗ còn phía trước liền với tòa Tiền bái. Đây là nơi thờ tự chính, tượng Công chúa Phất Kim trong long đình, đặt trên hậu bành, được tạc ở tư thế ngồi, chân chữ ngũ, đầu cài hoa, mắt nhìn thẳng, nét đẹp nhân hậu mặt hoa da phấn. Hậu bành trang trí hoa văn lá lật, phượng, vân xoắn, hoa lá cách điệu, hai tay hậu bành gần giống tay ngai, được trang trí thành hình hai con rồng chầu hai bên. Hai bên tượng có hai nàng hầu tạc ở tư thế đứng trên một bệ gỗ. Hai bên bệ thờ tượng Công chúa Phất Kim có nhiều bát hương thờ bản mệnh của nhân dân trong xóm theo tín ngưỡng cổ xưa. Đền thờ Công chúa Phất Kim nằm trong khu di tích lịch sử văn hóa Cố đô Hoa Lư, vì vậy các hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian, lễ hội truyền thống diễn ra tại di tích cũng nằm trong những chương trình của Lễ hội truyền thống Cố đô Hoa Lư (diễn ra ngày mùng 8 tháng 3 đến ngày mùng 10 tháng 3 âm lịch hàng năm, ngày mùng 10 tháng 3 cũng là ngày kỵ của công chúa Phất Kim, lễ chính của đền). Trong những ngày hội sau khi làm lễ rước nước, lễ rước lửa, lễ khai mã và lễ dâng hương tại hai Đền thờ vua Đinh và vua Lê các vị đại biểu, các đoàn tế lễ và du khách thập phương đến các di tích phụ cận khác để dâng hương và tế lễ. Ngoài ra trong những ngày đầu và giữa tháng âm lịch, nhân dân địa phương đều đến đền thắp hương dâng lễ vật để cầu bình an. Đền thờ Thục tiết Công chúa hay Phủ Bà Chúa, được xây dựng dưới triều đại nhà Đinh để thờ phụng Công chúa Phất Kim, suy tôn người phụ nữ có tấm lòng trung hiếu, đức sáng trong, tiết hạnh. Đây là một ngôi đền cổ với nhiều ý nghĩa tâm linh và giá trị của cội nguồn văn hóa mãi đi cùng năm tháng. Nguồn: Ban quản lý Quần thể danh thắng Tràng An

Ninh Bình 3687 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Nhà bia Lý Thái Tổ

Nhà bia Lý Thái Tổ nằm ở xã Gia Mỹ, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình. Vua Lý Thái Tổ tên húy là Lý Công Uẩn, sinh năm Giáp Tuất (974), người châu Cổ Pháp (nay là huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh). Lúc nhỏ, vua rất thông minh, tuấn tú khác thường. Vua đi học ở chùa Lục Tổ (Tiên Sơn, Bắc Ninh) được nhà sư Vạn Hạnh khen là người thông minh, sau này lớn lên ắt có thể giải nguy gỡ rối, làm bậc minh chủ trong thiên hạ. Trưởng thành, vua là người có chí khí. Lê Long Đĩnh lên ngôi, đã thăng ông đến chức Tả thân vệ điện tiền chỉ huy sứ. Vua Lê Long Đĩnh băng hà, Lý Công Uẩn được triều thần tôn lên ngôi Hoàng đế vào năm Kỷ Dậu (1009). Thế kỷ X, trong hoàn cảnh nền thống nhất quốc gia mới được thiết lập, vua Đinh Tiên Hoàng và vua Lê Đại Hành định đô ở vùng núi hiểm trở Hoa Lư là để phòng thủ. Sau khi lên ngôi, Lý Thái Tổ nhận thấy đóng đô ở kinh thành Hoa Lư với tính chất một quân thành phòng thủ chỉ phù hợp với tình hình của đất nước trong nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhưng sang đến thời Lý thì yêu cầu giữ nước không phải là yêu cầu độc tôn, mà vấn đề đặt ra là phải đặt nền tảng vững chắc và toàn diện cho sự hưng thịnh của quốc gia phong kiến độc lập, với yêu cầu phát triển về mọi mặt. Do đó, không thể tiếp tục đóng đô ở vùng núi non hiểm trở, Lý Thái Tổ đã có một quyết định đặc biệt quan trọng mang tính lịch sử đó là dời đô từ Hoa Lư ra thành Đại La. Vua ban tác phẩm “Chiếu dời đô”. Vua khẳng định “.... thành Đại La, ở giữa khu vực trời đất, có thế Rồng cuốn Hổ ngồi, ở giữa Nam Bắc Đông Tây, tiện hình thế núi sông sau trước, đất rộng mà bằng phẳng, chỗ cao mà sáng sủa, dân cư không khổ về ngập lụt, muôn vật rất thịnh mà phồn vinh, xem khắp nước Việt chỗ ấy là nơi hơn cả. Thực là chỗ hội họp của bốn phương, là nơi thượng đô của kinh sư muôn đời...”. Chép về việc này, sách Đại Việt sử ký toàn thư cũng cho biết “Mùa thu tháng 7, vua dời đô từ thành Hoa Lư sang kinh đô lớn ở Đại La của kinh phủ”. Năm 1997, trong khi thi công san lấp khu vực sân lễ hội đã tìm thấy rất nhiều gạch đất nung, trang trí họa tiết Hoa sen, Chim phượng; gạch “Đại Việt quốc quân thành chuyên”, “Giang Tây quân”. Những viên gạch này được xác định có cùng niên đại với gạch phát hiện trong đợt khai quật tại khu vực phía nam đền thờ vua Lê. Các nhà nghiên cứu cho rằng Bến Đền ở phía trước đền vua Đinh và đền vua Lê là bến sông mà vua Lý Thái Tổ xuất phát dời đô từ Hoa Lư ra thành Đại La. Để ghi lại dấu ấn lịch sử trọng đại, một hành trình lịch sử của đất nước từ khôi phục độc lập tự chủ đến thời kỳ phục hưng và phát triển mạnh mẽ. Năm 2000, nhân dịp kỷ niệm 990 năm Hoa Lư - Thăng Long - Hà Nội, đảng bộ và nhân dân tỉnh Ninh Bình đã dựng nhà bia tưởng niệm vua Lý Thái Tổ. Văn bia do Giáo sư, anh hùng lao động Vũ Khiêu soạn, đây là một áng văn hay theo thể biền ngẫu. Văn bia gồm 4 khổ. Nội dung khổ 1: Thái tổ ta xưa - Viết về thân thế, sự nghiệp của vua Lý Thái Tổ. Nội dung khổ 2: Sự nghiệp Hoa Lư thuở ấy - Ca ngợi sự nghiệp dựng nước, giữ nước của triều Đinh - Tiền Lê và công cuộc thiên đô của vua Lý Thái Tổ. Nội dung khổ 3 và khổ 4: Truyền thống Hoa Lư bất diệt - Đất nước hôm nay - Kế thừa và phát huy truyền thống Hoa Lư bất diệt, hơn 10 thế kỷ qua, các thế hệ con cháu của vùng đất địa linh nhân kiệt Hoa Lư - Ninh Bình đã đoàn kết, dũng cảm, kiên trung cùng với quân dân cả nước lập nên những chiến công hiển hách, làm rạng danh cho quê hương đất nước, làm cho truyền thống Hoa Lư mãi trường tồn cùng lịch sử dân tộc. Nguồn: Sở văn hóa và thể thao Ninh Bình

Ninh Bình 3429 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền thờ Vua Lê Đại Hành

Lăng vua Lê Đại Hành nằm dưới chân núi Mã Yên về phía Nam, hai bên có hai quả núi mà nhân dân gọi là “Long chầu, Hổ phục”, là tay ngai, nên núi còn có tên chữ là Hoàn Ỷ Sơn. Trong khu vực thành ngoại của Kinh thành Hoa Lư ngày nay thuộc Thôn Yên Thượng, Xã Trường Yên Huyện Hoa Lư, Tỉnh Ninh Bình. Lăng vua Lê còn có tên gọi khác nữa theo nhân dân địa phương là Mả Quan. Cách gọi này có thể xuất phát từ quan niệm của dân gian về vai trò, vị trí (bề tôi) của Lê Hoàn dưới triều đại vua Đinh Tiên Hoàng, tuy nhiên tên gọi này cổ xưa và không phổ biến lắm. Lăng vua Lê thuộc loại hình di tích mộ táng, theo truyền thống cổ truyền của dân tộc. Theo quan niệm của người xưa, lăng vua Đinh - vua Lê đều đặt vào nơi được gọi là “huyệt Đế Vương”. Vua Lê Đại Hành tức Lê Hoàn trước đây là người tài giỏi võ nghệ, phóng khoáng, có chí lớn. Lê Hoàn gia nhập nghĩa quân Hoa Lư, theo Nam Việt Vương Đinh Liễn tham dự các trận mạc, đánh dẹp các sứ quân cát cứ, lập nhiều chiến công. Được vua Đinh Tiên Hoàng trọng là bậc trí dũng và trở thành Thập Đạo tướng quân dưới triều nhà Đinh. Lê Hoàn cầm quân đuổi giặc Tống, đánh thắng Chiêm Thành, củng cố bộ máy Nhà nước phong kiến độc lập, thống nhất. Chính quyền cũng chăm lo thi hành một số biện pháp tích cực cho sự phát triển kinh tế. Lê Hoàn lên ngôi Hoàng đế, đổi niên hiệu là Thiên Phúc. Có thể nói, dưới triều vua Lê Đại Hành, Kinh đô Hoa Lư và đất nước Đại Cồ Việt đã có sự phồn thịnh, ổn định. Về chính trị, quân sự, văn hóa, ngoại giao có xu thế phát triển, đánh dấu những mốc quan trọng. Ông xứng đáng là người đã dẹp yên thù trong, giặc ngoài, tạo thế mạnh nước nhà và tỏ rõ quyền uy với nhà Tống phương bắc. Năm Ất tỵ 1005, vào tháng ba Vua Lê Đại Hành băng hà ở điện Trường Xuân. Khi vua Lê mất, quần thần an táng và xây dựng lăng mộ ở phía tây nam chân núi Mã Yên. Kích thước của lăng nhỏ hơn lăng của vua Đinh Tiên Hoàng nhưng vẫn chứng tỏ được thế uy nghi của vị đế vương. Phía sau là bia đá, mặt chính của bia có dòng chữ: "Lê Đại Hành Hoàng Đế lăng" và dòng niên đại của bia: Minh Mệnh năm thứ 21 (1840). Theo truyền lại trong dân gian, vùng đất Trường Yên khi xây dựng Kinh đô Hoa Lư, vua Đinh và vua Lê đều lấy Mã Yên Sơn làm tiền án, lấy dãy Đại Vân làm hậu chẩm cho kinh thành. Núi Mã Yên cũng là nơi Vua thường ngự trong mỗi lần duyệt thủy quân. Lăng vua Lê Đại Hành đã được trùng tu vào năm 2020, uy nghi xứng đáng với tầm vóc của vị Hoàng đế. Vị thế lăng vua Đinh và lăng vua Lê nằm trong khu di tích Cố đô Hoa Lư, gắn liền với các di tích trung tâm như: Đền thờ vua Đinh - vua Lê và các di tích phụ cận khác. Ngoài giá trị lớn về mặt lịch sử - văn hóa, nơi ghi dấu ấn vẻ vang của dân tộc, đây còn là nơi được thiên nhiên ban tặng cảnh quan sơn thủy hữu tình, thu hút du khách gần xa về thăm quan, chiêm bái, tri ân bậc vĩ nhân có công lớn với đất nước. Nguồn: Ban Quản lý Quần thể danh thắng Tràng An

Ninh Bình 5852 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền thờ Vua Đinh Tiên Hoàng

Đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng, còn có tên là đền Đinh Bộ Lĩnh, đền Văn Bòng hoặc đền Đại Hữu (lấy tên địa danh nơi ngôi đền tọa lạc), hiện thuộc thôn Văn Bòng, xã Gia Phương huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình. Tương truyền, đây chính là nơi gắn với tích sinh ra Đinh Bộ Lĩnh, người anh hùng dân tộc có công trong việc dẹp loạn 12 sứ quân thống nhất đất nước, lập nên nhà nước Đại Cồ Việt vào năm 968. Tại đây, cũng có bài vị thờ các quan trung thần là tứ trụ triều đình nhà Đinh gồm Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Trịnh Tú, Lưu Cơ. Tương truyền, vua Đinh Tiên Hoàng cùng với con trai là Đinh Liễn bị Đỗ Thích sát hại vào năm 979, theo nghi lễ triều đình đã tấn phong thuỵ hiệu, mỹ tự, lập đền thờ cúng tại quê nhà. Như vậy, đền đã được khởi lập từ xa xưa. Hiện nay phần còn lại của di tích mang phong cách kiến trúc thời Nguyễn. Những nguồn tư liệu về vua Đinh Tiên Hoàng rất nhiều, chính sử và truyền thuyết dân gian đã ghi lại và âm hưởng chung là ca ngợi sự tài giỏi, công lao to lớn của ông đối với sự nghiệp thống nhất đất nước, mở nền chính thống của nước ta sau hàng nghìn năm nô lệ. Trên mảnh đất quê hương ông hiện nay vẫn còn rất nhiều truyền thuyết, địa danh liên quan tới thời ấu thơ của Đinh Tiên Hoàng cũng như Nguyễn Bặc, Đinh Điền, những vị danh tướng cùng quê Đại Hữu với vua Đinh. Núi Kỳ Lân nằm ở đầu xã Gia Phương, cách đền gần 3km, với lăng phát tích vua Đinh, động Đại Hữu, lăng phát tích Nguyễn Bặc. Về phía tây nam của núi có một khoảng uốn lượn trông giống hình tay ngai, lưng chừng có một khu rộng tương đối bằng phẳng. Tương truyền, ông Đinh Công Trứ, thân phụ của Đinh Tiên Hoàng thấy cảnh đẹp đã mang mộ của ông nội nhà vua an táng tại ngai này, xây dựng lăng mộ, gọi là Lăng phát tích, hiện đã được tôn tạo. Cạnh Lăng phát tích có động Đại Hữu ở lưng chừng núi, trong hang có nhiều hình thù đẹp do nhũ đá tạo thành, có chỗ có hình giáng như con Kỳ Lân, nên còn gọi là động Kỳ Lân. Trước đây, theo truyền lại thì hang có đền thờ Sơn Thần, là nơi nương tựa của bà Đàm Thị và Đinh Bộ Lĩnh khi ông Đinh Công Trứ qua đời, như nhiều sách đã viết. Phía đông nam lăng phát tích vua Đinh còn có lăng phát tích Nguyễn Bặc. Lăng nằm cạnh chân núi. Ngay phía trước đền, cách khoảng hơn 200m là gò Bồ Đề, một khu đất cổ cao ráo, hình vuông, rộng gần 200m2 ở đầu xóm Văn Bòng, tương truyền đây là nền nhà cũ của Đinh Bộ Lĩnh. Ở giữa khu ruộng của thôn Văn Bòng, gần đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng có một khoảng đất tương đối cao, rộng hàng nghìn mét vuông, có tên cổ là Đào Áo (còn gọi là xứ Đào Áo). Tương truyền nơi đây là chỗ tụ quân của Đinh Bộ Lĩnh để tập trận. Nhìn chung vùng xung quanh di tích hiện nay còn lưu lại rất nhiều địa danh, truyền thuyết liên quan tới vua Đinh Tiên Hoàng. Đây là những nguồn sử liệu quý để làm sáng tỏ thân thế và sự nghiệp của ông. Đặc biệt từ quê hương ông ở xã Gia Phương hiện nay, ngược lên Gia Hưng (Gia Viễn), sang Trường Yên (Hoa Lư), cả một chiều dài, rộng hàng chục km, vùng đất nào cũng có những địa danh, truyền thuyết liên quan tới vua Đinh Tiên Hoàng. Đền thờ được tu bổ quy mô trong những năm gần đây, nhưng vẫn bảo tồn được nét kiến trúc thời Nguyễn cổ kính, quay hướng tây có ba toà, kiến trúc theo kiểu “tiền nhất, hậu đinh”. Phía trước đền là hồ bán nguyệt. Phía trong hồ, khoảng giữa của sân được xây 2 cột đồng trụ tạo thành lối ra, vào di tích. Khu đền thờ gồm 3 toà: Tiền bái, Trung đường và Chính tẩm. Tiền bái gồm 5 gian, kiến trúc theo lối chồng rường bằng gỗ lim, tường hồi bít đốc. Toàn bộ các đầu bẩy chạm khắc hoa văn lá lật, riêng gian giữa mặt đầu bẩy chặm khắc rồng. Các con chồng ở hệ thống các vì kèo đều được chạm hoa văn lá lật. Bờ nóc Tiền bái hình lưỡng long chầu nguyệt. Trung đường tiếp giáp với Tiền bái, gồm 3 gian, kiến trúc theo kiểu mê toàn (toàn bộ hệ thống hoành nằm trên các mê kèo), phía trước có hệ thống cửa ra vào, các đều bẩy chạm hoa văn lá lật. Đặc biệt mê kèo phía đầu đốc hai bên cửa hiên có mảng chạm bong đề tài tứ linh khá tinh vi. Tòa Chính tẩm gồm 2 gian chính và 1 gian dĩ. Kiến trúc theo kiểu thượng rường hạ mê. Di tích hiện còn giữ được một số hiện vật quý như tượng thờ, ngai, khám thờ, sắc phong của các triều đại… Hàng năm, vào dịp lễ hội cố đô Hoa Lư, người thôn Văn Bòng và xã Gia Phương, cũng mở hội đền và tham gia lễ rước kiệu lửa từ quê hương vua về cố đô Hoa Lư. Với những giá trị lịch sử và văn hóa nổi bật, đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng đã được Bộ Văn hoá Thông tin xếp hạng là Di tích lịch sử văn hoá cấp quốc gia năm 1993. Nguồn: Sở Văn hóa và Thể thao tỉnh Ninh Bình

Ninh Bình 6067 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Hội Linh Cổ Tự

Chùa Hội Linh, còn có tên gọi khác Hội Linh Cổ Tự, thuộc hệ phái Bắc tông - tọa lạc trên diện tích 6.500m2 tại số 314/36 đường Cách mạng Tháng Tám (cách đường khoảng 200 mét), phường Bùi Hữu Nghĩa, quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ. Chùa Hội Linh được khởi lập vào ngày rằm tháng hai năm Đinh Mùi 1907, theo dòng Thiền Tông Lâm Tế. Ban đầu chùa được cất đơn sơ bằng cột cây, vách và mái lợp lá, cửa chùa quay ra hướng sông Hậu, đặt tên “Hội Long Tự”. Vì chùa nằm ở ngọn một con rạch nhỏ, nên còn có tên là chùa Xẽo Cạn. Về mặt kiến trúc: chùa có đầy đủ cổng tam quan, chánh điện, hậu đường, giảng đường. Cổng chính vươn ra phía trước có hai lớp mái, các mái ngói của cổng chính và hai cổng phụ đều là mái cong được lợp bằng ngói âm dương màu xanh rất đẹp. Trên mái ngói cổng chính được điểm tô hình lưỡng long tranh châu, một loại hình trang trí rất thường gặp ở chùa, đình Nam Bộ. Chánh điện được phân làm ba gian và có một lầu. Lầu được chia làm ba gian để thờ Phật Thích Ca, Quan Âm, và Địa Tạng. Mái lợp xi măng đúc thành hình vảy cá. Trên đỉnh là hình búp sen, bầu rượu, các đầu đao hình rồng, hoa lá uốn cong. Hậu đường rộng 144 m², ở giữa đặt bàn thờ Tổ quốc có ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nơi này còn được dùng làm nơi tiếp khách. Liền theo đó là giảng đường, là nơi giảng kinh và thuyết pháp… Ngoài những nét đặc trưng về văn hóa và nghệ thuật, chùa còn ghi lại dấu ấn về lịch sử gắn liền với hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và Đế quốc Mỹ xâm lược của nhân dân Cần Thơ nói riêng. Từ năm 1941, chùa Hội Linh đã trở thành một cơ sở bí mật của cách mạng. Các Hòa thượng, tăng ni và bà con phật tử trong vùng che chở, đùm bọc, nuôi chứa nhiều cán bộ lãnh đạo cách mạng. Năm 1946, để bảo vệ cơ sở cách mạng tại đây, Hòa thượng Thích Pháp Thân đã quyết định đốt một phần ngôi chánh điện. Sự hy sinh của nhà chùa thể hiện tinh thần yêu nước, bảo vệ cán bộ, bảo vệ cơ sở cách mạng, của các vị Hòa thượng, các tăng ni. Sau hiệp định Genève, chùa Hội Linh vẫn tiếp tục là cơ sở cách mạng vững chắc và bảo vệ an toàn cho nhiều cán bộ cách mạng bám trụ hoạt động. Chùa là địa điểm bí mật tổ chức nhiều cuộc họp triển khai đường lối chủ trương chính sách của cách mạng và nội dung hình thức đấu tranh công khai với địch. Địch nghi chùa Hội Linh là cơ sở “Việt cộng nằm vùng”, từng cho một trung đội lính đến bao vây nhà chùa. Không tìm ra tang vật chứng, địch bắt Hòa thượng Thích Pháp Thân cùng với 6 vị tăng và 6 phật tử giam giữ điều tra ở nhà tù Phú Lợi hết 3 năm. Bọn ngụy quyền đã dùng mọi thủ đoạn dụ dỗ, mua chuộc, tra tấn rất dã man nhưng Hòa thượng Pháp Thân và các chư tăng, phật tử đều giữ vững khí tiết một lòng kiên trung với cách mạng. Cơ sở cách mạng tại chùa Hội Linh vẫn được an toàn và tiếp tục nuôi chứa, bảo vệ cán bộ cách mạng cho đến ngày 30-4-1975 giải phóng miền Nam thống nhất nước nhà. Ngày 21/6/1993, Bộ Văn Hóa Thông tin công nhận Chùa Hội Linh là Di tích Lịch sử Văn Hóa cấp Quốc Gia, là cơ sở Cách Mạng từ năm 1941-1975. Đặc biệt, Nhà nước đã trao tặng Huy chương kháng chiến hạng Nhất cho chùa Hội Linh và ghi công liệt sĩ Dương Văn Đề (tức Hòa thượng Thích Pháp Thân) đã hy sinh trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước. Nguồn: Du Lịch Cần Thơ

Cần Thơ 3921 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Pothisomron

Chùa Pôthi Somrôn là một ngôi chùa Khmer cổ tọa lạc bên sông Ô Môn, thuộc phường Châu Văn Liêm, quận Ô Môn, TP Cần Thơ. Chùa đã được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp thành phố năm 2006. Trong khuôn viên chùa có nhiều cây trong đó có một loài cây tên là Somrôn nên chùa được đặt hiệu là Somrôn. Khởi đầu, vào năm 1735, chùa Pôthi Somrôn chỉ được xây dựng bằng những vật liệu đơn sơ như cây lá, tre. Đến năm 1856, chùa được xây dựng bằng các loại gỗ quý như căm xe, cà chất, thao lao và được lợp ngói vảy cá. 100 năm sau, chùa bị xuống cấp, Hòa Thượng Thạch Khiêng – Trụ trì chùa giai đoạn 1950-1988 đi Phnom Penh thỉnh bản thiết kế mới từ các kiến trúc sư nổi tiếng của nước bạn Campuchia, trên cơ sở giữ gìn kiến trúc truyền thống. Chùa mới được khởi công vào tháng 6 năm 1950, đến năm 1952 thì hoàn tất. Kiến trúc này được giữ cho đến nay. Ngôi chùa có một mặt hướng ra cổng trường Học viện phật giáo Nam Tông Khmer, cổng khác lại cận kề vàm sông Ô Môn nhẹ dòng có bến nước hóng mát. Chánh điện là tòa nhà nổi bật trong quần thể kiến trúc chùa Pôthi Somrôn, được xây theo hướng Đông. Người Khmer quan niệm Phật tuy ở Tây phương cực lạc, nhưng luôn hướng về Đông để cứu độ chúng sinh. Các bậc thang dẫn lên chính điện có tượng Phật tinh xảo tọa thiền. Trên tường là những nét vẽ tái hiện cuộc đời Đức Phật được trình bày hết sức sinh động.Hình tượng các tiên nữ Kennâr và chim thần Krud được chạm khắc bay bổng như nâng đỡ mái ngói. Mái chính điện có ba cấp chồng lên nhau, có hình tượng rồng chạy dọc theo bờ mái với đuôi vươn thẳng lên trời cao. Từ cột, rào, khuôn cửa, nóc mái, vách tường đều được chạm khắc hoa văn hình kỷ hà và lục bình tỉ mỉ. Các chùa Khmer đều có tháp cốt nhưng có lẽ hiếm có chùa nào giữ gìn được ngôi tháp hơn 200 năm tuổi như ở chùa Pôthi Somrôn. Tháp cốt ở ngay trước chánh điện, được xây dựng bằng ô dước, đá ong, gạch thẻ có niên đại từ thế kỷ 18. Bên trong tháp cốt này là hài cốt của rất nhiều Phật tử và đã được gìn giữ qua nhiều đời. Theo Hòa thượng Đào Như, trụ trì chùa từ năm 1988, cho biết: một số Phật tử xin xây lại và làm mới phía ngoài ngôi tháp nhưng nhà chùa không đồng ý, bởi đây chính là chứng tích của lịch sử ngôi chùa và văn hóa của dân tộc. Chùa hiện lưu giữ rất nhiều cổ vật. Đó là những cánh én bằng gỗ làm từ năm 1856 chạm trổ hình ảnh mô phỏng các câu chuyện về Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, hơn 100 bộ kinh Satra (sách lá), 17 tượng gỗ gần 200 tuổi. Bức tượng Đức Phật ở Trung tâm Chính điện được tạc vào năm 1885. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, chùa Pôthi Somrôn đã đùm bọc và che chở nhiều thanh niên trốn quân dịch của chế độ cũ. Nhiều nhà sư, Đại đức của chùa khi hoàn tục trở thành đảng viên, đoàn viên. Tiêu biểu như ông Đào Sang, Trưởng Công an và ông Đào Ca, Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến xã Định Môn những năm 1945 – 1948. Gần ba thế kỷ tồn tại, ngôi cổ tự vẫn trang nghiêm thanh tịnh, bao vị chư Tăng đã tu học nơi đây, có những bậc xuất gia đức cao vọng trọng công hạnh viên mãn như: Hòa thượng Đạo Như, tu ở Pothi Sôm Rôm từ năm 12 tuổi và trở thành trụ trì của chùa. Cho đến hiện nay, Hòa thượng Đạo Như đang có những đóng góp lớn cho hệ phái và giáo hội với cương vị Tân lãnh đạo Học viện Phật giáo Nam tông Khmer. Ngày nay, chùa Pôthi Somrôn là nơi khởi nguồn nhiều hoạt động văn hóa xã hội do Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam TP Cần Thơ, Thành hội Phật giáo TP Cần Thơ và Sở Văn hóa – Thể thao Du lịch phát động. Nguồn: Du Lịch Miền Tây

Cần Thơ 5645 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp thành phố Mở cửa

Đình Thần Thới An

Đình thần Thới An tọa lạc tại khu vực Thới Trinh A, thuộc quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ. Đình Thới An được xây dựng vào đầu thế kỷ XIX, được người dân ấp Thới Thuận làng Thới An dựng lên với quy mô nhỏ vật liệu bằng tre lá để thờ thần. Đến năm 1852 vua Tự Đức phê sắc phong cho Đình làng Thới An là “Bổn cảnh Thành Hoàng”. Từ khi có sắc phong, dân làng đã chọn địa điểm và chung sức cùng nhau xây dựng ngôi đình mới khang trang cách ngôi đình cũ 1km. Đó chính là Đình thần Thới An ngày nay. Đình xây dựng theo hình chữ nhất, mặt quay về hướng đông, với lối kiến trúc nghệ thuật độc đáo, mang đậm nét kiến trúc truyền thống của dân tộc. Cũng như một số ngôi đình làng ở Đồng Bằng Sông Cửu Long, đình Thới An thờ “Thành Hoàng Bổn Cảnh” thờ các bậc tiền nhân có công khai khẩn đất hoang, lập nên làng xã, mở mang cơ nghiệp cho làng xóm ngày càng trù phú, phát đạt; thờ những quan chức, chiến sĩ hy sinh cho đất nước, thờ những vị tổ sư dạy nghề cho dân làng, sau khi nước nhà thống nhất, Ban tế tự Đình thần Thới An lập thêm bàn hương án thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Trong giai đoạn chín năm kháng chiến chống thực dân pháp xâm lược, đình Thới An còn là trụ sở của Ủy ban kháng chiến hành chính lâm thời huyện Ô Môn. Hằng năm, người dân Thới An đều long trọng tổ chức hai kỳ lễ hội: Thượng điền và Hạ điền, cầu cho mưa thuận gió hòa, dân cư ấm no hạnh phúc. Đây cũng là dịp mọi người tưởng nhớ đến các bậc anh hùng liệt sĩ, những người có công với đất nước quê hương. Trải qua nhiều biến cố lịch sử, đình Thới An vẫn hiên ngang tồn tại. Đây là một trong những ngôi đình đẹp và cổ kính còn lại không nhiều ở Thành phố Cần Thơ, cũng như ở khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long. Với những gía trị đó vào ngày 15/11/2004 UBND thành phố Cần Thơ đã xếp hạng đình Thới An là Di tích lịch sử văn hóa cấp thành phố. Nguồn: Du lịch Cần Thơ

Cần Thơ 4298 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp thành phố Mở cửa

Khu di tích An Nam Cộng sản Đảng Cờ Đỏ

Đêm 10.11.1929, tại một căn chòi ngang lẫm lúa của đồn điền Cờ Đỏ (thuộc làng Thới Đông, tổng Thới Bảo, quận Ô Môn, tỉnh Cần Thơ), đồng chí Hà Huy Giáp - Ủy viên Ban Chấp hành Đặc ủy An Nam Cộng sản Đảng Hậu Giang được Đặc ủy phân công về Ô Môn phối hợp cùng đồng chí Nguyễn Văn Nhung và đồng chí Bảy Núi đã thành lập Chi bộ An Nam Cộng sản Đảng, do đồng chí Hà Huy Giáp làm Bí thư. Chi bộ An Nam Cộng sản Đảng Cờ Đỏ đã tuyên truyền, vận động nâng cao giác ngộ cách mạng cho đông đảo nông dân lao động, hướng dẫn đấu tranh đòi quyền lợi và chọn lọc quần chúng tích cực đưa vào các tổ chức đảng. Chi bộ nhanh chóng đẩy mạnh việc xây dựng, phát triển các tổ chức cơ sở đảng trong toàn tỉnh để lãnh đạo phong trào cách mạng. Sự ra đời của chi bộ này không chỉ thúc đẩy phong trào cách mạng ở Cần Thơ mà còn tác động mạnh mẽ đến nhiều địa phương trong vùng như Ðồng Tháp, An Giang... Từ Chi bộ đầu tiên, trong tỉnh có thêm nhiều chi bộ khác được thành lập... Các tổ chức quần chúng của Ðảng như Công hội đỏ, Nông hội đỏ, Thanh niên, Phụ nữ phản đế cũng được tổ chức ở nhiều nơi, dưới sự lãnh đạo của các chi bộ đã tập hợp đông đảo nhân dân, đẩy mạnh phong trào đấu tranh cách mạng. Để giữ gìn, phát huy giá trị lịch sử, thành phố đã đầu tư xây dựng Dự án bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị di tích lịch sử Địa điểm thành lập Chi bộ An Nam Cộng sản Đảng Cờ Đỏ với diện tích gần 40.000m2. Công trình đã hoàn thành đưa vào sử dụng năm 2019 ngay trên nền đất cũ đồn điền năm xưa, cũng chính là trung tâm huyện Cờ Đỏ ngày nay. Khu di tích xây dựng theo kiểu công viên mở, có không gian thoáng mát, gồm các hạng mục: Tượng đài, bức phù điêu, nhà bia, quảng trường, hồ sen. Ngày 31.10.2013, Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch đã có quyết định xếp hạng địa điểm thành lập Chi bộ An Nam Cộng sản Đảng Cờ Đỏ là Di tích lịch sử cấp quốc gia. Hiện nay, Khu di tích là địa điểm tham quan, học tập, sinh hoạt truyền thống, sinh hoạt văn hoá văn nghệ, thể dục thể thao của các tầng lớp nhân dân và du khách gần xa. Nguồn: Uỷ ban nhân dân thành phố Cần Thơ

Cần Thơ 5713 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Lộ Vòng Cung

Di tích lịch sử địa điểm chuyển quân, trạm quân y tiền phương và nơi cất giấu vũ khí thuộc lộ vòng cung Cần Thơ tọa lạc tại xã Mỹ Khánh, huyện Phong Điền, thành phố Cần Thơ. Lộ Vòng Cung dài gần 30 km, nối Quốc lộ 1A từ cầu Cái Răng vào huyện Phong Ðiền, phần lớn qua các xã: Mỹ Khánh, Nhơn Ái, Tân Thới, Giai Xuân và kết thúc tại lộ tẻ Ba Se (phường Phước Thới, quận Ô Môn). Ngay từ thời kỳ Pháp thuộc, bọn tay sai thực dân đã đàn áp, bắt bớ nhân dân làm phu đắp lộ với âm mưu xây dựng tuyến đường thành vành đai phòng thủ bảo vệ cơ quan đầu não của chúng tại nội ô Cần Thơ. Dưới chế độ chính quyền Sài Gòn, tuyến lộ Vòng Cung vẫn được tiếp tục xây dựng vừa làm hàng rào phòng thủ để bảo vệ trung tâm đầu não vùng IV chiến thuật, sân bay Trà Nóc và các cơ quan đại diện của Mỹ tại Cần Thơ, vừa là nơi thử nghiệm mọi thủ đoạn tàn bạo nhất để quét trắng các cơ sở cách mạng trên tuyến lộ Vòng Cung, đồng thời làm bàn đạp tấn công lực lượng cách mạng của ta ở Căn cứ U Minh. Đối với ta, lộ Vòng Cung vừa là cửa ngõ có tính chất liên hoàn thuận lợi về đường bộ và đường thủy, vừa là nơi vận chuyển, cung cấp lương thực, vũ khí, nhu yếu phẩm và nuôi chứa cán bộ lãnh đạo cách mạng cho các đơn vị bộ đội, tạo thành đường dây kết nối vững chắc giữa các lực lượng của huyện, tỉnh và của Khu tập kết để đưa các lực lượng vào Vòng Cung, tấn công trung tâm đầu não của địch ở thành phố Cần Thơ. Trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ, Lộ Vòng Cung là địa điểm chuyển quân (ấp Mỹ Nhơn); Trạm Quân y Tiền phương (ấp Mỹ Long); nơi cất giấu vũ khí (ấp Mỹ Thuận) của lực lượng cách mạng. Tại đây, ta đã tổ chức vận chuyển lương thực, vũ khí, nhu yếu phẩm nuôi chứa cán bộ cách mạng, các đơn vị bộ đội và là nơi tập kết của các lực lượng cách mạng. Do đó, đế quốc Mỹ tiến hành nhiều đợt phi pháo càn quét, bắn phá tan hoang nhà cửa, ruộng vườn của bà con nhân dân và rải chất khai quang hủy diệt sự sống, với quyết tâm đánh bật lực cách mạng ra khỏi Vòng Cung, cắt đường dây kết nối liên lạc giữa lực lượng cách mạng và nhân dân nơi đây. Nhiều cuộc chiến đấu giữa ta và địch diễn ra vô cùng gay go ác liệt, có biết bao máu xương của chiến sĩ, đồng bào đã ngã xuống mảnh đất Vòng Cung. Nhưng với truyền thống yêu nước và tuyệt đối tin tưởng vào cách mạng, bà con nhân dân nơi đây không quản ngại hy sinh, gian khổ vẫn quyết tâm bám trụ đùm bọc, nuôi chứa, bảo vệ cán bộ, bộ đội đứng chân chiến đấu cho đến ngày thống nhất đất nước, góp phần tô thắm những trang sử vẻ vang về truyền thống đấu tranh cách mạng của Đảng bộ, quân và dân Cần Thơ. Vì vậy, Lộ Vòng Cung Cần Thơ không chỉ là địa danh mà còn có ý nghĩa lịch sử trong kháng chiến chống ngoại xâm của Cần Thơ. Ngoài địa điểm chuyển quân, Trạm Quân y Tiền phương và nơi cất giấu vũ khí của lực lượng cách mạng, nơi đây còn lưu lại dấu ấn sâu đậm về tình nghĩa quân dân gắn liền với những đau thương, mất mát, hy sinh của những đồng bào, chiến sĩ đã ngã xuống vì Tổ quốc. Ngày 7 tháng 2 năm 2013, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã xếp hạng Địa điểm chuyển quân, Trạm Quân y Tiền phương và nơi cất giấu vũ khí thuộc Lộ Vòng Cung Cần Thơ trong kháng chiến chống Mỹ là Di tích lịch sử cấp Quốc gia. Nguồn: Trang thông tin di tích lịch sử - văn hóa Cần Thơ

Cần Thơ 4390 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Khám Lớn Cần Thơ

Di tích lịch sử Khám lớn Cần Thơ hiện tọa lạc tại số 8, đường Ngô Gia Tự, phường Tân An, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ. Để phục vụ cho bộ máy cai trị tại Cần Thơ, từ năm 1876 đến năm 1886, thực dân Pháp đã xúc tiến xây dựng nhiều cơ quan, công sở… trong đó có trại giam mang tên “Prison Provinciale”. Trại giam được xây dựng trên diện tích rộng 3.762m2, liền kề Dinh Tỉnh trưởng, đối diện Tòa Hành chánh và biệt lập với khu dân cư, nhân dân thường gọi là Khám lớn Cần Thơ. Khi Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết năm 1954, chính quyền Sài Gòn đổi tên tỉnh Cần Thơ thành tỉnh Phong Dinh, Khám lớn Cần Thơ được đổi tên thành Trung tâm cải huấn. Nhưng dù được gọi với tên gọi nào chăng nữa thì Khám lớn Cần Thơ thực chất vẫn là địa ngục trần gian - là nơi thực dân đế quốc giam cầm, đày đọa những chiến sĩ cách mạng và đồng bào yêu nước của ta. Cổng Khám Lớn có hình vòm, bên trái cổng là dãy nhà giám thị trực, bên phải là văn phòng làm việc và là nơi ở của giám thị trưởng. Chung quanh Khám lớn được bao bọc bởi bức tường cao từ 3,6m đến 5m trên được cắm đầy những mảnh ve chai và dây kẽm gai rào kín. Ở mỗi góc tường là một tháp canh cao 6m có lính gác và đèn pha chiếu sáng về đêm để kiểm soát tù nhân. Bên trong Khám lớn có 21 phòng giam tập thể cùng nhiều phòng biệt giam. Giữa các dãy nhà giam là một sân rộng để tù nhân ra phơi nắng. Trong khoảng sân này thực dân, đế quốc còn cho xây dựng nhà chùa, nhà thờ để tỏ ra tôn trọng tín ngưỡng, tôn giáo của tù nhân. Khoảng năm 1963, hai dãy nhà lầu được xây dựng thêm trên phần sân phía sau nhà chùa, tầng trệt không vách tường - có thời gian được dùng làm nhà hướng nghiệp cho tù nhân… Sức chứa quy định trong mỗi phòng giam tập thể chỉ khoảng 30 đến 40 người nhưng có lúc số tù nhân lên đến 70 đến 80 người. Nhất là sau cuộc Khởi nghĩa Nam kỳ, địch điên cuồng dùng mọi thủ đoạn khủng bố, trả thù nhân dân ta. Nhiều cán bộ lãnh đạo, đảng viên và quần chúng đã bị thực dân Pháp bắt giam tại Khám lớn Cần Thơ. Ngoài ra, địch còn đưa hàng trăm quần chúng tham gia khởi nghĩa và các đồng chí lãnh đạo ở các tỉnh Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau… về đây giam giữ, tra tấn dã man. Đặc biệt trong thời kỳ đế quốc Mỹ dùng “Luật do chế độ Việt Nam Cộng hòa ban hành ngày 6 tháng 5 năm 1959 để khủng bố, kềm kẹp nhân dân ta, bắt giam tất cả những người tình nghi là “Việt cộng”, lúc này số tù nhân trong mỗi phòng có khi lên đến hơn 100 người. Nhiều tù nhân không chịu nổi chế độ giam cầm, tra tấn, ăn uống khắc nghiệt đã phải chết dần chết mòn trong nhà lao tối tăm này. Số người còn lại bị nhiễm đủ các bệnh: ghẻ lở, sốt rét, thương hàn, lao phổi… Đối với những tù chính trị thuộc loại đặc biệt địch nhốt riêng ở các phòng biệt giam, bị tra tấn đến bại liệt nhưng vẫn một lòng trung thành với Đảng với dân, giữ tròn khí tiết đến hơi thở cuối cùng. Mặc dù bị tra tấn cực hình, các đồng chí đảng viên trong tù vẫn có Chi bộ, Đảng bộ, sinh hoạt học tập, tổ chức đấu tranh với địch từng giờ từng phút kiên quyết giữ gìn phẩm chất cách mạng. Chính tinh thần đấu tranh bất khuất và lòng yêu nước thương dân của những người tù chính trị đã cảm hóa và giáo dục giác ngộ cách mạng được nhiều giám thị, lính gác nhà giam và họ tình nguyện làm cơ sở nội tuyến của ta, thông báo cho các đồng chí tù chính trị biết được tình hình của ta, địch ở bên ngoài để đề phòng hoặc có phương sách đấu tranh với địch trong nhà giam. Miền Nam hoàn toàn giải phóng, Khám lớn Cần Thơ trở thành chứng tích khắc sâu bao tội ác không phai mờ của thực dân, đế quốc. Chính nơi đây, biết bao người con ưu tú của quê hương Cần Thơ và các tỉnh lân cận đã ngã xuống để góp phần viết nên trang sử vẻ vang hào hùng của dân tộc. Ngày 28/6/1996 Bộ Văn hóa - Thông tin đã xếp hạng Khám lớn Cần Thơ là Di tích lịch sử cấp quốc gia. Nguồn: Cổng thông tin du lịch Cần Thơ

Cần Thơ 5539 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Khu tưởng niệm Thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa

Khu tưởng niệm thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa tọa lạc tại đường Huỳnh Mẫn Đạt, phường Bùi Hữu Nghĩa, quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ. Đây là nơi yên nghỉ của Thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa – một nhà thơ yêu nước, tác gia tiên phong của sân khấu tuồng Việt Nam, người được mệnh danh là anh hùng tứ kiệt hay một trong bốn Rồng vàng của Nam Bộ. Bùi Hữu Nghĩa, hiệu Nghi Chi, sinh ra tại thôn Bình Thủy, tổng Vĩnh Định, châu Định Viễn, dinh Vĩnh Trấn (nay thuộc quận Bình Thủy, TP Cần Thơ) trong một gia đình ngư dân nghèo. Năm Ất Mùi (1835) ông đỗ Giải Nguyên (Thủ khoa) trong khoa thi Hương Trường Gia Định, vì thế người đời thường gọi ông là Thủ khoa Nghĩa. Ông được triều đình nhà Nguyễn bổ làm Tri huyện Phước Chánh, phủ Phước Long, tỉnh Biên Hòa (nay là tỉnh Đồng Nai); rồi Tri huyện phủ Trà Vang (nay thuộc tỉnh Trà Vinh). Năm 1848, vì bênh vực cho dân nghèo trong vụ án “Rạch Láng Thé”, ông bị quan lại, cường hào vu oan và bị triều đình kết tội chết. Vợ ông – bà Nguyễn Thị Tồn đã ra tận kinh đô Huế kêu oan cho chồng. Bùi Hữu Nghĩa được tha chết nhưng bị đày ra trấn thủ biên giới Vĩnh Thông (Châu Đốc). Năm 1862, ông từ quan về Long Tuyền – Cần Thơ mở trường dạy học, bốc thuốc chữa bệnh cho dân nghèo, rồi tham gia phong trào yêu nước chống thực dân Pháp. Ông mất ngày 21 tháng Giêng năm Nhâm Thân (1872), thọ 65 tuổi. Thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa là tấm gương sáng về sự công minh, chính trực, hết lòng vì dân, vì nước..Vở tuồng nổi tiếng Kim Thạch Kỳ Duyên của ông được coi là cổ nhất Việt Nam, đã được trình diễn khắp đất nước và cũng là vở tuồng đầu tiên của Việt Nam được dịch ra tiếng Pháp. Ông là một trong những danh nhân văn hóa của đất Cần Thơ được nhân dân tin yêu, trọng phục. Tên tuổi ông tỏa sáng về tinh thần đấu tranh chống xâm lược, chống áp bức, bất công; nghĩa khí và những cống hiến to lớn cho nền văn học nước nhà là niềm tự hào không chỉ của người dân Cần Thơ mà là cả vùng Nam bộ. Khâm phục tài năng và phẩm giá của ông, nhân dân làng Bình Thủy đã đưa hình ảnh vào thờ trong đình Bình Thủy; các học trò lập bài vị thờ ông tại chùa Nam Nhã. Phần mộ của Thủ khoa xây dựng bằng đá ong luôn được các thế hệ người Cần Thơ chăm sóc và thường xuyên được tu bổ, tôn tạo. Khu tưởng niệm có khuôn viên khoảng 10.000m2 với tổng kinh phí xây dựng hơn 50 tỷ đồng. Công trình đã khánh thành vào ngày 1/3/2013 – dịp kỷ niệm 141 năm ngày mất của ông. Kiến trúc chủ đạo của Khu Di tích là phong cách giả cổ với các cột cái đường kính khoảng 1m được sơn màu nâu đỏ; vách ngăn, ban thờ bằng gỗ được trạm trổ công phu; mái lợp ngói xanh mát mắt. Đỉnh mái nhấn mạnh bằng biểu tượng đôi cá hóa long, bốn góc mái được điểm tô bằng những cánh chim phượng đang bay lên. Bên trong khu tưởng niệm có khuôn viên vườn rộng thoáng mát, đầy cây xanh. Khu tưởng niệm có bốn công trình chính gồm ba tòa nhà lớn trong đó chính giữa là nhà thờ, bên trái nhà trưng bày, bên phải nhà khách và một nhà bia ngay cổng vào để lược ghi tài năng, công đức của ông và một số công trình phụ khác để phục vụ du khách xa gần đến tham quan kính viếng. Nguồn: Du lịch Cần Thơ

Cần Thơ 4648 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Nam Nhã

Chùa Nam Nhã hay Nam Nhã đường, tên đầy đủ là Nam Nhã Phật đường, tọa lạc tại số 612 đường Cách mạng Tháng 8, phường Bùi Hữu Nghĩa, quận Bình Thủy, TP Cần Thơ. Đây không chỉ là nơi sinh hoạt tôn giáo của các tín đồ theo đạo Minh Sư, mà còn là cơ sở hoạt động cách mạng của các phong trào yêu nước ở Cần Thơ nói riêng, Nam Bộ nói chung vào cuối thế kỷ XIX , đầu thế kỷ XX. Người lập chùa Nam Nhã là ông Nguyễn Giác Nguyên (1850-1919), bí danh Nguyễn Phương Thảo, đạo danh Long Khê đạo nhân, đạo hiệu Nguyễn Đạo Cơ. Khoảng năm 1890, ông Nguyễn Giác Nguyên bắt đầu tham gia phong trào Đông Du. Thoạt đầu, ông dời nhà từ Rạch Sao ra chợ Bình Thủy, lập tiệm thuốc bắc Nam Nhã đường ở gần cầu Rạch Miễu làm cơ sở liên lạc chống Pháp. Năm 1895, ông Nguyễn Giác Nguyên thôi làm tiệm thuốc Bắc, chuyển ra vàm sông Bình Thủy lập một ngôi chùa nhỏ ba gian cũng mang tên là Nam Nhã đường. Đến năm 1905, chùa được tái thiết quy mô hơn với năm căn hai chái. Trải qua thời gian, ngôi chùa hư hại nhiều, những người trong đạo muốn xây dựng lại nhưng Pháp không cho vì chùa còn đang bị theo dõi, phải xin vận động với nhà cầm quyền Pháp mới được phép xây dựng. Năm 1917, chùa được xây lại bằng gạch ngói, nhiều vật liệu được đặt mua từ bên Pháp. Cũng như nhiều ngôi chùa khác, chùa Nam Nhã được xây cất gần bờ sông để khách thập phương thuận tiện tới lui chiêm bái, bởi giao thông ngày trước chủ yếu là phương tiện đường thủy. Vì vậy, cổng chùa cũng hướng ra rạch Bình Thủy. Nhiều tài liệu mô tả cổng chùa xây bằng gạch, lợp ngói. Sân chùa lát gạch tàu, được bao quanh bởi một khu vườn lớn trải dài ra tận bờ sông Bình Thủy. Giữa vườn là hòn non bộ cao trên 2m được đặt trong một bồn nước xây bằng gạch. Trong vườn trồng nhiều cây tùng, cây trắc bá diệp và các cây cổ thụ khác. Chánh điện là một ngôi nhà gạch kiên cố, gồm 5 gian, lợp ngói âm dương, trên có hình lưỡng long tranh châu. Đặc biệt, mặt tiền chánh điện có kiểu kiến trúc Á - Âu kết hợp hồi đầu thế kỷ XX, và khá khác với kiểu chùa truyền thống ở Nam Bộ. Bên trong chánh điện, ở khu trung tâm được bài trí rất trang trọng, dùng làm nơi đặt bàn thờ Tam giáo Thánh nhân (có ba pho tượng thờ bằng đồng là Đức Thích Ca Văn Phật, Đức Khổng Tử Chí Thánh và Đức Lão Tử Đạo Tổ). Sau chính điện là một hành lang dài có hai căn phòng tiếp khách. Bên phải và bên trái chùa là hai dãy nhà lợp ngói gọi là Càn Đạo Đường (dãy nhà Đông Lang) dùng cho nam giới và Khôn Đạo Đường (dãy nhà Tây Lang) dùng cho nữ giới ăn thông với nhà bếp. Hiện nay, chùa Nam Nhã còn có nhiều ruộng vườn, đặc biệt phía sau chùa là cả một vườn cây ăn trái, hoa kiểng xanh tươi, tỏa mát cả không gian yên tĩnh của chùa. Ngoài việc sinh hoạt tôn giáo, chùa Nam Nhã còn là cơ sở hoạt động cách mạng. Chùa là “trụ sở hoạt động của phong trào Đông Du ở Cần Thơ. Tại đây, vào tháng 2-1913, sau khi từ Pháp trở về nước, chí sĩ yêu nước Cường Để cùng với ông Nguyễn Giác Nguyên bàn quốc sự vận động phong trào yêu nước ở Nam kỳ, bị thực dân Pháp theo dõi phát hiện nên cho đóng cửa chùa. Tuy nhiên, nơi đây vẫn tiếp tục duy trì là cơ sở bí mật hoạt động cách mạng. Năm 1929 khi Đặc ủy An Nam Cộng sản Đảng Hậu Giang được thành lập ở Bình Thủy, chùa Nam Nhã chính là cơ sở liên lạc giữa Đặc ủy Hậu Giang với Xứ ủy Nam kỳ của những nhà cách mạng, trong đó có đồng chí Ngô Gia Tự, Bí thư Cấp ủy Lâm thời Đảng bộ Nam kỳ”. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, chùa Nam Nhã luôn đi liền với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Với những giá trị về mặt kiến trúc và lịch sử như vậy, ngày 25 tháng 1 năm 1991, chùa Nam Nhã đã được Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch xếp hạng là Di tích lịch sử cấp quốc gia. Nguồn: Báo Cần Thơ online

Cần Thơ 3983 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

CƠ QUAN ĐẶC ỦY AN NAM CỘNG SẢN ĐẢNG HẬU GIANG

Di tích lịch sử Đặc Ủy An Nam Cộng Sản Đảng Trên đường vào phường Long Hoà, Long Tuyền (Quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ) bên phía tay phải có căn nhà mang số 34/7 đường Bùi Hữu Nghĩa, phường Bình Thuỷ, quận Bình Thuỷ ngày xưa là căn nhà được thuê làm cơ quan của Đặc Uỷ An Nam Cộng Sản Đảng Hậu Giang. Di tích lịch sử Đặc Ủy An Nam Cộng Sản Đảng Hậu Giang Trung tuần tháng 9/1929 tại đây đã diễn ra sự kiện rất quan trọng đối với Đảng bộ miền Hậu Giang. Đó là Hội nghị thành lập tổ chức “Đặc ủy An Nam Cộng Sản Đảng Hậu Giang” do đồng chí Châu Văn Liêm chủ trì và chỉ đạo bầu Ban chấp hành Đặc uỷ gồm đồng chí: Ung Văn Khiêm, Hà Huy Giáp, Nguyễn Văn Tây, Nguyễn Văn Trí... do đồng chí Ung Văn Khiêm làm Bí Thư. Sau 5 tháng hoạt động Đặc ủy An Nam Cộng Sản Đảng Hậu Giang đã xây dựng các cơ sở Đảng khắp miền Hậu Giang, góp phần quan trọng trong việc tiến tới thống nhất Đảng thành một tổ chức Đảng duy nhất, để lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam. Sau ngày 3/2/1930, thống nhất ba tổ chức đảng thành Đảng Cộng sản Việt Nam, Đặc ủy trực thuộc Xứ Uỷ Nam kỳ. Đồng chí Ung Văn Khiêm được phân công làm Ủy viên thường vụ Xứ ủy Nam Kỳ. Đồng chí Hà Huy Giáp làm Bí thư Đặc ủy Hậu Giang. Tháng 04/1930 do yêu cầu bảo toàn cho Đặc ủy, nên cơ quan Đặc ủy chuyển sang tỉnh Sa Đéc. Đặc ủy An Nam Cộng sản Đảng có giá trị lịch sử, đã đặt nền tảng đầu tiên, là tiền đề quan trọng trong việc xây dựng và phát triển Đảng bộ và phong trào cách mạng ở các tỉnh miền Hậu Giang. Do đó, ngày 25-01-1991, Bộ Văn hoá Thông tin công nhận cơ quan Đặc ủy An Nam Cộng Sản Đảng Hậu Giang là di tích lịch sử cấp Quốc gia. Năm 1995 Ủy ban Nhân dân TP Cần Thơ cùng với nhân dân phường Bình Thủy đã xây dựng công trình bia tưởng niệm Đặc ủy An Nam Cộng sản Đảng Hậu Giang, tại phường Bình Thuỷ. Nguồn: Cổng thông tin du lịch Cần Thơ

Cần Thơ 3880 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

DI TÍCH MỘ NHÀ THƠ PHAN VĂN TRỊ

Di tích lịch sử mộ nhà thơ Phan Văn Trị tọa lạc ở ấp Nhơn Lộc 1, thị trấn Phong Điền, huyện Phong Điền, thành phố Cần Thơ. Đây là nơi yên nghỉ của nhà thơ yêu nước Cử nhân Phan Văn Trị, một nhà nho đã suốt đời lấy thơ ca làm vũ khí đấu tranh cho sự tồn vong và phát triển của dân tộc và được người đời mệnh danh là nhà thơ – chiến sĩ. Khu mộ đã được công nhận là di tích cấp quốc gia vào năm 1991. Trước đây, khu mộ của nhà thơ chỉ được xây dựng bằng xi măng đơn giản, nằm giữa bãi cỏ xanh với một chiếc mộ bia. Đến năm 1990, trước lòng tôn kính của nhân dân, bà con đã chung tay trùng tu lại mộ nhà thơ Phan Văn Trị bằng đá mài, mộ thờ đi lên bậc tam cấp, với văn bia đá mài lộng lẫy, có hàng rào, có cỏ xanh tạo thêm chút thơ, đẹp, lại có chút góc cạnh như sự can trường từ ngòi bút và khí chất của nhà thơ khi còn sống. Đến năm 2005, Di tích được trùng tu với quy mô lớn hơn, trên diện tích rộng 2.060 m2. Bao gồm các hạng mục: nhà Tưởng niệm, nhà Trưng bày, phần mộ, cuốn sách và các bia đá (trên có ghi lại những câu thơ nổi tiếng của Cử nhân Phan Văn Trị), ao sen, cây kiểng, nhà chờ…. Ấn tượng nhất trong khuôn viên của khu mộ chính là bia đá, được xây dựng dựa trên cảm hứng từ ngòi bút trên trang viết của nhà thơ. Ngòi bút hướng lên trên, ở giữa là các áng thơ nổi tiếng của ông. Ngay sau đài tưởng niệm là tượng chân dung của nhà thơ Phan Văn Trị được xây dựng đầy nét hồn hậu, chân phương. Nhà thơ Phan Văn Trị sinh năm 1830 tại xã Thạnh Phú Đông, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre, trong một gia đình nho giáo, trọng đạo lý và giàu truyền thống yêu nước. Từ nhỏ ông đã nổi tiếng thông minh và đậu cử nhân năm 20 tuổi tại kỳ thi Hương của trường Gia Định năm 1849. Tuy là nhà nho học, nhưng trước chính sách bóc lột nhân dân quá nặng nề cùng chủ trương cấm đạo và bế quan tỏa cảng của triều đình nhà Nguyễn đưa nước nhà đến chỗ suy nhược đã làm cho ông vô cùng thất vọng và không ra làm quan mà lui về vui với nghề dạy học và thơ. Tại Gia Định, ông đã tham gia sáng lập ra nhóm “Bạch Mai Thi Xã”. Đây là nơi hội tụ ngâm thơ vịnh cảnh của các nhà khoa bảng, tao nhân, mặc khách. Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng tấn công Đà Nẵng, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta. Lúc này, Phan Văn Trị dời về làng Bình Cách, Tân An (nay thuộc tỉnh Tiền Giang), sau đó về Vĩnh Long mở trường dạy học, hốt thuốc chữa bệnh cho dân nghèo. Năm 1868, Phan Văn Trị về làng Nhơn Ái, Phong Điền thuộc tỉnh Cần Thơ trú ngụ, tiếp tục mở trường dạy học và sáng tác thơ văn chỉ trích bọn quan lại “mãi quốc cầu vinh”, đồng thời ca ngợi sĩ khí của các nghĩa quân, sĩ phu yêu nước. Mỗi dòng thơ của ông đều in dấu một tâm hồn dạt dào lòng yêu nước, thương dân, phân biệt bạn thù dứt khoát. Ngày 16 tháng 5 năm Canh Tuất (ngày 22/6/1910 dương lịch), Nhà thơ yêu nước, Cử nhân Phan Văn Trị đã yên nghỉ tại làng Nhơn Ái, Phong Điền trong một ngôi nhà lá đơn sơ như tấm lòng thanh bạch của cụ, để lại biết bao niềm thương tiếc trong nhân dân. Nơi an nghỉ của Cử nhân Phan Văn Trị luôn được nhân dân địa phương tôn tạo, gìn giữ qua các thế hệ. Hiện nay, Di tích lịch sử Mộ Nhà thơ Phan Văn Trị đã trở thành điểm tham quan, học tập, sinh hoạt truyền thống, giao lưu văn hóa. Đặc biệt, vào ngày 22/6 dương lịch hàng năm – nhân dịp ngày mất của Cử nhân Phan Văn Trị, chính quyền địa phương và nhân dân trong vùng tổ chức Lễ giỗ rất trang trọng và các hoạt động văn hóa văn nghệ để tưởng nhớ một nhà thơ – người chiến sĩ, tạo thành ngày hội hàng năm của Di tích nói riêng, của huyện Phong Điền và thành phố Cần Thơ nói chung. Nguồn: Cổng thông tin du lịch Cần Thơ

Cần Thơ 4127 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Văn miếu Diên Khánh

Văn miếu Diên Khánh tọa lạc tại khóm Phú Lộc Tây, thị trấn Diên Khánh, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa. Văn miếu là nơi thờ Đức Khổng Tử, người sáng lập Nho Giáo và những bậc hiền triết là học trò của Ngài; đồng thời cũng là nơi sinh hoạt của giới nho sĩ, khoa mục ở địa phương, tôn vinh những người đỗ đạt thành danh trong các kỳ khoa bảng. Năm 1803, vua Gia Long ra chỉ dụ lập Văn Miếu tại xã Phú Lộc, huyện Hoà Châu - thị trấn Bình Hoà, nay thuộc khóm Phú Lộc Tây - thị trấn Diên Khánh - tỉnh Khánh Hoà. Văn Miếu được xây dựng với quy mô lớn từ năm 1853 và đến năm sau thì cơ bản hoàn thành: phía trước có nhà bi đình, chính giữa có tòa tiền đường và chánh đường cao rộng, làm bằng gỗ xây tường gạch bao, các cột kèo được chạm trổ sơn son thếp vàng đẹp đẽ, uy nghiêm. Văn miếu Diên Khánh được xây trên một khu đất rộng, bằng phẳng, với tổng diện tích 1.500m2. Khi khởi dựng, Văn miếu có các công trình kiến trúc: miếu Chính và miếu Khải Thánh, được lợp bằng cỏ tranh. Năm 1849, Văn miếu được tu bổ hệ mái, thay mái tranh bằng mái ngói và dựng thêm Tả vu, Hữu vu, Khải miếu, Quan cư, Từ miếu… với quy mô rất bề thế, vững chắc. Năm 1959, Văn miếu được xây dựng lại trên nền cũ ở thôn Phú Lộc, nhưng quy mô nhỏ hơn, bao gồm: Nghi môn ngoại và tường thành; Nghi môn nội ; nhà bia (Thạch Bi đình); sân miếu; cột cờ; nhà Đông, nhà Tây (Tả Vu – Hữu Vu); Bái đường; Chánh tẩm. Về cơ bản kết cấu gian Chánh tẩm và Bái đường đưa từ Văn chỉ Phước Điền chuyển về, xây dựng thêm Tả vu, Hữu vu theo kiểu nhà cấp bốn ba gian. Tường vách xây bằng gạch thẻ, không có chái. Mái lợp ngói âm dương, sau này trùng tu thay bằng ngói Tây; hệ cửa gỗ đóng theo kiểu ván bưng, thay kiểu thượng song hạ bản cổ xưa; không phục dựng lại Khải miếu, Quan cư và Từ miếu. Hiện tại, Văn Miếu chỉ còn giữ được 2 tấm bia đá thời Tự Đức 11 (1858) giúp ta hiểu biết hơn về lịch sử, văn hoá, sinh hoạt của nhân dân Khánh Hoà và quá trình hoàn thiện khu Văn Miếu năm 1854. Ngoài ra còn có một Bài minh ở Bái Đường nói rõ hơn về sự đỗ đạt của các vị văn võ, khoa bảng, hào mục, chức sắc và các học sinh địa phương từ đầu triều Nguyễn đến thời Tự Đức. Với bề dày lịch sử, khu Văn Miếu mang giá trị to lớn về quá trình học tập, tiếp nhận tri thức và biểu hiện sự tôn sư trọng đạo, làm phong phú thêm kho tàng di sản văn hoá dân tộc. Di tích Văn miếu Diên Khánh được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích Quốc gia ngày 15/10/1998. Nguồn: Sở văn hoá thể thao tỉnh Khánh Hoà

Khánh Hòa 6359 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Điểm di tích nổi bật