Ứng dụng thuyết minh khám phá du lịch Việt Nam

Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch Travelviet

Tải ứng dụng Travelviet

Logo Travelviet

Di tích lịch sử

Việt nam

Đình Nam

Đình Nam ở phường Bắc Sơn, một trong những công trình tín ngưỡng quan trọng của người dân vùng đất Đồ Sơn, vừa được phục dựng. Đây vừa là điểm sinh hoạt tâm linh và điểm đến linh thiêng tại khu du lịch nổi tiếng của thành phố. Nằm giữa khu dân cư đông đúc ở trung tâm quận Đồ Sơn, cách không xa bãi biển rì rào sóng vỗ quanh năm, đình Nam ngày nay có quy mô vừa phải, mang dáng dấp của những ngôi đình cổ phong cách thời Lê. Đình có kiến trúc chữ Đinh, gồm 3 gian, 2 trái, được làm chủ yếu bằng gỗ và đá xanh. Hệ thống mái cong, đao vượt với những đường nét chạm khắc tứ linh tinh xảo mang dấu ấn thế kỷ 15. Đặc biệt, toàn bộ 38 cột gỗ trong đình có đường kính từ 34-45cm được chọn lựa cẩn thận từ những thân cây kiền kiền- loại gỗ quý, cứng như lim nhưng dai hơn. Trải qua thăng trầm của lịch sử, đình Nam 2 lần bị phá hủy hoàn toàn. Lần thứ nhất vào khoảng thế kỷ 17, đình Nam là một trong những nơi đóng quân của Quận He Nguyễn Hữu Cầu ở Đồ Sơn. Khi chúa Trịnh Doanh sai Hoàng Ngũ Phúc, Phạm Đình Trọng đem quân đánh dẹp cuộc khởi nghĩa, đình bị phá tan tành. Sau đó, người dân địa phương phục dựng lại đình với 5 gian, 2 trái, trang nghiêm, bề thế. Đến cuối năm 1953, đình lại bị phá một lần nữa khi thực dân Pháp cưỡng bức người dân ở đây đi nơi khác, lập “vành đai trắng” ở Đồ Sơn. Năm 1993, Đảng ủy, ỦY BAN NHÂN DẬN, MẶT TRẬN TỔ QUỐC Việt Nam và người dân phường Vạn Sơn xây dựng lại đình trên nền cũ. Thời kỳ đó, do kinh tế khó khăn nên chỉ dựng tạm giam nhà cấp 4 và tạo một số pho tượng gỗ để làm nơi sinh hoạt văn hóa tâm linh của người dân. Từ đó đến nay, tuy đã nhiều lần nâng cấp, sửa chữa, song gian nhà thờ xuống cấp nghiêm trọng, hệ thống tượng gỗ bị mối xông hư hại. Năm 2011, nhờ nguồn kinh phí xã hội hóa, 6 pho tượng thờ được đúc lại bằng đồng dát vàng. Xuất phát từ nguyện vọng của bà con, lãnh đạo phường quyết tâm phục dựng lại ngôi đình cũ, khởi công tháng 10-2014. Ban Quản lý đình Nam đang hoàn thiện bức đại tự, câu đối và một số chi tiết bên trong ngôi đình. Mong muốn của chính quyền và người dân địa phương tiếp tục mở rộng khuôn viên của đình, khôi phục khu vực từ chỉ và thực hiện các thủ tục công nhận di tích NGUỒN: Cổng Thông tin điện tử thành phố Hải Phòng

Hải Phòng 1557 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Phủ thờ Tôn Thất Thuyết

Phủ thờ Tôn Thất Thuyết thuộc Thôn vân Thê, xã Thủy Thanh, thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế. Từ trung tâm thành phố Huế đến cầu An Cựu (bờ bắc) theo đường Tỉnh lộ qua Cầu ngói Thanh Toàn về thôn Vân Thê là đến di tích (khoảng 7km). Tôn Thất Thuyết sinh ngày 29/3 năm Kỷ Hợi (12/5/1839) tại xóm Phú Mộng, xã Xuân Hòa, huyện Hương Trà (nay thuộc phường Kim Long – thành phố Huế) trong một gia đình có truyền thống binh nghiệp thuộc phòng 4 hệ 5 của dòng họ Nguyễn Phúc. Thân sinh là Đề đốc Tôn Thất Đính, thân mẫu là bà Văn Thị Thu. Trong sự nghiệp của mình, ông được cử giữ nhiều chức vụ: Án sát tỉnh Hải Dương, Tán tương quân thứ Thái Nguyên rồi Tán lý quân thứ Sơn – Hưng – Tuyên, Tham tán, Hữu tham tri bộ Binh, Tuần phủ Sơn Tây, Tuần phủ, hộ lý Tổng đốc Ninh Thái kiêm Tổng đốc các việc quân Ninh, Thái, Lạng, Bằng, Hiệp đốc quân vụ đại thần, Thượng thư bộ Binh, Phụ chính đại thần, Điện tiền tướng quân, Thượng thư bộ Lễ, Thượng thư bộ Lại…Ông luôn có chủ trương đánh Pháp, tháng 11/1873, quân của ông cùng quân của Lưu Vĩnh Phúc đánh bại quân Pháp ở Ô Cầu Giấy, Hà Nội, ông muốn thừa thắng tấn công địch nhưng triều đình muốn ông triệt binh về Sơn Tây, ông cự tuyệt, triều đình phải cử người đến bàn bạc ông mới chịu lui binh. Tháng 6/1874 khi được điều về Nghệ An đối phó với cuộc khởi nghĩa của Trần Tấn và Đặng Như Mai, song khi đến nhậm chức, ông tỏ ra thiện cảm và giúp đỡ phong trào Văn Thân Nghệ Tĩnh. Sau khi Hàm Nghi lên ngôi, Tôn Thất Thuyết tích cực chuẩn bị cho việc đánh Pháp. Ông lập quân Phấn nghĩa và Đoàn kiệt, xây dựng căn cứ Tân Sở và hệ thống Sơn phòng, mua sắm tích trữ vũ khí, tăng cường phòng thủ kinh thành, khích lệ sỹ phu và văn thân và mở các cuộc đấu tranh không khoan nhượng với các phần tử chủ hòa, thân Pháp trong nội bộ Triều đình và Hoàng tộc. Đêm ngày 4 rạng ngày 5 tháng 7 năm 1885, Tôn Thất Thuyết chủ động tổ chức tấn công quân Pháp đóng tại Tòa Khâm sứ, Trấn Bình Đài và khu nhượng địa. Cuộc tấn công thất bại, sáng ngày 5/7/1885, ông hộ giá vua Hàm Nghi rời bỏ kinh thành ra Quảng Trị rồi ra Hà Tĩnh phát động phong trào Cần Vương. Đầu năm 1886, sau khi sắp xếp, ổn định bộ máy của Triều đình kháng chiến Hàm Nghi, ông ra Bắc vận động các sỹ phu, văn thân, tù trưởng các dân tộc thiểu số nổi lên đánh Pháp. Đầu năm 1887, sang Trung Quốc cầu viện nhà Thanh, song Triều đình Mãn Thanh theo yêu cầu của Pháp đã quản thúc ông tại Quảng Đông. Ông mất tại Thiều Châu ngày 22/9/1913. Phủ thờ Tôn Thất Thuyết vốn là Phủ thờ của dòng họ, được Tôn Thất Thuyết cho xây dựng khoảng năm Tự Đức thứ 19 (1866). Sau ngày Tôn Thất Thuyết mất dòng họ lấy Phủ này làm nơi thờ ông. Di tích Phủ thờ Tôn Thất Thuyết được công nhận là di tích Quốc gia ngày 15/10/1994 tại Quyết định số 2754-Quyết Định/Bộ Văn hóa Thông tin của Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch). Nguồn Cổng thông tin điện tử Thừa Thiên Huế.

Thừa Thiên Huế 1842 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Lăng mộ Trần Văn Kỷ.

Lăng mộ Trần Văn Kỷ thuộc làng Vân Trình, xã Phong Bình, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Trần Văn Kỷ là một danh sỹ kiệt xuất triều đại Tây Sơn. Năm 1777, Trần Văn Kỷ đỗ Giải nguyên. Năm 1786, Trần Văn Kỷ được Bắc Bình vương Nguyễn Huệ cho mời để hỏi về kế trị loạn. Khâm phục tài năng của ông, sau khi từ Quy Nhơn về Phú Xuân, Nguyễn Huệ đã phong cho ông làm Trung Thư phụng chính (người dự thảo chính lệnh cho vua), nắm toàn bộ trung thư cơ mật, tham mưu cho Nguyễn Huệ và được phong tước Hầu. Trần Văn Kỷ đóng vai trò quan trọng trong việc tổ chức lại bộ máy cai trị ở Đàng ngoài, tiến cử một số nhân sỹ nổi tiếng vào bộ máy nhà nước như: Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Võ Văn Ước, Nguyễn Thế Lịch, Vũ Huy Tấn…, đứng ra tổ chức hội kiến giữa vua Quang Trung và Nguyễn Thiếp một danh sỹ đất Nghệ An. Dưới triều Quang Trung, ông có nhiều công lao giúp Quang Trung trị vì đất nước. Sau khi vua Quang Trung mất, Nguyễn Ánh thắng thế, Trần Văn Kỷ về quê, đổi tên cải dạng nuôi chí phục thù. Bị phát giác, ông phải vào Kinh đô Phú Xuân, trên đường vào đến ngã ba Sình ông hô to “Trung thần bất sự nhị quân” rồi nhảy xuống sông trầm mình tự vận để giữ tròn khí tiết, ông mất ngày 24/12/1801 (tức ngày 19 tháng 11 năm Tân Dậu). Phần mộ Trần Văn Kỷ nằm trên một mô đất cao có diện tích 11m2. Mộ nguyên trước đây đắp đất hình tròn, đường kính 1m, chính mộ quay về hướng Đông, trước mộ có tấm bia xi măng cao 70cm do cháu nội Trần Văn Kỷ lập năm 1958. Năm 1995, Bảo tàng Lịch sử và cách mạng Thừa Thiên Huế đã trùng tu lại ngôi mộ. Nấm mộ tròn được giữ nguyên, phía trên nấm rắc sỏi, xung quanh xây đường tròn để bảo vệ mộ, bao quanh mộ là một lớp bê tông hình chữ nhật có đường gờ bốn bên. Di tích lăng mộ Trần Văn Kỷ đã được xếp hạng di tích cấp Quốc gia tại Quyết định số 534 -Quyết Định /Bộ Văn hóa Thông tin ngày 11/5/1993 của Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch). Nguồn Cổng thông tin điện tử Thừa Thiên Huế.

Thừa Thiên Huế 1820 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đình Văn Xá

Đình Văn Xá thuộc xã Hương Văn, huyện Hương Trà (nay là phường Hương Văn, thị xã Hương Trà), tỉnh Thừa Thiên Huế. Từ thành phố Huế dọc theo Quốc lộ 1A ra phía Bắc khoảng 13km, rẽ phải theo đường làng là đến di tích. Đình Văn Xá được xây dựng vào năm Ất Sửu (1865) dưới thời Tự Đức, là một trong số ít những ngôi Đình có quy mô bề thế, và có giá trị kiến trúc tiêu biểu ở Thừa Thiên Huế. Đình Văn Xá được xây dựng trong khuôn viên rộng khoảng 1.600m2 có la thành bao quanh 4 phía. Trước mặt Đình có hồ bán nguyệt trồng sen. Từ ngoài đi vào đình Văn Xá có cổng Tam quan, bình phong, nhà bia, sân đình và đình. Cổng Tam quan mở ba lối đi vào hình vòm cuốn, tầng mái đúc giả ngói âm dương. Bình phong xây kiểu tổ ong, chính giữa có dựng nhà bia (khắc nội dung về việc xây dựng và trùng tu Đình). Ðình Văn Xá là ngôi nhà rường ba gian hai chái kép, nền đất rộng 400m2, gồm 54 cột trong đó có 8 cột cái cao 5,2m, 16 cột nhì (cột quân) cao 3,6m, 24 cột ba (cột bên) cao 2,5m và 6 cột tư (cột hiên) cao 1,5m. Hệ thống vì kèo chạm trổ tinh vi. Nghệ thuật trang trí đình Văn Xá chủ yếu là "Tứ linh”, “lưỡng long chầu nguyệt" đặc trưng kiến trúc Nguyễn. Mái lợp ngói liệt, bờ nóc đắp cao trông giống một con thuyền được chia ra làm 13 ô trang trí. Ðình Văn Xá thờ vọng Thành hoàng là năm vị tiền khai canh của dòng họ Lê, Trần, Cao và hai vị nhân thần là Bố Chính Dinh Ký Lục Trần Mậu Quế (1688-1762) và Hữu Tham Tri Bộ Lễ Trần Hưng Ðạt (1746-1810). Ðình trùng tu các năm 1961 và năm 1995. Đình Văn Xá đã được xếp hạng là di tích lịch sử, kiến trúc, nghệ thuật cấp Quốc gia theo Quyết định số 61/1999 Quyết Ðịnh/Bộ Văn Hóa Thông Tin ngày 13-9-1999 của Bộ Văn hoá Thông tin (nay là Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch). Nguồn Cổng thông tin điện tử Thừa Thiên Huế.

Thừa Thiên Huế 1740 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Trung Hành

Trung Hành là tên của một làng thuộc tổng Trung Hành, huyện An Dương, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương xưa, nay thuộc thuộc phường Đằng Lâm, quận Hải An, Hải Phòng. Xưa kia là vùng đất Ngô Quyền đóng quân và huy động sức người, sức của, đánh quân xâm lược Nam Hán năm 938, mở đầu kỷ nguyên độc lập lâu dài của đất nước. Là một trong số 17 làng, xã có hệ thống bố phòng, tích chứa quân lương của Ngô Quyền, nên Trung Hành được các triều đại kế tiếp phong sắc, công nhận việc thờ tự Ngô Vương. Đặc biệt Trung Hành vốn nổi tiếng là vùng đất địa linh, nhân kiệt - nhiều người đỗ đạt, nhiều văn quan, võ tướng có tài, hiện còn được ghi lại trên văn bia, gia phả các dòng họ. Ngạn ngữ có câu: “An Dương - Trung Hành, Kim Thành - Quỳnh Khê, thế ngôn chi đa sĩ”, nghĩa là: làng Trung Hành, huyện An Dương, làng Quỳnh Khê huyện Kim Thành đời truyền có nhiều quan. Miếu - chùa Trung Hành là cụm di tích được Bộ Văn hoá Thông tin xếp hạng di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia theo Quyết định số 57. Cụm di tích này tọa lạc trong một khuôn viên rộng rãi và đẹp, nằm cạnh tuyến đường lớn Lê Hồng Phong nối liền sân bay Cát Bi với trung tâm thành phố. Miếu Trung Hành thờ Ngô Quyền có quy mô vừa phải. Miếu được trùng tu lớn vào khoảng thế kỷ 17 mà dấu vết còn để lại trên 4 cây cột cái sơn son tại tòa bái đường. Những điểm nổi bật của di tích là sự hợp lý, liên hoàn của toàn bộ khuôn viên di tích. Miếu có quy mô khép kín, được bố cục theo kiểu nội công ngoại quốc gồm: cổng tam quan, toà bái đường, hai bên giải vũ và tòa hậu cung (cung trong và cung ngoài). Nhưng lại tạo ra một không gian mở bởi 2 bên nhà giải vũ đứng song hành nơi bái đường với thềm hiên cung ngoài. Trong miếu còn lưu giữ được 5 bản sắc phong có niên đại từ 1889 đến 1924 (trong đó có 3 sắc phong cổ) và nhiều cổ vật quý khác có niên đại vào thế kỷ 19. NGUỒN: Cổng Thông tin điện tử thành phố Hải Phòng

Hải Phòng 1877 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình làng Xích Thổ

Đình làng Xích Thổ được xây cùng với thời lập làng cách đây khoảng 300 năm, vào cuối thời Lê Trung Hưng. Do thời gian mai một, đình làng cũ bị đổ nát, không còn giữ được thần tích. Khoảng cuối thế kỷ 18, đình, chùa Xích Thổ được xây dựng lại đồng bộ trên nền đất như hiện nay. Qua nhiều lần tu bổ, nay đình làng có khuôn viên rộng 1.200m2, mái cong lợp ngói mũi, xây theo lối chữ Đinh, gồm 5 gian tiền đường, 3 gian hậu cung. Giữa gian tiền đường là ban thờ thành hoàng làng Nam Hải Đại Vương Phạm Tử Nghi. Theo thần tích, ngài sinh vào niên hiệu vua Hồng Thuận, thời Lê, khoảng năm 1509-1516, tại Nghĩa Xá, phường Niệm Nghĩa, quận Lê Chân ngày nay. Là người có sức khỏe phi thường, học ít hiểu nhiều, văn võ tinh thông, ngài đã có công đánh giặc Minh, phò tá nhà Mạc. Đình Xích Thổ nay còn giữ 5 đạo sắc phong thần của ngài qua các triều vua: Duy Tân, Thành Thái, Đồng Khánh, Tự Đức, Khải Định. Năm 1924, vua Khải Định sắc phong ngài là Phúc thần, ghi vào điểm lễ triều đình, truyền cho các nơi thờ phụng lâu dài. Vì thế ngoài Xích Thổ, hiện nay ở các làng ven sông Lạch Tray đều có đình, đền thờ hoặc thờ vọng bài vị ngài. Đặc biệt đình làng Xích Thổ còn lưu giữ được 3 pho tượng cổ làm bằng gỗ, có niên đại khoảng 200 năm của thành hoàng Phạm Tử Nghi (thời Mạc), Bạch Xích Đại Vương (thời tiền Lý), Bộ Quốc (Triều Trần). Bên cạnh đó, đình còn lưu giữ được bia đá hậu thần (thần bia phả ký) đầu thế kỷ 19, thời vua Thành Thái ghi công những người đã có nhiều đóng góp vào việc tu bổ đình, chùa, đảo hồ đình. Bên cạnh đình làng là chùa Hưng Khánh. Nếu ai có dịp đến vãn cảnh chùa, được nghe tiếng chuông chùa ngân nga bên những cánh đồng quê bát ngát và dòng Lạch Tray lộng gió, sẽ thấy tâm hồn mình thật yên ả, thư thái. Đây là một ngôi chùa mang vẻ đẹp cổ kính, lưu giữ nhiều giá trị văn hóa lịch sử của Xích Thổ. Trong chùa còn lưu giữ nhiều pho tượng gỗ quý hiếm gần 200 tuổi và 1 pho tượng phật bằng đá có từ 500 năm trước. Chiếc chuông lớn (đại hồng chung) của chùa Hưng Khánh được đúc bằng đồng tại tổng Kiều Yêu từ thế kỷ 19 đến nay vẫn còn nguyên vẹn. Trên thân chuông có khắc bài phú sinh động, giàu ý nghĩa văn hóa. Sau năm 1954, hòa bình được lập lại, đình và chùa Xích Thổ lại là nơi học tập của con em Xích Thổ. Từ 1965-1975, đình, chùa Xích Thổ là nơi hội họp, tập trung đưa tiễn con em của làng lên đường tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Nơi đây còn là điểm sơ tán của nhiều đơn vị trong thời kỳ đó như: Bộ đội thông tin Quân khu 3, Công ty Xây lắp Hải Phòng, Trường dạy nghề xí nghiệp sửa chữa ô tô Đồng Tâm quốc tế… Qua 2 cuộc kháng chiến vĩ đại của đất nước, đình, chùa làng Xích Thổ thực sự là căn cứ địa cách mạng của vùng An Dương, đã trở thành một chứng nhân lịch sử, nơi ghi dấu, nhắc nhớ nhiều thế hệ con người quê hương về những năm tháng hào hùng, đáng tự hào. Năm 2013, quần thể đình, chùa, bia tưởng niệm mẹ Việt Nam anh hùng và liệt sỹ làng Xích Thổ đã được thành phố công nhận là Di tích lịch sử kháng chiến. NGUỒN: Cổng Thông tin điện tử thành phố Hải Phòng

Hải Phòng 1863 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Từ Lâm

Đình Từ Lâm thuộc xã Đồng Minh, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng thờ vị thành hoàng Hoa Duy Thành, một danh tướng thời Trần có công tham gia đánh đuổi giặc Mông Nguyên thế kỷ 13. Về thân thế, công lao của vị thành hoàng được ghi trong bảng thần tích được lưu giữ tại đình do Đông các Đại học sĩ Nguyễn Bính soạn năm Hồng Phúc thứ nhất (1572) và truyền thuyết tại địa phương cho biết: Hoa Duy Thành người làng Linh Động, huyện Vĩnh Lại, trấn Hải Dương (nay là thông Bảo Hà, xã Đồng Minh, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng), xuất thân trong một gia đình quan lại quý tộc có thế lực trong vùng, thông minh, khỏe mạnh, am hiểu binh pháp, văn võ song toàn, được mọi người mến mộ. Nghe tin giặc Mông kéo sang xâm lược nước ta lần thứ II (1285), Hoa Duy Thành tự bỏ tiền của tuyển mộ, huấn luyện quân sĩ. Khi triều đình mở khoa thi tuyển mộ nhân tài, ông là người đỗ đạt cao và trở thành vị tướng tâm phúc dưới quyền của Quốc công tiết chế Trần Hưng Đạo, đảm trách đạo quân tinh nhuệ hộ giá Vua Trần rút khỏi vòng vây của giặc từ vùng biển An Bàng (Hải Phòng Quảng Ninh ngày nay) vào vùng Châu Ái (tức Thanh Hóa) an toàn theo kế sách của Hưng Đạo Đại Vương. Trong cuộc chiến chống xâm lược Nguyên Mông lần thứ 3 (1287 1288), Hoa Duy Thành được lệnh đem quân bảo hộ phối hợp với các cánh quân truy kích địch trên sông Bạch Đằng, góp phần làm nên chiến thắng lẫy lừng trong lịch sử dân tộc. Quét sạch quân thù, Hoa Duy Thành trở về quê hương sinh sống, được nhà vua ban tặng trang Từ Đường, sử dụng làm điền trang của mình. Khi ông mất, dân làng lập đền thờ ngay tại nơi xưa kia ông luyện binh mã. Đến thời Lê, đền Từ Đường được tu sửa trở thành đền Từ Đường và tôn ông làm Đương cảnh thành hoàng. Đến thời Khải Định. Từ Đường được đổi tên thành Từ Lâm như hiện nay, vì kiêng tên húy nhà vua. Trang trí kiến trúc của Đình thể hiện khá công phu, tỉ mỉ. Các hình hoa lá cách điệu, các đề tài tứ linh, tứ quý chạm nổi trên các thanh rường, câu đầu, bẩy hiên thật khéo léo, sinh động. Còn mỗi đầu dư hình rồng, kỹ thuật chạm bong kênh được sử dụng tinh vi, giúp chúng ta xác định niên đại tạo dựng của đình vào khoảng thế kỷ thứ 17 (thời Lê). Đình Từ Lâm được nhà nước công nhận di tích lịch sử năm 1991. NGUỒN: Cổng Thông tin điện tử thành phố Hải Phòng

Hải Phòng 1684 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Văn Cú

Đình Văn Cú được xây dựng từ năm 1470, với kiến trúc ban đầu khá đơn sơ. Đến thời vua Tự Đức (1848-1883) đình được xây dựng 5 gian gỗ lim to đẹp, sau bị tàn phá chỉ còn lại vọng cung. Năm 2004, được sự quan tâm của các cấp chính quyền và nguồn đóng góp xã hội hóa, đình được phục dựng lại. Đình có kiến trúc đơn giản, tọa lạc trong khuôn viên rộng rãi và riêng biệt, phía trước là hồ nước, nơi tụ thủy, tích phúc cho thế đất không bao giờ cạn nước. Di tích còn bảo lưu nhiều di vật quý. Toàn bộ hệ thống cửa võng bao gồm 5 lớp trang trí tại gian trung tâm tiền đường và 3 gian hậu cung hiện lên trong di tích như cung điện rực rỡ vàng son. Nét chạm khắc cầu kỳ tinh xảo, tượng trưng tiêu biểu cho nghệ thuật dân tộc. Ngoài ra, còn nhiều di vật có giá trị khác như khám luyện, long đình, nhang án, đại tự, câu đối… làm phong phú thêm kho tàng di sản văn hoá dân tộc. Theo Bản thần tích xã Văn Cú, tổng Văn Cú, huyện An Dương (tỉnh Kiến An), đình Văn Cú thờ 2 nhân vật lịch sử là Đỗ Huy và Đỗ Quang. Hai anh em cùng với người anh họ là Cao Tuấn có công lớn giúp vua Đinh Tiên Hoàng dẹp loạn 12 sứ quân và đẩy lùi quân xâm lược nhà Tống, được vua Đinh phong chức Thái thú Đồng Châu, Thứ sử Hoan Châu. Ở các nơi trị nhậm, hai ông thi hành nhiều chính sách tiến bộ, làm nhiều việc nhân đức, coi dân như con của triều đình lên trong châu được bình yên, không ngớt tiếng đàn dịch tiêu dao, nhân dân ái mộ ca tụng công đức ông. Đến tháng 10 năm Kỷ Mão (984), Thập đạo tướng quân Lê Hoàn cùng với Thái hậu Dương Vân Nga buông rèm nhiếp chính. Vốn là trọng thần của triều vua trước, hai ông cùng với các trung thần khác như Nguyễn Bặc, Đinh Điền... dấy binh chống lại. Do binh cùng lực kiệt, hai ông cùng số binh sĩ còn lại xuống thuyền rút lui về trang Văn Cú bày trận ở Đống Đa, Đống Trúc để chống cự và sau đó tử trận tại đây. Dân làng xót thương an táng Đỗ Quang ở Đống Đa, Đỗ Huy ở Đống Trúc, lập đình để tôn thờ tại ngôi nhà mà 2 ông sinh ra. NGUỒN: Cổng Thông tin điện tử thành phố Hải Phòng

Hải Phòng 1622 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Tháp Tường Long

Khu du lịch Đồ Sơn, Hải Phòng nổi tiếng với những bãi tắm lý tưởng và phong cảnh hữu tình. Nhưng ít người biết rằng trên đỉnh Long Sơn (phường Ngọc Xuyên), ngọn núi đầu tiên trong 9 ngọn chạy dọc bán đảo Đồ Sơn còn có một di tích văn hóa lịch sử với cả nghìn năm tuổi - đó là tháp Tường Long. Tháp Tường Long (còn gọi là tháp Đồ Sơn) xây thời Lý Thánh Tông. Công trình kiến trúc Phật giáo này được xây trên bãi đất rộng khoảng 2.000 m2, thuộc địa phận phường Vạn Sơn, thị xã Đồ Sơn. Bốn góc tháp đều nghiêng vào tâm 190. Lòng tháp rỗng và là nơi đặt pho tượng A di đà. Công trình được xây bằng gạch và đá có kích thước khác nhau. Ngoài loại gạch xây, còn có loại gạch ốp ngoài vỏ tháp với nghệ thuật trang trí độc đáo như hoa sen, hoa cúc, hoa chanh. Cách trang trí này biểu hiện nghệ thuật điển hình thời Lý. Theo sách "Đại Việt sử lược" thì năm Mậu Tuất 1058, vua Lý Thánh Tông sau khi ngự giá qua biển Ba Lộ đã dừng chân ghé lại nơi đây xây tháp. Sau ngài nằm mộng thấy rồng vàng bèn ban cho ngọn tháp cái tên Tường Long, nghĩa là "Thấy rồng vàng hiện lên" để ghi nhớ điềm lành. Lại có người cho rằng cửa biển Đồ Sơn là một trong những cái nôi tiếp nhận cho dựng tháp ở đây để thờ Phật. Khi xưa, có thể nơi đây còn là một đài quan sát nằm trong hệ thống "truyền đăng". Mỗi khi có biến, các trạm quan sát ven biển liền đốt cỏ khô cho khói bay lên trời, truyền tín hiệu báo động về kinh thành. Qua những di vật còn lại thì thấy rằng tháp Tường Long được xây cùng thời với tháp Báo Thiên ở kinh thành Thăng Long (nay là khu vực Nhà hát lớn Hà Nội). Theo Đại Nam nhất thống chí", tháp cũ Đồ sơn cao 100 thước, dựng trên một khu đất rộng 1000m2, có 9 tầng, cửa mở ra hướng tây. Một thước ta dài 0,45m, như vậy tháp cao khoảng 0,45m, lại đặt trên ngọn núi cách mặt biển 100m nên ngọn tháp này thuộc loại cao nhất so với các tháp ở Việt Nam thời bấy giờ. Tháp Tường Long nhiều lần được tu tạo và khôi phục trong triều Trần và triều Lê, nhưng đến năm Gia Long thứ 3 (1804), triều đình nhà Nguyễn đã cho phá tháp để lấy gạch xây thành Hải Dương. Điều này chứng tỏ tháp Tường Long xưa vô cùng quy mô, bề thế.Từ vị trí tháp Tường Long có thể thấy biển với những con tàu ra khơi vào lộng lẫy đế đánh bắt cá mang về nguồn hải sản tươi ngon phục vụ cho du khách, thấy thị xã Đồ Sơn cùng làng mạc, đồng ruộng xanh tươi, lại hiểu người xưa sao khéo chọn địa điểm xây tháp. NGUỒN: Cổng Thông tin điện tử thành phố Hải Phòng

Hải Phòng 1762 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Ngôi nhà số 1 ngõ 42 Mê Linh

Ngôi nhà số 1 ngõ 42 Mê Linh, phường An Biên, quận Lê Chân, Hải Phòng là cơ quan bí mật của Tỉnh bộ Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí hội Hải Phòng năm 1927 - 1929, cơ quan bí mật của Đông Dương Cộng sản Đảng Tỉnh ủy Hải Phòng thời kỳ 1929 - 1930. Ở đó một thời đã là cơ sở hoạt động của các đồng chí Nguyễn Đức Cảnh, người chiến sĩ ưu tú của Đảng, người con của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Hải Phòng. Sau khi dự lớp huấn luyện chính trị do đồng chí Nguyễn Ái Quốc tổ chức ở Quảng Châu, tháng 9 năm 1927, đồng chí Nguyễn Đức Cảnh về nước hoạt động và được Kỳ bộ Việt Nam Thanh niên Cách Mạng đồng chí hội chỉ định là Bí thư Tỉnh bộ Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí hội Hải Phòng. Đầu năm 1928, đồng chí thực hiện Vô sản hoá và mở lớp huấn luyện, viết báo giác ngộ quần chúng cách mạng, đấu tranh chống áp bức bóc lột của thực dân Pháp. Tháng 6/1929, chi bộ Đông Dương Cộng sản được thành lập. Tháng 9/1929 tại địa điểm trên (1/42 Mê Linh), hội nghị của những thanh niên cộng sản tiêu biểu quyết thành lập tổ chức Đông Dương Cộng sản Đảng Hải Phòng. Sau hội nghị hợp nhất 3 tổ chức Cộng sản Đảng ở Việt Nam (03/02/1930), đồng chí Nguyễn Đức Cảnh với cương vị Xứ uỷ Bắc Kỳ trở về củng cố Đảng bộ Hải Phòng. Nhờ có đường lối đúng đắn của Trung ương, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Xứ uỷ Bắc Kỳ, Đảng bộ Hải Phòng đã phát động được quần chúng đấu tranh sôi nổi, liên tục. Năm 1929, tên Đốc lý Hải Phòng đã tuyên truyền, xuyên tạc nói xấu, bôi nhọ lý tưởng cao cả của những người cộng sản, đồng chí Nguyễn Đức Cảnh đã viết bài bóc trần luận điệu xuyên tạc của tên thực dân, đồng thời thông qua đó giác ngộ quần chúng nhận rõ bộ mặt nham hiểm của chúng và kêu gọi quần chúng ủng hộ những người cộng sản vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Tại ngôi nhà này, còn lưu giữ một số di vật (phục chế) mà đồng chí Nguyễn Đức Cảnh đã từng dùng như: bàn làm việc, tủ, giường gỗ. Hàng năm, ngôi nhà 1/42 Mê Linh được Đảng bộ và nhân dân Hải Phòng chăm lo tu bổ. Đó là nơi ghi dấu một thời kỳ hoạt động bí mật của Đảng. Đồng chí Nguyễn Đức Cảnh, người chiến sĩ cách mạng lỗi lạc của Đảng, người Bí thư đầu tiên, người con quang vinh của giai cấp công nhân và nhân dân Hải Phòng ngã xuống khi tuổi đời còn rất trẻ. Ngày nay, tại số 124 Nguyễn Đức Cảnh còn đặt một tấm bia tưởng niệm đồng chí. NGUỒN: Cổng Thông tin điện tử thành phố Hải Phòng

Hải Phòng 1664 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích chùa Mõ

Di tích chùa Mõ - Địa điểm du lịch tâm linh Hải Phòng nằm tại Xã Ngũ Phúc, thuộc huyện Kiến Thụy, địa phận thành phố Hải Phòng Tương truyền, chùa Mõ thờ Quỳnh Trân công chúa, con gái của vua Trần Thánh Tông, đồng thời cũng là người có công khai hóa mảnh đất này khi lựa chọn nơi đây để lập am, chiêu mộ dân đến khai hoang, cùng nhau xây dựng. Ngôi chùa mang một vẻ đẹp cổ kính, tĩnh lặng bên năm tháng cùng với cây gạo cổ thụ đã đứng sừng sững hơn 720 năm, được công nhận là cây di sản Việt Nam. Vào năm 1991, Chùa Mõ đã được công nhận như một Di tích Lịch sử Văn hóa cấp Quốc gia. NGUỒN: CỤC DU LỊCH QUỐC GIA VIỆT NAM

Hải Phòng 1643 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Khu di tích chùa Đỏ

Khu di tích chùa Đỏ nằm tại Đường Lê Lai, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng Chùa Đỏ là tên thường gọi của ngôi chùa cổ Linh Độ Tự. Sở dĩ chùa có cái tên Linh Độ vì đây là nơi mà dân làng lập nên ở khu bãi bồn cao gần bờ sông, với mong muốn thờ Phật, cầu Như Lai siêu độ cho các vong linh xấu số trôi dạt vào bờ sông ở đây. Theo người dân nơi này, chùa Đỏ là một trong những ngôi chùa linh thiêng nhất thành phố hoa phượng đỏ. Ngôi chùa còn thu hút khách hành hương và tới vãn cảnh khi sở hữu kiến trúc cổ diêm chồng đấu có 3 tầng 20 mái, cao 26m - kiến trúc độc đáo có một không hai trong lịch sử kiến trúc chùa chiền trên đất nước Việt Nam. NGUỒN: CỤC DU LỊCH QUỐC GIA VIỆT NAM

Hải Phòng 1834 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Khu di tích Bạch Đằng Giang

Khu di tích Bạch Đằng Giang ở Thủy Nguyên, Hải Phòng rộng 20ha, nằm trong quần thể danh thắng Tràng Kênh được công nhận năm 1962. Ba trận thủy chiến đó là, trận Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán năm 938, trận Lê Hoàn đánh tan quân Tống năm 981 và trận Trần Quốc Tuấn đánh tan quân Nguyên Mông năm 1288. Vĩ đại là thế nhưng với những di sản còn lại vẫn chưa đủ để thể hiện tầm vóc của những chiến thắng đó. Nhận thức được những giá trị to lớn ấy, từ năm 2008 những người có tâm huyết đã quyết tâm xây dựng lại quần thể ghi dấu ấn hồn thiêng sông núi nước Nam. Cổng vào di tích là vườn đá cuội và trụ đá cao chừng 5m, 4 mặt đều khắc chữ, mặt chính giữa khắc câu thơ “Giang san vượng khí Bạch Đằng thâu”, 3 mặt còn lại tán dương công trạng của ba bậc tiền nhân trong các trận thủy chiến. Quần thể còn nhiều khu khác như đền Bạch Đằng Giang thờ Đức Ngô Quyền Vương, người khai sinh trận địa cọc Bạch Đằng, đánh thắng quân Nam Hán năm 938, chấm dứt 1117 năm Bắc thuộc, mở ra nền văn minh Đại Việt. Đền Tràng Kênh Vọng Đế thờ Đức Vua Lê Đại Hành, năm 981 đã tái tạo lại địa cọc của Ngô Quyền để đánh Tống bình Chiêm, đưa Đại Cồ Việt ngang hàng với Đại Hán. Linh từ Tràng Kênh thờ Quốc Công Tiết chế Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, người 3 lần đánh bại quân Nguyên Mông, đỉnh điểm là chiến thắng Bạch Đằng 1288, mở ra nền văn minh Đông Á rực rỡ. Cả ba ngôi đền đều được thiết kế theo kiến trúc cổ với sự kết hợp kỳ công giữa gỗ và đá tự nhiên. Đền thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh là địa điểm cuối cùng trong tứ linh từ của khu di tích Bạch Đằng Giang. Đây là nơi đầu tiên ở Hải Phòng lập đền thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc, Người luôn trong trái tim của mọi người dân Việt. Trúc Lâm tự Tràng Kênh, đây là ngôi chùa mô phỏng theo chùa Đồng ở Yên tử. Chùa thờ Phật Tổ Như Lai, Đạt Ma và Bồ Tát, Phật Hoàng Trần Nhân Tông. Dưới chân chùa là tượng Bạch Ngọc 18 vị La Hán và cây đa cổ thụ trên trăm tuổi. Chùa là một trong những nơi cao nhất của khu di tích Bạch Đằng Giang, có thể quan sát bao quát không gian rộng rãi, nhìn ra dòng sông Bạch Đằng, dãy Đông Triều hùng vĩ. Đặc biệt trong những ngày trời quang du khách cũng có thể nhìn thấy danh thắng Yên Tử. Đền thờ Thánh Mẫu trong khu di tích thờ Mẫu Đệ Nhất Thượng Thiên, Mẫu Đệ Nhị Thượng Ngàn, Mẫu Đệ Tam Thoải Phủ. Trong đền còn có hương án và pho tượng thờ tự Ngũ Vị Tôn Ông, Tam Vị ông Hoàng, Đức Nam Hải Thần Vương và Mẫu Sơn Trang. Trong khu di tích còn có khu nhà bảo tàng trưng bày hiện vật cọc Bạch Đằng được bảo tồn nguyên trạng; sơ đồ diễn biến các trận chiến trên sông Bạch Đằng; các di chỉ khảo cổ đồ gốm các thời kỳ Lê, Trần..; lịch sử Việt Nam qua các thời kỳ. NGUỒN: CỤC DU LỊCH QUỐC GIA VIỆT NAM

Hải Phòng 2144 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Thủ Lễ

Đình Thủ Lễ thuộc thị trấn Sịa, huyện Quảng Ðiền, tỉnh Thừa Thiên Huế, cách trung tâm thành phố Huế 16km về phía Bắc, cách huyện lỵ Quảng Điền 1km. Làng Thủ Lễ là một trong những làng được thành lập khá sớm, trước thời Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa. Sau khi làng được thành lập, 8 vị khai canh đã chọn vị trí trung tâm của làng để xây dựng Đình. Đình nằm trên một khuôn viên rộng chừng 1.000m2. Từ ngoài vào là 4 trụ biểu hình khối vuông cao lớn, trên mỗi trụ đều có câu đối chữ Hán. Cách trụ biểu 5m là nhà bia, hồ bán nguyệt, tiếp đến là bức bình phong. Đình gồm 5 gian 2 chái, có 48 cột gỗ lớn, Đình không có vách ngăn và hệ thống cửa ở mặt tiền, mái lợp ngói âm dương. Nội thất chia làm hai phần, bên trong là Hậu cung bố trí các án thờ, ngoài là Tiền đường treo hoành phi, liễn đối và câu đối. Hai bên tả, hữu Đình có hai nhà Tăng. Hiện đình Thủ Lễ còn lưu giữ: một khánh đá, một phiến đá bùa, 57 sắc phong, hơn 400 trang văn bản (địa bạ), 16 câu đối, 3 bức hoành, hai tượng hạc bằng gỗ. Ðặc điểm nổi bật của đình Thủ Lễ là kiểu nhà rường truyền thống, với bộ rường gỗ vững chãi biểu trưng cho cư dân đầm phá Tam Giang. Hàng năm có hai lễ chính, Xuân tế (tháng giêng Âm lịch) và Thu tế (tháng 7 Âm lịch). Với giá trị lịch sử, kiến trúc, nghệ thuật đó, Đình Thủ Lễ được công nhận là di tích cấp quốc gia theo Quyết định số 61/1999-Quyết Ðịnh /Bộ Văn Hóa Thông Tin, ngày 13-9-1999 của Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) Nguồn Cổng thông tin điện tử Thừa Thiên Huế.

Thừa Thiên Huế 1778 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đình Dạ Lê

Đình Dạ Lê thuộc phường Thủy Vân, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế, cách trung tâm thành phố Huế khoảng 6km về phía Nam. Đình Dạ Lê được xây dựng khoảng năm Minh Mạng thứ 7 (1826) là công trình kiến trúc tương đối cổ kính, được vua Khải Định tặng 4 chữ “Mỹ tục khả gia” nghĩa là “Tục tốt đáng khen”. Khuôn viên Đình Dạ Lê rộng 2.158m2. Bố trí cấu trình Đình bao gồm: Hồ bán nguyệt - trụ biểu – bình phong – tòa Đại đình được liên kết với nhau theo một trục dọc. Tòa Đại đình làm theo kiểu nhà rường ba gian, hai chái diện tích 221m2 (17m x 13m). Cột kèo bằng gỗ, kết cấu hài hòa, gồm 28 cột lớn, trong đó hàng cột lớn nhất (cột cái) 8 cột, cột hàng nhì (cột quân) 16 cột và cột hàng ba (cột hiên) 4 cột. Mái của Đình Dạ Lê hơi ngang, lợp ngói liệt, trên trang trí “Lưỡng long chầu nguyệt”, bốn góc mái có biểu tượng “long hồi”. Nội thất Đình có án thờ gỗ sơn son thếp vàng, chạm khắc tỉ mỉ. Trên các nghi môn, liên ba chạm khắc các họa tiết đặc trưng của nghệ thuật triều Nguyễn. Đình Dạ Lê còn lưu giữ được 20 câu đối, 6 bức hoành phi. Trải qua thời gian và chiến tranh, Đình Dạ Lê được trùng tu nhiều lần, qua các lần tu sửa một số cấu trúc gỗ đã được thay thế bằng xi măng cốt thép. Đình Dạ Lê là một di tích kiến trúc tiêu biểu có giá trị về mặt kiến trúc gỗ truyền thống, mang phong cách nhà rường dân gian Huế. Đình Dạ Lê còn là nơi tập trung và diễn ra nhiều lễ hội, sinh hoạt văn hóa truyền thống của làng. Đặc biệt, nơi đây đã diễn ra nhiều sự kiện lịch sử quan trọng của nhân dân địa phương hưởng ứng các phong trào đấu tranh yêu nước, phong trào giải phóng dân tộc. Với giá trị kiến trúc, nghệ thuật và ý nghĩa lịch sử của di tích, ngày 19/1/2001 Bộ Văn hoá Thông tin (nay là Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch) đã có quyết định số 04/2001/Quyết Định-Bộ Văn Hóa Thông Tin công nhận Đình Dạ Lê là di tích kiến trúc, nghệ thuật cấp Quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử Thừa Thiên Huế.

Thừa Thiên Huế 1666 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Chùa Bảo Ngạn

Chùa Bảo Ngạn tọa lạc tại xã Sông Lô, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Chùa Bảo Ngạn vốn là một ngôi chùa cổ, tương truyền xưa kia vốn là thái ấp thang mộc của con gái vua Hùng, được chư Tổ kiến tạo thành chùa thờ Phật, là nơi ủ ấm tâm linh cho dân cư Phật tử cả một vùng rộng lớn. Trải qua các biến cố thăng trầm của thời gian, ngôi chùa đã thành một phế tích. Từ chốn Tổ chùa Hương – Hà Tây, được Phật bổ xứ về chùa Bảo Ngạn, Đại đức Thích Minh Thuận đã từng bước một, vừa kiên trì kiến tạo cả nền tảng vật chất và nền tảng tâm linh của chùa, vừa phát tâm vô quải ngại nỗ lực đóng góp cho công nghiệp hoằng pháp ở Phú Thọ. Ban đầu Thầy làm các lán nhà tạm, rồi từng bước 1 xây dựng giảng đường, nhà khách, nhà Tăng, nhà Tổ,…kiên cố, uy nghi. Trường An cư kết hạ và các khóa tu, các lễ hội vẫn được khai mở tại đây. Như ong về tổ, Phật tử vân tập về tu học ngày một đông đúc. Nơi đây đã trở thành 1 chốn Già lam nổi tiếng trong vùng. Chùa Bảo Ngạn có kiến trúc và thiết kế nội thất tuân theo phong cách Chân Tịnh kết hợp với Mật Tịnh đồng tu. Đặc biệt, nó có cung thờ Tổ Liên Hoa Sinh – một vị tổ quan trọng trong Mật tông Tây Tạng. Đại đức Minh Thuận, một trong những Pháp tử ưu tú của Tổ Viên Thành, được biết đến là người đã đưa Mật giáo trở lại Việt Nam vào năm 1992. Kiến trúc của chùa Bảo Ngạn theo hình dáng của chữ “Công”, với tiền tế chồng lên nhau tạo thành tám mái. Hậu cung cũng có mười hai mái, với diện tích mặt sàn lớn hơn 500m2 và chiều cao lên tới 16,5 mét. Ngôi chùa hiện đứng vững uy nghi bên bờ sông Lô, gần cây cầu Việt Trì lịch sử. NGUỒN: BÁO PHÚ THỌ

Phú Thọ 1712 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Thượng

Đền Thượng có tên chữ là Kính thiên lĩnh điện (Điện thờ trời trên núi Nghĩa Lĩnh). Ngôi Đền là một công trình kiến trúc của khu di tích quần thể Đền Hùng tọa lạc tại thôn Cổ Tích, xã Hy Cương, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Đền Thượng được xây dựng trên nền cũ của ngôi miếu thờ thần núi, thần lúa, Thánh Gióng…, là nơi các vua Hùng thường tiến hành các nghi thức cầu khấn trời đất, mong cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi, cho muôn dân được ấm no, hạnh phúc. Có tài liệu cho rằng đền Thượng được xây dựng vào thế kỷ 15, hiện đền có ba gian, mái ngói đầu đao cong. Cửa đền có bức hoành phi: Nam Việt Triệu Tổ (Tổ muôn đời của nước Việt Nam), trong đền có bức đại tự: Tử Tôn Bảo Chi (Con cháu phải giữ gìn lấy). Ngoài ra còn có rất nhiều câu đối ca ngợi công đức của các bậc Thánh Tổ. Ban thờ trong đền có bài vị của 18 đời vua Hùng (Hùng đồ thập bát thế Thánh vương Thánh vị) và ba vị thần núi: Đột Ngột Cao Sơn (núi Nghĩa Lĩnh), Áp Sơn (núi Trọc), Viễn Sơn (núi Vặn), hai bên trước cửa đền là hai cột đá, tương truyền do An Dương Vương dựng lên, thề muôn đời gìn giữ giang sơn gấm vóc họ Hùng. Hiện nay đền có kiến trúc kiểu chữ Vương, được xây dựng 4 cấp: Nhà chuông trống, Đại bái, Tiền tế và Hậu cung. Trong đền Thượng có bức đại tự đề “Nam Việt triệu tổ”, nghĩa là Tổ khai sáng nước Việt Nam. Đền được làm kiểu chữ Vương, có 3 cấp. Phía trước là nghi môn rồi đến đại bái (cấp 1), tiền tế (cấp 2) và hậu cung (cấp 3). Trong cuốn sách “Đền Hùng di tích lịch sử văn hóa đặc biệt quốc gia” có viết: Nghi môn kiến trúc mang phong cách thời Nguyễn, có 4 trụ biểu lớn tạo thành 3 cổng mái vòm. Các cột trụ phía trên đắp theo kiểu lồng đèn, bốn mặt đắp hình tứ linh, đỉnh cột đắp 4 con nghê chầu. Phía trên nóc cổng giữa đắp trang trí “lưỡng long chầu nhật”, hình hai con rồng đang uốn lượn. Hai bên có tượng võ sĩ, phía trên là hình phượng cặp thư. Ở đại bái, tiền tế và hậu cung kết cấu được xây thành 3 cấp nối liền nhau. Mặt bằng có cấu trúc 3 gian, 2 hàng cột. Đặc biệt tại hậu cung là nơi thâm nghiêm, bên trong có 4 ban thờ. Ở 3 ban thờ chính diện có long ngai và bài vị được đặt trong khám thờ. Tất cả đều trạm trổ công phu, sơn son thếp vàng lộng lẫy. Phía tay trái đền Thượng có cột đá thề, tương truyền do Thục Phán dựng lên khi được Vua Hùng thứ 18 truyền ngôi để thề nguyện bảo vệ non sông đất nước mà Hùng Vương trao lại. Qua thời gian, dấu tích cột đá bị vùi lấp. Năm 1968, các nhà nghiên cứu tìm thấy những cột đá cổ nằm sâu trong lòng đất tại khu vực đền Thượng. Từ đó cột đá thề được xây dựng lại ở bên phải trước sân đền. Năm 2003, cột đá được trùng tu kiểu dáng như cũ; năm 2009 tu bổ, tôn tạo lại bằng đá bán quý với kiểu dáng như hiện nay. NGUỒN: BÁO PHÚ THỌ

Phú Thọ 1863 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Hạ

Đền Hạ là một công trình kiến trúc của khu di tích quần thể Đền Hùng tọa lạc tại thôn Cổ Tích, xã Hy Cương, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Tương truyền là nơi mẹ Âu Cơ trở dạ sinh ra một bọc trăm trứng, nở ra trăm người con, nguồn gốc của cộng đồng người Việt, nghĩa “đồng bào” (cùng bọc) được bắt nguồn từ đây.. Khi các con khôn lớn cha Lạc Long Quân mang theo 50 người con về vùng biển quai đê lấn biển, mở mang bờ cõi. Mẹ Âu Cơ mang theo 50 người con ngược lên vùng núi, trồng dâu, chăn tằm, dệt vải, xây dựng cuộc sống. Người con trưởng ở lại làm Vua, cha truyền con nối 18 đời đều gọi là Hùng Vương.tạo nên dòng dõi con Rồng cháu Tiên. Đền được xây dựng vào khoảng thế kỷ thứ 17 - 18 được làm hai lớp theo kiểu chữ Nhị; đây là nơi thờ phụng các vua Hùng. Chùa Thiên Quang Thiền Tự: Nằm bên phải đền Hạ, được xây dựng vào giữa thế kỷ 15. Kiến trúc ngày nay còn lại là phần tiền tế, gác chuông tám mái, xà, bẩy, chạm trổ đẹp đẽ mang dấu ấn thời Lê. Cạnh đó là cây thiên tuế khoảng 700 năm tuổi. Tương truyền khi mẫu Âu Cơ sinh bọc trăm trứng, trên trời có làn mây sáng chiếu xuống. Về sau nhân dân dựng nên chùa tại đó gọi là Thiên Quang Thiền Tự (nơi có ánh sáng trên trời rọi xuống), ngoài ra chùa còn có tên khác là Sơn Cảnh Thừa Long Tự. Kiến trúc kiểu chữ Nhị gồm Tiền bái và Hậu cung, mỗi tòa ba gian, cách nhau 1,5 m. Kiến trúc đền Hạ đơn sơ, kèo cầu suốt, bẩy gối vào đầu kèo làm cho mái sau dài hơn mái trước, quá giang đóng trụ, mái lợp ngói mũi, người dân địa phương gọi là ngói mũi lợn. Đốc xây liền tường với hậu cung, hai bên đắp phù điêu, một bên to, một bên ngựa. Bờ nóc phẳng và không trang trí mỹ thuật. Ngôi đền nhỏ bé cấp 4, gồm 3 gian nhỏ để thờ tự, phía trước ngôi đền có một lư hương lớn bằng đá để du khách tới cúng viếng. NGUỒN: BÁO PHÚ THỌ

Phú Thọ 1680 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Thiên Quang

Chùa Thiên Quang, hay còn được gọi là Thiên Quang Thiền Tự, vị trí của nó đặt tại Khu di tích lịch sử văn hóa Đền Hùng, phía Tây Bắc thành phố Việt Trì, trong xã Hy Cương, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ. Trong Khu di tích lịch sử văn hóa Đền Hùng, nơi này đứng gần đền Hạ, cùng với đền Trung (Hùng Vương tổ miếu), đền Thượng (Kính Thiên Lĩnh điện, Cửu Trùng Tiên điện), và đền Giếng, cũng như lăng mộ của vua Hùng. Tên gọi ban đầu của chùa là Viễn Sơn Cổ Tự, nhưng sau này được đổi thành Thiên Quang Thiền Tự. Chùa này là một trong những công trình thuộc hệ phái Bắc tông. Lịch sử xây dựng của chùa Thiên Quang gắn liền với thời kỳ Lê Trung Hưng. Tam quan của chùa được thiết kế theo kiểu ba gian hai chái, mô phỏng chồng giường, thể hiện rõ nét mỹ thuật thời Hậu Lê. Đặc biệt, chùa có một chiếc chuông cổ, và trước sân chùa là một cây vạn tuế ba cành, đã tồn tại hơn 700 năm. Trong chùa, Điện Phật được trang nghiêm với sự hiện diện của các tượng Tam Thế Phật, Di Đà Tam Tôn, Thích Ca Tam Tôn, Quan Thế Âm, Hộ Pháp và nhiều vị Phật khác. NGUỒN: BÁO PHÚ THỌ

Phú Thọ 1898 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa San Bảo

Chùa San Bảo được gọi là San Bao Tự (gọi theo chuông), tên gọi trong nhân dân: Chùa Phượng Lâu (gọi theo địa danh di tích). Chùa nhìn theo hướng Đông – Nam có bố cục mặt bằng kiến trúc kiểu chữ Công gồm 03 tòa: Tiền đường, Thiêu hương (ống muống) và Thượng diện với tổng diện tích 167,4m2. Chùa được xây dựng vào thời Hậu Lê – Thế kỷ thứ 18 và được tu bổ, tôn tạo năm 2014 nhằm đáp ứng nhu cầu tâm linh, lễ phật hướng thiện tích đức của các tầng lớp nhân dân trong Xã cũng như phật tử ở khắp mọi miền có tâm hướng thiện. Chùa San Bảo là nơi hội họp và thành lập Chi bộ xã Chiến Thắng, là nơi đóng quân của bộ đội trên địa bàn xã. Lễ chùa San Bảo có các ngày như: Lễ tụng kinh niệm phật hàng ngày, lễ cúng phật vào những ngày rằm, mùng một hàng tháng, lễ cầu siêu cho linh hồn người đã chết, các ngày lễ tôn giáo khác như: Lễ thượng nguyên (rằm tháng giêng), lễ trung nguyên (rằm tháng 7). Lễ cầu yên vào hạ tháng 4 âm lịch, cuối xuân, đầu hạ cũng là lễ tiến hoàng trùng để trừ sâu bọ phá hoại mùa màng, ngày lễ Phật đản (15 tháng 4) gọi là ngày hội của phật giáo Việt Nam, với nghi lễ thay áo cho phật. Chùa San Bảo là công trình tín ngưỡng tôn giáo duy nhất của xã Phượng Lâu còn bảo lưu được hệ thống tượng cổ (37 bức tượng) được bố trí sắp xếp theo thứ tự bộ tượng quy định. Nghiên cứu về khoa học, lịch sử của di tích chùa San Bảo là di tích có giá trị về tâm linh tôn giáo và có ý nghĩa tinh thần sâu sắc trong mỗi người dân. Đây là di tích còn bảo lưu những giá trị vốn có trên mảnh đất giàu truyền thống văn hóa, tất cả được thể hiện qua hệ thống tượng phật và kiến trúc của ngôi Chùa. Ngoài số tượng phật, chùa còn bảo lưu được 3 bia đá (01 mặt tượng phật mặt kia là bia) có giá trị tiêu biểu thời hậu Lê. Một chuông đồng kích thước cao 0.95 m, đường kính 0,49 m. NGUỒN: BÁO PHÚ THỌ

Phú Thọ 1548 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Du Yến

Đền Du Yến thuộc xã Chí Tiên, huyện Thanh Ba. Nơi đây cây cối xanh tốt, sông núi hữu tình. Trước mặt đền là dòng sông Thao ngày đêm ca hát, bồi đắp phù sa. Phía sau thế đất tựa chiếc yên ngựa nối với gò Sơn Ngọc, bao quanh là hồ sen. Theo ghi chép lại, xưa kia vào những năm đầu sau Công nguyên tại vùng Thao Giang huyện Thanh Ba có gia đình nông dân thiện lương hạ sinh được một người con gái và đặt tên là Hạnh Nương. Cô gái nhỏ này được học hành đàng hoàng, lớn lên học cả văn chương lẫn võ nghệ. Bà là người con gái thông minh học một biết mười, nhan sắc tuyệt vời, tính tình hiền dịu nết na. Khi trưởng thành, trai tài nhiều người trong làng ướm hỏi bà đều từ chối không muốn vương bụi trần để giữ mình trong sạch. Năm Hai Bà Trưng khởi nghĩa đã cho mời Hạnh Nương về gặp. Thấy bà văn võ song toàn nên Hai Bà Trưng đã phong cho bà là trưởng lĩnh tiền quân. Sau khi đánh tan quân Tô Định, nữ tướng Hạnh Nương về thăm quê mở yến tiệc khao quân, ban thưởng cho dân làng, mở hội trên một gò đất bên sông hình con hổ trắng đang uống nước. Nơi đây về sau nhân dân lập đền thờ lấy tên là Du Yến (nghĩa là nơi du chơi và yến tiệc), ngày khao quân đúng vào ngày rằm tháng giêng. Cũng từ đó cứ dịp vào rằng tháng giêng là dân làng mở hội cầu tế để nhớ ơn công đức của bà cầu cho mưa thuận gió hòa, cho nhà nhà được mọi điều tốt lành. Trải qua bao thời gian đền Du Yến đã xuống cấp. Nhân dân trong vùng nhiều lần tôn tạo và giữ gìn ngôi đền cổ và xem đây là điểm sinh hoạt văn hóa tâm linh của cả vùng. Từ năm 2003 đền được trùng tu tôn tạo bao gồm hơn 12 hạng mục với số vốn đầu tư hơn 6 tỷ đồng. Năm 1993 đền được Nhà nước công nhận là Khu di tích lịch sử cấp quốc gia. NGUỒN: BÁO PHÚ THỌ

Phú Thọ 1534 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Phú Xuân

Đình Phú Xuân thuộc Phường Tây Lộc,(nay là phường Đông Ba), thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Đình Phú Xuân được xây dựng vào khoảng đầu thế kỷ XV, là di tích lịch sử kiến trúc gắn với địa danh lịch sử Phú Xuân, nơi chúa Nguyễn chọn đặt phủ chúa xứ Ðàng Trong, là kinh đô Phú Xuân dưới thời vua Quang Trung và nhà Nguyễn. Đình gồm có cổng Tam quan, bình phong, Đình họp và Đình tế.Cổng Tam quan có 4 trụ biểu hình vuông, hai cột giữa cao 4,10m, rộng 0,48m, hai cột bên cao 3,60m, rộng 0,48m. Trụ biểu được trang trí hình tượng búp sen, hoa lá, câu đối. Bình phong cao 2,90m, rộng 4m, dày 0,58m. Sau bình phong có lư hương cao 1,50m được xây bằng gạch và xi măng. Ðình họp là ngôi nhà rường ba gian, hai chái dài 17,80m, rộng 10,60m. Đình có 8 cột lớn, 12 cột nhỏ, các đường xuyên thổ, kèo quyết được trang trí họa tiết hoa lá cách điệu, tất cả đều được làm bằng gỗ lim và kiền kiền. Mái lợp ngói liệt. Ðình tế dài 10,50m, rộng 15,90m xây dựng theo kiểu "thượng song hạ bản", các đường xuyên thổ, liên ba làm bằng gỗ lim, được chạm trổ hoa lá cách điệu. Mái lợp ngói liệt. Gian giữa thờ các vị khai canh, gian tả thờ các vị có công với làng với họ, gian hữu thờ các vị Tiên tổ. Ðình Phú Xuân là kiến trúc dân gian độc đáo, duy nhất có trong Kinh thành, chứng minh cho sự hình thành, phát triển kinh đô Phú Xuân. Đình Phú Xuân đã được nhà nước xếp hạng là di tích lịch sử, kiến trúc, nghệ thuật cấp Quốc gia tại quyết định số 2754/Quyết Ðịnh Bộ Văn hóa Thông tin ngày 15/10/1994 Nguồn Cổng thông tin điện tử Thừa Thiên Huế.

Thừa Thiên Huế 2002 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Ðình Lại Thế

Đình Lại Thế thuộc xã Phú Thượng, huyện Phú Vang (nay là phường Phú Thượng, thành phố Huế), tỉnh Thừa Thiên Huế. Đình được xây dựng từ năm 1741, thời vua Lê Hiển Tông, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 2. Đây là một trong những ngôi Đình cổ ở Thừa Thiên Huế có giá trị lịch sử và kiến trúc nghệ thuật. Ðình Lại Thế gồm toà Ðại Ðình ba gian, hai chái kép, gian giữa rộng 2,95m, hai gian bên rộng 2,90m, hai gian chái mỗi gian rộng 1,7m. Toàn bộ Đình có 54 cột, chia thành 8 hàng ngang và 7 hàng dọc, kiến trúc đình theo kiểu “trùng thiềm điệp ốc", “kèo chồng” hay “vài chồng”, là đặc trưng kiến trúc thời Nguyễn. Toàn bộ Đình được bố trí bao gồm: Toà đại đình, sân đình, cổng đình, hàng trụ biểu được liên kết với nhau theo một trục dọc. Đường nét hoa văn khắc chạm trang trí trong Đình đều mang giá trị nghệ thuật cao. Đình sau khi xây dựng đã được tu sửa nhiều lần vào các năm: 1780, 1845, 1891 và 1998. Đình Lại Thế còn lưu giữ được nhiều di vật quý: 4 bức hoành sơn son thếp vàng bằng chữ Hán, hệ thống câu đối và 6 sắc phong các đời vua ban tặng cho các ngài có công khai canh khai khẩn gây dựng, mở mang làng Lại Thế. Hàng năm tại Đình Lại Thế thường diễn ra hai lễ chính, đó là: Lễ xuân kỳ và Lễ thu tế để dâng cúng các phúc thần, các thủy tổ khai canh khai khẩn tỏ lòng báo đáp công ơn. Những sinh hoạt này đến nay vẫn được dân làng duy trì, gìn giữ như một nét đẹp truyền thống của con dân làng Lại Thế. Với những giá trị về kiến trúc, nghệ thuật, Đình Lại Thế đã được công nhận là di tích cấp Quốc gia, theo Quyết định số 04/2001 Quyết Ðịnh -Bộ Văn Hóa Thông Tin ngày 19/01/2001 của Bộ Văn hóa Thông tin nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Nguồn Cổng thông tin điện tử Thừa Thiên Huế.

Thừa Thiên Huế 1693 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Chùa Thánh Duyên

Chùa Thánh Duyên là một danh lam cổ tự nằm ở núi Mỹ Am (sau đổi là Thủy Hoa rồi Thúy Vân nhưng người địa phương quen gọi là Túy Vân), xã Vinh Hiền, huyện Phú Lộc, sát bờ Bắc đầm Cầu Hai, gần cửa biển Tư Hiền, được xây dựng từ thời chúa Nguyễn Phúc Chu, (1691 - 1725), năm 1830 được vua Minh Mạng cho nâng cấp, xây dựng thêm một loạt công trình kiến trúc và đặt tên là “Thánh Duyên Tự”. Dưới triều Nguyễn đây là một quốc tự, được triều đình quan tâm trùng tu và cử các danh tăng về làm Tăng cang và Chủ trì. Chùa Thánh Duyên là một danh lam cổ tự nằm ở núi Mỹ Am (sau đổi là Thủy Hoa rồi Thúy Vân nhưng người địa phương quen gọi là Túy Vân), xã Vinh Hiền, huyện Phú Lộc, sát bờ Bắc đầm Cầu Hai, gần cửa biển Tư Hiền, được xây dựng từ thời chúa Nguyễn Phúc Chu, (1691 - 1725), năm 1830 được vua Minh Mạng cho nâng cấp, xây dựng thêm một loạt công trình kiến trúc và đặt tên là “Thánh Duyên Tự”. Dưới triều Nguyễn đây là một quốc tự, được triều đình quan tâm trùng tu và cử các danh tăng về làm Tăng cang và chủ trì. Cảnh đẹp núi Thúy Vân với thắng tích Thánh Duyên Tự được vua Thiệu Trị xếp hạng là đệ cửu cảnh trong hai mươi cảnh đẹp của đất Thần Kinh với bài “Vân Sơn thắng tích” đi kèm với bức họa vẽ toàn cảnh chùa Thánh Duyên nổi bật giữa khung cảnh hữu tình của núi Thúy Vân, đầm Cầu Hai và Biển Đông. Hiện nay, qua nhiều đợt trùng tu, chùa Thánh Duyên đang dần dần khôi phục lại vóc dáng của ngôi cổ tự với đình khắc bài “Vân Sơn bi thắng tích” của vua Thiệu Trị dựng ở chân núi, với cổng chùa hai tầng và tòa chánh điện 3 gian 2 chái còn bảo lưu các tượng Tam thế Phật, Quan Thế Âm, 18 vị La Hán, thập điện Minh Vương bằng đồng. Bên phải sân trước chùa còn bia đá khắc 4 bài thơ của vua Minh Mạng chế ngự về núi Thúy Hoa và chùa Thánh Duyên. Đặc biệt, giữa điện thờ chính là long vị bằng đồng đúc dòng chữ “Đương kim Minh Mạng Hoàng đế vạn thọ vô cương”. Đi dần lên đỉnh núi là Đại Từ Các 2 tầng có nghi môn và la thành bao bọc. Trên đỉnh núi là tháp Điều Ngự 3 tầng, cao khoảng 15m và đình Tiến Sảng ở sau tháp nhìn ra Biển Đông. Quanh chùa còn khá nhiều cây thông cổ thụ đang đứng vững với thời gian. Nguồn Cổng thông tin điện tử Thừa Thiên Huế.

Thừa Thiên Huế 1942 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Chùa Giác Lương

Địa điểm thuộc làng Hiền Lương, xã Phong Hiền, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế, cách trung tâm thành phố Huế 21km về phía Tây Bắc. Chùa Giác Lương do bà Hoàng Thị Phiếu và các tộc trưởng của các họ trong làng Hiền Lương xây dựng vào thời Lê Trung Hưng ở xứ Cồn Bệ, sau đó dời đến vị trí hiện nay. Chùa xây hướng Nam, hình chữ nhật dài 14,60m, rộng 11,48m, sườn mái bằng gỗ, lợp ngói liệt, gồm 2 gian và 4 chái. Sát bên chùa có nhà Tăng. Khuôn viên chùa được bao bọc bởi la thành hình chữ nhật, dài 79m, cao 1,20m, dày 0,50m. Mặt trước la thành xây trụ biểu. Cổng Tam quan đồ sộ, trên có lầu, dưới có ba cửa ra vào, quy mô lớn hơn nhiều ngôi quốc tự ở Huế. Trong chùa thờ 7 tượng Phật, thờ thánh Quan Công, Quan Bình, Châu Xương. Chùa có phối tự 12 vị thủy tổ các họ đã có công khai lập Làng. Tại chùa còn lưu giữ quả chuông lớn, đúc năm 1819, thân chuông đúc tên những người thợ rèn tài ba, những quan lại và những người giàu có đã cúng tiền đúc chuông và trùng tu chùa. Chùa Giác Lương góp phần vào việc nghiên cứu lịch sử hình thành phong cách kiến trúc chùa xứ Huế trong dặm dài của kiến trúc Phật giáo Việt Nam. Chùa Giác Lương đã được xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia theo Quyết định số 776-Quyết Ðịnh /Văn Hóa ngày 22/6/1992 của Bộ Văn hoá Thông tin và Thể thao (nay là Bộ Văn hoá Thể thao và Du lịch). Nguồn Cổng thông tin điện tử Thừa Thiên Huế.

Thừa Thiên Huế 1843 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đình Đào Xá

Đình Đào Xá nằm tại xã Đào Xá, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ. Đào Xá là miền đất cổ, có nền văn hoá lâu đời cách đây khoảng 1.800 năm thuộc vùng đất Khuất Động Liêu, thuở khai sơ có tên là Làng Dâu, Làng Da, sau này đổi tên thành làng Đào Xá. Đình có nguồn gốc xây dựng rất sớm vào thời Lê Trung Hưng (thế kỷ thứ XVII). Năm 1924 ngôi đình bị cháy hư hỏng một phần kiến trúc. Năm 1930, ngôi đền được trùng tu, tôn tạo lại. Vì vậy kiến trúc hiện nay của ngôi đình Đào Xá mang dấu ấn của hai thời Hậu Lê và thời Nguyễn. Nơi đây thờ Hùng Hải Công (em thứ 19 của vua Hùng), là người đã có công khai mở đất đai, dạy dân trị thủy, cày cấy, chăn nuôi, xây dựng xóm làng trù phú. Nơi đây còn thờ 3 vị thủy thần là 3 người con trai của Hùng Hải Công. Đình Đào Xá được làm theo kiểu chữ tam gồm 3 toà: Tiền tế, trung tế và hậu cung. Nền đền được làm theo kiểu giật cấp cao dần vào phía hậu cung, các nền cao hơn nhau 0,40m và cách nhau bằng sân lộ thiên. Khung kiến trúc làm theo kiểu tứ trụ lòng thuyền; bộ vì được kết cấu theo kiểu chồng rường, giá chiêng, hạ bảy. Với những giá trị văn hóa lịch sử, nghệ thuật điêu khắc tinh xảo, đình Đào Xá được công nhận là Di tích lịch sử Quốc gia năm 1974 và là một trong những ngôi đình cổ nhất trên địa bàn tỉnh còn được lưu giữ đến ngày nay. NGUỒN: BÁO PHÚ THỌ

Phú Thọ 1705 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh

Khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh tọa lạc trên một vùng đất bằng phẳng, rợp bóng cây xanh, giữa thôn quê trung du hữu tình, tại khu 12, xã Vạn Xuân (xưa là xã Cổ Tiết), huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ. Khu lưu niệm rộng 2.780m2 bao gồm các công trình như: cổng chào, nhà lưu niệm, căn nhà cụ Hoàng Văn Nguyện - nơi Bác Hồ ở từ ngày 04/3 đến ngày 17/3/1947, trên đường lên căn cứ địa kháng chiến Việt Bắc. Nhà lưu niệm được khởi công xây dựng năm 1994, đến năm 1995, được công nhận là Di tích lịch sử, văn hóa cấp Quốc gia. Khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh ở xã Vạn Xuân là di tích lịch sử, văn hóa ghi dấu ấn hình ảnh Bác Hồ trong lòng Nhân dân Đất Tổ Phú Thọ, là “địa chỉ đỏ” giáo dục truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc và tình cảm thiêng liêng của đồng bào, đồng chí, chiến sĩ đối với Bác Hồ kính yêu./. NGUỒN: Cơ quan Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam

Phú Thọ 1979 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền thờ vua Lý Nam Đế

Đền thờ vua Lý Nam Đế Tọa lạc trên khoảng đất rộng rãi với địa thế cao ráo tại gò Cổ Bồng, xã Vạn Xuân, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ, Khu di tích đền thờ vua Lý Nam Đế gồm nhiều hạng mục kiến trúc như: Nghi môn, đền thờ, sân vườn,... Với vị trí cách không xa Đền Hùng, đây hứa hẹn là một địa điểm du lịch tâm linh độc đáo tại Phú Thọ. Theo lịch sử, vua Lý Nam Đế tên thật là Lý Bí, là người có tài văn võ. Từ nhỏ đã tỏ ra là một cậu bé thông minh, tư chất khác người. Ông được một vị Pháp tổ thiền sư nhận nuôi và cho học. Nhờ có văn võ song toàn, Lý Bí sớm được tôn lên làm thủ lĩnh một vùng. Có thời ông từng làm quan cho nhà Lương, nhưng rất bất bình với bọn quan lại đô hộ tàn ác bóc lột và đàn áp dân chúng, ông đã bỏ quan về chiêu binh, liên kết với nhiều hào kiệt, tù trưởng giỏi khác khởi nghĩa chống lại quan quân đô hộ nhà Lương tại Giao Châu. Cuối năm 541, Lý Bí chính thức khởi binh chống nhà Lương. Được nhiều người hưởng ứng, lực lượng của Lý Bí lớn mạnh. Tháng Giêng năm 544, Lý Bí tự xưng là Lý Nam Đế, lên ngôi, đặt niên hiệu là Thiên Đức, lập trăm quan, đặt tên nước là Vạn Xuân, đóng đô ở Ô Diên (nay là xã Hạ Mỗ, Đan Phượng, Hà Nội), dựng điện Vạn Thọ làm nơi triều hội. Di tích thờ Lý Nam Đế hiện nằm rải rác trên địa bàn các tỉnh: Thái Bình, Thái Nguyên, Hà Nội, Vĩnh Phúc, Phú Thọ… nhưng chỉ duy nhất ở Phú Thọ có đền thờ tại nơi Ngài mất và lăng mộ của nhà vua. NGUỒN: Báo Quân đội nhân dân

Phú Thọ 1908 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình làng Hòa Phong

Đình làng Hòa Phong thuộc xã Thuỷ Tân, thị xã Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên Huế, cách trung tâm thành phố Huế 15km về phía Đông Nam, cách sân bay Phú Bài 3km. Nhân dân Hòa Phong có truyền thống yêu nước, anh dũng kiên cường. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, nhân dân Hòa Phong có nhiều cống hiến đóng góp cho cách mạng. Đình Hòa Phong là nơi chứng kiến những sự kiện lịch sử quan trọng của quê nhà trong quá trình đấu tranh cách mạng. Đình làng là nơi tổ chức nhiều hoạt động quyên góp ủng hộ cho kháng chiến như “Tuần lễ đồng”, “Tuần lễ vàng”. Nhiều năm liền Đình Hòa Phong là nơi làm việc của các đồng chí lãnh đạo Tỉnh ủy như đồng chí Tư Minh, đồng chí Hà (Lén), đồng chí Nguyễn Húng, Hoàng Lanh, Hoàng Đắc, Lê Trọng Bật... Đặc biệt tháng 3 năm 1947, đồng chí Nguyễn Chí Thanh - Bí thư Khu ủy Bình Trị Thiên đã tổ chức cuộc họp tại Đình Hòa Phong và nhận định Hòa Phong là căn cứ lõm của cách mạng, là đầu mối liên lạc, nằm trong hệ thống hành lang tiếp tế giữa đồng bằng và chiến khu. Nhân dân Hòa Phong đã có nhiều đóng góp trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và Đình làng Hòa Phong là địa chỉ liên lạc giữa huyện Hương Thuỷ (nay là thị xã Hương Thủy) với các xã trong huyện. Di tích Đình làng Hoà Phong đã được Nhà nước công nhận là di tích lịch sử cách mạng quốc gia theo quyết định số 1460/Quyết Định -Văn Hóa , ngày 28 tháng 6 năm 1996. Nguồn Cổng thông tin điện tử Thừa Thiên Huế.

Thừa Thiên Huế 2599 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Điểm di tích nổi bật