Mộ và nhà thờ Hoàng Kế Viêm thuộc thôn Văn La, xã Lương Ninh (huyện Quảng Ninh) được xếp hạng di tích lịch sử cấp tỉnh theo Quyết định số 2167/Quyết Định - Uỷ Ban Nhân Dân ngày 26-8-2011. Di tích là nơi để tưởng niệm Hoàng Kế Viêm-một nhân vật lịch sử có vai trò quan trọng trong thời kỳ chống Pháp nửa sau thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, đồng thời cũng là nơi để giáo dục cho thế hệ trẻ truyền thống yêu nước, lòng dũng cảm, kiên cường đấu tranh bảo vệ đất nước của tổ tiên, ông cha, khơi dậy lòng tự hào về truyền thống quê hương. Hoàng Kế Viêm (1820-1909) còn gọi là Hoàng Tá Viêm, tự Nhật Trường, hiệu Tùng An, quê làng Văn La, tổng Văn Đại, phủ Quảng Ninh (nay thuộc xã Lương Ninh, huyện Quảng Ninh). Năm 1843, Hoàng Kế Viêm thi đỗ cử nhân và được bổ làm tư vụ, hàm Quang Lộc Tự Khanh. Năm 1846, đời vua Thiệu Trị, ông làm lang trung Bộ Lại. Năm 1852, ông giữ chức án sát tỉnh Ninh Bình; năm 1854, ông được thăng Bố Chính tỉnh Thanh Hóa; năm 1859, là Bố Chính kiêm Tuần vũ tỉnh Hưng Yên; năm 1863, ông giữ chức Tổng đốc An-Tĩnh (Nghệ An-Hà Tĩnh). Trong thời gian này, ông đã có công trong việc trị an, mở mang kinh tế, phát triển dân sinh. Năm 1870, ở Bắc Kỳ xảy ra nhiều biến loạn, giặc Cờ Đen, Cờ Trắng, Cờ Vàng hoành hành, cướp phá, quấy nhiễu nhân dân, Pháp âm mưu chiếm vùng sông Hồng để được tự do buôn bán với vùng Vân Nam và Hoa Nam (Trung Quốc), khiến cho tình hình xã hội hết sức rối loạn. Trước tình hình đó, triều đình đã cử Hoàng Kế Viêm làm Thống đốc quân vụ đại thần bốn tỉnh Lạng-Bình-Ninh-Thái, trực tiếp chỉ huy quân thứ Tam Tuyên cùng với Tán tương Tôn Thất Thuyết lo việc dẹp loạn, ổn định Bắc Kỳ. Với kế sách “vừa đánh vừa dụ hàng”, chỉ sau một thời gian ngắn, Hoàng Kế Viêm đã thu phục được thủ lĩnh quân Cờ Đen là tướng Lưu Vĩnh Phúc, cùng hợp sức đánh tan giặc nổi loạn Cờ Trắng, Cờ Vàng. Nhờ vào công lao này, ông được phong hàm Đại học sĩ lãnh Tổng đốc Tam Tuyên, sung Tiết chế quân vụ Bắc Kỳ. Năm 1873, quân Pháp dưới sự chỉ huy của đại úy F.Garnier đánh chiếm thành Hà Nội và nhiều tỉnh khác ở Đồng bằng sông Hồng, Hoàng Kế Viêm được triều đình cử làm Tiết chế quân vụ Bắc Kỳ (chức vụ quân sự cao nhất ở Bắc Kỳ) để chỉ huy, đôn đốc việc phòng thủ chống Pháp. Ở chức vụ này, ông đã chỉ huy quân dân Hà Nội phối hợp với quân Cờ Đen đánh thắng cuộc tấn công của Pháp vào thành Hà Nội, giết chết tên chỉ huy Pháp F.Garnier. Mười năm sau, ngày 19-5-1883, Hoàng Kế Viêm lại chỉ huy quân dân Hà Nội đập tan cuộc tấn công của quân Pháp ở Cầu Giấy, bắn chết tên trung tá chỉ huy H.Riviere. Năm 1887, ông được thăng chức Thái tử Thiếu bảo, Cơ mật Viện Đại thần. Ngoài tài năng về quân sự, Hoàng Kế Viêm còn là người hay chữ: làm thơ, viết văn, viết sử. Những tác phẩm của ông bằng Hán Nôm với bút danh Tùng An khá đa dạng và phong phú như: Trù Thiết sơn phòng sư Nhị tấn (tổng kết việc củng cố an ninh vùng biên cương kết hợp với khai hoang và tăng gia sản xuất), Thần cơ yếu ngữ (sách giáo khoa cho bộ binh nói về cách sử dụng các loại vũ khí mới, cách bắn súng, bảo quản vũ khí có tranh vẽ minh họa và các bài tập), Hoàng Triều Văn Vũ thế tắc lệ (Những phép tắc cho các trường thi võ), Phê thị trần hoàn (ghi chép về đời vua Tự Đức), Tiên công sự tích biệt lục (ghi lại thân thế và sự nghiệp của cha ông)... Sau khi mất, ông được vua Duy Tân truy tặng hai chữ “Văn Nghị " có nghĩa là bạn của văn chương. Người dân địa phương truyền tụng về Hoàng Kế Viêm rằng, khi về hưu, vua ban cho ông 4 mẫu ruộng nhất đẳng điền tùy ý chọn nhưng ông chỉ chọn 4 mẫu đất cỏ hoang mà người làng Thế Lại dùng để nuôi trâu bò rồi ông vận động con cháu trong họ cùng dân làng đi khẩn hoang một vùng đất khác cạnh đó thành đồng ruộng hai mùa tươi tốt. Nhân dân gọi đó là đồng cồn Hoàng ngàn mùa không mất. Ruộng khai phá xong, ông chia đều cho mọi người cày cấy. Biết ơn ông, dân làng đã lập một đền thờ Thổ công tại cánh đồng để hàng năm cúng tế. Ngày khai trương đền thờ, người dân thắp hương, đèn cúng khấn nhưng hương không cháy, đèn không đỏ, họ lấy làm kỳ lạ, hoảng sợ họ phải cho người về mời rước ông lên cúng. Từ đó về sau, đến kỳ cúng bái không còn xảy ra chuyện như vậy nữa nên dân làng xem ông còn to hơn cả Thổ thần. Khuôn viên lăng mộ Hoàng Kế Viêm có diện tích hơn 230m2, bao gồm: cổng, sân, hàng rào, bia mộ, hồ bán nguyệt và mộ. Phần mộ được xây bằng xi măng theo h́ình chữ nhật, phía trên mộ đắp nổi h́ình 7 lá sen chồng lên nhau tượng trưng cho sự thanh bạch, tấm lòng trong sáng như cuộc đời của ông. Nhà thờ được xây dựng vào năm 1937 bằng gạch và lợp ngói âm dương. Kiến trúc của nhà thờ gồm ba gian, được bài trí theo hướng đông-nam, rộng khoảng 300m2. Năm 1967, nhà thờ đã bị đánh sập trong một đợt không kích của giặc Mỹ. Năm 1998, con cháu hậu duệ đã đóng góp công, của xây dựng lại nhà thờ như hiện nay. Hàng năm, cứ đến ngày giỗ ông, con cháu trong dòng họ tập trung tại nhà thờ làm lễ dâng hương, cúng bái để tưởng nhớ công đức của ông. Với những ý nghĩa và giá trị lịch sử đó ngày 24/02/2023, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ban hành Quyết định số 396/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao Du Lịch về việc công nhận Di tích lịch sử Mộ và Nhà thờ Hoàng Kế Viêm ở xã Lương Ninh (huyện Quảng Ninh) là di tích Quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Bình.
Quảng Trị 3506 lượt xem
Đền Cô Ba tọa lạc ở vị trí sơn thủy hữu tình, lưng tựa vào núi, mặt hướng ra dòng suối Nhù trong xanh, thuộc thôn Làng Đền, xã Phú Nhuận. Ngày nay, ở xã Phú Nhuận vẫn tương truyền sự tích về cô Ba. Vùng đất Phú Nhuận xưa kia có nàng công chúa tên là Ba xinh đẹp tuyệt trần, lại hay giúp đỡ dân lành. Nàng rất thạo việc sông nước nên thường dạy nhân dân trong vùng cách đi lại trên sông nước và cách đánh bắt thủy sản ở sông, suối, vì thế mà nàng được nhân dân trong vùng hết sức yêu mến và kính trọng. Sau khi nàng công chúa mất, người dân lập đền thờ phụng. Đền Cô Ba là điểm sinh hoạt văn hóa tâm linh quan trọng, gắn với đời sống tín ngưỡng của nhân dân các dân tộc xã Phú Nhuận, đã tồn tại hàng trăm năm. Hàng năm, người dân xã Phú Nhuận và các địa phương lân cận thường đến dâng hương, chiêm bái, cầu bình an. Với những giá trị lịch sử, văn hóa, đền Cô Ba đã được UBND tỉnh ra quyết định công nhận là di tích lịch sử, văn hóa cấp tỉnh để góp phần bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa gắn với phát triển du lịch; giáo dục truyền thống, đáp ứng nhu cầu tâm linh của nhân dân. Trong ngày đón nhận Bằng xếp hạng đã diễn ra nhiều hoạt động văn hóa tâm linh gắn với lễ hội thường niên vào ngày 7/7 âm lịch được tổ chức tại đền. Nhân dịp này, UBND huyện Bảo Thắng đã công bố chi tiết quy hoạch diện tích đền và kế hoạch phát triển khu di tích lịch sử đền Cô Ba trong thời gian tới. Đền Cô Ba là nơi sinh hoạt văn hóa tâm linh quan trọng, gắn với đời sống tín ngưỡng của nhân dân các dân tộc xã Phú Nhuận. Nguồn: Báo Lào Cai
Lào Cai 3509 lượt xem
Tuyến đường đá cổ Pavie có tuổi đời hơn 100 năm ở thôn Nhìu Cồ San, xã Sàng Ma Sáo, huyện Bát Xát, đã được tỉnh Lào Cai xếp hạng là di tích danh lam thắng cảnh cấp tỉnh. Ngày 11/12, tin từ Sở Văn hóa - Thể thao Lào Cai cho biết, UBND tỉnh này vừa ban hành Quyết định số 3130/QĐ-UBND, xếp hạng đường đá cổ Pavie ở thôn Nhìu Cồ San, xã Sàng Ma Sáo, huyện Bát Xát là di tích danh lam thắng cảnh cấp tỉnh. Theo quyết định này, khu vực bảo vệ đường đá cổ Pavie được xác định theo biên bản khoanh vùng các khu vực bảo vệ di tích trong hồ sơ khoa học di tích. UBND tỉnh Lào Cai giao Sở Văn hóa - Thể thao, UBND huyện Bát Xát xây dựng phương án bảo vệ, quản lý, tu bổ và sử dụng di tích danh lam thắng cảnh đường đá cổ Pavie theo đúng quy định. Theo nhiều tài liệu và ghi chép, năm 1920, tuyến đường đá Pavie bắt đầu được xây dựng. Thống đốc Auguste Jean - Marie Pavie là người khảo sát và chỉ đạo xây dựng tuyến đường này để vận chuyển lương thực, nông sản giữa các tỉnh Tây Bắc của Việt Nam. Bởi vậy, tuyến đường được gọi tên là Pavie. Sau 7 năm, con đường được hoàn thành với tổng chiều dài khoảng 100km, vượt đèo Gió thuộc dãy Nhìu Cồ San, kéo dài từ huyện Bát Xát (tỉnh Lào Cai) tới thành phố Lai Châu (tỉnh Lai Châu) ngày nay. Tuy nhiên, theo người dân bản địa, từ trước khi người Pháp làm đường, cha ông họ đã chinh phục đỉnh Nhìu Cồ San bằng lối đi này và khai phá đến đất Lai Châu, người Pháp chỉ tiếp tục mượn tuyến đường của người Mông để vận chuyển. Tuyến đường đá cổ Pavie từng phục vụ cho việc vận chuyển hàng hóa, nông sản, vũ khí… từ Lào Cai sang Lai Châu thời kỳ Pháp thuộc. Theo thời gian, mặc dù bị cỏ cây mọc che bớt lối đi nhưng tuyến đường đá vẫn còn rộng chừng 3m và kéo dài hơn 20km xuyên qua những địa hình phức tạp. Sau hơn 100 năm gần như bị lãng quên, con đường đá cổ gần đây đã được khám phá trở lại và trở thành một trong hành trình khám phá thiên nhiên kỳ vĩ không thể bỏ qua của du khách khi đến với Lào Cai. NGUỒN: CƠ QUAN NGÔN LUẬN CỦA HỘI NHÀ BÁO VIỆT NAM
Lào Cai 3377 lượt xem
Đền Ngòi Bo nay thuộc xã Thống Nhất, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai. Hướng trông ra ngã ba sông – nơi giao thủy của suối Ngòi Bo và sông Hồng, ngôi đền là nơi thờ phụng Tản Viên Sơn Thánh – một trong Tứ bất tử của tín ngưỡng dân gian Việt, “là vị thần linh thiêng bậc nhất của trời Nam”. Theo lời kể của các bậc lão niên, những người quê gốc miền xuôi trong thôn khi đến đây và gắn bó với vùng đất này đã dựng miếu, đền thờ phụng Đức Thánh Tản Viên – vị Thánh được tôn thờ ở khắp vùng trung du và châu thổ Bắc Bộ với niềm tin kiền thành vào sự phù hộ, che chở của Ngài. Sự tin tưởng ấy chính là bệ đỡ, là điểm tựa tinh thần của những người con xa quê trên bước đường tạo dựng cuộc sống ở miền đất mới, đồng thời là sự nhắc nhớ, sự duy trì ký ức về quê hương bản quán, về nguồn cội cha ông. Lễ hội đền Ngòi Bo diễn ra vào ngày 11 tháng Giêng hằng năm. Đền Ngòi Bo được xếp hạng Di tích lịch sử – văn hóa cấp Tỉnh năm 2016./. NGUỒN: BAN QUẢN LÝ DI TÍCH THÀNH PHỐ LÀO CAI
Lào Cai 3174 lượt xem
Đền Quan tọa lạc tại phường Lào Cai, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai, là nơi ghi dấu cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông – Nguyên thế kỷ XIII. Tương truyền, vị trí dựng đền chính là nơi đặt trại giam quân của quân đội nhà Trần trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại ấy. Theo dòng thời gian, với sự đan bện giữa ký ức lịch sử, những suy tưởng mang tính huyền thoại và những khát vọng hiện thế, ngôi đền trở thành nơi thờ vọng Quan Đệ nhị Giám sát – một hình tượng huyền thoại, vị thánh linh thiêng trong thần điện tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ của người Việt. Theo các bản văn chầu: “Vốn xưa ông ở thiên đình Con vua Thượng Đế giáng mình dương gian Dù ai có lệnh kêu van Khấn ông Đệ nhị thọ khang yên lành Thiên tư chính trực thông minh Giáng đền giáng phủ anh linh muôn phần Chữ rằng Thánh giáng lưu ân Đa tài đa lộc thiên xuân thọ trường”. Tương truyền, ngày 11 tháng 11 âm lịch là ngày chính Tiệc của Ngài. Vào dịp này hằng năm, các thanh đồng, đạo quan, những người mến mộ tín ngưỡng Tam phủ, Tứ phủ cùng nhân dân và du khách muôn nơi lại tìm về những nơi đền, phủ, điện thờ để kính dâng lên Ngài nén tâm hương, cầu mong sự che chở, phù trợ của Ngài. Đền Quan được xếp hạng Di tích lịch sử – văn hóa cấp Tỉnh năm 2015./. NGUỒN: BAN QUẢN LÝ DI TÍCH THÀNH PHỐ LÀO CAI
Lào Cai 3602 lượt xem
Tọa lạc tại phường Bình Minh, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai, Đền Đôi Cô là nơi thờ phụng Đôi Cô Cam Đường – những vị nữ thần linh thiêng trong thần điện tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ. Tương truyền, các Cô vốn “Quê nhà ở đất xưa Đình Bảng/ Dòng nối dòng buôn bán vải tơ”. Vùng Cam Đường (nay thuộc thành phố Lào Cai) chính là nơi các Cô sau khi hóa đã hiển linh “Độ người trên bộ dưới sông/ Thuận buồm xuôi gió thong dong đi về”. Tưởng nhớ công ơn của tiền nhân, người dân trong vùng đã dựng miếu, đền, đời nối đời hương khói phụng thờ. Hằng năm, cứ vào ngày 13 tháng 9 âm lịch, chính quyền và nhân dân địa phương lại thành kính tổ chức khánh tiệc để bày tỏ lòng biết ơn đến các Cô, đồng thời để tôn vinh những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam, khẳng định tính dân tộc và nhân bản của tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ của người Việt, củng cố, làm bền chắc hơn nữa sự cố kết cộng đồng trên nền tảng sự chia sẻ niềm tin, ý thức hướng nguồn và lẽ đồng bào. Đền Đôi Cô Cam Đường được xếp hạng Di tích lịch sử – văn hóa cấp Tỉnh năm 2005./. NGUỒN: BAN QUẢN LÝ DI TÍCH THÀNH PHỐ LÀO CAI
Lào Cai 3437 lượt xem
Tương truyền cách đây hơn 700 năm, khi quân phương Bắc xâm chiếm nước ta, nơi đầu tiên phải hứng chịu sự tàn phá, quấy nhiễu của quân xâm lược là phố Bảo Thắng, châu Thủy Vĩ, tỉnh Hưng Hóa (nay là phường Lào Cai, thành phố Lào Cai). Khi đó, Quốc công Tiết chế Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn đã nhận lệnh triều đình cùng binh sĩ theo đường thủy (dọc sông Hồng) lên chiến đấu, dẹp giặc phương Bắc, giữ yên bờ cõi. Để tưởng nhớ và đền đáp công ơn dẹp tan quân xâm lược, năm 1940, nhân dân xã Vạn Hòa đã lập lên Đình làng tại thôn Cánh Chín, thờ vọng Đức Thánh Trần và làm nơi hội họp của nhân dân. Đến năm 1947, cũng tại Đình làng Cánh Chín, bộ đội địa phương chọn làm sở Chỉ huy. Năm 1954, nơi đây lại tiếp tục được chọn làm địa điểm tổ chức hội nghị quân dân chính Đảng đầu tiên của thị xã Lào Cai sau khi Lào Cai được giải phóng. Năm 1980, nhân dân trong vùng đã xây dựng riêng một gian miếu nhỏ để thờ vọng Đức Thánh Trần. Đến năm 2005, nơi đây đã được UBND thành phố Lào Cai quyết định tôn tạo nâng cấp đền Vạn Hòa. Bên cạnh ngôi đền là Nhà bia tưởng niệm ghi công ơn 49 liệt sĩ quê hương Vạn Hòa đã hi sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Hằng năm vào ngày rằm tháng Giêng và ngày 20/8 Âm lịch (ngày giỗ Đức Thánh Trần) nhân dân trong xã lại tổ chức lễ trọng tại đền Vạn Hòa để tưởng nhớ công lao người xưa. Đền Vạn Hòa ngày nay là một trong những di tích lịch sử văn hóa nằm trong quần thể di tích: Đền Thượng, đền Mẫu, đền Cấm, đền Đôi Cô, Khu căn cứ cách mạng Cam Đường, chùa Tân Bảo, chùa Cam Lộ. Nơi đây cũng là điểm đến hấp dẫn du khách trong chuỗi du lịch tâm linh Phú Thọ - Yên Bái – Lào Cai. Mỗi năm đón hàng trăm lượt khách tham quan, chiêm bái, góp phần không nhỏ vào sự phát triển của địa phương. Với những giá trị lịch sử, văn hóa to lớn đó, việc xếp hạng đền Vạn Hòa là di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh góp phần bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa gắn với phát triển du lịch, phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị của địa phương, đảm bảo an ninh, chính trị; giáo dục truyền thống, đáp ứng nhu cầu tâm linh của nhân dân. Nguồn “Báo Lào Cai điện tử”
Lào Cai 3463 lượt xem
Di tích lịch sử cách mạng đình Kim Bảng và hang lèn Cây Quýt thuộc thôn Kim Bảng, xã Minh Hóa (huyện Minh Hóa). Nơi đây gắn liền với những sự kiện lịch sử sôi động hào hùng của tỉnh Quảng Bình và của dân tộc trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp. Đặc biệt, nơi đây diễn ra sự kiện Đại hội đại biểu tỉnh Đảng bộ Quảng Bình lần thứ II vào ngày 19/5/1949. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Minh Hóa có vị trí chiến lược quan trọng, là căn cứ địa cách mạng của tỉnh Quảng Bình. Đình Kim Bảng là ngôi đình không rộng lắm nhưng nằm ở vị trí thuận lợi giữa một vùng đất khá rộng và bằng phẳng. Từ Kim Bảng, theo các con đường bí mật xuyên rừng có thể tỏa về các ngả, vì vậy, các đại biểu có thể đến dự đại hội mà vẫn được bảo đảm bí mật, an toàn. Cạnh đình Kim Bảng còn có các hang lèn như hang Quýt, hang Diêm rộng và sâu, có thể tổ chức cho vài trăm người hội họp phòng khi bất trắc. Với điều kiện đó, Huyện ủy Tuyên Hóa đã bố trí lấy lèn đá phía ngoài hang Diêm làm nơi đặt vọng gác bảo vệ vòng ngoài, đồng thời bố trí lực lượng dân quân du kích canh gác suốt ngày đêm trong thời gian diễn ra đại hội. Còn hang Quýt được chọn làm nơi trú ẩn hoặc có thể làm nơi tổ chức đại hội khi có sự cố xảy ra. Nhân dân ở đây giàu truyền thống cách mạng, một lòng đi theo Đảng, Bác Hồ…Chính vì vậy, chỉ trong thời gian ngắn, 4 ngôi nhà dã chiến bằng gỗ, tranh, tre, nứa,…đã được dựng lên quanh đình Kim Bảng để phục vụ cho đại hội. Đồng bào Minh Hóa không chỉ góp công mà còn dốc hết của từ trâu bò, lợn, gà đến ngô, sắn, rau quả…ủng hộ cho đại hội. Hàng chục cán bộ, du kích và nhân dân được cử đến phục vụ đại hội trong suốt 12 ngày (đại hội diễn ra trong 9 ngày và 3 ngày cho công tác chuẩn bị). Quanh khu vực đình Kim Bảng, 8 vọng gác được đặt trên điểm cao và cắt cử người canh giữ nghiêm ngặt. Nhờ đó, đại hội đã được bảo đảm bí mật, an toàn tuyệt đối, thậm chí đến 7 ngày sau khi đại hội bế mạc thì thực dân Pháp mới biết được, chúng điên cuồng cho máy bay đến thả bom, đốt cháy đình.Đại hội đại biểu tỉnh Đảng bộ Quảng Bình lần thứ II là một sự kiện vô cùng quan trọng trong lịch sử Quảng Bình. Nghị quyết do Đại hội thông qua đã đáp ứng kịp thời những đòi hỏi khách quan của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Quảng Bình. Đưa phong trào kháng chiến chuyển sang bước ngoặt lịch sử mới có ý nghĩa cực kỳ quan trọng không những với nhân dân trong tỉnh mà còn có ảnh hưởng tích cực đối với phong trào kháng chiến của cả nước. Di tích lịch sử cách mạng đình làng Kim Bảng và hang lèn Cây Quýt được xếp hạng cấp tỉnh theo Quyết định số 1088/Quyết Định -Uỷ Ban Thể Thao Du Lịch ngày 9-7-1999 của UBND tỉnh Quảng Bình. Đình Kim Bảng, hang lèn Cây Quýt với “Quảng Bình quật khởi”, ngày 15-7, đã trở thành ngày truyền thống lịch sử của Quảng Bình, trở thành phong trào thi đua vượt qua thử thách trong suốt chặng đường kháng chiến của nhân dân ta. Đình Kim Bảng được tiến hành xây dựng vào 1924 và hoàn thành vào năm 1925. Đình được làm bằng gỗ, mái lợp tranh, nền đất, đình gồm có đình Tiền và đình Hậu. Trong thời kỳ chống Pháp đình bị máy bay Pháp bắn cháy, sau đó đình được sửa lại làm trường học và nhà kho quốc phòng. Năm 1966, đình lại bị máy bay Mỹ ném bom Napan cháy toàn bộ. Hiện nay, đình được tỉnh cấp kinh phí khôi phục lại đình trên nền đất cũ của đình làng. Năm 2004, đình được phục hồi và tu bổ, tôn tạo, trở thành một điểm đến ý nghĩa cho du khách và nơi sinh hoạt văn hóa, giáo dục truyền thống yêu nước và cách mạng cho các thế hệ. Hang lèn Cây Quýt nằm cách đình Kim Bảng khoảng 500m; có chiều cao trung bình khoảng 3m; rộng 15,5m; chiều sâu của hang 22m; cửa hang rộng 10m. Hang lèn Cây Quýt được sử dụng trong những ngày diễn ra Đại hội II tháng 5 năm 1949. Cũng tại hang lèn Cây Quýt tháng 9 năm 1964 đã diễn ra Hội nghị quân chính của sư đoàn 325A an dưỡng để ổn định tổ chức chuẩn bị vào Nam chiến đấu. Năm 1968, huyện tổ chức mừng công bắn rơi chiếc máy bay thứ 3.000 của Mỹ trên miền Bắc; Hang lèn Cây Quýt cũng là nơi cất giấu 400 tấn lương thực trong những năm chiến tranh chống Mỹ. Đặc biệt, hang lèn Cây Quýt vừa là di tích khảo cổ được M.cô-la-ni một nhà khảo cổ học người Pháp thuộc trường Viễn đông Bác cổ Hà Nội trước đây khai quật và nghiên cứu. Nguồn Cổng thông tin điện tử xã Minh Hóa , huyện Minh Hóa , tỉnh Quảng Bình.
Quảng Trị 3392 lượt xem
Đình Lý Hòa thuộc xã Hải Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình. Đình nằm trên một vùng đất cao giữa làng, với địa thế đẹp, thoáng mát. Cách quốc lộ 1A theo đường bờ sông về phía Đông Bắc chừng 1 km, đình hướng về phía Nam, trước mặt là con sông Lý hiền hòa chảy xuôi ra biển. Đình Lý Hòa được xây dựng năm 1737, do dân làng cùng nhau góp công, góp của. Mới đầu đình chỉ có 4 trụ bằng lim, hàng năm khi tế lễ nhân dân mới dựng lên lợp tranh, khi tế lễ xong lại hạ xuống xếp lại. Vị thần được thờ trong đình làng “Cương khẩu Đại vương”, một vị thần giữ cửa biển Cương Gián được thờ ở đình làng Cương Gián (Nghi Xuân - Nghệ An) - Gia phả các dòng họ ở Lý Hòa đều ghi các vị thần tổ ở làng Cương Gián - xứ Nghệ vào. Năm 1804 - 1808 khi Hội đồng hương Lý vững mạnh, thì nhân dân quyên góp để làm, mái đình được lợp bằng ngói vảy, phần hậu chẩn chỉ để giữ thờ. Sau đó dựng thêm đình trung. Năm 1824 xây cất thêm phần ngoài, hai gian cũ để thờ đồ tử khí. Theo phần phả để lại thì trong cùng “tứ trụ” gồm 4 vị thần: Thiên Yana, Hạnh Tiểu Nương và hai nàng công chúa con Thiên Yana (dân gọi là tứ vị đại càn). Đình giữa thờ thành hoàng và thờ vọng các vị thần có miếu dinh trong làng. Ngoài cùng thờ thập nhị gia tiên (tiên tổ 12 họ) có sắc bằng của vua. Nói đến làng Lý Hoà, không ai lại không biết đến dòng họ Nguyễn Duy, một dòng họ trong nhiều đời kế tục đỗ đạt làm quan to, được kính trọng. Trong thời kỳ nhà Nguyễn, kể từ năm Minh Mạng thứ 10 mở đại khoa đầu tiên cho đến khoa thi cuối cùng 1919, dòng họ Nguyễn Duy ở làng Lý Hòa đã đóng góp 5 vị đại khoa (tiến sĩ). Đó là trường hợp có một không hai trong lịch sử khoa cử Việt Nam thời phong kiến. Đình Lý Hòa ngoài việc thờ tự các vị tổ khai cơ làng, khai cơ nghề nghiệp cho con cháu, thờ tự các danh khoa danh giá của làng, còn gắn liền với các sự kiện lịch sử tiêu biểu của địa phương, của tỉnh trong thời kỳ tiền khởi nghĩa giành chính quyền ở huyện lỵ, trong thời kỳ chống thực dân Pháp xâm lược nước ta đặc biệt là trong cuộc chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ. Những ngày đầu chuẩn bị cho việc vận động quần chúng, tập hợp lực lượng trong mặt trận Việt Minh để cùng địa phương tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền. Đình Lý Hòa là nơi các chiến sĩ cách mạng đã cất dấu tài liệu và đi lại bắt liên lạc, nhóm họp để trao đổi các chủ trương lớn của cấp trên. Ngày 23/8/1945, cả làng đã hội tụ tại đình, đổ về huyện đường. Cùng các địa phương trong huyện làm nên cuộc khởi nghĩa cách mạng tháng Tám giành chính quyền ở huyện lỵ thắng lợi. Trong cuộc chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ. Đình Lý Hòa nói riêng, làng Lý Hòa nói chung là một trong những nơi đánh phá cực kỳ dã man của giặc Mỹ. Địch đánh từ trên trời xuống, từ biển vào.v.v... Các thế hệ, các lớp thanh niên của làng trước khi lên đường nhập ngũ đều tập trung tại đình để được nhắc nhở phát huy truyền thống cha ông, sống xứng đáng với tổ tiên đã tạo dựng ra nền văn hóa tinh thần, văn hóa vật chất và quyết tâm bảo vệ quê hương đất nước, trong những năm tháng chiến tranh quyết liệt, làng Lý Hòa vinh dự được các đồng chí Võ Nguyên Giáp, Đồng Sĩ Nguyên, Lê Quang Hoà... khi vào chiến trường đều ghé thăm. Đình Lý Hòa cũng như làng Lý Hòa nói chung bị đánh đi đánh lại nhiều lần, đình bị bom Mỹ tàn phá, nhưng làng còn là đình còn. Nhân dân địa phương vẫn kiên trì bám trụ, một tấc không đi, một ly không rời, bám làng bám quê hương. Chắc tay chèo tay súng, hưởng ứng khẩu hiệu: “xe chưa qua nhà không tiếc, đường chưa thông không tiếc máu tiếc xương”. Những cột đình bị sập, bị gãy, cùng với nhà cửa, nhân dân tháo dỡ để phục vụ cho những chuyến xe qua, đảm bảo giao thông, đảm bảo mạch máu vì miền Nam ruột thịt. Những chiến sĩ bị thương, những đoàn an dưỡng đều dừng chân tại đình để sau đó ra Bắc, vào Nam. Từ ngày hòa bình lập lại đến nay, đình làng thành nơi hội họp, nơi sinh hoạt văn hóa, là trung tâm chính trị, xã hội của cộng đồng làng xã, nơi các thế hệ con cháu tìm hiểu thêm quá khứ rực rỡ của tổ tiên, nâng cao lòng tự hào và trách nhiệm của mỗi người đối với quê hương làng xóm. Đình Lý Hòa có giá trị lịch sử kiến trúc nghệ thuật tiêu biểu, là nơi thờ tự các vị tổ có công khai sáng làng và các nghề đặc trưng của làng biển (việc tế lễ của đình ngoài hai kỳ Xuân - Thu, mỗi năm có đại trường câu, có việc của làng, ngày tết. Ngoài ra cứ 6 năm có một kỳ tế lễ thành hoàng rất long trọng). Đình Lý Hòa là hiện thân của bản sắc văn hóa làng quê Việt Nam cùng với biết bao giá trị văn hóa đáng được bảo tồn. Hơn nữa đình còn gắn liền với những sự kiện lịch sử tiêu biểu của địa phương, của tỉnh, đặc biệt từ năm 1945 đến nay. Đình còn là một công trình mang biểu tượng lịch sử văn hóa, là nơi sinh hoạt văn hóa của làng biển Lý Hoà. Nơi giáo dục phát huy truyền thống hiếu học, lòng yêu quê hương đất nước cho các thế hệ hôm nay và mai sau. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình
Quảng Trị 3540 lượt xem
Cây đa đền Thượng thuộc giống đa lông. Thời điểm được công nhận, cây được xếp vào cây di sản có chu vi toàn bộ thân cây lớn nhất Việt Nam, với chu vi 44m, cao hơn 36m, có tuổi đời trên 300 năm. Đến nay, cây đã phát triển thêm rất nhiều rễ phụ và hàng nghìn rễ con bao bọc xung quanh. Rất khó phân biệt đâu là thân chính, đâu là rễ phụ, bởi theo thời gian, các rễ phụ đã phát triển, gắn chặt vào nhau thành cụm rễ khổng lồ không khác gì thân chính. Cùng với chế độ chăm sóc cây di sản theo quy định của Nhà nước, cây đa cổ thụ ở đền Thượng luôn được người dân bảo vệ. Mỗi năm cây ra rất nhiều rễ nhưng không ai bẻ cành, ngắt rễ hoặc trèo leo. Cây có nhiều tầm gửi, nhiều gốc phong lan bám chặt trên những cành cao, rễ lớn càng tô thêm vẻ đẹp cổ kính và tự nhiên. Thời điểm được công nhận là “Cây di sản Việt Nam”, cây đa ở đền Thượng là cây cổ thụ đầu tiên của tỉnh được Hội Bảo vệ thiên nhiên và Môi trường Việt Nam công nhận là Cây di sản Việt Nam. Cây sừng sững, hiên ngang, vươn cao ngay bên bờ sông Nậm Thi, cạnh đền Thượng - nơi thờ Quốc công Tiết chế Hưng Đạo Vương - Trần Quốc Tuấn, người có công to lớn trong sự nghiệp bảo vệ bờ cõi, non sông đất nước, trở thành niềm tự hào của người dân nơi mảnh đất biên cương - Lào Cai. Nguồn “Báo Lào Cai điện tử”
Lào Cai 3814 lượt xem