Khu di tích lịch sử Công an nhân dân Việt Nam (Di tích Nha Công an Trung ương) tại thôn Đồng Đon, xã Minh Thanh (Sơn Dương) là một phần thuộc Di tích lịch sử Quốc gia đặc biệt Tân Trào, nơi ở và làm việc của Nha Công an Trung ương từ tháng 4-1947 đến tháng 9-1950. Trước đây, toàn bộ nhà ở và làm việc của các bộ phận trong Nha Công an Trung ương được phân bố trên 2 quả đồi lớn, thường được gọi là đồi A và B. Hai quả đồi này nằm liền nhau và sát cánh đồng Lũng Cò. Từ đây có thể quan sát được cả một vùng rừng núi, xóm làng rộng lớn thuận tiện cho việc đi lại hội họp. Phía sau hai quả đồi có núi Đền bao bọc, địa thế kín đáo và hiểm yếu rất thuận lợi cho việc bảo vệ. Nơi đây đã chứng kiến những bước trưởng thành của toàn lực lượng, nơi Nha công an Trung ương ra những chỉ thị, nghị quyết quan trọng, nơi diễn ra những sự kiện lịch sử có ý nghĩa hết sức lớn lao đối với CAND. Quảng trường 19 tháng 8 được đặt tên theo ngày truyền thống CAND. Nổi bật trước Quảng trường là cờ Tổ quốc và cờ Đảng được xây dựng bằng đá tự nhiên với thế dựa vào núi vững chắc, thể hiện cho ước vọng đất nước, Đảng mãi trường tồn. Để tỏ lòng tri ân và giáo dục truyền thống đối với các thế hệ cán bộ CAND, Đảng ủy Công an Trung ương, lãnh đạo Bộ Công an đã cho khắc tên của 13.689 liệt sĩ lên bia ghi danh phía sau của hai lá cờ. Tượng đài “Bảo vệ an ninh tổ quốc”, toạ lạc trên đỉnh đồi B, vị trí trung tâm khu di tích, tượng có trọng lượng hoàn thiện là 420 tấn. Đây là công trình văn hoá độc đáo không chỉ có giá trị về mặt lịch sử, nội dung mà còn có giá trị về nghệ thuật, kiến trúc, điêu khắc... Quần thể tượng đài rộng gần 3.000 m2, làm hoàn toàn bằng đá tự nhiên với trung tâm là Tượng đài “Bảo vệ an ninh tổ quốc” được làm bằng đá granite nguyên khối, có chiều cao 21,6 m, đường kính lớn nhất là 4,5 m, hướng về Thủ đô Hà Nội. Tượng đài gồm 5 nhân vật đại diện cho các lực lượng tham gia bảo vệ an ninh tổ quốc. Trên đỉnh là lá cờ Tổ quốc, cờ Đảng cùng thanh bảo kiếm hướng lên trời cao. Phía sau của Tượng đài là bức phù điêu bằng đá granit đỏ, khắc họa 39 sự kiện bằng hình ảnh được chọn lọc tiêu biểu nhằm thể hiện một cách khái quát nhất các hoạt động nổi bật trong chiến đấu, xây dựng, trưởng thành của lực lượng CAND cùng với toàn dân trong sự nghiệp bảo vệ an ninh Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Bức phù điêu là một công trình văn hoá tiêu biểu, độc đáo tôn vinh quá trình hình thành và phát triển ngành công an nhân dân Việt Nam. Nhìn từ xa có thể thấy bức phù điêu như một áng mây đang toả hào quang rực rỡ. Với mục đích giáo dục truyền thống vẻ vang của ngành đối với mỗi cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng Công an nhân dân, năm 2010 cùng với việc xây dựng bức Phù điêu, lãnh đạo Bộ Công an đã quyết định cho khắc tên của 630 tập thể và 336 cá nhân được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân thuộc lực lượng CAND lên bảng vàng phía sau của bức phù điêu. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Tuyên Quang
Tuyên Quang 4164 lượt xem
Khu di tích Nhà ở và Hầm an toàn của đồng chí Tôn Đức Thắng nằm ở thôn Chi Liền, (nay là thôn Đồng Ma), xã Trung Yên, huyện Sơn Dương. Nơi đồng chí Tôn Đức Thắng quyền Trưởng Ban Thường trực Quốc hội, Chủ tịch Mặt trận Liên Việt sinh hoạt và làm việc từ cuối năm 1952 đến năm 1954. Ngôi nhà nằm bên cạnh dòng sông Phó Đáy, xung quanh cây cối um tùm tươi tốt, giúp cho việc đưa thông tin liên lạc bí mật giữa các nơi trong vùng thuận lợi. Đây là ngôi nhà sàn bằng gỗ, có 2 gian ngăn dọc, mái lợp lá cọ. Gian ngoài của nhà là nơi làm việc và tiếp khách; gian trong là nơi Bác nghỉ ngơi. Sát nhà ở của Bác Tôn là Hầm an toàn được đào sâu vào sườn núi Chi Liền khoảng 10m, đào sang ngang 10m, có 2 cửa thông 2 chiều. Đây là 2 di tích tiêu biểu trong những di tích lịch sử cách mạng đã từng gắn liền với cuộc đời hoạt động cách mạng của đồng chí Tôn Đức Thắng tại Tuyên Quang trong thời kỳ gian khổ của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Khu di tích Kim Quan cách thị xã Tuyên Quang hơn 40 km về phía đông, trải rộng trong khu rừng Nà Lơi và Vực Nhù, thôn Khuôn Điền, xã Kim Quan, huyện Yên Sơn. Dòng sông Phó Đáy bao bọc khu rừng vừa thuận tiện giao thông, sinh hoạt vừa đảm bảo bí mật. Khu văn phòng Trung ương Đảng cách Văn phòng Chính phủ 200m về phía Đông Bắc. Ở đây, có hội trường, nhà đồng chí Tổng bí thư Trường Chinh, nhà đồng chí Hoàng Quốc Việt, Lê Văn Lương và các bộ phận của Văn phòng Trung ương: điện đài, văn thư, thư viện, bộ đội bảo vệ. Địa điểm Vực Nhù nơi Bác ở và làm việc. Nhà của Bác là nhà sàn dựng trên sườn núi. Cách nhà sàn không xa là hầm trú ẩn. Nhà nối với hầm bằng đường hào chữ chi. Toàn bộ nhà làm việc, nhà ở, hội trường đều bằng gỗ, tre, nứa, lá… các hầm trú ẩn đều đào sâu trong lòng núi, được lát gỗ cả bốn mặt. Riêng căn hầm khu văn phòng Trung ương Đảng có một đoạn lộ thiên ở phần ngoài, phần này có ụ đất cao, tạo lối vào hầm hình chữ chi. Kim Quan còn là nơi Bác Hồ, Trung ương Đảng, Chính phủ tiếp khách quốc tế. Cũng từ đây Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Văn Đồng đi dự hội nghị Giơ-ne-vơ. Khu di tích đã được Bộ Văn hoá- Thông tin xếp hạng là di tích Quốc gia. Nguồn: Hiệp hội lữ hành Việt Nam
Tuyên Quang 4254 lượt xem
Theo cuốn sách Di tích lịch sử - lưu niệm về Chủ tịch Hồ Chí Minh trên đất Tuyên Quang do Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Tuyên Quang xuất bản năm 2010, hang Bòng, thôn Bòng, xã Tân Trào (Sơn Dương) là nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ở lâu nhất trong kháng chiến. Từ căn lán nhỏ đơn sơ trước cửa hang Bòng, Bác Hồ đã ký nhiều sắc lệnh quan trọng, chủ trì nhiều cuộc họp quan trọng của Chính phủ, viết báo, làm thơ. Những ngày ở đây, Bác đã sống một cuộc sống giản dị, thanh bạch, luôn dành sự quan tâm, yêu thương cho mọi người. Tại hang Bòng, Bác Hồ đã ở và làm việc 3 lần: Lần thứ nhất từ tháng 5-1951 đến tháng 12-1951, lần thứ hai từ tháng 1 đến tháng 4 năm 1952, lần thứ ba từ tháng 6 đến cuối năm 1952. Tại lán hang Bòng, dù bận trăm công ngàn việc nhưng Bác vẫn dành thời gian chơi với các cháu thiếu nhi, tăng gia sản xuất, luyện tập thể thao. Hàng ngày, Bác vẫn ra sông Phó Đáy tắm, khi về không quên mang theo vài viên đá nhỏ xếp vào các bậc đường đi để những hôm trời mưa đỡ trơn. Nhiều câu chuyện cảm động về phẩm chất cách mạng sáng ngời, tình thương yêu của Bác dành cho cán bộ, chiến sỹ và nhân dân nơi đây vẫn được kể lại. Từ hang Bòng, Chủ tịch Hồ Chí Minh lên đường đến địa điểm họp Bộ Chính trị mở rộng dự kiến diễn ra vào ngày 25 tháng 5 năm 1951. Trời mưa to, nước suối dâng cao, Người đã bơi qua suối và dầm mưa đến dự hội nghị. Cũng tại đây, Bác Hồ đã nhường chăn và đắp cho cán bộ khỏi rét giữa đêm đông giá lạnh, nhường cơm cho cán bộ ăn cho khỏi đói và bảo cán bộ ngủ lại lán cho khỏi mệt. Chính tình thương bao la của Bác đã thúc giục những cán bộ được sống gần Bác vượt qua mọi khó khăn, gian khổ để hoàn thành các nhiệm vụ được giao trong kháng chiến và mãi mãi sau này. Lán hang Bòng cũng là nơi Bác đã viết nhiều bài báo, bài viết về công tác tự phê bình và phê bình, phòng chống bệnh quan liêu, tham ô, lãng phí. Ba lần Chủ tịch Hồ Chí Minh sống và làm việc ở lán hang Bòng, Người làm việc say sưa, hăng hái, không ngơi nghỉ. Nhiều mệnh lệnh, chỉ thị đã được phát ra, truyền đi trên toàn quốc, dẫn dắt cách mạng vững bước đi lên. Những quyết định quan trọng đã làm thay đổi cục diện chiến trường, quan hệ ngoại giao được xây dựng và củng cố, đưa vị thế chính trị của Việt Nam lên tầm cao mới, công tác tài chính, tiền tệ được chú trọng để tạo sức mạnh cho nền kinh tế kháng chiến. Cũng từ đây, Người lên đường đi công tác nước ngoài, ra mặt trận chỉ đạo chiến dịch. Nguồn: Báo Tuyên Quang online
Tuyên Quang 3952 lượt xem
Đình Hồng Thái trước năm 1945 còn có tên là đình Kim Trận thuộc thôn Hồng Thái, xã Tân Trào, đình được dựng lên nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hoá, tín ngưỡng của cộng đồng và là nơi hội họp, bàn bạc những công việc chung của làng. Tháng 3 năm 1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là đồng chí Chu Quý Lương, nhân dân Kim Trận đứng lên khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền. Sau khi giành được chính quyền, nhân dân họp bàn và quyết định đổi tên làng. Đồng bào đã lấy tên liệt sỹ Phạm Hồng Thái đặt làm tên xã mình và đình Kim Trận cũng mang tên đình Hồng Thái từ đó. Đình Hồng Thái được dựng theo thuật phong thuỷ từ ngàn xưa để lại, đó là thế: "đất tụ thuỷ, nước tụ hội". Trên thực tế, đình được đặt theo hướng nam lấy núi Thia làm án đình, phía trước là dòng sông Phó Đáy, trước cửa đình có một khoảng sân rộng có nhiều cây cổ thụ như: cây đa, cây gạo… Đình được cất dựng năm thứ 4 của triều Khải Định, tức năm 1919. Đình có kiến trúc thuần gỗ, mái lợp lá cọ. Nhìn về tổng thể, đình có dáng dấp một ngôi nhà sàn miền núi, gồm có ba gian, hai chái. Hai gian hai bên dùng làm nơi hội họp và ăn uống, 3 gian chính giữa dùng làm nơi cúng tế. Phía trên gian giữa có một sàn lửng, chia làm hai phần: phần thượng cung dùng để đồ cúng tế, phía trong là vọng cung là nơi để đồ tế khí. Không giống như đình ở miền xuôi, đình Hồng Thái có kiến trúc rất đơn giản. Nổi bật lên là các chữ triện tô mực đen ở các đầu dư. Ngoài ra, ở gian giữa ta còn thấy hình tượng 6 con tắc kè bám ở 6 cột. Ngoài giá trị về mặt kiến trúc, trang trí, đây còn là một trong những tín ngưỡng nông nghiệp của đồng bào, bởi đồng bào tin rằng tắc kè là con vật có khả năng dự báo được thời tiết mưa hay nắng, để từ đó người ta có thể tính được thời gian trồng cấy mùa vụ. Đình Hồng Thái thờ các vị sơn thần xung quanh vùng. Ngoài ra, đình còn thờ một vị nhân thần là Ngọc Dung công chúa. Hàng năm, dân làng ở đây tổ chức nhiều lễ cúng bái tại đình, các ngày lễ dựa vào mùa vụ trong năm. Ngày 4/5/1945, Bác Hồ từ Pắc Bó, Cao Bằng về Tân Trào. Đình Hồng Thái là nơi dừng chân đầu tiên khi Người đến Tân Trào. Tháng 8 năm 1945, phong trào cách mạng phát triển mạnh mẽ, khí thế giành chính quyền đang hừng hực khắp nơi. Bác và Trung ương Đảng đã quyết định triệu tập Hội nghị cán bộ toàn quốc của Đảng tại đình Tân Trào. Đình Hồng Thái được chọn làm nơi đón tiếp các vị đại biểu về dự Đại hội. Tất cả các vị đại biểu trước khi vào Tân Trào đều phải xuất trình giấy tờ tại đình Hồng Thái. Sau khi cách mạng tháng Tám thành công, Bác Hồ và Trung ương Đảng chuyển về Hà Nội. Đất nước ta hòa bình chưa được bao lâu, thực dân Pháp bội ước quay trở lại xâm chiếm nước ta một lần nữa. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, quê hương cách mạng Tân Trào lại được đón Bác, Trung ương, Chính phủ về đây để chỉ đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Trong thời kỳ kháng chiến, đình Hồng Thái trở thành trụ sở của Ban bảo vệ an toàn khu. Mọi người muốn vào các cơ quan Trung ương công tác đều phải qua đình Hồng Thái, xuất trình giấy tờ, có chữ ký của người phụ trách thì mới được vào an toàn khu. Ngoài ra, đình Hồng Thái là nơi làm việc của bộ phận Tiếp tế ATK trong thời gian kháng chiến. Sau khi bộ phận này chuyển đi thì nhiều đơn vị bộ đội về đóng quân tại đình Hồng Thái để huấn luyện các đơn vị bộ đội. Nguồn: Trung tâm xúc tiến du lịch Tuyên Quang
Tuyên Quang 4370 lượt xem
Đình Tân Trào thuộc thôn Tân Lập, xã Tân Trào, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Trước đây đình có tên là Kim Long, được xây dựng vào năm Tự Đức thứ 6 (1853). Đình Tân Trào được Bác Hồ và Trung Ương Đảng chọn làm nơi tổ chức họp Quốc Dân Đại Hội trong 2 ngày 16 và 17/8/1945, sự kiện lịch sử trọng đại tạo tiền đề cho cách mạng tháng tám thành công. Đình Tân Trào là một ngôi đình thờ Thành Hoàng và các vị thần sông, thần núi của làng Tân Lập. Đình được dựng vào năm Quý Hợi (1923) theo kiểu nhà sàn, cột gỗ 3 gian 2 chái, mái lợp lá cọ. Dưới mái đình này, ngày 16 tháng 8 năm 1945, các Đại biểu trên khắp mọi miền Tổ quốc đã về họp Quốc dân Đại hội. Tại đây, các Đại biểu đã tán thành chủ trương tiến hành Tổng khởi nghĩa của Đảng, thông qua Lệnh khởi nghĩa và 10 chính sách lớn của Việt Minh, quy định quốc kỳ là lá cờ đỏ sao vàng, quốc ca là bài Tiến quân ca và cử ra Uỷ ban Giải phóng Dân tộc Việt Nam tức Chính phủ Lâm thời do đồng chí Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Sáng ngày 17 tháng 8 năm 1945 thay mặt Uỷ ban Dân tộc giải phóng Việt Nam, Bác Hồ đã đọc lời thề thiêng liêng trong lễ ra mắt Quốc dân tại nơi đây. Thực hiện lệnh Tổng khởi nghĩa, với tinh thần quật cường của Quốc dân Đại hội Tân Trào, cả nước đã tiến hành tổng khởi nghĩa giành chính quyền thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Quốc dân Đại hội Tân Trào là một sự kiện trọng đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam, là “Hội nghị Diên Hồng” lần thứ hai trong lịch sử dân tộc ta. Quốc dân Đại hội Tân Trào chính là tiền thân của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sau này là Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 10 chính sách của Việt Minh cũng chính là tiền đề của bản Hiến pháp đầu tiên của đất nước ta. Đình Tân Trào là địa chỉ đỏ trong hành trình về nguồn, là nơi giáo dục truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc. Nguồn: Đài phát thanh truyền hình Tuyên Quang
Tuyên Quang 3857 lượt xem
Di tích cây đa Tân Trào ở thôn Tân Lập, xã Tân Trào, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Cây đa Tân Trào là một biểu tượng lịch sử của thôn Tân Lập, nơi đã diễn ra những sự kiện quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc Việt Nam. Cây đa này không chỉ là vị thần bảo hộ cho người dân nơi đây mà còn là một nhân chứng sống cho những ngày tháng hào hùng của quân và dân Tân Trào. Dưới gốc đa Tân Trào, chiều ngày 16 tháng 8 năm 1945, Đại tướng Võ Nguyễn Giáp đã đọc bản Quân lệnh số 1, ngay sau đó quân Việt Nam Giải phóng đã làm lễ xuất quân tiến về giải phóng Thủ đô Hà Nội trước sự chứng kiến của toàn thể đồng bào các dân tộc Việt Bắc và 60 đại biểu toàn quốc. Từ đó cho đến nay, cây đa Tân Trào đã trở thành một biểu tượng cách mạng của Thủ đô Khu giải phóng Tuyên Quang. Cây đa Tân Trào có hai nhánh cây cao vút được người dân gọi là cây đa ông và cây đa bà. Cả hai cây nằm cách nhau 10mm và rất sum suê cành lá. Trải qua nhiều biến cố của lịch sử, cây đa dần già đi và suy yếu. Năm 1993, do ảnh hưởng của một trận bão, “cây đa ông” bị đổ, chỉ còn lại một nhánh nhỏ. Còn “cây đa bà” không tránh khỏi được quy luật “sinh tử”, dần có những dấu hiệu xấu, lá ngả vàng, một số ngọn bị chết. Đến năm 2008, cây đa Tân Trào chỉ còn sót lại duy nhất một cành hướng Đông Bắc của “cây đa bà” còn sống nhưng là phát triển không tốt, phần rễ chính của cây gần như đã chết. Trước tình hình cấp bách đó, chính quyền địa phương đã phối hợp với các tổ chức, doanh nghiệp đưa ra các phương án chăm sóc và hồi sinh cho cây đa Tân Trào. Bằng nhiều nỗ lực, sau 2 năm cây đa Tân Trào đã dần phục hồi, xuất hiện thêm nhiều chồi non, báo hiệu sự sống sẽ nảy nở mạnh mẽ. Và cho đến ngày nay, “cây đa bà” đã phát triển thành 2 cụm rễ gồm 38 rễ lớn nhỏ, tán rộng tỏa bóng xanh mát. Nhánh nhỏ của “cây đa ông” cũng đã phục hồi và phát triển thành cụm cây mới tươi tốt. Di tích cây đa Tân Trào nằm trong khu di tích quốc gia đặc biệt Tân Trào của tỉnh Tuyên Quang. Nguồn: Du Lịch Tuyên Quang
Tuyên Quang 5491 lượt xem
Lán Nà Nưa (còn gọi là lán Nà Lừa) ở thôn Tân Lập, xã Tân Trào, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Đây là nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh ở và làm việc từ cuối tháng 5/1945 đến ngày 22/8/1945 để chuẩn bị và lãnh đạo cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945. Ngày 21/5/1945, sau 18 ngày đêm xuyên rừng, bất đầu từ Khuổi Nậm- Pác Bó (Cao Bằng), Bác Hồ về tới Tân Trào, huyện Sơn Dương (Tuyên Quang) để chuẩn bị cho cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám 1945. Điểm dừng chân đầu tiên của Bác khi tới Tân Trào là đình Hồng Thái. Sau khi nắm sơ bộ tình hình, địa thế dự kiến nơi đặt “đại bản doanh” của Trung ương, Bác Hồ và các cán bộ cùng đi vượt sông Phó Đáy vào thôn Tân Lập, xã Tân Trào. Ban đầu Bác Hồ đến ở nhà ông Nguyễn Tiến Sự, Chủ nhiệm Việt Minh của xã, nằm ở trung tâm thôn Tân Lập. Cuối tháng 5 năm 1945, Bác Hồ chuyển ra ở căn lán nhỏ trong khu rừng Nà Nưa, thuộc dãy núi Hồng. Lán Nà Nưa nằm kín đáo dưới các tán cây rậm rạp, bảo đảm bí mật và đáp ứng được yêu cầu của Bác đề ra: Gần nước, gần dân, xa quốc lộ, thuận đường tiến, tiện đường thoái. Lán cách làng Tân Lập hơn 500 mét về hướng đông, cách lán chừng 80 mét là con đường mòn qua đèo De, sang Phú Đình- Định Hóa (Thái Nguyên); phía trước lán, dưới chân rừng Nà Nưa là dòng suối Khuôn Pén. Tại căn lán nhỏ, đơn sơ trong rừng Nà Nưa, Bác Hồ đã ở, làm việc từ cuối tháng 5 đến ngày 22/8/1945. Lán Nà Nưa được dựng theo kiểu nhà sàn của người miền núi, quay theo hướng đông tây, có 6 cột gỗ chôn xuống đất, không có vì kèo, mái lợp lá cọ, lán dài 4,20 mét, rộng 2,70 mét, chia làm 2 gian nhỏ (có vách ngăn giữa 2 gian): Gian ngoài rộng 1,97 mét, dài 2,70 mét là nơi Bác Hồ làm việc và tiếp khách; gian phía trong rộng 2,10 mét, dài 2,70 mét là nơi Bác nghỉ ngơi. Xung quanh lán được thưng bằng vách nứa đan nong mốt, nửa phía trên vách đan để chừa những ô thoáng nhỏ để lấy ánh sáng. Ở chái phía tây có sàn (người Tày gọi là thích) để hai ống bương (bắng) nước. Mặt sàn bằng phên nứa đan nong mốt. Phía dưới, đầu sàn của lán là phiến đá rộng và phẳng, nơi Bác thường ngồi làm việc, đánh máy chữ mỗi khi trời tối. Tại lán Nà Nưa, Bác Hồ đã chỉ thị: Vùng giải phóng đã bao gồm 6 tỉnh (Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên) địa thế nối liền với nhau nên thành lập khu căn cứ, lấy tên là Khu giải phóng; các lực lượng vũ trang sau khi thống nhất lại, lấy tên chung là Quân giải phóng; triệu tập Hội nghị cán bộ toàn khu để thống nhất lãnh đạo và triển khai công tác. Chấp hành chỉ thị của Bác, ngày 4/6/1945, Tổng bộ Việt Minh triệu tập Hội nghị cán bộ toàn khu. Hội nghị đã quyết định thành lập Khu giải phóng, thống nhất các lực lượng vũ trang thành Quân giải phóng; đề ra 10 chính sách lớn của Việt Minh...Tân Trào được chọn làm “Thủ đô của Khu giải phóng”, trở thành trái tim của cách mạng Việt Nam. Từ căn lán nhỏ Nà Nưa - từ Tân Trào mọi chỉ thị, nghị quyết về phương châm, đường lối, sách lược của Đảng nhằm đẩy mạnh cuộc Tổng khởi nghĩa được truyền đi khắp cả nước. Để bảo tồn giá trị đặc biệt của di tích, năm 1972, di tích lán Nà Nưa đã được phục dựng lại tại địa điểm căn lán cũ. Năm 2009, lán Nà Nưa tiếp tục được tu bổ; đồng thời phục dựng hệ thống các di tích: Lán họp Hội nghị cán bộ toàn quốc của Đảng (cách lán của Bác 20m về phía tây bắc), lán cảnh vệ (cách lán của Bác,30m về phía tây), lán điện đài (cách lán của Bác, 30m về hướng nam), lán Đồng minh (cách lán của Bác, khoảng 40m về hướng bắc). Lán Nà Nưa, là một trong số 138 di tích, cụm di tích trong khu di tích lịch sử Tân Trào được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là di tích Quốc gia đặc biệt, ngày 10/5/2012. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Tuyên Quang
Tuyên Quang 3841 lượt xem
Di tích Đồn Pháp và tường thành Lũng Hồ thuộc thôn Làng Quá, xã Lũng Hồ, huyện Yên Minh, tỉnh Hà Giang. Đồn và tường thành là hai khu vực riêng biệt và nằm cách nhau khoảng 2km, độ cao 742m so với mực nước biển, Di tích Đồn Pháp và tường thành Lũng Hồ cách thành phố Hà Giang 106 km về phía Bắc. Theo tài liệu của Pháp, năm 1907 vùng đất Đường Thượng thuộc tổng Đông Minh, xã Yên Minh, tỉnh Hà Giang. Trong chuyến đi thị sát các vùng Đại Miên, Tiểu Miện, Yên Minh, Yên Định, Du Già, Đường Thượng của Trung tá Boifacy chỉ huy đạo quan binh thứ 3, trong báo cáo số 1165, tháng 9/1913 vùng đất này “cần được theo dõi và chính vì thế mà phải có đồn Đường Thượng…” Sau chuyến thị sát này công việc lên kế hoạch xây dựng đồn bốt mới dần được tiến hành. Đồn bốt Đường Thượng cũ nay là đồn Lũng Hồ được xây dựng và hoàn thiện từ những năm 1935 - 1940. Công việc xây dựng đồn bốt vô cùng vất vả, chúng đã bắt dân chúng khu vực xung quanh làm phu phen, tạp dịch, vác đá, lấy nước để xây dựng, ai không tuân theo bị chúng đánh đập hoặc bắn chết. Tường thành: Tường thành cách đồn gần 2km được bố trí dựa vào điều kiện tự nhiên theo triền núi hai bên con đường độc đạo nối giữa Lũng Hồ và Yên Minh với mục đích kiểm soát hàng hoá, người ngựa trên khu vực này, báo động sẽ liên lạc về đồn cách đó khoảng 2km. Vật liệu chủ yếu để xây dựng tường thành là đá núi, được lấy từ địa điểm xây dựng và các khu vực xung quanh với nhiều kích cỡ khác nhau, loại vữa dùng để xây chủ yếu là cát pha với vôi, không có xi măng. Đồn Lũng Hồ: Đồn được xây dựng trên khu đất cao, khá bằng phẳng quay hướng Đông - Tây. Chiều dài tường bao quanh gần 200m được bố trí các ụ bắn. Các ụ bắn đều có lỗ châu mai quan sát bên ngoài. Vật liệu chủ yếu để xây dựng tường thành là đá núi, được lấy từ địa điểm xây dựng và các khu vực xung quanh với nhiều kích cỡ khác nhau, loại vữa dùng để xây chủ yếu là cát pha với vôi, không có xi măng. Thiết kế của đồn gồm có Khu nhà ngang và dãy nhà dọc ở phía Tây; Khu dãy nhà dọc và tháp canh ở phía Đông; Giữa khu phía Đông và phía Tây là khoảng đất rộng. Nhìn chung nhiều hạng mục công trình bị đổ nát, hư hại, hầu như toàn bộ phần mái của các dãy nhà dọc và ngang bị tháo dỡ. Về mặt quân sự Đồn và tường thành Lũng Hồ là công trình quy mô, có vị trí quan trọng án ngữ con đường từ Lũng Hồ sang Đường Thượng, đồng thời ngăn chặn hoạt động tuyên truyền cách mạng tại vùng Đường Thượng của ta trong thời gian này. Công trình là bằng chứng của một thời kỳ lịch sử Pháp chiếm đóng và hoạt động tại khu vực miền núi xa xôi, hẻo lánh của tỉnh Hà Giang. Dưới sự kìm kẹp, nô dịch của thực dân Pháp ở khu Đường Thượng, cuộc sống của nhân dân rơi và cảnh lầm than. Thực hiện nghị quyết lãnh đạo của Xứ uỷ Bắc Kỳ và Liên tỉnh uỷ Cao - Bắc - Lạng. “Cuối năm 1944 đồng chí Việt Hưng thực hiện nhiệm vụ khơi thông con đường liên lạc từ Cao Bằng - Bắc Cạn - Hà Giang sang Vân Nam (Trung Quốc) để đón cán bộ và chuyển vũ khí từ nước ngoài về nước. Đồng chí Việt Hưng tới Lũng Hồ, Đường Thượng gây dựng cơ sở, lấy Đường Thượng làm căn cứ, cán bộ Việt Minh đi đến đâu cũng nhận được sự ủng hộ của đồng bào. Ngày 9/3/1945 phát xít Nhật đảo chính Pháp. Ở Đường Thượng (Yên Minh) Bang tá Đào Văn Ất hốt hoảng bỏ đồn chạy trốn. Nắm bắt thời cơ đó cán bộ Việt Minh ở Đường Thượng đã họp khẩn cấp, chiếm đồn Đường Thượng, phá kho và lấy ngô, thóc chia cho dân và đặt trạm cảnh giới ở ngoài khu căn cứ được tiến hành rất khẩn trương. Ngày 16/3/1945 ta đã chiếm được đồn Đường Thượng, làm chủ và kiểm soát hoàn toàn khu Đường Thượng, từ đây các cán bộ Việt Minh toả về cơ sở lãnh đạo phong trào". Cùng với Khu di tích Sùng Chứ Đà, cơ sở cách mạng Đường Thượng, hang Mậu Long được công nhận là danh lam thắng cảnh cấp quốc gia, vườn quốc gia Du Già và Lễ hội Gầu tào, Lồng tồng, Cầu trăng, Cấp sắc, Thượng thọ... Nổi bật, là Lễ hội Tết Cá của người Tày được tổ chức tại xã Mậu Duệ. Cùng với định hướng của huyện và tỉnh trong thời gian tới, di tích Đồn và tường thành Lũng Hồ sẽ tiếp tục là những điểm đến hấp dẫn du khách khi tới Yên Minh. Nguồn: Ban tuyên giáo tỉnh uỷ Hà Giang
Tuyên Quang 6538 lượt xem
Chùa Sùng Khánh thuộc địa phận thôn Làng Nùng, xã Đạo Đức, huyện Vị Xuyên. Chùa nằm gần Quốc lộ 2, cách Thành phố Hà Giang 9 km. Chùa Sùng Khánh được khởi công xây dựng từ tháng giêng năm Bính Thân thời Thiệu Phong (1356) đến rằm tháng tư thì hoàn thành. Trải qua bao biến cố của thời gian và lịch sử, ngôi chùa được xây dựng thời Trần và sau này được trùng tu vào thời Lê đã bị đổ nát, tượng Phật và các đồ thờ tự đã bị mai một. Duy nhất chỉ còn 2 tấm bia đá và 1 quả chuông cùng trường tồn với thời gian, trong đó đáng chú ý nhất là tấm bia dựng dưới triều vua Trần Dụ Tông vào năm 1367. Bia đặt trên một con rùa đá tương xứng, điểm độc đáo là ở trán bia được bao bọc trong băng trang trí hình cánh cung được chia ra 3 ô: Ô chính giữa khắc hình Phật bà A Di Đà ngự trên toà sen 2 tầng cánh, mỗi bên có một đệ tử đứng chầu tay chắp trước ngực; hai ô bên cạnh khắc 2 con rồng giống nhau, tựa như đối xứng trong tư thế đang bay, đầu nghển cao hướng tới toà sen. Theo các nhà nghiên cứu, trán bia này là một tổ hợp trang trí đặc biệt, chưa từng thấy trên một tấm bia nào khác hiện đã biết ở nước ta. Tấm bia này là hiện vật gốc độc bản còn tương đối nguyên vẹn, được dùng để so sánh đối chiếu một số tự dạng thời Trần khi nghiên cứu các văn bản khác. Tấm bia không chỉ khẳng định sự ra đời của một ngôi chùa thờ Phật ở vùng biên cương hẻo lánh, mà còn có một sử liệu quan trọng là việc dòng họ Nguyễn thế tập làm phụ đạo quản trị ở đây ràng buộc với ngôi chùa. Bia đá chùa Sùng Khánh là một tài liệu bia ký nguyên vẹn, trang trí hình Phật, rồng, hoa dây…chưa từng thấy trên tấm bia thời Trần nào hiện biết. Tấm bia còn giúp thêm tài liệu cho việc tìm hiểu địa danh, lịch sử, chữ viết thời Trần, đặc biệt là sự xuất hiện của chữ Nôm khắc trong văn bia. Ngoài ra, chúng ta còn biết chế độ Phụ đạo ở thời Trần được chính quyền Trung ương thi hành rộng rãi. Tấm bia còn là chứng cớ nói lên ảnh hưởng của Phật giáo thời Trần thời bấy giờ. Hơn nữa, một hệ quả lịch sử mà chúng ta thấy được, đó chính là một biểu hiện lớn mạnh của chính quyền trung ương thời Trần đã quản lý chặt chẽ mọi miền biên viễn của đất nước. Chính vì vậy tấm bia này được công nhận là Bảo vật quốc gia vào năm 2013. Đến năm 1705 ngôi chùa được trùng tu lại. Lần trùng tu này đúc quả chuông và tạc 1 bia đá ghi lại sự kiện trùng tu chùa. Chuông cao 0,90m, đường kính miệng rộng 0,67m. Đặc biệt là ở 4 múi chuông, mỗi múi có 2 phù điêu hình người đắp nổi (cao 10cm bố trí ở góc các múi) để bảo vệ và trấn 8 hướng. Sau năm 1964, do điều kiện lịch sử, chiến tranh khốc liệt, ngôi chùa Sùng Khánh không được chăm nom bảo vệ thường xuyên và ít lâu sau đã bị đổ sập. Đến năm 1989 ngôi chùa được xây dựng lại; năm 1993 chùa Sùng Khánh được xếp hạng là di tích lịch sử; năm 1999, được công nhận di tích lịch sử cấp Quốc gia. Chùa Sùng Khánh gắn liền với lễ hội Lồng Tồng nơi đây. Từ năm 1994 đến nay, lễ hội Lồng Tồng (hội xuống đồng) được phục hồi lại. Lễ hội diễn ra vào ngày 15 tháng giêng âm lịch, được tổ chức tại thửa ruộng trước cổng chùa. Vào ngày này bà con nhân dân trong thôn, xã và các vùng lân cận quy tụ về đây dự lễ và lễ Phật. Vẫn theo lệ từ xưa, phần lễ đầu tiên là cúng tạ các thần linh cầu cho mưa thuận gió hoà, mùa màng bội thu, bản làng bình yên no ấm. Sau đó, người ta tiếp tục dâng lễ lên chùa lễ Phật. Tiếp theo phần lễ là phần hội với nhiều trò chơi dân gian truyền thống mà trong đó vui nhất, đông nhất là hội tung còn. Người dân địa phương thường quan niệm rằng, trong hội phải có người tung được quả còn ngũ sắc xuyên thủng hồng tâm thì năm đó bản làng mới làm ăn thuận lợi. Lễ hội được tổ chức vui tươi, tưng bừng và phấn khởi, với mục đích mở mùa gieo trồng mới, tạ ơn trời, đất, thần Nông, thần Phục Hy, Thành hoàng làng bản…, cầu cho một năm mới mưa thuận gió hòa và cuộc sống an yên,yên lành, hạnh phúc… Chùa Sùng Khánh là một điểm du lịch tâm linh trên mảnh đất Vị Xuyên. Dù trải qua bao biến cố thăng trầm, nơi đây vẫn lưu giữ được những giá trị lịch sử, văn hóa từ ngàn xưa. Về chùa Sùng Khánh, chúng ta có được khoảng không gian yên bình, tĩnh lặng giữa núi rừng non cao hùng vỹ, là cơ hội để cùng thưởng ngoạn cảnh đẹp thiên nhiên yên bình, thơ mộng của Hà Giang. Nguồn: Ban tuyên giáo tỉnh uỷ Hà Giang
Tuyên Quang 3711 lượt xem
Là cột cờ quốc gia, tượng trưng cho cột mốc cực Bắc của Tổ Quốc, cột cờ Lũng Cú nằm ở đỉnh Lũng Cú hay còn gọi là đỉnh núi Rồng (Long Sơn) thuộc huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang. Địa điểm này nằm ở độ cao khoảng 1.470m so với mực nước biển. Cột cờ Lũng Cú Có lịch sử lâu đời, trải qua nhiều lần phục dựng, tôn tạo, cột cờ mới hình bát giác có độ cao trên 30m được khánh thành ngày 25 tháng 9 năm 2010. Được xây dựng đầu tiên từ thời Lý Thường Kiệt, ban đầu cột cờ chỉ làm bằng cây sa mộc. Cột được xây dựng lại từ thời Pháp thuộc năm 1887. Những năm sau đó như 1992, 2000 và đặc biệt năm 2002 cột cờ tiếp tục được trùng tu , xây dựng lại nhiều lần với kích thước, quy mô lớn dần theo thời gian. Năm 2002 cột cờ được dựng với độ cao khoảng 20m, chân và bệ cột có hình lục lăng và dưới chân cột là 6 phù điêu họa tiết bề mặt trống đồng Đông Sơn. Theo thiết kế cột cờ hiện nay xây dựng theo mô hình cột cờ Hà Nội nhưng có kích thước nhỏ hơn, chiều cao 33,15m (hơn cột cờ cũ 10m) trong đó phần chân cột cao 20,25m, đường kính ngoài thân cột rộng 3,8m. Chân, bệ cột cờ có 8 mặt phù điêu bằng đá xanh mô phỏng hoa văn mặt của trống đồng Đông Sơn và những họa tiết minh họa các giai đoạn qua từng thời kỳ lịch sử của đất nước, cũng như con người Địa điểm này cũng được xếp hạng Di tích lịch sử và danh thắng quốc gia, là biểu tượng khẳng định chủ quyền dân tộc. Hàng năm, cột cờ Lũng Cú đón lượng lớn khách du lịch đến khám phá. Nguồn: Di sản Tràng An
Tuyên Quang 4378 lượt xem