Di tích lịch sử

Việt Nam

Đình Đào Quạt

Đình Đào Quạt toạ lạc trên một khu đất cao ráo, thoáng đãng giữa thôn Đào Quạt, xã Bãi Sậy. Xưa kia người dân thôn Đào Quạt nổi tiếng với nghề làm quạt và họ rất tự hào về ngôi đình làng truyền thống của thôn mình. Theo thần tích, đình Đào Quạt là nơi tôn thờ Đào Công Chí, một võ tướng thời Lý có công giúp đánh giặc Chiêm Thành đầu thế kỷ XI, đem lại cuộc sống thanh bình, ấm no cho Nhân dân. Khi mất, vua Lý vô cùng thương xót vị tướng tài của mình, sai quần thần hành lễ điếu văn, ban thưởng nhiều vàng bạc để làm hương hỏa, lập miếu thờ và phong ông là bậc Đại vương. Ông được Nhân dân địa phương tôn thờ làm Thành hoàng làng. Tương truyền, đình Đào Quạt được khởi dựng sau khi tướng quân Đào Công Chí mất, ban đầu chỉ là một ngôi miếu nhỏ. Thời Hậu Lê, Nhân dân đã tiến hành tu sửa lại. Đến thời Nguyễn, đình được trùng tu với quy mô lớn. Hiện nay, đình có kiến trúc kiểu chữ Công gồm 05 gian Tiền tế, kiến trúc kiểu con chồng đấu sen. Trung từ 03 gian, các bộ vì kiểu chồng rường giá chiêng. Hậu cung 03 gian, kết cấu vì đơn giản kiểu chồng rường. Trên các bức cốn, hệ thống đầu dư chạm khắc cầu kỳ, tinh xảo các đề tài tứ linh và quần long,...Đình còn lưu giữ nhiều hiện vật có giá trị như: 18 đạo sắc phong từ thời Lê đến thời Nguyễn, bia đá niên đại năm 1758, phỗng đá, 03 tảng đá hoa sen thời Lê với 09 cánh sen cách điệu rất sinh động. Hằng năm, vào ngày mồng 10 tháng Giêng âm lịch, Nhân dân lại tổ chức lễ hội long trọng để tưởng nhớ ngày mất của tướng quân. Trước kia, trong lễ hội có tổ chức tế lễ, rước kiệu, rước ngai và tượng của thần, rước sắc và có hát trống quân. Ngày nay, lễ hội được tổ chức đơn giản song vẫn đảm bảo các nghi thức văn hoá truyền thống. Với những giá trị tiêu biểu về kiến trúc, đình Đào Quạt đã được Bộ Văn hóa - Thông tin ban hành Quyết định số 141-Quyết Định/Văn Hóa ngày 23/01/1997 xếp hạng là di tích “Kiến trúc - nghệ thuật” cấp Quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên.

Hưng Yên 3244 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đình Thượng Đào Xá

Đình Đào Xá xây dựng trên một khu đất cao, thoáng đãng ở phía Bắc làng Đào Xá, xã Đào Dương. Vùng đất này do dòng họ Đào khai phá, mở mang từ thủa sơ khai. Đình có mặt tiền của đình quay hướng Nam. Đình Đào Xá thờ Linh Lang Đại Vương là Hoàng tử con Vua Lý Thánh Tông. Ngài có công cùng các tướng sỹ thân chinh cầm quân đánh đuổi giặc giã, giữ yên bờ cõi, bảo vệ cuộc sống bình yên cho Nhân dân. Khi mất, ngài được Nhân dân ở nhiều nơi tôn thờ, trong đó có làng Đào Xá tôn ngài làm Thành hoàng làng. Đình được xây dựng từ thời Hậu Lê, trùng tu thời Nguyễn với kết cấu kiểu chữ Đinh gồm Đại bái 05 gian 02 dĩ và Hậu cung 04 gian. Các bộ vì làm kiểu chồng rường đấu kê. Tại đình còn bảo lưu được nhiều mảng cốn, cấu kiện chạm khắc hoa văn thời Hậu Lê còn rất đậm nét như: long quần tụ, đầu dư, đao lửa,… thể hiện trình độ cao của các nghệ nhân xưa với các chi tiết vô cùng đặc sắc và tinh xảo. Đình còn lưu giữ một số hiện vật, đồ thờ rất có giá trị như: 01 kiệu bát cống thời Lê, ngai thờ, câu đối, đỉnh đồng, bát hương sứ. Hằng năm, vào ngày 10 tháng 3 và ngày 10 tháng 10 âm lịch dân làng tổ chức lễ hội để tưởng nhớ tới công lao của thần là người có công cứu nước giúp dân. Đình Đào Xá được Bộ Văn hóa - Thông tin ban hành Quyết định số 22/1999-Quyết Định - Bộ Văn Hóa Thông Tin xếp hạng là di tích “Kiến trúc nghệ thuật” cấp Quốc gia ngày 6/4/1999. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên.

Hưng Yên 3216 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đình Đanh Xá

Đình Đanh Xá được xây dựng hướng Tây Nam trên khu đất cao thoáng giữa làng Đanh Xá, xã Hoàng Hoa Thám. Theo truyền ngôn của dân làng, đình xây trên thế đất “Rồng chầu”, do vậy thôn Đanh Xá từ xa xưa đến nay đời nào cũng có nhiều người hiển danh, thành đạt. Đình thờ Ngũ Vị Đại Vương gồm: Cao Sơn Hiểu Công Đại Vương, Cao Sơn Hựu Công Đại Vương, Quý Công Đại Vương, Minh Công Đại Vương và Uy Công Đại Vương. Các vị có công giúp Thục An Dương Vương dẹp giặc cứu nước, đem lại cuộc sống ấm no, thanh bình cho nhân dân. Trong thời kỳ lịch sử Cách mạng, nơi đây diễn ra nhiều sự kiện quan trọng như tuyên truyền đường lối Cách mạng trong quần chúng Nhân dân. Năm 1948, bộ đội chủ lực đóng quân và hoạt động tại đây. Đình được xây dựng từ thời Nguyễn niên hiệu Thành Thái thứ 12 (1900) với kiến trúc kiểu chữ Công gồm: 05 gian Đại bái, 03 gian Ống muống và 03 gian Hậu cung. Hệ thống các bộ vì có kết cấu kiểu con chồng đấu sen. Các mảng chạm khắc được tập trung chủ yếu tại gian trung tâm Đại bái với các đề tài mang điển tích dân gian như: tứ linh, tứ quý, long quần… Tại đình còn lưu giữ một số hiện vật quý như: Kiệu long đình thời Nguyễn được sơn son thếp vàng với nét chạm khắc rồng, phượng tinh xảo, đại tự, câu đối... Hằng năm, ngày 10 tháng 03 âm lịch, Nhân dân địa phương tổ chức lễ hội tưởng nhớ người có công với quê hương, đất nước. Với những giá trị còn hiện hữu, đình Đanh Xá được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng vào loại hình di tích “Kiến trúc nghệ thuật” cấp Quốc gia ngày 6/4/1999 theo Quyết định số 22/1999-Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thông Tin. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên.

Hưng Yên 3207 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

KHU DI TÍCH HẢI THƯỢNG LÃN ÔNG

Khu di tích nằm tại thôn Liêu Xá, xã Liêu Xá, huyện Yên Mỹ, có quan hệ tới Hải Thượng Lãn ông Lê Hữu Trác - Đại y tôn Việt Nam. Ông sinh năm 1720 mất năm 1791, quê tại Liêu Xá. Ông là nhà y học vĩ đại, nhà thơ, nhà văn xuất sắc, một nhà tư tưởng tiến bộ thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân đạo. Sau khi ông mất, nhân dân và giới y học cả nước suy tôn là bậc Y Thánh của Việt Nam. Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác (1720-1791), người làng Liêu Xá, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, xứ Hải Dương (nay là thôn Liêu Xá, xã Liêu Xá, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên). Ông tự đặt cho mình là Hải Thượng Lãn Ông, và không màng danh lợi, vinh hoa phú quý. Ông trở thành một thầy thuốc, một danh y nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam. Cuộc đời Hải Thượng Lãn Ông là một dẫn chứng hùng hồn về y đức mà không cần cao giọng giảng giải, thuyết lý nhiều. Ông là người đặt nền móng xây dựng y thuật, một ngôi sao sáng trong làng Y học cổ truyền Việt Nam, người đã để lại cho hậu thế một kho tàng kinh nghiệm về Y học cổ truyền, không những về y lý mà cả thực tiễn hành nghề. Suốt 40 năm trong nghề y, ông đã đem hết tâm tư của mình vào việc chữa bệnh phục vụ nhân dân, nêu cao đạo đức nhân thuật, tận tụy, cần cù nghiên cứu, biên soạn, giảng dạy và đúc kết kinh nghiệm, xây dựng truyền thống y học nước nhà. Người còn là một nhà bác học tài năng, một nhà thơ lỗi lạc của thế kỷ 18, một nhà văn hóa với tư tưởng nhân văn lớn. Trong suốt cuộc đời làm thuốc của mình, ông đã để lại cho đời một bộ sách đồ sộ quý giá là bộ "Hải thượng Lãn ông Y tông tâm lĩnh" gồm 28 tập, 66 quyển. Năm 1791, ông qua đời tại Nghệ Tĩnh, “ngôi sao sáng trên bầu trời y học” khuất bóng nhưng gương sáng của ông còn mãi giữa trời. Sau khi mất, con cháu dòng họ cùng dân làng đã xây dựng nhà tưởng niệm Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác. Ban đầu quy mô khá nhỏ, đến năm 1992, Bộ Văn hóa Thông tin cùng với Bộ Y tế đã cấp kinh phí đầu tư trùng tu mở rộng thành Nhà tưởng niệm. Du khách tới thăm sẽ thấy đây không chỉ là nơi thờ tự mà còn là nơi trưng bày giới thiệu về thân thế sự nghiệp cũng như nhiều tác phẩm y thuật tiêu biểu của ông. Với diện tích 200m2 trưng bày trong khuôn viên rộng 1000m2, có nhiều di tích phụ cận xung quanh tạo nên một quần thể di tích rộng lớn. Gian giữa nhà tưởng niệm đặt khám thờ cùng các câu đối ca ngợi ông. Năm 2006, khu lưu niệm được trùng tu, tôn tạo, trong đó hạng mục nhà lưu niệm được dựng lại thành khu đền thờ chính. Năm 1990, khu di tích lưu niệm Đại danh y Hải Thượng Lãn Ông được Bộ Văn hoá Thông tin xếp hạng cấp Quốc gia. Hàng năm cứ vào rằm tháng giêng, nhân dân cùng những người hành nghề Đông y và các thầy thuốc lại tề tựu về đây để tưởng nhớ và tôn vinh y đức lớn lao của Lê Hữu Trác. Nơi đây đã trở thành điểm đến tâm linh của nhiều du khách thập phương đã đến du xuân đầu năm và thắp hương nguyện cầu cho một năm mới sức khoẻ dồi dào, may mắn, thành công trong cuộc sống. Điều làm nên sức hấp dẫn không chỉ bởi cảnh quan mà đây còn là nơi để hậu thế nhìn lại cùng học tập về đạo đức cũng như y thuật của bậc đại danh y. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Yên Mỹ , tỉnh Hưng Yên.

Hưng Yên 3708 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

BIA KỶ NIỆM NƠI THÀNH LẬP BAN VẬN ĐỘNG PHỤ NỮ TỈNH HÀ GIANG

BIA KỶ NIỆM NƠI THÀNH LẬP BAN VẬN ĐỘNG PHỤ NỮ TỈNH HÀ GIANG - Địa điểm: Thuộc thôn Bó Loỏng, xã Hùng An, huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang. - Đường đi đến: Bia kỷ niệm nơi thành lập Ban vận động Phụ nữ tỉnh Hà Giang cách trung tâm thành phố Hà Giang 70km về phía Nam, từ thành phố Hà Giang đi theo Quốc lộ số 2 hướng Hà Giang - Tuyên Quang, đến Chợ số 9, xã Hùng An rẽ trái theo đường vào thôn Bó Loỏng hơn 2km là đến địa điểm của Bia. Tháng 3 năm 1943, cán bộ Việt Minh từ phía bắc của tỉnh Tuyên Quang đã đến thôn Bó Loỏng, xã Hùng An, huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang để tuyên truyền đường lối cách mạng của mặt trận Việt Minh và gây dựng cơ sở cách mạng ở địa phương. Tại đây, Ban vận động phụ nữ được thành lập gồm 5 thành viên. Sau khi thành lập, dưới sự chỉ đạo của cán bộ Việt Minh, các chị đã tuyên truyền, vận động chị em trong xã Hùng An và các địa phương lân cận gia nhập Hội Phụ nữ cứu quốc, tham gia phong trào cách mạng, tích cực góp phần đấu tranh cách mạng đánh đuổi giặc giành chính quyền, giải phóng quê hương, đất nước. Việc thành lập Ban vận động Phụ nữ ở thôn Bó Loỏng, xã Hùng An – là tổ chức cơ sở đầu tiên của tổ chức Hội, đánh dấu bước phát triển của phong trào hoạt động phụ nữ, đó cũng chính là tiền đề để năm 1945 thành lập Hội Phụ nữ cứu quốc tỉnh Hà Giang (Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hà Giang sau này). Việc xây dựng Bia kỷ niệm nơi thành lập Ban vận động Phụ nữ tỉnh Hà Giang tại thôn Bó Loỏng, xã Hùng An để ghi nhớ nơi thành lập tổ chức cơ sở đầu tiên của phong trào hoạt động phụ nữ, và có mục đích giáo dục truyền thống về truyền thống yêu nước, đấu tranh chống giặc bảo vệ đất nước cho các thế hệ trẻ noi theo, từ đó không ngừng học tập, tu dưỡng để xứng đáng với các thế hệ đi trước, góp công sức bảo vệ và xây dựng đất nước ngày càng giàu đẹp, văn minh. NGUỒN: TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ HUYỆN BẮC QUANG TỈNH HÀ GIANG

Tuyên Quang 3346 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Đền Chúa Bà

Đền Chúa Bà không có bia đá và các văn bản, giấy tờ liên quan ghi năm khởi thủy xây dựng đền cũng như quá trình hình thành và phát triển. Tuy nhiên, qua quá trình tìm hiểu qua lời kể của các cụ cao tuổi tại địa phương và một số tài liệu có liên quan sưu tầm được có thể xác định như sau: Đền Chúa Bà đã có ở địa bàn thị trấn Vĩnh Tuy từ rất lâu đời, thời kỳ đó xung quanh khu vực đền còn hoang vu, vắng vẻ. Đền được dựng bằng tre, nứa, lá đơn sơ, giản dị. Ban thờ chính đặt tượng Chúa Bà hay còn gọi là thánh Mẫu Liễu Hạnh[8]. Hiện tại ở đền có ba tấm bia đá: Một tấm bia bị rễ cây đa che lấp không tiếp cận đọc và dập được chữ; một tấm bia chữ đã quá mờ, không đọc được; chỉ còn duy nhất một tấm bia ghi năm công đức vào đền là năm 1947, qua phiên âm và dịch nghĩa nhận thấy nội dung bia ghi chép tên của những người có công trong việc quyên góp xây dựng đền, qua đó có thể khẳng định đền được xây dựng trước năm 1947. Trong quá trình tìm hiểu của Bảo tàng tỉnh Hà Giang phục vụ công tác xây dựng hồ sơ di tích đã thu thập từ Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I và Trung tâm lưu trữ Quốc Gia III được một số tư liệu có liên quan có thể xác định thời gian xây dựng ngôi đền tại thị trấn Vĩnh Tuy, đó là một số Công điện của Pháp vào năm 1931 viết về việc quyên góp trong nhân dân để xây dựng 01 ngôi đền tại thị trấn Vĩnh Tuy, huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang. Qua đó có thể xác định thời gian xây dựng lại đền là vào khoảng thời gian năm 1931. Qua tìm hiểu và các tài liệu thu thập được, có thể nhận thấy đền Chúa Bà có sự du nhập đạo thờ Mẫu từ miền xuôi lên, qua những thương nhân trong quá trình làm ăn buôn bán trên đường sông, họ đã mang theo chân hương để thờ cúng tại đền Chúa Bà. Hiện nay khởi thuỷ ngôi đền từ năm nào không rõ. Tuy nhiên, căn cứ vào thời kỳ cư dân miền xuôi lên Hà Giang buôn bán, lập nghiệp, có thể nhận định đền Chúa Bà được lập nên vào đầu thế kỷ XX, năm 1931 chỉ là năm quyên góp trong nhân dân để xây dựng lại đền chứ không phải là năm khởi thủy xây dựng đền. Qua quá trình lịch sử Đền đã được trùng tu nhiều lần, lần trùng tu và sửa chữa nhiều nhất là vào năm 1982 và năm 2006 từ nguồn công đức của nhân dân địa phương và du khách thập phương hình thành hiện trạng như bây giờ. Từ khi được công nhận là di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh, đền Chúa Bà đã được các cấp, các ngành quan tâm định hướng chỉ đạo và Ủy ban nhân dân thị trấn Vĩnh Tuy trực tiếp quản lý, quy hoạch bảo vệ và phát huy giá trị. UBND thị trấn Vĩnh Tuy đã ra Quyết định thành lập Ban Quản lý đền và xây dựng nội quy, quy chế hoạt động. Các ngành chức năng đã khảo sát, xác định ranh giới và khoanh vùng thành 2 khu vực bảo vệ di tích với tổng diện tích 710m2 (khu vực I là 295m2, khu vực II là 415m2) đảm bảo khu vực di tích không bị lấn chiếm, xâm hại làm ảnh hưởng. Đền Chúa Bà đã được trùng tu, sửa chữa và tôn tạo nhiều lần từ khi xây dựng đến nay, trong đó năm 1982 và năm 2006 được trùng tu tổng thể từ nguồn kinh phí do nhân dân địa phương và khách thập phương công đức, hiện tại cơ sở vật chất vẫn sử dụng tốt và thường xuyên được sửa chữa nhằm đáp ứng tốt nhu cầu sinh hoạt tín ngưỡng và tâm linh cho nhân dân. 6. Giá trị di tích được xếp hạng và thời gian xếp hạng Di tích lịch sử văn hóa “ĐỀN CHÚA BÀ” được xếp hạng là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh theo Quyết định số 244/QĐ-UBND ngày 29 tháng 01 năm 2011 của UBND tỉnh Hà Giang “Quyết định về việc xếp hạng di tích cấp tỉnh, di tích lịch sử văn hóa NGUỒN: TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ HUYỆN BẮC QUANG TỈNH HÀ GIANG

Tuyên Quang 3694 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

ĐỀN THỜ ĐỨC THÁNH TRẦN HƯNG ĐẠO

Đền Trần Hưng Đạo được xây dựng tại thôn Tân Tiến, xã Tân Quang, huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang. Vị trí của đền được thể hiện trên bản đồ giải thửa số 10, thửa 52 của huyện Bắc Quang, cụ thể như sau: + Phía Đông giáp đường dân sinh thôn Tân Tiến, có chiều dài 31m. + Phía Tây giáp đất của ông Vương Xuân Thu, dài 34m. + Phía Nam giáp đất của ông Vương Xuân Thu, dài 32m. + Phía Bắc giáp đất nhà ông Điền Văn Lực, dài 43,5m. - Đường đi đến: Từ thành phố Hà Giang đi theo Quốc lộ 2 hướng Hà Giang – Hà Nội đến Km 47 rẽ bên trái theo đường vào trụ sở thôn Tân Tiến khoảng 500m là đến Đền Trần Hưng Đạo. 1.3. Nguồn gốc lịch sử hình thành và phát triển: Đền Trần Hưng Đạo hiện nay không có Bia đá và các giấy tờ khác ghi năm xây dựng của ngôi Đền, chỉ có 02 bản sắc phong nói về công lao của Trần Hưng Đạo, không ghi năm xây dựng và nguồn gốc lịch sử của ngôi đền. Vì vậy không thế xác định một cách chính xác tuyệt đối về nguồn gốc hình thành và quá trình phát triển. Tuy nhiên, qua quá trình tìm hiểu và qua lời kể của những người cao tuổi tại địa phương thì Đền Trần Hưng Đạo trước đây nằm tại địa bàn thôn Vinh Quang, xã Tân Quang. Năm 1947-1948 do chiến tranh và thực hiện việc "tiêu thổ kháng chiến" buộc phải phá Đền, sau đó chuyển đồ thờ về thôn Nậm Tuộc, xã Đồng Tâm (cách vị trí hiện tại khoảng 3000m). Thời điểm đó mỗi khi vào mùa mưa tại thôn Nậm Tuộc xảy ra lũ, lụt thường xuyên khó khăn trong việc đi lễ Đền của nhân dân. Vì vậy, khoảng năm 1948-1949, hai ông Vàng Séo Chằng và Đỗ Văn Độc đứng ra chuyển bát hương và bài vị Trần Hưng Đạo mang về nhập vào Miếu Cấm Sơn (Miếu ở chân núi Cấm) - là địa điểm hiện nay, từ đó nhân dân gọi là Đền thờ Trần Hưng Đạo. Từ khi ổn định ở đây, ngôi Đền đã được trùng tu nhiều lần, lần trùng tu và sửa chữa lớn nhất vào các năm 2004 và 2008 từ nguồn công đức của nhân dân địa phương và du khách thập phương hình thành hiện trạng như hiện nay. Khu di tích lịch sử “ĐỀN TRẦN HƯNG ĐẠO” được xếp hạng là di tích lịch sử cấp tỉnh theo Quyết định số 243/QĐ-UBND, ngày 29/01/2011 của UBND tỉnh Hà Giang “Quyết định về việc xếp hạng di tích cấp tỉnh”. NGUỒN: TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ HUYỆN BẮC QUANG TỈNH HÀ GIANG

Tuyên Quang 3981 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Chùa Thông

Chùa Thông nằm trong cụm di tích khởi nghĩa Yên Thế cách trung tâm đồn Phồn Xương khoảng 2km về hướng Đông Bắc. Ngôi chùa tọa lạc gần trục đường 265 tiện cho việc tham quan nghiên cứu. Xưa chùa Thông thuộc làng Nứa, xã Hữu Trung, có thời gian là xã An Lạc, tổng Hữu Thượng, phủ Yên Thế, nay thuộc xã Đồng Lạc, huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang. Ngôi chùa được xây dựng từ lâu đời và đã được tu sửa qua nhiều giai đoạn. Khoảng những năm 1901-1902 cùng với nhiều di tích khác trong vùng Yên Thế, chùa Thông được Đề Thám cho tu sửa thêm phần khang trang. Trong cuốn Khởi nghĩa Yên Thế của tác giả Khổng Đức Thiêm, Nguyễn Xuân Cần ghi: “Chùa chiền, đình miếu, nhà thờ thiên chúa giáo bị hư nát được sửa lại nhiều như các ngôi đình ở Hà, Lan, Cao Thượng, các ngôi chùa Lèo, chùa Thông, Phồn Xương, các nhà thờ thiên chúa giáo...”. Khu di tích chùa Thông hiện nay gồm các hạng mục công trình: Khuôn viên vườn chùa, nhà Mẫu và khu chùa chính tất cả tọa lạc trên gò đồi có tổng diện tích: 3093 m2. Ngôi chùa hiện nay có bình đồ kiến trúc kiểu chữ đinh gồm toà tiền đường ba gian nối với toà thượng điện hai gian. Phần liên kết vì mái toà tiền đường giống nhau kiểu chồng rường giá chiêng truyền thống các cấu kiện kiến trúc không chạm khắc nhưng vẫn đượm màu thời gian cổ kính. Toà thượng điện có hai gian, phần liên kết vì mái kiểu vì giá chiêng kẻ chuyền, các cấu kiện kiến trúc không chạm khắc. Trong chùa bài trí hệ thống tượng Phật đầy đủ gồm 17 pho tượng và một số tài liệu, hiện vật, đồ thờ tự có giá trị như mâm bồng, bát hương, đài thờ cổ... có giá trị lịch sử và giá trị nghiên cứu khoa học. Chùa Thông là nơi ghi dấu nhiều sự kiện lịch sử gắn liền với khởi nghĩa Yên Thế, địa điểm nghĩa quân Yên Thế và thực dân Pháp họp ký hòa hoãn lần thứ nhất (1894-1897). Năm 1894, để có thời gian chuẩn bị và củng cố lực lượng Đề Thám đã tổ chức bắt sống tên Sét-nay chủ bút báo Tương lai xứ Bắc Kỳ và nhân viên đi theo Lô-gi-u, tập kích một chuyến xe lửa rồi rút về Phồn Xương. Việc bắt ông Sét-nay đã giáng một đòn mạnh vào dư luận. Bọn tư sản, chủ thầu đòi cứu bằng được. Trước tình thế đó thực dân Pháp đã nhờ giám mục Vê-lát-cô làm môi giới điều đình với nghĩa quân. Cuộc đàm đạo kéo dài trong 15 ngày tại chùa Thông. Đề Thám cai quản 4 tổng: Mục Sơn, Yên Lễ, Nhã Nam, Hữu Thượng thu thuế ở đó trong 3 năm. Việc thương thuyết, điều đình tới ký hiệp ước tại chùa Thông nhiều tài liệu gọi đây là cuộc hoà hoãn lần thứ nhất giữa nghĩa quân Yên Thế và thực dân Pháp. Là di tích đặc biệt, nơi ghi dấu sự kiện lịch sử về cuộc khởi nghĩa Yên Thế, chùa Thông là một trong 23 điểm di tích thuộc Những địa điểm khởi nghĩa Yên Thế được Thủ tướng chính phủ ký Quyết định số 548/QĐ-TTg ngày 10/5/2012 công nhận là Di tích quốc gia đặc biệt. NGUỒN CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ SỞ VĂN HÓA - THỂ THAO - DU LỊCH TỈNH BẮC GIANG

Bắc Ninh 3574 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Đình Dĩnh Thép

Đình Dĩnh Thép cách thành phố Bắc Giang khoảng 31km về phía Tây Bắc. Từ thành phố Bắc Giang xuôi theo trục đường quốc lộ 1A (cũ) qua cầu Sông Thương rẽ phải theo tỉnh lộ 398 (tuyến Bắc Giang-Cầu Gồ), đến thị trấn Cầu Gồ. Từ Cầu Gồ, rẽ trái theo đường tỉnh lộ 265 khoảng 4km là tới xã Tân Hiệp và di tích đình Dĩnh Thép. Đình Dĩnh Thép được xây dựng từ lâu đời và đã được tu sửa tôn tạo qua nhiều giai đoạn. Năm Thành Thái thứ 9 (1907), Hoàng Hoa Thám đã cho tu sửa tôn tạo ngôi đình nhằm bảo tồn giá trị văn hóa cổ của di tích. Di tích hiện nay được tu sửa tôn tạo khang trang tố hảo gồm ba gian hai chái tòa tiền đình nối hậu cung hai gian tạo bình đồ kiến trúc kiểu chữ đinh. Các vì mái liên kết đơn giản kiểu vì kèo cánh báng, các cấu kiện kiến trúc không chạm khắc. Trong đình thờ Cao Sơn, Quý Minh, Minh Giang Đô Thống, thờ Hoàng Hoa Thám và nghĩa quân Yên Thế tử trận, đó đều là những vị đã có nhiều công lao với dân với nước. Đình còn bảo lưu được một số đồ thờ tự có giá trị và ba tấm bia đá thời Nguyễn có nội dung ghi về việc công đức tu sửa đình. Giá trị nổi bật nhất của di tích đình Dĩnh Thép là nơi diễn ra Hội nghị ghi dấu thời điểm củng cố lại tổ chức của nghĩa quân Yên Thế: Năm 1888, Hoàng Đình Kinh (Cai Kinh) sa vào tay giặc Pháp và bị xử tử, cuộc khởi nghĩa của phong trào Bãi Sậy và một số sỹ phu yêu nước bị thực dân Pháp đàn áp dữ dội. Yên Thế trở thành trung tâm thu hút của các cánh quân còn sót lại cùng hợp sức đánh Pháp. Thời điểm này rất cần củng cố lại phong trào sau những năm chống Pháp và hoạch định lại kế hoạch lâu dài cho cuộc khởi nghĩa Yên Thế. Giữa lúc đó một Hội nghị quan trọng đã diễn ra tại đình Dĩnh Thép. Đình Dĩnh Thép còn là nơi giặc Pháp phải giao nộp 15000 frăng cho Đề Thám để đổi lấy hai tù nhân: Năm 1894, Đề Thám cho quân tổ chức nhiều trận phục kích chặn đánh các đoàn vận chuyển của Pháp để cướp lương thực, vũ khí trang bị cho nghĩa quân. Tại đình Dĩnh Thép, Pháp phải nộp 15000 frăng cho Đề Thám. Nhiều người dân địa phương chứng kiến kể lại: "Tháng 10 năm 1894, Pháp cho lính mang số bạc nộp cho Đề Thám tại đình làng Dĩnh Thép trên ba cái nong đổ đầy bạc trắng, Ông Thám còn nhặt mỗi nong vài ba đồng đem ra chặt thử xem bạc thật hay bạc giả”. Sau Đó cuộc thương thuyết giữa Đề Thám và Pháp thông qua giám mục Bắc Ninh hai tù nhân Pháp được Đề Thám trao trả. Đình Dĩnh Thép không chỉ là trung tâm sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng, nơi tổ chức lễ hội truyền thống của nhân dân, mà còn là nơi diễn ra nhiều sự kiện lịch sử chính trị gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân địa phương, tiêu biểu nhất là tại di tích này đã diễn ra Đại hội các tướng lĩnh để bầu ra các thủ lĩnh năm 1888. Lễ hội đình Dĩnh Thép diễn ra ngày 6 tháng Giêng và ngày 16 tháng 3 dương lịch với nhiều trò chơi dân gian thể hiện tinh thần thượng võ, khát vọng tự do của người dân Yên Thế như hội thi thả chim, hội thi cưỡi ngựa bắn cung, bắn nỏ, đấu võ dân tộc, đấu vật… Với những đóng góp to lớn đánh dấu bước chuyển biến lịch sử của cuộc khởi nghĩa nông dân do Đề Thám lãnh đạo, đình Dĩnh Thép là một trong 23 điểm di tích thuộc Hệ thống di tích lịch sử: Những địa điểm khởi nghĩa Yên Thế được Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 548/QĐ-TTG ngày 10/5/2012 công nhận là Di tích quốc gia đặc biệt. NGUỒN CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ SỞ VĂN HÓA - THỂ THAO - DU LỊCH TỈNH BẮC GIANG

Bắc Ninh 3425 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Chùa Lèo

Trong hệ thống di tích khởi nghĩa Yên Thế, chùa Lèo là di tích khá đặc biệt và còn bảo lưu được gần như nguyên vẹn những giá trị xưa liên quan đến của cuộc khởi nghĩa Yên Thế. Ngôi chùa nằm bên cạnh trục đường giao thông quan trọng (xưa là đường mòn nhỏ trong rừng từ năm 1909 thực dân Pháp mở đường từ Nhã Nam qua cửa chùa Lèo vào Phồn Xương) nối khu căn cứ Phồn Xương với phủ Lạng Thương nay là đường 398, lại ở vị trí cửa ngõ trạm tiền tiêu của khu căn cứ Phồn Xương và các đồn lũy của nghĩa quân Yên Thế. Chùa Lèo được gọi theo tên làng Lèo thuộc xã Hữu Xương, tổng Hữu Thượng, phủ Yên Thế xưa nay thuộc xã Phồn Xương, huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang. Ngôi chùa nằm bên cạnh trục đường 398 cách thành phố Bắc Giang khoảng 25 km về phía Tây Bắc. Từ thành phố Bắc Giang, theo tỉnh lộ 398 hướng Bắc Giang –Cầu Gồ khoảng 25km là tới di tích. Cách thứ hai, từ thành phố Bắc Giang ngược theo trục quốc lộ 1A (mới), khoảng 20km, đến ngã tư thị trấn Kép (Lạng Giang), rẽ trái theo đường 292 khoảng 15km tới trung tâm thị trấn Cầu Gồ rẽ trái tiếp theo đường tỉnh lộ 398 khoảng 2km nữa là tới di tích chùa Lèo. Chùa Lèo xưa được xây dựng trong quần thể di tích liên hoàn cổ kính gồm đình và chùa theo lối liên kết “tiền thần hậu Phật” đình trước chùa sau, tất cả tọa lạc ở khu rừng đồi Lèo nhìn về hướng Nam. Ngôi chùa được xây dựng từ thế kỷ XVI và đã được tu sửa qua nhiều giai đoạn. Thời kỳ khởi nghĩa Yên Thế những năm 1897-1909 chùa Lèo cùng nhiều các công trình văn hóa tôn giáo tín ngưỡng khác trong vùng được Đề Thám rất quan tâm cho tiền tu bổ tôn tạo làm nơi sinh hoạt văn hóa tôn giáo tín ngưỡng của nghĩa quân Yên Thế và nhân dân địa phương. Trải qua thời gian quần thể di tích này không còn được nguyên vẹn như xưa, cổng tam quan, ngôi đình trước chùa không còn nữa, nay chỉ còn lại ngôi chùa tọa lạc ở vị trí xưa trên đồi Lèo, xã Phồn Xương, huyện Yên Thế. Khuôn viên di tích rộng, đẹp cổ kính hơn bởi các cây xanh cổ thụ như cây đại, cây dã hương... Bình đồ kiến trúc ngôi chùa hiện nay hình chữ công gồm tòa tiền đường 5 gian 2 chái, nhà cầu 3 gian và tòa thượng điện 1 gian hai chái. Phần kiến trúc khung vì mái bằng gỗ lim chắc chắn, hệ thống các vì mái được liên kết theo kiểu chồng rường giá chiêng. Các cấu kiện kiến trúc được chạm khắc các đề tài hoa lá đơn giản nhưng còn đượm màu thời gian cổ kính. Trong chùa bài trí hệ thống tượng Phật đầy đủ theo dòng Trúc Lâm, các tài liệu, hiện vật ở chùa như bia đá, bát hương cổ thời Nguyễn, hệ thống tượng Phật, các cây cổ thụ trong di tích...đều có giá trị lịch sử văn hóa. Phong trào khởi nghĩa Yên Thế nổ ra 1884 các khu đồi rừng được nghĩa quân Yên Thế sử dụng làm đồn lũy, đình chùa làm trạm tiền tiêu, là cơ sở qua lại của nghĩa quân. Chùa Lèo nằm gần khu đồn Hố Chuối cách khoảng 1km về hướng Đông. Trong những lần đánh nhau với nghĩa quân Yên Thế ở đồn Hố Chuối (1890-1891) chùa Lèo là các chốt điểm đóng quân của Pháp để làm bàn đạp chỗ dựa tấn công vào đồn Hố Chuối. Chùa Lèo là nơi ghi dấu nhiều sự kiện lịch sử gắn liền với nghĩa quân Yên Thế. Thời kỳ hòa hoãn lần thứ hai giữa nghĩa quân Yên Thế với thực dân Pháp (1897-1909) chùa Lèo vẫn giữ vai trò vị trí tiền tiêu, quan sát các bước xâm nhập của thực dân Pháp vào khu căn cứ Phồn Xương. Là điểm liên lạc thư từ, qua lại thường xuyên của nghĩa quân. Chùa cũng là nơi đón tiếp khách, nơi tụ họp của những nghĩa quân yêu nước. Do vậy trong thời gian này chùa Lèo rất được Đề Thám quan tâm, cho tiền tu bổ tôn tạo. Cũng tại chùa Lèo đã xảy ra một chuyện đi vào truyền thuyết dân gian, nói lên tinh thần cảnh giác cao độ của Hoàng Hoa Thám. Thời kỳ thực dân Pháp muốn thương lượng hòa ước với nghĩa quân Yên Thế, nhưng nội bộ chúng còn nhiều mâu thuẫn. Để giải quyết một vấn đề còn giàng buộc với nghĩa quân, người đứng đầu tỉnh hẹn với Đề Thám cùng đến hội kiến ở một địa điểm gần Phồn Xương. Địa điểm ấy được ấn định là chùa Lèo. Hai bên không mang theo vũ khí. Quân tùy tùng ở lại phía sau. Trước hôm gặp, viên đại lý Pháp đến ngủ ở chùa Lèo, Đề Thám ngủ ở trong làng đó…Sau khi trăng lặn khoảng nửa đêm, trong rừng có những tiếng lao xao, chú ý lắm mới thấy. Mười hai người lính lặng lẽ bò qua cây rừng rậm rạp tiến về túp nều nơi Đề Thám đang nằm. Sớm hôm sau ở ngoài chùa tất cả mọi người đều tề tựu đông đủ. Người ta nhìn nhau khắc khoải đợi chờ. Chẳng thấy dấu hiệu gì cho thấy Đề Thám đã bị ám hại, người ta đành chia nhau đi tìm. Trên bãi cỏ bên làng, dưới chân lô cốt đã thấy 12 xác lính được xếp nằm cạnh nhau. Xác viên đội nằm ngoài cùng, một lưỡi dao cắm trên ngực cùng với tờ hòa ước. Còn các xác khác bàn tay chắp lại ôm một mảnh gỗ có đề chữ “phản”. Sau vụ này, Đề Thám đã cho dán khắp nơi bản tố cáo của nghĩa quân về sự phản bội của bọn giặc Pháp… Xưa chùa Lèo có nhà sư ở, về cái chết của Hoàng Hoa Thám còn có câu chuyện truyền thuyết liên quan đến vị sư trụ trì chùa Lèo. Đến năm 1913 nghĩa quân Yên Thế đã tan rã dần, Đề Thám lui về ở ẩn náu trong các khu rừng Yên Thế chờ dịp phát động gây dựng lại phong trào. Thời gian này thực dân Pháp tung tin trước dư luận đã giết được Đề Thám, chúng đem ba cái đầu để ở Nhã Nam và cho rằng trong đó có đầu của Đề Thám để mọi người đến nhận mặt. Nhưng thực tế mọi người lại cho rằng đó không phải là đầu của Đề Thám mà là đầu của nhà sư chùa Lèo. Không biết thực hư nhưng qua chi tiết đó cũng đủ thấy sự gắn bó mật thiết giữa Hoàng Hoa Thám với nhà chùa. Và truyền thuyết thì vẫn cho rằng nhà sư chùa Lèo đã chết thay cho Đề Thám. NGUỒN: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ SỞ VĂN HÓA - THỂ THAO - DU LỊCH TỈNH BẮC GIANG

Bắc Ninh 3553 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa