Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch Travelviet
Tải ứng dụng Travelviet
Địa điểm lưu niệm Vành đai diệt Mỹ Trảng Lớn tọa lạc tại thị trấn Châu Thành, huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh. Trảng Lớn trước đây được quân đội Mỹ chọn xây dựng, vừa là căn cứ quân sự, vừa là hậu cần cho nhiều căn cứ khác như Đồng Pan, Thiện Ngôn. Từ tháng 10/1965 đến tháng 04/1972 nơi đây là căn cứ của Sư đoàn bộ binh số 25 của Mỹ được gọi là “Tia chớp nhiệt đới”. Trước mưu đồ mở rộng chiến tranh của Mỹ, Tỉnh ủy Tây Ninh đã chủ trương thành lập ngay thế trận bao vây xung quanh căn cứ Trảng Lớn, tạo thành Vành đai diệt Mỹ khép kín. Vành đai diệt Mỹ Trảng Lớn là một trong ba vành đai diệt Mỹ xuất hiện đầu tiên ở Đông Nam Bộ bao gồm 8 xã bao vây căn cứ Lữ đoàn 196 Mỹ. Ra đời, tồn tại và củng cố, phát triển, Vành đai diệt Mỹ Trảng Lớn đã làm nên những trận đánh tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực địch. Vành đai diệt Mỹ Trảng Lớn là một sáng tạo, một đặc điểm chỉ có ở Trảng Lớn, đã quy tụ được lòng người, tạo được sức mạnh tổng hợp tiến công địch bằng 3 mũi giáp công, 3 vùng giáp kích, bằng ba thứ quân, tạo ra nhiều cách đánh địch: đánh tại căn cứ, kết hợp đánh lớn, đánh nhỏ, đánh liên tục, ở đâu cũng đánh, lúc nào cũng đánh, bám thắt lưng địch mà đánh, kiềm chân, căng kéo địch, buộc chúng phải co cụm lại. Vành đai diệt Mỹ Trảng Lớn và nhiều nơi khác trong tỉnh Tây Ninh đã phát huy vai trò, tác dụng to lớn trong suốt những năm Mỹ đưa quân trực tiếp tham chiến ở Tây Ninh, góp phần làm rõ thêm một hiện tượng độc đáo, một hình thức đánh giặc sáng tạo, một biểu hiện rực rỡ của chiến tranh nhân dân. Đối với Tây Ninh đây còn là biểu tượng của truyền thống “Tây Ninh trung dũng kiên cường”. Với 2.250 ngày đêm chiến đấu trên Vành đai diệt Mỹ Trảng Lớn (từ tháng 10/1965 đến tháng 4/1972) Đảng bộ và quân dân huyện Châu Thành đã tiến hành 3.825 trận đánh Mỹ ngụy và bình định, lập nhiều thành tích vẻ vang, góp phần cùng cả nuớc đánh bại chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Mỹ. Địa điểm Vành đai diệt Mỹ Trảng Lớn đã được xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia tại Quyết định số 3990/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao Du Lịch ngày 12/01/2013 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh.
Tây Ninh 256 lượt xem
Vườn Quốc gia Cát Tiên được thành lập dựa trên cơ sở sáp nhập Khu rừng cấm Nam Cát Tiên, Khu Bảo tồn thiên nhiên Tây Cát Tiên và Khu Bảo tồn tê giác Cát Lộc, nằm trên địa bàn của 3 tỉnh Bình Phước, Đồng Nai và Lâm Đồng. Diện tích khu vực trung tâm của vườn là 71.920 ha, trong đó, 39.627ha thuộc địa phận tỉnh Đồng Nai, 27.850ha thuộc địa phận tỉnh Lâm Đồng và 4.443ha thuộc địa phận tỉnh Bình Phước. Vườn Quốc gia Cát Tiên là khu vực hiện bảo tồn được nhiều loại động, thực vật quý hiếm; là vùng quan trọng để duy trì hệ sinh thái rừng thường xanh lá rộng - môi trường sống duy nhất (hiện còn) của loài tê giác một sừng ở Việt Nam, khu vực Đông Dương cũng như trên thế giới. Độ che phủ của rừng tự nhiên trong khu vực này lên tới 80%, với hệ sinh thái đa dạng: rừng thường xanh ẩm, đồng cỏ và ngập nước. Địa hình tự nhiên xen kẽ các bàu, đầm, suối, cộng với hơn 90km sông Đồng Nai đã tạo nên cảnh quan đặc trưng cho vườn Cát Tiên, với những ghềnh, thác, các khu đất ngập nước và bán ngập nước,... Những dấu tích về địa chất, địa mạo minh chứng cho quá trình biến đổi của thiên nhiên ở khu vực này hàng triệu năm trước. Hiện nay, Vườn Quốc gia Cát Tiên là một trong những khu dự trữ sinh quyển thế giới ở Việt Nam, đã được UNESCO ghi danh. Theo số liệu thống kê, trong Vườn Quốc gia Cát tiên có 1.610 loài thực vật và 1.568 loài động vật. Trong đó, 31 loài thực vật và 84 loài động vật có tên trong Sách Đỏ Việt Nam, 50 loài chim được ưu tiên bảo vệ ở mức độ toàn cầu và được ghi vào Sách Đỏ IUCN, 2008). Đặc biệt, có 3 loài và phân loài thuộc đặc hữu của Việt Nam đang đứng trước nguy cơ bị diệt vong là chà vá chân đen, tê giác một sừng Việt Nam và hoẵng Nam Bộ. Vườn Quốc gia Cát Tiên đã được xếp hạng di tích quốc gia năm 1997. Trong khu vực Cát Tiên có nhiều địa điểm cảnh quan đẹp, như thác Trời, thác Bến Cự, thác Dựng, thác Mỏ vẹt, thác Nơkrót - Nơkrót... Một trong số những hệ sinh thái nổi bật ở đây là hệ thống sông và các bàu. Sông Đồng Nai, có diện tích lưu vực là 40.800 km2; đoạn chảy qua Vườn Quốc gia Cát Tiên dài khoảng 90km. Suối Đắc Lua dài khoảng 20 km, gom nước từ các bàu ra sông. Bàu Sấu là bàu lớn nhất, có diện tích mặt là 92,63 ha. Trong bàu có khoảng 100 cá thể cá Sấu Xiêm. Khu vực này cũng là nơi sinh sống của loài cá lăng nổi tiếng. Bàu Cá là hồ nước tự nhiên, có diện tích mặt nước 74,3 ha. Bàu Bèo có diện tích 23,92 ha. Xung quanh bàu được bao bọc bởi nhiều cây gỗ lớn... Trong khu vực Cát Tiên còn có diện tích đồng cỏ khá rộng, nơi bảo tồn các loài thú lớn quý hiếm (bò tót, hoẵng), được bảo vệ tốt, hầu như không có tác động của con người. Về hệ thực vật của khu vực Cát Tiên: Nổi bật là rừng thường xanh lá rộng, với diện tích 17.819 ha, nơi có các loài thực vật chủ yếu thuộc họ dầu, như dầu rái, dầu lông,... cẩm lai Bà Rịa, cẩm lai, gõ, giáng hương,... và các loài gỗ lớn...; rừng thường xanh nửa rụng lá có diện tích 5.097 ha, gồm những loài cây gỗ rụng lá vào mùa khô, như bằng lăng ổi, râm,…, các loài cây gỗ lớn rụng lá và hồi lại vào mùa mưa; rừng cây gỗ xen tre nứa có diện tích 14.361 ha...; rừng tre nứa thuần loại có diện tích 29.805 ha, được hình thành dưới tác động của con người, với các loài tre Lồ Ô, mum, tre gai (la ngà); thảm thực vật ngập nước và bán ngập nước có diện tích 3.516 ha, phân bố chủ yếu ở vùng trung tâm khu vực Nam Cát Tiên. Các dấu tích khảo cổ học cho thấy, trong khu vực này đã từng tồn tại một nền văn hóa cổ. Trong lịch sử, khu vực Cát Tiên và vùng phụ cận là không gian cư trú của nhiều dân tộc thiểu số: Mạ, Chơro, S’Tiêng, Mnông, Tày, Nùng, H'mông, Dao, Hoa, Mường, Ê đê,… Các dân tộc này hiện còn bảo lưu nhiều sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng, lễ hội đặc sắc, như lễ hiến tế trâu của người S’Tiêng và Mạ, lễ hội Sayangva (Mừng lúa mới) của dân tộc Chơro, lễ mừng lúa mới của dân tộc S’Tiêng và Mnông... Với những giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học và thẩm mỹ đặc biệt của di tích, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định công nhận Vườn Quốc gia Cát Tiên là Di tích quốc gia đặc biệt (Quyết định số 1419/Quyết Định -Thủ Tướng ngày 27/9/2012). Nguồn Cục Di Sản Văn Hóa.
Lâm Đồng 273 lượt xem
Nằm cách trung tâm huyện 10 km, hồ Đạ Tẻh hiện ra trong màu xanh bao trùm của rừng nhiệt đới nguyên sinh và dãy núi Con Ó hùng vĩ trập trùng. Năm 1990, hồ Đạ Tẻh được khởi công xây dựng. Buôn Con Ó của người Mạ nằm trong lòng hồ được di dời đến mảnh đất cao hơn ngay bên cạnh hồ. Con đập lớn nối 2 sườn núi đã ngăn dòng để những con nước không còn chảy miệt mài vô nghĩa mà tụ lại hợp lưu dâng lên thành hồ. Vào thời điểm đó, hồ Đạ Tẻh là công trình thủy lợi “3 nhất” của tỉnh Lâm Đồng: vốn đầu tư lớn nhất, công trình thủy lợi hoàn chỉnh nhất, mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất. Năm 1997, hồ Đạ Tẻh hoàn thành trở thành công trình thủy lợi lớn nhất tỉnh Lâm Đồng. Mặt hồ có diện tích rộng hơn 100 ha trải dài đến gần 10 km, nơi rộng nhất 400 m, chứa 24 triệu mét khối nước, được bao phủ bởi núi rừng nguyên sinh. Hồ đã mang nguồn nước phục vụ tưới tiêu cho hơn 2.300 ha đất nông nghiệp làm nên những cánh đồng xanh tươi, trù phú ở các xã Mỹ Đức, Quốc Oai, Triệu Hải, Quảng Trị và thị trấn Đạ Tẻh, từng ngày làm cho vùng quê mới trở thành miền quê đáng sống, đưa huyện Đạ Tẻh trở thành huyện nông thôn mới năm 2020 là một trong 3 huyện đầu tiên của Lâm Đồng “về đích” nông thôn mới. Trong tiếng đồng bào Mạ (chủ nhân của vùng đất này), Đạ Tẻh có nghĩa là dòng nước nóng (Đạ: nước, Tẻh: nóng). Có lẽ, một vùng lòng chảo bị bao bọc, che chắn bởi núi đồi nên khí hậu ở đây nắng nóng, khô cháy, những dòng nước chảy qua đây cũng trở nên nóng hơn những nơi khác; vì thế mà cả vùng đất nắng bụi mưa bùn có tên là Đạ Tẻh. Không còn cái nóng khắc nghiệt nữa, dòng nước mát lành từ rừng nguyên sinh làm cho nước hồ ăm ắp quanh năm, vừa tưới tiêu cho mùa màng, vừa cung cấp nước sinh hoạt cho Nhân dân trong huyện, hồ Đạ Tẻh còn góp phần cải tạo, làm thay đổi hệ sinh thái và cảnh quan môi trường tự nhiên, điều hòa môi sinh, tỏa luồng hơi nước mát lành làm cho khí hậu dịu đi, giảm độ nóng cho cả một vùng lòng chảo. Năm 2004, hồ được công nhận là Di tích danh lam thắng cảnh cấp quốc gia. Nguồn Trang thông tin điện tử huyện Đạ Tẻh, tỉnh Lâm Đồng.
Lâm Đồng 256 lượt xem
Thác Liêng Rơwoa hay còn gọi là Thác Voi nằm ở thị trấn Nam Ban, huyện Lâm Hà, cách thành phố Đà Lạt 25km về hướng tây nam. Thác Voi là một trong những thác nước đẹp của Tây Nguyên hùng vĩ với chiều cao hơn 30m, rộng chừng 15m. Các già làng K'ho cư trú lâu đời ở miền đất này kể rằng: Ngày xưa, vị tù trưởng của vùng núi Jơi Biêng có cô con gái rất đẹp. Mỗi khi sơn nữ cất giọng hát thì lá rừng thôi xào xạc, đàn chim ngừng tiếng hót để lắng nghe. Người yêu của nàng là con trai của tù trưởng làng bên. Chàng được nhiều người yêu mến, quý trọng không chỉ bởi vóc dáng vạm vỡ, khuôn mặt khôi ngô mà còn vì sự gan góc, dũng cảm ít ai sánh kịp. Họ đã trao lời hẹn ước nên duyên chồng vợ song chàng trai phải lên đường giết giặc và rồi nhiều mùa trăng trôi qua mà chẳng thấy quay về. Cô gái đau khổ tìm đến ngọn núi hoang vắng mà trước kia họ từng hò hẹn, cất tiếng hát tha thiết, sầu thảm với hy vọng người trong mộng tìm về chốn xưa. Tiếng hát khiến loài chim B'ling xúc động. Chúng rủ nhau bay đi thật xa để dò la tin tức rồi về báo cho nàng biết là chàng trai đã hy sinh ngoài chiến trường. Thế nhưng, sơn nữ vẫn không chịu chấp nhận sự thật phũ phàng đó. Nàng cứ hát, hát mãi cho đến khi kiệt sức, ngã quỵ và không bao giờ gượng dậy được nữa. Đàn voi phủ phục nghe nàng hát bấy lâu nay cũng hóa đá lặng câm. Bỗng có tiếng nổ lớn, trời đất rung chuyển khiến ngọn núi gãy ngang và một dòng thác đột ngột tuôn chảy, tung bọt trắng xóa. Tiếng thác nước rì rầm hòa cùng tiếng xào xạc của rừng cây, tiếng líu lo chim hót như tiếp nối lời ca, tiếng đàn của sơn nữ xinh đẹp, thủy chung. Người K'ho bèn đặt tên cho thác là Liêng Rơwoa Jơi Biêng - thác của những con voi phủ phục hóa đá trước tình yêu nồng nàn, son sắt. Sẽ thật đáng tiếc khi đến Đà Lạt - Lâm Đồng mà không tới Liêng Rơwoa (thác Voi) kỳ bí, thơ mộng. Thác nước gắn liền với sự tích về mối tình thủy chung, bi tráng này đã được công nhận là di tích thắng cảnh quốc gia. Dòng nước trong veo tuôn chảy qua sườn núi đá hoa cương trông thật ngoạn mục, nhất là khi ánh nắng rực rỡ chiếu rọi xuống thác làm bừng lên cầu vồng bảy sắc. Muốn xuống chân thác, du khách phải "chinh phục" 145 bậc tam cấp vòng vèo: khi là những bậc đá thiên tạo "ăn" vào vách núi cheo leo, lúc là các tấm ván của chiếc cầu gỗ xinh xinh chênh vênh bên bờ vực thẳm. Ngút tầm mắt là rừng đại ngàn với những cây cổ thụ hàng trăm năm tuổi, thân và cành chằng chịt dây leo. Giữa mênh mang, lớp lớp cây rừng mầu xanh ngắt hoặc điểm xuyết những chòm lá đỏ rực như lửa, những thảm hoa màu vàng tươi hoặc tím biếc đẹp đến lạ lùng. Dưới chân thác và trong cánh rừng già xuất hiện một số tảng đá lớn có hình thù hệt như những con voi. Thế nên, tiếng thác đổ ầm ào khiến người thưởng ngoạn tưởng như có một đàn voi chạy đua hoặc tung vòi phun nước đùa nghịch với nhau. Phía sau dòng thác trắng xóa đang tung bụi nước mù mịt là những hang động sâu hun hút đầy bí ẩn. Đó là hang Dơi ăn sâu xuống lòng đất đến 50m với những vách đá có các hình thù, mầu sắc rất lạ mắt. Rễ cây và dây leo đan xen chằng chịt, càng xuống sâu, hang càng tối nhờ nhờ và lạnh lẽo như động của phù thủy. Đó là hang Gió với lối vào rất hẹp nhưng bên trong khá rộng, vi vút tiếng sáo gió trời. Bên cạnh vẻ đẹp quyến rũ, thơ mộng, thác Voi từng là cứ địa cách mạng trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp - Mỹ. Mới được tôn tạo thành điểm tham quan du lịch trong những năm gần đây. Năm 2001 thác Voi đã được công nhận là di tích - thắng cảnh quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Lâm Đồng.
Lâm Đồng 264 lượt xem
Thung lũng Tình Yêu là một trong những thắng cảnh thơ mộng nhất tại Đà Lạt, cách trung tâm thành phố khoảng 5 km về phía bắc, thung lũng Tình Yêu có địa chỉ tại số 7 Mai Anh Đào, phường 8, thành phố Đà Lạt. Đó là nơi đập Đa Thiện quy tụ những dòng suối nhỏ chảy từ đồi núi cao, thành hồ Đa Thiện trong vắt uốn quanh thung lũng rợp bóng thông xanh. Vào những năm 1930, toàn quyền Đông Dương và các cặp tình nhân người Pháp thường chọn khung cảnh này cho những buổi hẹn hò, rồi đặt tên là Valleé d'Amour. Đến thời vua Bảo Đại, vùng này được gọi là Thung lũng Hòa Bình. Năm 1953, ông Nguyễn Vỹ - Chủ tịch Hội đồng thị xã Đà Lạt lúc bấy giờ - đã đề xuất đổi tên thành Thung lũng Tình Yêu. Thung lũng Tình Yêu đẹp và cuốn hút bởi thung lũng sâu và đồi thông quanh năm xanh biếc. Năm 1972, một đập ngăn nước được xây dựng vắt ngang qua thung lũng tạo thành hồ Đa Thiện, làm tăng thêm sức quyến rũ cho cảnh quan chung, đồng thời xuất hiện thêm hai tên gọi khác bên cạnh Thung lũng Tình Yêu là đập 3 và hồ Đa Thiện 3. Du khách có thể men theo những lối mòn hoặc leo cả trăm bậc, đi qua những cổng hoa với màu sắc rực rỡ để lên đồi Vọng Cảnh. Từ đây, Thung lũng Tình Yêu hiện ra trong tầm mắt đẹp tựa một bức tranh sinh động. Năm 1998, Bộ Văn hóa Thông tin đã công nhận hồ Đa Thiện – Thung lũng Tình yêu là di tích thắng cảnh cấp quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng.
Lâm Đồng 256 lượt xem
Núi Lang Bian nằm trên địa bàn huyện Lạc Dương, cách trung tâm thành phố Đà Lạt 12km về phía bắc. Đây là địa điểm thích hợp cho các nhà dân tộc học, cho các du khách yêu văn hoá truyền thống đến nghiên cứu văn hoá của các dân tộc Nam Tây Nguyên. Núi Lang Bian còn được gọi là Núi Mẹ, gồm 2 ngọn, có độ cao 2.167m. Chuyện xưa kể rằng có một đôi trai tài gái sắc yêu nhau tha thiết - chàng K'lang và nàng Hơ Bian. Do lời nguyền thù hằn của hai bộ tộc mà hai người đã phải chia lìa. Nàng sau khi chết đã hóa thân thành dãy núi mà người dân tộc Hơ Ho-lạch gọi là Núi Mẹ và sữa từ bộ ngực của nàng đã tuôn tràn thành những dòng suối, dòng thác tươi mát cho đời. Từ đó hai ngọn núi được đặt tên là Lang Bian. Núi Lang Biang hay còn gọi là núi Bà với chiều cao 2.189m thuộc dãy Bidoup huyền thoại từ lâu đã trở thành điểm đến thường xuyên của du khách. Núi Langbiang còn nổi tiếng nhờ truyền thuyết gắn liền với lịch sử của người Cơ Ho bản địa về thiên tình sử nổi tiếng của chàng Lang và nàng Biang. Từ năm 2004, Bộ Văn hóa Thông tin đã công nhận Lang Biang là di tích thắng cảnh cấp quốc gia. Nguồn Sở Văn Hóa , Thể thao và Du Lịch tỉnh Lâm Đồng
Lâm Đồng 254 lượt xem
Thác Prenn là một thác nước ở thành phố Đà Lạt thuộc tỉnh Lâm Đồng. Thác Prenn nằm cạnh quốc lộ 20, ở cửa ngõ vào Thành Phố Đà Lạt là một trong những Khu Du Lịch sinh thái về rừng, suối. Thác ở chân đèo Prenn cách trung tâm Đà Lạt khoảng 10 km. Thác nằm trong khu rừng nguyên sinh còn sót lại. Dòng nước từ trên ghềnh đá với độ cao hơn 20m cao đổ xuống trắng xóa như một dải lụa bạch trông tựa mái tóc của nàng Bạch Mao Tiên cô. Có thể vì thế mà một số du khách gọi là thác Tiên Sa. Thác Prenn bắt nguồn từ suối Prenn, khởi nguồn từ khu vực hố Tôm, suối Bảo Đại (Thung lũng sau Dinh 1 – Đà Lạt). Suối Prenn còn được gọi là Đạ Prền và Thác Prenn còn có tên cổ là Liang Tarding. Đến thác Prenn, du khách có thể tham quan, vui chơi giải trí và lên thăm đền thờ Âu Lạc, đền thờ vua Hùng tại tỉnh Lâm Đồng. Truyền thuyết thác Prenn còn gắn liền với lịch sử phát triển của Vương triều Chăm ở thế kỷ XVII thuộc triều đại Pôrômê (1625 – 1651). Từ năm 1998, thác Prenn được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng di tích thắng cảnh cấp quốc gia. Nguồn Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh Lâm Đồng
Lâm Đồng 261 lượt xem
Di tích khảo cổ Cát Tiên là một quần thể các phế tích kiến trúc bằng gạch có quy mô rất rộng lớn, trải dài khoảng 15km theo tả ngạn sông Đồng Nai từ xã Quảng Ngãi đến xã Đức Phổ và Gia Viễn (huyện Cát Tiên - tỉnh Lâm Đồng). Kết quả khai quật khảo cổ (từ năm 1994 - 2006) nhiều phế tích kiến trúc đền tháp, mộ tháp, nhà dài, hệ thống máng nước, đường đá cổ,… đã được phát lộ. Các kiến trúc ở đây có quy mô lớn nhỏ khác nhau tùy vào công năng, có bình đồ vuông hoặc hình chữ nhật, cửa chính quay về hướng Đông. Quá trình khai quật đã tìm thấy hơn 1000 hiện vật gồm nhiều chất liệu như vàng, bạc, đồng, đá quý, gốm,… phong phú về loại hình như: ngẫu tượng Linga - Yoni, tượng thần Ganesa, thần Uma, nhẫn, hạt chuỗi, các lá vàng dập nổi hình của các vị thần, các linh vật Balamon giáo. Qua loại hình kiến trúc, hiện vật tìm được cho thấy đây là một thánh địa tôn giáo ảnh hưởng Ấn Độ giáo và là dấu tích của một nền văn hóa đặc sắc trong quá khứ. Di tích khảo cổ Cát Tiên là một phát hiện lớn của khảo cổ học Việt Nam cuối thế kỷ XX, có ý nghĩa quan trọng trong việc nghiên cứu các nền văn hóa cổ ở Nam Bộ và Tây Nguyên. Tư liệu khai quật khảo cổ cho thấy, văn hóa Cát Tiên có quá trình phát triển khá dài: Giai đoạn sớm vào khoảng thế kỷ thứ IV - VI và giai đoạn muộn có niên đại thế kỷ VII - 10 sau công nguyên. Đặc biệt quá trình phát triển của văn hóa Cát Tiên có mối quan hệ gần gũi với văn hóa Champa ở Nam Trung Bộ và văn hóa Óc Eo - hậu Óc Eo của đồng bằng Nam bộ Việt Nam. Theo ý kiến của cố giáo sư Trần Quốc Vượng trong hội thảo khoa học Di tích khảo cổ Cát Tiên, (tháng 3 năm 2001) đã kết luận: “ Di tích này có nhiều yếu tố bản địa độc đáo (nội sinh) đồng thời cũng có nhiều yếu tố bên ngoài (ngoại sinh - exogenous). Các yếu tố ngoại sinh đã thấy từ phía Tây Nam là Chân Lạp và từ phía Đông Bắc là Champa, bao gồm cả về văn hóa hữu thể và vô thể. Có thể những yếu tố văn hóa hữu thể hơi nghiêng về Chân Lạp còn những yếu tố vô thể lại nghiêng về Champa. Do vậy, di tích này có tính “ĐỨNG GIỮA và NÓ là CHÍNH NÓ”. Di tích khảo cổ Cát Tiên nằm ở khoảng giữa tuyến đường tỉnh lộ 721 nối quốc lộ 20 (ngã ba Madagui - huyện Đahuoai - tỉnh Lâm Đồng) với quốc lộ 14 (ngã ba Sao Bọng - huyện Bù Đăng - tỉnh Bình Phước). Trung tâm di tích nằm ở bờ Bắc sông Đồng Nai sát với vùng lõi của Vườn quốc gia Cát Tiên, cách Đà lạt khoảng 190km (về phía bắc) và Tp. Hồ Chí Minh khoảng 180km (về phía nam), đây là vị trí khá đắc địa trên bản đồ du lịch, rất thuận lợi cho các Tour du lịch từ Tp Hồ Chí Minh, Đà lạt và các tỉnh Tây Nguyên tới tham quan. Di tích khảo cổ Cát Tiên còn được mệnh danh là THÁNH ĐỊA CÁT TIÊN, là nơi lưu giữ những bằng chứng của một nền văn hóa đặc sắc cách đây hơn 1000 năm lịch sử. Với hiện trường di tích rộng lớn và số lượng hiện vật phong phú, có giá trị đặc biệt như các lá vàng dập nổi hình các vị thần, vật linh Balamon giáo và sưu tập Linga - Yoni bằng vàng, đồng, đá, đá quý… trong đó có bộ ngẫu tượng Linga - Yoni khổng lồ được nhận định là lớn nhất Đông Nam Á (so sánh với các di tích cùng tích chất). Ngoài khu di tích khảo cổ Cát Tiên trên địa bàn huyện Cát Tiên du khách còn được tham quan Di tích Lịch sử kháng chiến Khu ủy khu VI và một số điểm sinh hoạt của Người Mạ, dân tộc bản địa lâu đời đã và đang sinh sống trên vùng đất huyền thoại này. Khu di tích khảo cổ Cát Tiên mang đậm dấu ấn văn hóa bản địa, nhưng vẫn thể hiện sự tiếp thu tinh hoa của những nền văn hóa khác trong suốt chiều dài lịch sử tồn tại từ thế kỷ IV đến IX. Nơi đây gắn liền với một cộng đồng cư dân cổ có tổ chức, quy mô, với hệ thống kinh tế - xã hội thống nhất, chặt chẽ có trình độ phát triển cao (mà minh chứng thuyết phục nhất là sự xuất hiện chữ viết trên các mảnh vàng). Sự hình thành và phát triển của di tích đóng vai trò quan trọng trong tiến trình lịch sử của vùng Nam Tây Nguyên - Đông Nam Bộ. Với giá trị đặc biệt tiêu biểu, di tích khảo cổ Cát Tiên (huyện Cát Tiên, tỉnh Lâm Đồng) được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt (tại Quyết định số 2408/Quyết Định -Thủ Tướng ngày 31/12/2014) Nguồn Cục Di Sản Văn Hóa.
Lâm Đồng 295 lượt xem
Núi lửa Nâm B’Lang (còn có tên gọi khác là Núi lửa Chư R’luh), thuộc địa phận xã Buôn Choah và xã Nam Đà. Đây là núi lửa được tạo thành trong giai đoạn cuối của lịch sử phát triển địa chất - Công viên địa chất toàn cầu (CVĐCTC) UNESCO Đắk Nông. Đây là núi lửa duy nhất trong vùng Công Viên Địa Chất Đắk Nông tạo ra hệ thống hang động dung nham, có quy mô và độc đáo bậc nhất Đông Nam Á. Theo khảo sát, nghiên cứu của các nhà khoa học, quá trình hoạt động các dòng dung nham từ miệng Núi lửa Nâm B’Lang chảy về tất cả các hướng khác nhau (Tây Bắc, Đông Bắc, Tây Nam và Đông Nam). Đến nay, phát hiện được 4 hệ thống hang động, gồm 50 hang động có đặc điểm phân bố và cơ chế tạo thành hang, cửa hang phong phú, đa dạng và đẹp. Có nhiều hang phân bố ở tầng nông, nhưng cũng có nhiều hang phân bố ở tầng sâu hàng chục mét. Núi lửa Nâm B’Lang, phân bố ở độ cao khoảng 601m so với mực nước biển với chiều sâu miệng núi lửa khoảng 59m. Trục dài núi khoảng 160m, trục ngắn khoảng 100m; diện tích miệng núi lửa khoảng 4ha, diện tích núi lửa khoảng 1,6km2. Khu vực Núi lửa Nâm B’Lang nằm gần các bon, buôn giàu truyền thống văn hóa của các dân tộc M’nông, Ê đê… với các lễ hội, nghề truyền thống và các di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh đã được xếp hạng tạo thuận lợi để kết nối tour, tuyến du lịch, khai thác và phát triển du lịch trong tương lai. Ngày 12/3/2024, Bộ Văn Hóa -Thể Thao -Du Lịch đã ban hành Quyết định số 611 xếp hạng Di tích quốc gia đối với Danh lam thắng cảnh Núi lửa Nâm B’Lang, xã Buôn Choah và xã Nam Đà. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông.
Đắk Nông 284 lượt xem
Thác Drai Dlông cách trung tâm thành phố Buôn Ma Thuột 35 km, thuộc địa bàn hai xã Quảng Hiệp và Ea M’Drŏh, huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk. Drai trong tiếng Êđê nghĩa là thác; Dlông có nghĩa là cao, vì vậy, Drai Dlông có nghĩa là thác cao. Ngoài ra, thắng cảnh này còn có tên gọi khác là thác Ba tầng. Nằm ở phía Tây Nam của xã Quảng Hiệp, được tạo thành bởi hai ngọn đồi bao bọc có độ cao trung bình 500m so với mặt nước biển, dòng chảy của thác Drai Dlông bắt nguồn từ dòng chảy của hai con suối Ea’Drǒh (con suối lớn) và suối Ea M’Drǎh (con suối nhỏ), đến đoạn gần thác khoảng 01 km thì hòa quyện vào nhau, gặp những tảng đá to lớn, thẳng đứng với độ cao 30m chặn lại, chia dòng chảy thành ba nhánh, trải dài như ba dải lụa trắng từ trên cao đổ xuống. Từ dưới nhìn lên, ngọn thác cao vời vợi, lấp lánh ánh bạc, xung quanh là rừng cây xanh tốt với các loại cây vươn cao để thích nghi với dạng địa hình vách đá thẳng đứng, có nhiều loại cây gỗ quý hiếm như sao, hương, cà chít, bằng lăng tím, đặc biệt là loài xương rồng mọc trên đá. Cách thác Drai Dlông khoảng 01 km là buôn M’Drŏh (buôn Cháy), đây là buôn của người Êđê Adham. Trong những năm kháng chiến chống Mỹ, bà con buôn M’Drŏh cùng với buôn Rừng, buôn Ưng, buôn Ea Win đã vận chuyển lương thực cho kháng chiến từ trạm A10-B3 qua Ea H’Leo, Krông Bông và xuống Phú Yên, Khánh Hoà. Buôn M’Drǒh là buôn căn cứ của H5, đồng bào trong buôn đã kiên trì đấu tranh, tổ chức tuần tra canh gác, đưa dẫn, nuôi dấu cán bộ cách mạng, vót chông, làm bẫy, chế tạo vũ khí thô sơ để bảo vệ buôn làng. Thời kỳ chiến tranh ác liệt, địch tổ chức càn quét, bắt bớ, đánh đập dã man nhưng đồng bào buôn M’Drǒh từ già, trẻ, trai, gái thà bị đánh đập, đói cơm lạt muối chứ quyết không hợp tác với giặc, một lòng theo Đảng đến cùng. Khi bị địch phát hiện đây là cơ sở nuôi giấu cán bộ cách mạng, cả buôn M’Drǒh bị đốt cháy không còn một nhà nào nên buôn còn được gọi là Buôn Cháy. Ngày 15/12/2004, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã xếp hạng thác Drai Dlông là Di tích Danh lam thắng cảnh Quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Đắk Lắk.
Đắk Lắk 278 lượt xem
Danh lam thắng cảnh thác Drai Yông thuộc địa bàn xã Ea M’nang, huyện Cư Mgar và xã Cuôr Knia, huyện Buôn Đôn, cách trung tâm thành phố Buôn Ma Thuột 22 km về hướng Tây Bắc. Thác Drai Yông được xếp hạng di tích quốc gia tại Quyết định số 823/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao Du Lịch ngày 09/3/2017 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Tổng diện tích khoanh vùng các khu vực bảo vệ di tích: 83,62 ha (Khu vực I: 5,83 ha; Khu vực II: 77,80 ha). Trong tiếng Êđê, thác Drai Yông, có nghĩa là “thác đòn dông” hay “thác nước đổ mạnh”. Đây là một dòng thác đẹp nằm ở trung nguồn suối Ea Tul – một dòng suối bắt nguồn từ suối Kǒ Čư Kpô, huyện Krông Búk. Suối Ea Tul có dòng chảy từ Đông sang Tây, cuối cùng đổ ra sông Sêrêpốk. Trên dòng chảy của mình, dòng suối này tạo nên ba dòng thác đẹp là thác Drai Kroa, Drai Yông và Drai Mpi. Trong hệ thống thác này, Drai Yông là thác thơ mộng và hùng vĩ nhất. Thượng nguồn Drai Yông là cả một dòng suối rộng gần 100m, 48 bờ phía Bắc là những bụi tre, khóm nửa mọc đan xen nhau và những cánh rừng tái sinh được chính quyền địa phương cho trồng để khôi phục cảnh quan, tạo môi trường cho di tích. Bờ phía Nam là những thảm cỏ xanh mượt và cánh đồng ngô tươi tốt. Khi chỉ còn cách nơi thác đổ khoảng 10m, nước từ thượng nguồn bỗng cuồn cuộn chảy về, bất chợt đứt gãy đổ xuống một thung lũng sâu tạo nên dòng thác Drai Yông. Nơi thác đổ có chiều rộng khoảng 80m và chiều cao khoảng 12m, nước cuồn cuộn đổ tạo ra những âm thanh vang vọng cả một vùng. Hơi nước, bụi nước từ dòng thác bay trắng xóa, mù mịt tựa như màn sương bay lơ lửng trong không khí, khi ánh mặt trời chiếu xuyên qua màn hơi nước này trở thành dải cầu vồng rực rỡ huyền ảo dưới ánh nắng ban mai. Danh lam thắng cảnh thác Drai Yông là một bộ phận cấu thành di tích của huyện Cư Mgar và huyện Buôn Đôn. Với cảnh quan thiên nhiên nên thơ, không khí trong lành và thoáng mát, thác Drai Yông là một địa điểm du lịch lý tưởng, có sức hút rất lớn đối với những người đam mê các hoạt động dã ngoại ngoài trời, muốn tìm về thiên nhiên để xua tan căng thẳng, mệt mỏi sau những ngày lao động nặng nhọc nơi đô thị ổn ào, náo nhiệt và bụi bặm. Bên cạnh đó, hệ sinh thái quanh Thác còn lưu giữ được nhiều nét hoang sơ, lại gần với trung tâm thành phố Buôn Ma Thuột, giao thông tương đối thuận tiện cho du khách trong và ngoài tỉnh cũng như khách quốc tế đến tham quan, trải nghiệm, khám phá tại danh thắng này. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Cư Mgar, tỉnh Đắk Lắk
Đắk Lắk 282 lượt xem
Hồ Lăk theo ngôn ngữ của dân tộc Mnông thì từ “Lăk” có nghĩa là “Nước”. Hồ Lăk còn gọi có tên gọi khác là hồ Lạc Thiện, nằm ngay thị trấn Liên Sơn, huyện Lăk, cách trung tâm Buôn Ma Thuột 56km về phía Nam trên quốc lộ 27 đường đi Đà Lạt. Hồ Lăk có diện tích hơn 500 hecta, đây là một trong những hồ tự nhiên có diện tích lớn nhất ở Việt Nam, phía Tây Nam của hồ thông với dòng sông Krông Ana (Sông vợ) là một trong những nhánh sông lớn của dòng Sêrêpôk, phía Tây hồ Lăk là dãy Čư Yang Sin hùng vĩ như ngực chàng trai cường tráng che chắn cho mặt hồ bốn mùa phẳng lặng dưới chân núi. Từ trên đỉnh đèo Lạc Thiện của buôn Yang Rôk thuộc xã Lăk Yang Tao nhìn xuống chúng ta sẽ thấy cảnh hồ hiện ra với một vẻ đẹp lộng lẫy – Trời mây, nước, đồi núi, đồng ruộng hoà lẫn vào nhau như một bức tranh thuỷ mạc. Hồ Lăk còn gắn liền với truyền thuyết về lửa và nước của đồng bào Mnông. Chuyện kể rằng: Ngày xửa, ngày xưa đã lâu lắm rồi, chẳng biết vì nguyên cớ gì thần nước và thần lửa bỗng mâu thuẫn với nhau. Sau một trận kịch chiến, thần nước thua trận phải chui vào một tảng đá. Từ đó hạn hán bắt đầu xảy ra, mấy năm liền không có mưa, cây cối và súc vật chết hết. Dân làng ngửa mặt lên trời, tiếng ai oán dậy đất. Một ngày kia, có một chàng trai nghèo ra đi, với quyết tâm tìm ra nguồn nước cho buôn làng. Chàng cứ đi mãi, đi mãi, một lần mệt quá chàng trai ngồi nghỉ trên một tảng đá có một chú lươn đang nằm cuộn tròn. Chàng bắt chú lươn đó đem về bỏ trong một cái nồi, sáng hôm sau chàng bỗng thấy có những giọt nước từ miệng lươn nhả ra, đọng dưới đáy nồi. Chàng linh cảm rằng: Thần Nước đây rồi!. Chàng bèn thả lươn ra và cứ lần theo dấu lươn trườn mà đi, đi mãi, tới khi lươn biến mất thì cũng vừa lúc một hồ nước mênh mông vụt hiện ra trước mắt. Chàng trai dụi mắt một lần, hai lần, rồi lại một lần nữa mới dám tin rằng không phải mình mơ. Hồ Lăk có từ đấy. Ngày nay, hồ Lăk là một điểm du lịch hấp dẫn, đến đây du khách sẽ được cưỡi voi, chèo thuyền độc mộc, tìm hiểu về phong tục tập quán truyền thống của cộng đồng tộc người Mnông tại buôn Mliêng – một trong những buôn cổ đang được bảo tồn của tỉnh. Bên cạnh đó, hồ Lăk còn là một vựa cá lớn của tỉnh, là nguồn cung cấp thuỷ sản dồi dào phục vụ cho đời sống của nhân dân. Đặc biệt, trên đỉnh đồi cạnh hồ Lăk đã được vua Bảo Đại xây dựng một Biệt Điện để nghỉ ngơi, ngắm phong cảnh. Biệt Điện hiện được Công ty Du lịch Đắk Lắk trùng tu và khai thác phục vụ khách du lịch. Ngày 11/5/1993, hồ Lăk được nhà nước công nhận là di tích danh lam thắng cảnh quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Đắk Lắk
Đắk Lắk 293 lượt xem
Thác Dray Sáp Thượng nằm trên dòng sông Ea Krông, cạnh buôn Kuôp thuộc địa phận xã Ea Na, huyện Krông Ana, cách trung tâm thành phố Buôn Ma Thuột 18km về phía Nam. Nhìn từ xa, thác Dray Sáp Thượng nổi bật một màu trắng xóa trên mặt nước bàng bạc của dòng sông Ea Krông. Hai bên dòng sông là một màu xanh mênh mông của núi rừng. Ngay khu vực thác, một hình ảnh thật hùng vĩ, gây ấn tượng mạnh mẽ đó là hình ảnh dòng sông Ea Krông, với làn nước trôi nhè nhẹ phía thượng nguồn, bỗng nhiên gấp khúc bởi một thềm đá chắn ngang cả dòng sông, rộng khoảng 70m. Nước sông ào ào dội xuống vực thẳm cao khoảng 08m, vang vọng cả một góc rừng. Mùa mưa, nước ngập tràn mặt sông, chúng ta chỉ thấy một ngọn thác khổng lồ, dữ dội. Tuy nhiên, đến mùa khô lưu lượng nước sông vơi hẳn, tạo thành 09 ngọn thác lớn nhỏ khác nhau. Trong số 09 ngọn thác, có 05 ngọn thác nằm phía giữa dòng sông cách nhau từ 05 đến 10m, có dòng nước ầm ầm đổ xuống, nhưng có dòng nước lại chảy róc rách nhẹ nhàng. Thác Dray Sáp Thượng từ xa xưa đã trở thành tình yêu và sự gắn bó của người dân bản địa nơi đây. Được thể hiện qua câu chuyện cổ dân gian của người Êđê đầy thi vị, về sự tích của dòng thác Dray Sáp Thượng này. Chuyện kể rằng: Thuở xa xưa, tại một buôn làng Êđê nọ có một người con gái rất đẹp tên là H’Mi, nàng yêu một chàng trai cao lớn, khỏe mạnh, hiền lành. Hàng ngày, đôi trai gái thường rủ nhau đi làm rẫy. Một hôm, sau khi làm rẫy xong, hai người rủ nhau đến nghỉ trên một tảng đá dưới tán cây cổ thụ xum xuê. Ngồi nghỉ chưa kịp ráo mồ hôi thì họ bổng thấy một con quái vật, đầu to như quả núi, mắt lớn tựa nồi đồng, râu dài mấy sải tay, tóc nhọn như tên, toàn thân phủ một lớp vảy trắng, lấp lánh như bạc. Con quái vật bay lên bầu trời rồi bất thần sa xuống đất như quạ vồ mồi, chân nó đạp mạnh làm cả một khoảng đất rộng lún xuống và tại đó một cột nước khổng lồ phun lên dữ dội, kéo theo cả nàng H’Mi đang khiếp đảm, còn người yêu của nàng thì bị cuốn tung đi nơi khác. Chàng trai như mảnh hổ cố sức giằng kéo người yêu lại nhưng đành tuyệt vọng, nhìn người yêu đang tan biến vào lớp sương mù, cùng những vẩy trắng lấp lánh. Từ đó, chàng trai biến thành một thân cây lớn, gốc cắm sâu vào ghềnh đá, thân mang dáng dấp một người đau khổ đang dang tay than khóc. Còn cột nước khổng lồ thì biến thành ngọn thác Dray Sáp Thượng ngày nay. Và, ở đầu kia nàng H’Mi vẫn thủy chung gào khóc đêm ngày đòi lại người yêu. Ngoài ra, thác Dray Sáp Thượng còn gắn liền với sự kiện lịch sử như sau: những năm 1930 – 1933, thực dân Pháp đã huy động dân phu và tù chính trị tại Nhà đày Buôn Ma Thuột lao dịch hết sức cực nhọc, gian khổ dưới đòn roi tra tấn, cực hình của chúng để xây dựng một đoạn đường vòng cung đi qua thác cùng với chiếc cầu treo qua sông Ea Krông. Ngày nay, chúng ta vẫn thấy hai bên còn hai mấu cầu mà thực dân Pháp đã cho xây dựng, đây là minh chứng lịch sử thuyết phục nhất về sự tàn ác của thực dân Pháp lúc bấy giờ, đã có không biết bao nhiêu dân phu và tù chính trị đã bỏ xác nơi rừng sâu, vực thẳm. Và đây, cũng chính là nơi thử thách, rèn luyện tin thần và ý chí đấu tranh cách mạng của những người Cộng sản yêu nước. Ngày 04/1/1999, Bộ VHTT đã ra quyết định số 01/1999/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao công nhận thác Dray Sap Thượng là di tích danh lam thắng cảnh quốc gia. Diện tích quản lý của thác là 277,5 ha. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Đắk Lắk
Đắk Lắk 289 lượt xem
Thuộc địa phận thôn Giang Tiến, xã Ea Puč, huyện Krông Năng, cách trung tâm thành phố Buôn Ma Thuột khoảng 56 km về hướng Đông. Bắt nguồn từ những dòng suối trong rừng sâu đổ ra với 4 thác chính, mỗi thác có một vẻ đẹp riêng. Thuỷ Tiên tựa như một nàng tiên ẩn mình bên rừng núi với những dòng thác hiền hòa uốn lượn giữa đại ngàn. Đến với thắng cảnh thác Thủy Tiên chúng ta sẽ được thả hồn trong tiếng suối reo, ngắm bức tranh huyền ảo của thiên nhiên hai bên bờ thác, với những vách đá dựng đứng đến lưng chừng trời, và muôn vàn loài hoa, bướm, chim, thú. Không chỉ được biết đến như một bức tranh sơn thuỷ hữu tình mà dòng thác cũng được gắn với câu chuyện cổ dân gian của người Êđê. Chuyện kể rằng: Ngày xưa tại một buôn làng Êđê có chàng trai tên là Đăm Ji, tướng mạo phi thường, chân tay chàng rắn chắc như đá. Đăm Ji giỏi nghề săn bắn, mỗi nhát kiếm của chàng vun ra là muôn thú phải khiếp sợ, nhưng tính chàng lại rất nóng nảy, hung hăng, nếu ai làm trái ý của chàng lập tức chàng thẳng tay trừng trị người đó, nên dù rất tài giỏi nhưng chàng Đăm Ji không được mọi người nể phục, ngược lại người em ruột của chàng lại hiền lành, tốt bụng nên được mọi người yêu thương và quý trọng. Một hôm hai anh em Đăm Ji vào rừng săn thú, chưa săn được con thú nào mà cái miệng lại khát nước, trong rừng không có giọt nước để uống. Trong lúc tuyệt vọng vì khát, đang cầm cây kiếm trên tay chàng Đăm Ji nổi nóng liền vung một nhát xuống đất, nhát kiếm vừa đâm xuống đất bỗng trời đất rung chuyển và một dòng suối hiện ra trước mặt, chàng hét to vui sướng vì đã có nước cứu được cơn khát. Chàng đưa tay vung một mạch bảy nhát kiếm nữa xuống đất, thế rồi ở cách dòng suối không xa tự nhiên đá lở, rất rung, muôn thú hoảng loạn, chàng liền tới nơi xem thấy hiện ra trước mặt một dòng suối nữa. từ đó trong khu rừng mà chàng trai hay đến săn có hai dòng suối, suối phía Tây được mọi người đặt tên Ea Đăh và suối phía Đông được mọi người đặt tên Ea Puč. Nhưng hai dòng suối này lại có hai tính cách khác nhau cũng giống như hai anh em nhà Đăm Ji vậy. Suối Ea Đăh ở phía Tây có tính cách giống như người anh, rất hùng dũng, dữ dội. Nhắc đến tên dòng suối này người dân trong vùng ai cũng khiếp sợ, nếu đến đây bắt cá, tìm nước uống phải hết sức đề phòng không sẽ bị dòng suối cuốn trôi, trẻ em trong vùng xuống tắm thường bị dòng suối cuốn mất. Những ai đến đây đánh bắt cá mà khen suối này nhiều tôm cá mới bắt được cá, nếu mà nói dòng suối này ít cá hoặc không có cá, suối sẽ không cho cá, có bắt cả ngày họ cũng không được một con cá nào. Khi dòng suối giận dữ sẽ dâng nước gây lũ lụt để cuốn trôi người. Ngược lại, dòng suối Ea Puč ở phía Đông rất hiền hòa không làm hại mọi người, hể ai đến đây câu cá, bắt cá thì ra về tôm cá đầy gùi, nên mọi người gọi dòng suối Ea Puč là suối hiền. Dòng suối giống như người em hiền lành và tốt bụng thường hay giúp đỡ người khác, không giống như dòng suối Ea Đăh hung dữ. Bên cạnh đấy thác Thủy Tiên còn được gắn với câu chuyện tình đẹp giữa anh bộ đội cụ Hồ và một thiếu nữ dân tộc Êđê xinh đẹp, cả hai đã anh dũng chiến đấu chống kẻ thù đến hơi thở cuối cùng để bảo vệ buôn làng, bảo vệ chiến khu cách mạng góp phần vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta. Ngày 03/3/2009 Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ra quyết định xếp hạng thác Thuỷ Tiên là di tích danh lam thắng cảnh quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh
Đắk Lắk 274 lượt xem
Thác Drai Kpơr thuộc buôn Trưng (thường gọi là buôn M’Trơng) xã Čư Bông, huyện Ea Kar, cách trung tâm thành phố Buôn Ma Thuột khoảng 100km về hướng Đông Nam. Trong tiếng Êđê: Drai có nghĩa là thác, Kpơr có nghĩa là linh hồn, tâm linh, thác Drai Kpơr có nghĩa là “thác linh hồn”, “thác tâm linh”. Ngọn thác từ lâu đã gắn bó với cuộc sống của đồng bào Ê đê vùng Čư Yang trong sự tôn kính trân trọng, là nơi Yang (thần linh) ngự trị, cho dòng nước mát lành, cho cánh rừng xanh mướt và đem lại sự sống cho dân làng. Thác Dray Kpơr được bắt nguồn từ dãy Cư Yang (Núi Thần) cao 769m, dòng Dray Kpơr là sự hợp lưu giữa dòng chảy Ea Kpăm và suối Ea Kpơr phát nguyên từ dãy Čư Kdroah có độ cao khoảng 700 m, trải dài hơn 100 m, vươn rộng khoảng 50 m, từ đây mạch nước len lỏi qua khe đá rồi từ độ cao 550m đột ngột đổ ào xuống xuống một thung lũng nhỏ thuộc Buôn Trưng, mạch nước rơi xuống vỡ tan tạo ra thác nước cao đến 30 m sau đó hòa chung cùng dòng sông Krông Pác. Thác là sự nối tiếp của 4 ngọn thác, mỗi ngọn thác có một vẻ riêng. Bao quanh là những cánh rừng nguyên sinh với nhiều hệ động thực vật phong phú. Cách thác 500m là căn cứ cách mạng buôn Trưng từ 1960 đến năm 1975, nơi ghi dấu những kỳ tích cách mạng thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Chuyện kể rằng: Vào những năm 60 của thế kỷ trước, Mỹ - Diệm chủ trương thực hiện hơn nữa những chiến lược chiến tranh đối với miền Nam Việt Nam. Chính vì vậy khi đạo luật 10-59 được ban hành. Ấp chiến lược tiến hành trên toàn lãnh thổ, kể từ bên này vĩ tuyến 17. Tây Nguyên cũng không nằm ngoài chiến dịch ấy. Và buôn Trưng là một trong những nơi mà ý đồ "chiến thuật" mị dân dùng người Thượng làm lực lượng nòng cốt (lực lượng Furô) để triệt tiêu cộng sản nằm vùng được sử dụng triệt để. Căn cứ cách mạng Dray Kpơr ra đời giữa khói lửa chiến tranh. Cùng lúc đó một đơn vị bộ đội giải phóng cũng ra đời (lấy mật danh H1) và đóng quân ngay dưới chân thác Dray Kpơr. Khi phát hiện ra căn cứ này, Mỹ - Ngụy liên tiếp tiến hành những cuộc khủng bố trắng, buôn Trưng liên tiếp phải gánh những quả bom từ trên trời rơi xuống. Ngoài quang cảnh thiên nhiên thơ mộng, hùng vĩ, gắn bó với di tích kháng chiến và gần gũi buôn làng, thác Drai Kpơr còn cung cấp nguồn nước phục vụ tưới tiêu cho cánh đồng buôn Trưng. Ngày 15/12/2004, Bộ Văn hóa – Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) đã ban hành Quyết định số 105/2004/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao xếp hạng thác Drai Kpơr là Di tích Danh lam thắng cảnh cấp Quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Đắk Lắk.
Đắk Lắk 309 lượt xem
Khu căn cứ kháng chiến tỉnh Đắk Lắk (1965 - 1975) là nơi ghi dấu những sự kiện lịch sử quan trọng trong truyền thống đấu tranh dựng nước và giữ nước của nhân dân các dân tộc tỉnh Đắk Lắk. Nơi đây không chỉ là đường dây liên lạc thông tin, chuyển tiếp tế từ miền Bắc vào hậu phương tại miền Trung đến các tỉnh miền Nam mà còn là nơi Tỉnh ủy Đắk Lắk cùng các đơn vị ban ngành trong tỉnh chọn làm căn cứ, sống làm việc và hoạt động cách mạng. Đặc biệt, Khu căn cứ còn là nơi diễn ra 3 lần Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk: lần thứ III (năm 1966), lần thứ IV (6/1969), lần thứ 5 (11/1971); là hành lang để đưa đón cán bộ tăng cường cho chiến trường Tây Nguyên trong những năm 1968 -1973. Ngày 29/12/2023, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ban hành Quyết định số 4241/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao Du Lịch về việc xếp hạng di tích quốc gia đối với Di tích lịch sử Các điểm di tích bổ sung vào Khu căn cứ kháng chiến tỉnh Đắk Lắk (1965-1975), các xã Hòa Lễ, Hòa Phong, Cư Pui, Yang Mao và Cư Đrăm, gồm 39 địa điểm. Theo lãnh đạo Sở Văn Hóa Thể Thao & Du Lịch cho biết, Di tích lịch sử Các điểm di tích bổ sung vào Khu căn cứ kháng chiến tỉnh Đắk Lắk (1965-1975), các xã Hòa Lễ, Hòa Phong, Cư Pui, Yang Mao và Cư Đrăm là một trong 43 di tích được xếp hạng di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh của tỉnh, có giá trị và ý nghĩa to lớn về lịch sử, văn hóa, khoa học; thể hiện lòng tri ân đến các thế hệ cha anh đã hy sinh vì sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc; góp phần giáo dục truyền thống cách mạng, lòng yêu nước, tự hào dân tộc của nhân dân, đặc biệt là đối với thế hệ trẻ. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Đắk Lắk
Đắk Lắk 295 lượt xem
Tháp Chăm Yang Prong thuộc xã Ea Rốk, huyện Ea Súp, cách thành phố Buôn Ma Thuột khoảng 100km về phía Tây, còn có tên khác là tháp Chàm Rừng Xanh. Đây là một trong những tháp Chàm duy nhất ở Tây Nguyên được xây dựng vào cuối thế kỷ XIII để thờ thần Siva dưới dạng Mukhalinga (vị thần vĩ đại), cầu mong sự nảy nở của giống nòi và ấm no hạnh phúc. Tháp Yang Prong hay còn gọi là Tháp chàm Rừng xanh là một ngọn tháp Chàm nằm ở thôn 5 xã Ea Rốk, huyện Ea Súp, tỉnh Đăk Lăk. Tương truyền, tháp là ngôi mộ của người đứng đầu làng Chăm xưa kia. Năm 1906, người ta thấy ở trên khung cửa đá của tháp những dòng bia ký cổ của vị Vua Chăm trị vì vào cuối thế kỷ XIII. Những dấu tích vật chất quanh Yang Prông lại như chứng tỏ đây vốn là một khu thành trì dinh thự xưa của người Chăm ở Tây Nguyên. Toà tháp còn khá nguyên vẹn, cao hơn 10m, xây bằng gạch cứng với nhiều kích cỡ khác nhau. Tháp có bình đồ vuông, phần tiền sảnh phía Đông rộng 1,60m. Cấu trúc tháp hình vuông, phía trên nhọn như củ hành, khác với các kiến trúc Chăm thường thấy. Năm 1990, nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước đã tìm đến và có một số công trình nghiên cứu về tháp. Các nhà khoa học đều khẳng định: Yang Prông được xây dựng vào thế kỷ 13, chứng tỏ cách đây khoảng 700 năm, Tây Nguyên không chỉ có người bản địa mà đã có những dân tộc khác cùng sinh sống. Yang Prông là một di tích có ý nghĩa lớn đối với các nhà dân tộc học, lịch sử, kiến trúc…Tháp được xây dựng vào cuối thế kỷ XIII dưới thời Vua Sinhavarman III (Chế Mân), thờ thần Shiva dưới dạng Mukhalinga, cầu mong sự nảy nở của giống nòi, và ấm no hạnh phúc. ThápYang Prong được phát hiện vào quãng những năm 1904-1911 bởi một nhà dân tộc học người Pháp tên Henri Maitre. Nhà khoa học này đã khảo tả về công trình này trong cuốn Les jungles Moi (Rừng Mọi) xuất bản tại Paris năm 1912. Tháp Yang Prong là một khối kiến trúc bằng gạch nung đỏ trên nền cao bằng đá xanh. Tháp có chiều cao 9m, đáy vuông mỗi cạnh dài 5m, mỗi mặt tường ngoài là 3 cửa giả, một cửa duy nhất mở về hướng Ðông, nơi ngự trị của các vị thần linh. Phía trên mở rộng và thon vút hình tháp bút, khác biệt với kiến trúc của các tháp Chàm khác ở Trung Bộ. Trong thời gian chiến tranh, tháp bị những kẻ đi tìm vàng đánh mìn nên đã hư hỏng nhiều. Tháp cũng không được xây dựng trên những ngọn đồi cao, núi thấp không bóng cây như những ngọn tháp chàm khác mà lại nằm chìm lấp dưới những tán cổ thụ của rừng già Ea Súp và bên dòng sông Ea H'leo hiền hòa. Yang Prông có nghĩa là tháp thờ Thần Lớn, vị thần chuyên cai quản mùa màng theo quan niệm của người Chăm cổ. Đây là một công trình còn dang dở, bởi lẽ khi xây dựng tháp, đồng bào Chăm không bao giờ xây một cái mà thường là một quần thể. Hiện nay, tháp đã được công nhận là Di sản văn hóa cần được bảo tồn. Tuy đã được tôn tạo nhưng nhìn chung tháp vẫn giữ được nét cổ kính, trang nghiêm của nó. Chung quanh tháp được bao quanh bởi những cây gỗ nhiều năm tuổi, khá rậm rạp, đây cũng là minh chứng cho nỗ lực bảo vệ của chính quyền địa phương. Không chỉ là một công trình kiến trúc nghệ thuật độc đáo, tháp Yang Prông mang sắc thái và văn hóa Chăm cổ xưa huyền bí, cổ kính thâm nghiêm tồn tại vững bền cùng thời gian. Ngày 3 – 8 – 1991, tháp đã được công nhận là Di tích văn hoá kiến trúc cấp Quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Đắk Lắk
Đắk Lắk 324 lượt xem
Nằm trên địa bàn thị xã An Khê, tỉnh Gia Lai, phức hợp di tích sơ kỳ Đá cũ Rộc Tưng - Gò Đá gồm di tích Gò Đá ở phường An Bình và 12 di tích Rộc Tưng ở xã Xuân An, thị xã An Khê, tỉnh Gia Lai. Trong đó, 4 địa điểm đã khai quật là Gò Đá, Rộc Tưng 1, Rộc Tưng 4 và Rộc Tưng 7. Số còn lại đều đã đào thám sát và xác nhận thuộc cùng phức hợp với Rộc Tưng - Gò Đá. Gò Đá Nằm ở phường An Bình, thị xã An Khê, tỉnh Gia Lai, có tọa độ 13058’19,2” vĩ Bắc, 1080 39’05,1” kinh Đông, độ cao tuyệt đối 421,5m. Di tích nằm ở bờ phải và cách sông Ba khoảng 1,5km, trong vùng địa hình đồi sót của sông Ba bị bóc mòn tích tụ, niên đại sơ kỳ Cánh Tân (QI). Di tích được khai quật 2 lần (năm 2015 và 2016), với tổng diện tích là 94m2, do Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Gia Lai phối hợp với Viện Khảo cổ học Việt Nam và Viện Khảo cổ học - Dân tộc học Novosibirsk thuộc Viện Hàn lâm khoa học Nga tiến hành. Di tích Gò Đá có 1 tầng văn hóa, cấu tạo từ đá granite phong hóa tại chỗ, chứa công cụ đá và mảnh thiên thạch. Một số đặc trưng chung: đa số được làm từ đá quartz, quartzite, kích thước lớn, loại hình nổi trội là công cụ ghè hai mặt, mũi nhọn tam diện, nạo, công cụ chặt, mảnh tước, hòn ghè, chày…được ghè đẽo thô sơ, ít tu chỉnh, có hình thái khác và cổ hơn các di tích sơ kỳ Đá cũ hiện biết ở Việt Nam như Núi Đọ (Thanh Hóa) và Xuân Lộc (Đồng Nai). Gò Đá là di tích cư trú, chế tác công cụ của cư dân sơ kỳ Đá cũ, ở giai đoạn người đứng thẳng (Homo erectus), trong dòng tiến hóa của nhân loại từ đây lên người hiện đại (Homo sapiens) và là bằng chứng về văn hóa đầu tiên của nhân loại. Rộc Tưng 1 Nằm ở xã Xuân An, có tọa độ 14002’25,3” vĩ Bắc, 1080 40’82,2” kinh Đông, độ cao tuyệt đối 556m. Nằm ở bờ trái và cách sông Ba khoảng 2,5km, được khai quật 3 lần (năm 2016, 2017 và 2018); Năm 2016, khai quật hố 1 với diện tích 48m2 (6m x 8m); năm 2017, khai quật hố 2 với diện tích 70m2 (10m x 7m), được chọn dựng nhà trưng bày tại chỗ khi đào đến lớp 1.2. ở độ sâu 0,8m -1,1m (xuất lộ tầng văn hóa); năm 2018, khai quật 20m2 trong phạm vi 70m2 của hố 2, ở độ sâu lớp 2.2. còn lại 50m2 được bảo tồn trong nhà mái che. Rộc Tưng 1 là di tích cư trú và nơi chế tác, trong đó yếu tố cư trú khá điển hình, thể hiện ở bề mặt tầng văn hóa có một số cụm đất đá, liên kết rắn chắc, nổi cao hơn xung quanh, trong đó tập trung cao các mảnh đá thạch anh, một vài hạch đá, mảnh tước và công cụ ghè đẽo. Niên đại di tích Rộc Tưng 1, về cấu tạo địa chất cơ bản giống Gò Đá, thuộc sơ kỳ Pleistocene, về đặc điểm di vật cùng tồn tại của công cụ ghè hai mặt, ghè hết một mặt, mũi nhọn tam diện, nạo, choppers… mang đặc trưng sơ kỳ Đá cũ. Rộc Tưng 1 là di tích cư trú và nơi chế tác, trong đó yếu tố cư trú khá điển hình, thể hiện ở bề mặt tầng văn hóa có một số cụm đất đá, liên kết rắn chắc, nổi cao hơn xung quanh, trong đó tập trung cao các mảnh đá thạch anh, một vài hạch đá, mảnh tước và công cụ ghè đẽo. Rộc Tưng 4 Nằm ở tọa độ 14002’2,7” vĩ Bắc và 108040’35,7” kinh Đông, cao 430m, nằm cách Rộc Tưng 1 khoảng 500m và cùng ở bờ trái sông Ba. Di tích được thám sát tháng 11/2015 và khai quật vào năm 2016, 2017 và 2018. Kết quả khai quật 4 hố ở di tích Rộc Tưng 4 cho thấy, các hố có cấu trúc địa tầng, đặc điểm hiện vật giống nhau, phản ánh tính chất cư trú và chế tác công cụ. Tổ hợp công cụ đá ở các địa điểm Rộc Tưng 4 về cơ bản giống Rộc Tưng 1 và Gò Đá. Rộc Tưng 7 Nằm ở xã Xuân An, thị xã An Khê, tọa độ 14001’452” vĩ Bắc và 108041’11,3” kinh Đông, cao 438m. Di tích được phát hiện năm 2016 và khai quật 2 lần (năm 2017 và 2018) với tổng diện tích 40m2. Kết quả khai quật thu được một số công cụ đá, để chặt, mũi nhọn, nạo, công cụ ghè hai mặt, hạch và nhiều mảnh tước. Rộc Tưng 7 có đặc điểm, tính chất và niên đại tương tụ như các địa điểm đã khai quật ở thung lũng An Khê. Việc phát hiện, thám sát di tích Rộc Tưng 7 đã bổ sung vào danh sách các địa điểm sơ kỳ Đá cũ hiện biết ở vùng đồi gò thung lũng An Khê, bổ sung thêm bằng chứng về sự hiện diện của cộng đồng người giai đoạn tối cổ của nhân loại trên đất nước Việt Nam. Các di tích khảo cổ Đá cũ ở An Khê đều phân bố trên các đồi gò cao trung bình 420 - 450m so với mực nước biển, thuộc vùng chuyển tiếp từ cao nguyên xuống đồng bằng ven biển miền Trung Việt Nam. Tổ hợp hiện vật trong các di tích sơ kỳ Đá cũ An Khê có sự thống nhất, ổn định về chất liệu, loại hình, kỹ thuật chế tác, mang đặc trưng chung của một kỹ nghệ sơ kỳ Đá cũ, mang tên kỹ nghệ An Khê. Kỹ nghệ An Khê được đặc trưng bởi tổ hợp công cụ đá làm từ cuội sông, suối tại địa phương, kích thước lớn, đá cứng, hạt mịn, chủ yếu là quartz và quartzite. Công cụ đá được ghè đẽo thô sơ với các loại hình tiêu biểu: công cụ ghè hai mặt (beface), rìu tay (Handaxe), mũi nhọn (pick), mũi nhọn tam diện và công cụ chặt thô (chopper). Trong đó, công cụ chặt thô chủ yếu phân bố ở khu vực châu Á, công cụ ghè hai mặt và rìu tay nổi trội cho Đá cũ phương Tây, còn mũi nhọn và mũi nhọn tam diện rõ nét nhất ở sơ kỳ Đá cũ vùng An Khê. Với những giá trị tiêu biểu trên, Rộc Tưng - Gò Đá, tỉnh Gia Lai được Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích khảo cổ học quốc gia theo Quyết định số 3237/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao Du Lịch ngày 04/11/2020. Ngày 29/12/2022, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã ký Bằng xếp hạng công nhận “Di tích quốc gia đặc biệt” đối với Rộc Tưng-Gò Đá ở thị xã An Khê, Gia Lai. Nguồn Cục Di Sản Văn Hóa.
Gia Lai 350 lượt xem
Kho mở Bộ sưu tập di sản Hoàng tộc Chăm tọa lạc tại thôn Tịnh Mỹ, xã Phan Thanh, huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận. Nơi đây trưng bày hơn 100 hiện vật nguyên gốc mang đậm giá trị lịch sử văn hóa của dân tộc Chăm và được phân thành 8 nhóm sưu tập. Trong đó, giá trị nhất là bộ vương miện của vua Po Klaong Mânai và búi tóc của Hoàng hậu Po Bia Som bằng chất liệu vàng với đường nét chạm khắc hoa văn rất tinh xảo, độc đáo ở đầu thế kỷ XVII. Bộ sưu tập di sản Hoàng tộc Chăm là nơi hội tụ đầy đủ các giá trị về lịch sử ra đời của vương triều Chăm xưa, về trang phục, trang sức, vương miện, vũ khí, đồ ngự dụng trong hoàng cung,… được các đời hậu duệ vua Chăm lưu giữ, trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ sau, trải qua hơn 400 năm. Trước năm 1975, Bộ sưu tập di sản văn hóa Hoàng tộc Chăm được cất giữ kín trong kho vì những lý do tâm linh, tín ngưỡng và phần quan trọng khác là an ninh, an toàn cho di sản và người bảo vệ di sản. Cho đến những năm 1991 - 1992 thì việc khảo sát, nghiên cứu và lập Hồ sơ khoa học Đền thờ vua Po Klaong Mâhnai và Bộ sưu tập mới từng bước được tiến hành và hoàn thành trình Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng tại Quyết định số 43/Văn Hóa /Quyết Định ngày 7/01/1993. Sau khi được xếp hạng, nhận thức được việc phải bảo vệ lâu dài Bộ sưu tập duy nhất của tổ tiên còn lại nên gia đình hậu duệ Hoàng tộc Chăm là bà Nguyễn Thị Thềm (1911 - 1995) đã đồng ý từng bước để Bảo tàng Bình Thuận thiết kế, trưng bày Bộ sưu tập dưới dạng “Kho mở”. Tuy nhiên, do ngôi nhà của bà Thềm được xây dựng những năm đầu của thập niên 1960, không gian khá chật hẹp, tầng dưới để ở, tầng trên chia thành 2 phòng để trưng bày nên gia đình chỉ mở cửa phục vụ cho các đoàn nghiên cứu, đoàn chính khách là chính, chưa phục vụ rộng rãi cho du khách tham quan chiêm ngưỡng các hiện vật gốc. Nhiều năm qua, chính quyền các cấp và các ngành chức năng cũng đã triển khai nhiều việc nhằm bảo tồn và phát huy giá trị của Bộ sưu tập di sản Hoàng tộc Chăm. Tuy nhiên, hiệu quả phát huy vẫn ở mức khiêm tốn, chưa tương xứng với giá trị của di sản. Chính vì vậy, cần có hướng tiếp cận mới để Bộ sưu tập thực sự phát huy giá trị trong đời sống xã hội phát triển, đặc biệt là sự bùng phát về du lịch văn hóa. Qua thời gian khảo sát, thống kê, Bảo tàng tỉnh Bình Thuận đã phân loại Bộ sưu tập di sản Hoàng tộc Chăm thành 8 sưu tập như sau: Sưu tập vương miện vua và hoàng hậu; Sưu tập vũ khí: Đao, kiếm; Sưu tập nhạc khí (Phèng la); Sưu tập đồ thờ tự (tín ngưỡng, tâm linh); Sưu tập vải (vải thổ cẩm và vải có nguồn gốc từ nước ngoài); Sưu tập gốm sứ; Sưu tập giấy: Sắc phong một số đời vua triều Nguyễn và một số loại tư liệu về đất đai, địa bạ, các văn bản hành chính sao chép bằng chữ Hán Nôm từ những sắc phong các đời vua nhà Nguyễn; Sưu tập gỗ: Rương đựng đồ hoàng tộc, mũ vệ binh. Nguồn Sở Văn hóa Thể Thao và Du lịch tỉnh Bình Thuận.
Bình Thuận 377 lượt xem
Khu di tích lịch sử Đồng Khởi xã Hòa Thịnh là nơi trưng bày những hình ảnh lịch sử về ngày Đồng Khởi của quần chúng Nhân dân xã Hòa Thịnh. Đây cũng là nơi để giáo dục truyền thống cách mạng của xã đối với lớp trẻ ngày nay và mai sau, đồng thời để phục vụ khách tham quan du lịch tìm hiểu ý nghĩa lịch sử ngày Đồng Khởi xã Hòa Thịnh. Đây là khu di tích lịch sử cấp quốc gia được Bộ Văn hóa Thông tin có Quyết định số 2005/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thông Tin ngày 16/11/2005 xếp hạng di tích quốc gia “Địa điểm diễn ra cuộc Đồng khởi Hòa Thịnh” Trước yêu cầu của cuộc đấu tranh cách mạng mới, tháng 1-1959, Trung ương Đảng ra Nghị quyết số 15 xác định nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền nam là “Giải phóng miền nam khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến, thực hiện độc lập, dân chủ và người cày có ruộng, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền nam”, “Con đường phát triển cơ bản của cách mạng miền nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân”. Dưới ánh sáng Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng, phong trào cách mạng ở tỉnh Phú Yên chuyển sang giai đoạn phát triển mới. Tháng 9-1960, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Phú Yên lần thứ nhất được tổ chức tại căn cứ Thồ Lồ (huyện miền núi Đồng Xuân) đề ra chủ trương, biện pháp đẩy mạnh phong trào Đồng Khởi ở đồng bằng, tuyển thanh niên xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng vùng căn cứ và cơ sở quần chúng… Ông Dương Dụ, một nhân chứng lịch sử, là một trong những cán bộ cách mạng trực tiếp tham gia lãnh đạo cuộc đồng khởi Hòa Thịnh đã xúc động phát biểu, hệ thống lại quá trình diễn ra đồng khởi. Sau khi được học tập, quán triệt Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 15 và chuẩn bị lực lượng, vào 19 giờ ngày 22-12-1960, lực lượng tham gia đồng khởi bắt đầu hành quân từ dốc Đá Ngó qua các thôn, xóm rồi chia thành ba cánh tiến đến trụ sở xã Hòa Thịnh, nổ súng đánh vào trung đội dân vệ của địch. Do được vận động từ trước, khi nghe tiếng súng nổ, hàng nghìn quần chúng từ các hướng đổ ra đường, mang theo gậy gộc, giáo mác cùng lực lượng vũ trang của huyện vừa tấn công, vừa nổi dậy truy bắt bọn tề ngụy, rồi tập trung về trụ sở xã Hòa Thịnh để dự mít-tinh. Lực lượng tham gia đồng khởi đã bắt tên Phó Đại diện giao nộp con dấu, giấy tờ, tài liệu... Khoảng 1 giờ sáng 23-12-1960, cuộc mít tinh bắt đầu. Nhân dân hô vang các khẩu hiệu: “Đả đảo đế quốc Mỹ và bọn bù nhìn tay sai”, “Cách mạng miền nam Việt Nam nhất định thắng lợi”. Đến 3 giờ cùng ngày, cuộc mít-tinh kết thúc. Hòa Thịnh trở thành xã đầu tiên của đồng bằng Khu 5 do chính quyền cách mạng làm chủ. Từ đồng khởi Hòa Thịnh, lực lượng cách mạng tiếp tục diệt ác, phá kiềm ở các xã Hòa Đồng, Hòa Tân, Hòa Mỹ, Hòa Hiệp. Vùng giải phóng của tỉnh Phú Yên mở rộng với hơn 20.000 dân, phong trào sản xuất nuôi quân, đóng góp ủng hộ cách mạng phát triển hơn bao giờ hết. Cũng từ đồng khởi Hòa Thịnh, hàng ngàn thanh niên của Phú Yên tình nguyện gia nhập bộ đội giải phóng, thoát ly vào căn cứ, đi khắp các chiến trường Khánh Hòa, Đắk Lắk làm nhiệm vụ chống Mỹ, ngụy, cứu nước. Nguồn Trang thông tin điện tử xã Hòa Thịnh, huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên.
Phú Yên 412 lượt xem
Di tích "Địa điểm diễn ra cuộc đấu tranh Cây Cốc năm 1954" là nơi ghi dấu sự kiện lịch sử quan trọng được ghi vào sử sách về cuộc đấu tranh của đồng bào ta đòi thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ tại Quảng Nam. Sáng 27-9, tại xã Tiên Thọ, huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam đã diễn ra Lễ đón nhận Bằng Di tích lịch sử cấp Quốc gia “Địa điểm diễn ra cuộc đấu tranh Cây Cốc năm 1954” và tưởng niệm 65 năm cuộc đấu tranh Cây Cốc (29/9/1954 - 29/9/2019). Di tích “Địa điểm diễn ra cuộc đấu tranh Cây Cốc năm 1954” là nơi ghi dấu sự kiện lịch sử quan trọng được ghi vào sử sách về cuộc đấu tranh của đồng bào ta đòi thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ tại Quảng Nam. Theo sử liệu ghi lại, 9h ngày 29-9-1954, nhân dân từ Quế Sơn, Tam Kỳ, Quảng Ngãi lên chợ Cây Cốc (xã Tiên Thọ, huyện Tiên Phước) để buôn bán. Khi nghe tin địch bắt giam, đàn áp người dân và các cán bộ cách mạng nên họ đã tập hợp, nổi trống mõ kêu gọi đồng bào quanh chợ Cây Cốc cùng đi đấu tranh. Đến khoảng 10h cùng ngày, khi vừa đến cầu Vôi, 3 chiếc máy bay khu trục của quân độ Pháp quần lượn trên bầu trời, địch đã ban hành mệnh lệnh đàn áp, liền sau đó lính của Tiểu đoàn 601 nổ súng vào nhân dân,... khiến hơn 330 đồng bào, chiến sĩ đã ngã xuống. Việc công nhận “Địa điểm diễn ra cuộc đấu tranh Cây Cốc năm 1954” là Di tích lịch sử cấp Quốc gia ngoài việc trở thành địa điểm giáo dục truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ còn là nơi kết nối du lịch, văn hóa lịch sử của tỉnh Quảng Nam. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam.
Quảng Nam 369 lượt xem
Phong trào chống sưu cao, thuế nặng ở Quảng Nam và các tỉnh miền Trung đã trải qua hơn một thế kỷ song những giá trị lịch sử mà phong trào mang lại vẫn còn vẹn nguyên cho đến ngày hôm nay…. “Sòng dân Đại Lộc”… Năm 1858, thực dân Pháp nổ tiếng súng đầu tiên vào cửa biển Đà Nẵng mở đầu cho việc xâm lược nước ta. Các phong trào yêu nước liên tục nổ ra ở khắp nơi nhưng cuối cùng bị thất bại. Năm 1897, thực dân Pháp tiến hành chính sách “khai thác thuộc địa” lần thứ nhất bằng những chính sách thực dân phản động và bảo thủ, bóc lột nhân dân ta hết sức thậm tệ, tàn ác đặc biệt là chính sách sưu thuế. Người dân không những phải nộp thuế mà còn phải đi phu, lao dịch, đắp đường… Biết bao nhiêu người bỏ mạng, biết bao nhiêu người mang thương tật cả đời.. Những hình ảnh tang thương đó đã đi vào ca dao: Từ ngày Tây lại cửa Hàn Đào sông Cu Nhí, bòn vàng Bồng Miêu Huyện Đại Lộc là một trong những địa phương của tỉnh Quảng Nam mà nhân dân chịu nhiều thống khổ bởi chính sách cai trị tàn bạo thực dân phong kiến. Đói khát, bệnh tật cộng thêm thiên tai, hạn hán liên miên đã dìm cuộc sống của những người nông dân xuống tận cùng của đau khổ. Tên tri huyện lúc đó lại lợi dụng chính sách tăng thuế để khai khống số dân nhằm thu lợi cho cá nhân. Trước tình cảnh đó, vào đầu tháng 3 năm 1908, tại một bữa đám giỗ tộc Trương làng Phiếm Ái, xã Đại Nghĩa; một số hào lý đã bàn nhau làm đơn lấy chữ ký của các lý trưởng các làng xã trong huyện gửi quan huyện xin giảm nhẹ sưu cùng các món thuế bởi nhân dân quá khổ trước chính sách sưu, thuế hiện hành; nếu không được sẽ gửi lên Tòa Công sứ Pháp tại Hội An. Do việc làm xuất phát từ sự thương dân, vì quyền lợi chính đáng của đa số nhân dân, nên những người "làm đơn lấy chữ ký ", được nhân dân trong huyện gọi là "Đồng dân" và cuộc "Xin sưu" do họ khởi xướng được gọi là "Sòng Đồng Dân" hay là "Sòng dân Đại Lộc". Ngày 11-3-1908, hơn 400 người dân ăn mặc rách rưới kéo xuống huyện đường, nhưng viên Tri huyện không dám nhận đơn, lại cấp báo với viên quan tỉnh và Công sứ Pháp nên đoàn biểu tình bèn kéo nhau đi vây dinh Tổng đốc rồi vây luôn cả tòa Công sứ. Nhân dân các phủ huyện như Điện Bàn, Duy Xuyên, Tam Kỳ, Hội An, Hòa Vang… cũng đồng loạt hưởng ứng tại địa phương mình, và còn kéo về Hội An nên số người biểu tình ở đây mỗi lúc một đông. Trước sức ép của quần chúng nhân dân, chính quyền thực dân phong kiến đã thẳng tay đàn áp, bắt một số người lãnh đạo phong trào đày đi các nhà tù hoặc xử trảm. Phong trào đấu tranh chống sưu cao, thuế nặng sau một thời gian cũng bị chính quyền thực dân, phong kiến đàn áp. Tuy nhiên, phong trào nhận được sự hưởng ứng, tham gia của đông đảo quần chúng nhân dân bởi vì đây là phong trào đấu tranh vì quyền lợi chính đáng của những người dân nghèo khổ chống lại sự bóc lột của bộ máy cai trị thối nát lúc bấy giờ. Phong trào chống sưu thuế năm 1908 cũng thể hiện được lòng yêu nước, tinh thần, sức mạnh đoàn kết của nhân dân. Xuất phát từ lòng căm thù bọn thực dân xâm lược, bè lũ phong kiến tay sai bán nước hại dân, dưới sự lãnh đạo của những sĩ phu yêu nước, những người nông dân “áo rách nón cời” đã vùng lên tranh đấu. Lúc đầu, phong trào chỉ xuất phát ở một huyện, sau đó nhanh chóng lan ra các huyện, phủ trong tỉnh Quảng Nam và các tỉnh miền Trung. Lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết của nhân dân ta từ xưa đến nay cũng chính là giá trị bất biến, góp phần quan trọng vào sự thành công trong quá trình xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước. Phong trào chống sưu thuế đã giáng một đòn rất mạnh vào bộ máy chính quyền thực dân phong kiến đương thời. Ở Quảng Nam và các tỉnh miền Trung, nhân dân nổi dậy phá buồng giam, đốt dụng cụ tra tấn, giải phóng tù nhân; hàng loạt những tên tay sai gian ác bị quần chúng nhân dân vây bắt, có những tên ác ôn còn bị trừng trị thích đáng. Dù ở đâu, các cuộc nổi dậy của nhân dân đều có sự “dẫn đường chỉ lối” của các nho sinh, thân sĩ- những người có nhận thức nhất định về xã hội lúc đó. Mặc dù phong trào đã thất bại song nó đã mang đến ánh sáng mới cho con đường cách mạng Việt Nam. Giai cấp nông dân chính là lực lượng nòng cốt cho các phong trào cách mạng sau này. Trước sức mạnh bởi đòn roi, súng đạn của kẻ thù, những yêu sách mang tính ôn hòa sẽ không mang lại kết quả; chỉ có bạo lực cách mạng mới đủ sức chống lại bạo lực phản cách mạng. Phong trào đã được nhận xét là “một cuộc cách mạng được chuẩn bị một cách cực kỳ khéo léo”. 110 năm đã trôi qua, phong trào chống sưu thuế ngày ấy mới chỉ là bước mở đầu cho những phong trào cách mạng sục sôi sau này. Nhưng giá trị hiện hữu mà cho đến hiện nay chúng ta vẫn phải khẳng định đó là sức mạnh của lòng dân. Ngày ấy, trước sự vận động của các nhà nho yêu nước, quần chúng nhân dân “cơm đùm gạo gói” thay nhau đi đấu tranh đòi giảm sưu, giảm thuế. Hàng ngàn người chia nhau từng ngụm nước, từng nắm cơm, chăm sóc, động viên những người bị thương… Họ đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, không vụ lợi, không toan tính cho cá nhân mình. Họ làm tất cả mọi việc chỉ với mục đích duy nhất là chống lại ách thống trị tàn bạo của chính quyền thực dân phong kiến; đòi lại quyền lợi hợp pháp, chính đáng cho những kiếp người lao khổ. Phong trào chống sưu thuế ở Quảng Nam và các tỉnh miền Trung đã đi vào lịch sử đấu tranh của dân tộc ta như một mốc son sáng ngời. Ghi nhận những giá trị lịch sử to lớn của phong trào chống sưu thuế; ngày 29/12/2017, Bộ trưởng Bộ Văn hóa- Thể thao và Du lịch ban hành Quyết định số 5400/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao Du Lịch về việc xếp hạng Di tích lịch sử Địa điểm khởi phát phong trào chống sưu, thuế năm 1908 ở miền Trung (Đình Phiếm Ái và Nhà Ông Nghè Tiếp), xã Đại Nghĩa, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam là di tích quốc gia.
Quảng Nam 348 lượt xem
Thượng thư Trương Công Hy (1727 - 1800) là người làng Thanh Quýt của phủ Điện Bàn, nay thuộc xã Điện Thắng Trung, huyện Điện Bàn. Cụ là nhân vật lịch sử đặc biệt, được Viện Sử học (thuộc Viện Khoa học xã hội Việt Nam) khẳng định “là danh thần triều Tây Sơn mà chính sử nước ta còn bỏ sót”, vì thế tên tuổi và sự nghiệp đối với sự phát triển của lịch sử dân tộc cần được tôn vinh xứng đáng. Trương Công Hy đỗ hương cống dưới thời Võ vương Nguyễn Phúc Khoát, làm thầy dạy của ấu chúa Nguyễn Phúc Dương cũng như các hoàng tử, hoàng tôn trong phủ chúa. Nhận thấy sự mục ruỗng của chính sự lúc bấy giờ nên khi triều Tây Sơn chiêu hiền, đãi sĩ, phất cờ chính nghĩa, cụ đã theo phụng sự cho vương triều Tây Sơn và được bổ nhiệm làm Tri phủ Điện Bàn, rồi Khâm sai Quảng Nam trấn, Hình bộ Thượng thư. Về quê an hưu, cụ được truy phong chức Binh bộ Thượng thư, tước Thùy Ân Hầu. Sinh thời, Thượng thư Trương Công Hy là một danh thần luôn hết lòng vì dân, vì nước, nổi tiếng thanh liêm. Trong thời gian làm Tri phủ Điện Bàn, cụ dốc hết tâm sức chấn chỉnh chính quyền cấp thôn, xã; tổ chức khẩn hoang, đẩy mạnh sản xuất, mở mang trường lớp, tiến cử hiền tài, hết lòng chăm lo đời sống nhân dân. Được nhà Tây Sơn cấp lộc điền 500 mẫu ruộng tại Lai Nghi, Phú Chiêm (xã Điện Phương), khi về hưu cụ đã phân phát cho người dân địa phương canh tác. Lúc cụ mất, dân chúng khắp nơi đến viếng rất đông. Làng phải dựng “Xích hậu” (tức nhà khách) để dân chúng trọ lại trước khi vào viếng. Con đường từ “Xích hậu” đến nhà thờ tộc Trương hiện vẫn được dân chúng gọi là Ngõ Quan Thượng. Trong suốt cuộc đời của mình, Thượng thư Trương Công Hy đã có nhiều đóng góp vào việc chấn chỉnh tổ chức giáo dục khoa cử, biên soạn luật lệ, tiến cử người hiền tài… Năm 2005, Lăng mộ Thượng thư Trương Công Hy được Uỷ Ban Nhân Dân tỉnh công nhận là di tích văn hóa lịch sử cấp tỉnh và đến tháng 8 năm 2013, Bộ Văn Hóa - Thể Thao & Du Lịch đã có quyết định công nhận Di tích lịch sử và xếp hạng di tích quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.
Quảng Nam 337 lượt xem
Cao 800m so với mực nước biển, Núi Bà là dãy núi cao nhất và lớn nhất ở vùng đồng bằng Bình Định. Trên núi có 66 đỉnh cao thấp khác nhau, những khối đá khổng lồ đủ hình thù, có nhiều cánh rừng, con suối, các điểm uốn lượn, gấp nếp của các sườn đồi tạo địa hình hiểm trở... Trong kháng chiến chống Mỹ, núi Bà giữ vị trí chiến lược quan trọng, đặc biệt đối với địa bàn khu Đông. Nơi đây từng là căn cứ hoạt động của Tỉnh ủy, các cơ quan, đơn vị lực lượng vũ trang của tỉnh, Thị ủy Quy Nhơn và các huyện ủy An Nhơn, Tuy Phước, Phù Cát. Từ căn cứ này, Tỉnh ủy đã chỉ đạo kháng chiến, mở nhiều lớp đào tạo, huấn luyện lực lượng vũ trang, cán bộ cơ sở cách mạng. Núi Bà cũng là bàn đạp mở nhiều đợt tấn công, nổi dậy trong chiến dịch Đồng khởi khu Đông năm 1964, chiến dịch Xuân Mậu Thân năm 1968 và cuộc tổng tiến công, nổi dậy mùa Xuân năm 1975 giải phóng Thị Xã Quy Nhơn và tỉnh Bình Định. Khu căn cứ Núi Bà là nơi ghi dấu về cuộc sống gian khổ, tinh thần chiến đấu kiên cường và những chiến công hào hùng của các thế hệ cán bộ, chiến sĩ, nhân dân Bình Định trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, tự do cho đất nước. Di tích lịch sử và thắng cảnh Khu căn cứ Núi Bà được xếp hạng cấp quốc gia năm 1994, với 22 điểm di tích ở trên dãy Núi Bà thuộc thị trấn Cát Tiến và các xã Cát Hải, Cát Tài, Cát Hưng, Cát Hanh, Cát Thành của huyện Phù Cát. Tượng đài chiến thắng Núi Bà có địa thế đẹp “tựa sơn hướng thủy”, lại gần bãi biển Trung Lương, chùa ông Núi (Linh Phong) - vốn thu hút đông đảo du khách. Vì thế đây là điểm đến rất thích hợp để tổ chức các chuyến du khảo, dã ngoại về nguồn, đặc biệt là với các bạn đoàn viên, thanh niên. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bình Định.
Bình Định 368 lượt xem
Đây là di tích lích sử ghi nhận về cuộc biểu tình (đêm 22 rạng ngày 23/7/1931) của hơn 3000 quần chúng nhân dân huyện Hoài Nhơn đấu tranh phản đối thực dân Pháp và bè lũ tay sai chấm dức đàn áp nhân dân Nghệ Tĩnh và Đức Phổ. Tháng 7 năm 1931, thực hiện chủ trương của Xứ ủy Trung Kỳ, Đảng bộ Hoài Nhơn đã tổ chức vận động quần chúng nhân dân xuống đường đấu tranh phản đối chính sách khủng bố trắng của đế quốc Pháp, đàn áp phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh và nhân dân Đức phổ Quãng Ngãi. Đêm 22 rạng ngày 23/7/1931, đoàn biểu tình hơn 3 nghìn người từ các xã phía Bắc huyện Hoài Nhơn tập trung thành các cánh quân sôi sục tiến về phủ đường Bồng Sơn. Đoàn biểu tình tiến đến đâu đều trấn áp đoàn phu, đốt trụi các điếm canh dọc đường. Khoảng 1h30 sáng ngày 23/7/1931, khi đoàn biểu tình kéo đến Cây số 7 Tài Lương ( xã Hoài Thanh Tây) thì bị binh lính địch chặn lại và đàn áp đẫm máu cuộc biểu tình. 13 Đảng viên và quần chúng đã hy sinh, một Đảng viên bị kết án tử hình, 3 Đảng viên bị kết án tù chung thân, 20 Đảng viên bị lưu đày lên nhà lao Buôn Mê Thuộc, 11 đồng chí bị đày lên ngục Kon Tum, 47 đồng chí bị giam cầm tại nhà lao Bình Định và hàng trăm quần chúng bị giam cầm tại nhà lao Phù Ly. Cuộc biểu tình đã làm rung chuyển bộ máy tay sai của chính quyền thực dân Pháp. Cuộc biểu tình tiêu biểu cho khí thế đấu tranh của công, nông trong cao trào 1930 - 1931; thể hiện ý chí sắt đá, một lòng kiên quyết bảo vệ và duy trì các phong trào cách mạng trong thời điểm khó khăn, ác liệt nhất của nhân dân Hoài Nhơn nói riêng và tỉnh Bình Định nói chung. Ngày 26.1.2011, Bộ trưởng Bộ Văn Hóa -Thể Thao &Du Lịch đã có Quyết định số 323 xếp hạng di tích quốc gia cho di tích lịch sử địa điểm lưu niệm cuộc biểu tình năm 1931 tại cây số 7 Tài Lương (xã Hoài Thanh Tây, huyện Hoài Nhơn). Nguồn Cổng thông tin điện tử thị xã Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định.
Bình Định 377 lượt xem
Được xây dựng vào cuối thế kỉ XII, nằm ở phường Đống Đa, TP. Quy Nhơn, là một công trình kiến trúc đẹp và độc đáo gồm hai tháp. Tháp Đôi được xếp vào loại đẹp “độc nhất vô nhị” của nghệ thuật kiến trúc Chămpa. Cả 2 ngôi tháp đều không phải là tháp vuông nhiều tầng theo truyền thống của tháp Chăm mà là một cấu trúc gồm hai phần chính: khối thân vuông và phần đỉnh hình tháp mặt cong, các góc tháp hiện lên những tượng chim thành Garuda hai tay đưa cao như muốn nâng đỡ mái tháp. Vòm trên của các cửa vút cao lên như những mũi tên. Kiến trúc của tháp Đôi chịu ảnh hưởng của nghệ thuật Ấn Độ giáo. Tháp được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng là di tích Kiến trúc Nghệ thuật năm 1980. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bình Định.
Bình Định 375 lượt xem
Đền thờ Đô đốc Bùi Thị Xuân được khởi công xây dựng ngày 20/9/2007 trên khu đất rộng 5.191m2, thuộc khối Phú Xuân, thị trấn Phú Phong, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định; cách di tích lịch sử Từ đường Bùi Thị Xuân khoảng 500 mét về hướng Tây Nam. Đền thờ do Công ty TNHH xây dựng Tân Phương và Công ty TNHH xây dựng Duy Tân phối hợp thi công và khánh thành ngày 10/7/2008. Việc xây dựng Đền thờ Đô đốc Bùi Thị Xuân là thể hiện tấm lòng tri ân, góp phần giáo dục thế hệ trẻ Việt Nam về truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc. Đền có diện tích 178 m2, xây dựng theo lối kiến trúc cổ lầu.,có 3 gian.Trong nội thất đặt 3 án thờ: Gian chính giữa đặt án thờ và tượng Đô đốc Bùi Thị Xuân; Tượng làm bằng gốm sứ và dát vàng bên ngoài với tư thế ngồi theo tỉ lệ 1/1 thể hiện thần thái của vị võ tướng văn võ song toàn; hai bên trước án thờ đặt cặp bát bộ binh khí và cặp liễn gỗ cẩn ốc, nội dung như câu đối thờ tại di tích Từ đường Bùi Thị Xuân: Nguyệt chiếu thanh khê lưu cựu hóa Sương kinh cao ngạn thái tiên tình Tạm dịch là: Răng rọi khe xanh in bóng cũ Sương gieo ngàn thẳm chạnh tình xưa. Bên trái án thờ bà là hương án, bên trên có đặt bài vị gia tiên bằng gỗ sơn son thếp vàng. Bên phải án thờ bà là hương án, bên trên có đặt bài vị thờ các tướng lĩnh dưới trướng bà bằng gỗ son thếp vàng. Bùi Thị Xuân sinh trưởng trong một gia đình nông dân giàu truyền thống yêu nước ở làng Xuân Hòa, huyện Tuy Viễn, phủ Quy Nhơn (nay là khối Phú Xuân, thị trấn Phú Phong, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định ). Ông tổ của Bà là Bùi Đắc Thọ là người làng Hội An, huyện Quảng Điền, phủ Nghệ An, di cư vào Đàng Trong lập nghiệp tại ấp Tây Sơn vào cuối thế kỷ XVII. Ông sinh được ba người con trai là Bùi Công Ái, Bùi Công Nghĩa và Bùi Công Minh. Ông Bùi Công Ái sinh ra ông Bùi Đắc Kế là thân sinh của Bùi Thị Xuân. Năm 1771, Bùi Thị Xuân tham gia phong trào khởi nghĩa Tây Sơn và được Nguyễn Nhạc giao trọng trách huấn luyện tân binh, thuần dưỡng voi chiến, Bà đã huấn luyện thuần thục hàng trăm thớt voi chiến, góp phần không nhỏ vào những chiến công vang đội của quân đội Tây Sơn gắn liền với tên tuổi và sự nghiệp lẫy lừng của người anh hùng dân tộc Quang Trung - Nguyễn Huệ sau này. Năm 1778, Bà được Hoàng đế Thái Đức phong chức Đô đốc chỉ huy cấm vệ quân, bảo vệ kinh thành Hoàng Đế (An Nhơn, Bình Định); Từ năm 1786 đến năm 1792, Bà cùng chồng là Thiếu phó Trần Quang Diệu phò tá Nguyễn Huệ tiêu diệt tập đoàn phong kiến Lê -Trịnh, xóa bỏ ranh giới sông Gianh đã chia cắt đất nước hơn 200 năm, đặt cơ sở cho sự nghiệp thống nhất đất nước sau này. Sau khi Quang Trung băng hà, Bà được Cảnh Thịnh giao giữ trọng trách chỉ huy đạo quân cấm vệ bảo vệ kinh đô Phú Xuân. Năm 1802, Bà chỉ huy 5000 quân góp mặt trong trận đánh ở lũy Trấn Ninh (Quảng Bình) khiến quân Nguyễn hết sức khiếp sợ. Chuyện kể rằng: khi đối mặt với vua Gia Long Bà khẳng khái cho rằng: Nếu có một nữ tướng như ta nữa thì cửa Nhật Lệ không để lạnh. Nhà ngươi khó mà đặt chân được tới đất Bắc Hà. Bùi Thị Xuân là một nữ kiệt tài sắc vẹn toàn, can trường tiết liệt, Bà đã hiến dâng cả cuộc đời cho sự nghiệp đấu tranh chống giặc ngoại xâm thống nhất nước nhà. Tên tuổi Bà đã đi vào lịch sử và mãi mãi là niềm tự hào của phụ nữ Việt Nam. Bà mất ngày 30/11/1802 tại Phú Xuân (Huế). Hằng năm, vào ngày mùng 6 tháng 11 âm lịch Bảo tàng Quang Trung long trọng tổ chức lễ tưởng niệm Bà, du khách từ mọi miền đất nước về tham dự rất đông và cùng thắp nén tâm hương tưởng nhớ công tích sự nghiệp vị nữ anh hùng, người con ưu tú của quê hương Tây Sơn – Bình Định. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định.
Bình Định 360 lượt xem
Từ đường họ Võ nằm cuối thôn Phú Mỹ, xã Tây Phú, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định (xưa là thôn Phú Lộc, huyện Tuy Viễn, phủ Quy Nhơn), nơi đây là vùng đất hiểm trở: đất hẹp, dân thưa, núi non trùng điệp, dân cư chủ yếu sống bằng nghề nông, khai thác lâm thổ sản và săn bắt. Chính quá trình đấu tranh cải tạo thiên nhiên khắc nghiệt để tạo dựng cuộc sống đã tôi luyện con người Phú Lộc đức tính cần cù lao động và tinh thần thượng võ. Võ Văn Dũng được tiếp thu tinh thần thượng võ của quê hương mình nên ngay từ nhỏ ông đã học được nhiều môn võ thuật cổ truyền như: cung, đao, kiếm… truyền thống của quê hương. Ông là người thông minh tài trí, lại giỏi võ nghệ nên Võ Văn Dũng sớm được đứng vào hàng tướng lĩnh của quân đội Tây Sơn, tên tuổi của ông gắn liền với những chiến công oanh liệt của dân tộc thời Tây Sơn. Tộc họ Võ sử dụng nhà từ đường họ để thờ Võ Văn Dũng và đã được Bộ Văn hóa xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia năm 1988 theo Quyết định số: 1288/Quyết Định -Bộ Văn Hóa , ngày 24/9/1988. Theo quy hoạch, Uỷ Ban Nhân Dân tỉnh đang có kế hoạch xây dựng mới Đền thờ Võ Văn Dũng trên quê hương của võ tướng, dọc theo con đường đi vào khu du lịch danh thắng Hầm Hô. Để tưởng nhớ, tri ân vị anh hùng, người con của quê hương; tỉnh Bình Định xây dựng đền thờ Đại Tư Đồ Võ Văn Dũng nhằm giáo dục truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc cho các thế hệ hôm nay và mai sau. Đền thờ được khởi công xây dựng ngày 21 tháng 10 năm 2021 trên khu đất rộng 1,05 ha thuộc thôn Phú Lâm, xã Tây Phú, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định, cách di tích lịch sử Từ Đường Võ Văn Dũng khoảng 2,5 km về hướng Tây Bắc. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bình Định.
Bình Định 385 lượt xem
Đền thờ Tăng Bạt Hổ đã được tộc họ và chính quyền huyện Hoài Ân xây dựng năm 2001, đến năm 2003 được Ủy ban Nhân dân tỉnh Bình Định công nhận là Di tích lịch sử cấp tỉnh. Đến tháng 8/2013 được Bộ Văn Hóa Thể Thao Du Lịch xếp hạng Di tích lịch sử cấp Quốc gia. Để tri ân, ghi nhận công lao sự nghiệp của nhà chí sỹ Tăng Bạt Hổ trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc chống thực dân Pháp xâm lược, từ năm 2012 đến nay, từ nguồn kinh phí của Nhà nước, sự hỗ trợ của các tổ chức trong nước đã huy động được trên 5 tỷ đồng để nâng cấp Đền thờ Tăng Bạt Hổ trong khuôn viên được quy hoạch 5.300m2 (gấp 10 lần so với trước đây), trong đó diện tích xây dựng đền thờ chính 160m2, cùng nhiều công trình tường rào, cổng ngõ và cảnh quan trong khuôn viên của Đền thờ. Nhà chí sỹ Tăng Bạt Hổ (1858-1906), quê ở làng An Thường, xã Ân Thạnh, huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định. Xuất thân trong một gia đình có truyền thống yêu nước, lớn lên ông tham gia chiến đấu chống Pháp trong quân đội triều đình nhà Nguyễn lúc bấy giờ, tham gia phong trào Cần Vương. Đến khi phong trào Cần Vương ở Bình Định thất bại, ông bôn ba nhiều nơi để tìm đường cứu nước và cuối cùng đã tham gia phong trào Đông Du do cụ Phan Đình Phùng lãnh đạo. Những hoạt động phong phú và đa dạng trong suốt 30 năm, qua 4 thời kỳ cho thấy ông là một nhà yêu nước quật cường, bất khuất, luôn nung nấu ý chí “phục thù báo quốc.” Việc nâng cấp và công nhận Di tích lịch sử cấp quốc gia Đền thờ Tăng Bạt Hổ thể hiện sự đánh giá cao về tầm vóc, những cống hiến lớn lao của nhà chí sỹ yêu nước, chống giặc ngoại xâm để giải phóng dân tộc; qua đó giáo dục truyền thống yêu nước và cách mạng cho các thế hệ hôm nay và mai sau. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bình Định.
Bình Định 352 lượt xem
Khu di tích Láng Le Bàu Cò tọa lạc tại xã Tân Nhựt, huyện Bình Chánh, Tp HCM. Láng Le Bàu Cò gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược vào năm 1948 với những trận đánh lớn đi vào lịch sử. Di tích Láng Le Bàu Cò được công nhận là di tích lịch sử cấp thành phố vào năm 2003. Sở dĩ được gọi tên là khu di tích Láng Le Bàu Cò vì Tên gọi của khu di tích Láng Le Bàu Cò là do người dân địa phương đặt ra. Xóm làng được thành lập cạnh những con kênh rạch chằng chịt và dòng sông. Láng Le Bàu Cò có vị trí nằm ở bên trong cánh đồng có diện tích rộng lớn và có rất nhiều tôm, cua, cá. Cùng với nhiều loài chim như vịt trời, cò, con le le, cúm núm, cồng cộc, đa đa, diệc, đỏ nách tới kiếm ăn tại đây. Vì vậy, người dân Tân Nhựt gọi với cái tên thân thuộc và mộc mạc đó là Láng Le Bàu Cò. Di tích Láng Le Bàu Cò được xem là cửa ngõ để di chuyển tới trung tâm căn cứ Vườn Thơm và tấn công cơ quan đầu não của quân địch tại Sài Gòn. Trước đây khu di tích Láng Le Bàu Cò vốn là cánh đồng lau sậy mọc um tùm. Vào ngày 15/4/1948 thực dân Pháp đưa 3 nghìn quân lính cùng nhiều vũ khí hiện đại đồng loạt tấn công khu vực Láng Le Bàu Cò nhằm tiêu diệt căn cứ Vườn Thơm. Khi đó lực lượng vũ trang cách mạng ở Láng Le - Bàu vì lực lượng nhỏ và vũ khí thô sơ tuy nhiên được sự giúp đỡ của người dân địa phương cùng với lợi thế về địa hình. Chỉ sau hơn nửa ngày đấu tranh đã chuyển sang tấn công khiến quân Pháp bị thương vong với số lượng lớn. Chiến thắng Láng Le Bàu Cò đã tiêu diệt 300 tên địch và bắt sống 30 lính đánh thuê cùng phá hủy nhiều máy móc, xe nhà binh, súng các loại của quân giặc. Tuy nhiên, về phía ta có nhiều cán bộ chiến sĩ đã anh dũng hy sinh với tuổi đời còn rất trẻ. Ngày 14/10/1966 tại Láng Le tiểu đoàn biệt động quân Việt Nam Cộng Hòa bị dân quân du khách tiêu diệt. Khu di tích Láng Le Bàu Cò có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với người dân Sài Gòn nói riêng và cả nước nói chung. Trước lòng căm thù thực dân Pháp, quân dân Láng Le Bàu Cò đã có cuộc chiến vang lừng lịch sử và có ý nghĩa to lớn mở đầu cho phía ta và phía địch. Đối với phía ta trận đánh mở đầu cho sự anh dũng trong tư thế kháng chiến vững mạnh. Còn với quân địch đã phải lùi vào thế bỏ chiến lược và bị tiêu diệt. Thực dân Pháp không còn định hình được chiến lược đánh bại Việt Minh. Hơn thế, tại căn cứ Vườn Thơm, Láng Le Bàu Cò còn diễn ra trận chiến quyết tâm bảo vệ căn cứ của ta và đập tan mọi kế hoạch phá hoại của quân giặc. Khu di tích Láng Le Bàu Cò sau phong trào Đồng Khởi vào năm 1960 còn là hậu cần, bàn đạp của lực lượng vũ trang để giải phóng Long An - Sài Gòn - Gia Định. Để tưởng nhớ sự hy sinh của đồng bào và các chiến sĩ của ta, vào năm 1988 huyện Bình Chánh đã xây dựng công trình lịch sử tại vùng đất Láng Le Bàu Cò với diện tích rộng 1000m2. Nguồn: Báo thông tin điện tử TP Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 8726 lượt xem
Nhà lao Tân Hiệp còn có tên là "Trung tâm cải huấn Tân Hiệp" tọa lạc ở khu phố 6, phường Tân Tiến, TP Biên Hòa. Di tích Nhà lao Tân Hiệp đã được Bộ Văn Hoá Thể Thao xếp hạng là di tích cấp quốc gia ngày 15-1-1994. Nhà lao Tân Hiệp là một trong sáu nhà tù lớn nhất miền Nam Việt Nam và là nhà tù lớn nhất vùng Đông Nam bộ, được xây dựng ở vị trí quân sự quan trọng, án ngữ phía đông bắc thị xã Biên Hòa. Phía trước là quốc lộ 1; phía sau là đường xe lửa Bắc - Nam. Đây là vị trí biệt lập, thuận tiện trong giao thông, dễ dàng cho việc bảo vệ, canh gác, nhận tù từ nơi khác đến và chuyển tù đi Côn Đảo, Phú Quốc... Nhà lao Tân Hiệp có diện tích 46.520m2 với 8 trại giam, trong đó có 5 trại giam những người tù cộng sản, người yêu nước. Xung quanh nhà tù được bao bọc bởi 4 lớp kẽm gai bùng nhùng với 9 lô cốt, 3 tháp canh cùng đội lính bảo vệ và hệ thống báo động tối tân. Mang tên "Trung tâm cải huấn" nhưng thực chất bên trong là kho súng, phòng xét hỏi, tra tấn với những dụng cụ hiện đại bậc nhất. Mỗi trại giam chỉ có diện tích gần 200m2 nhưng giam giữ từ 300-400 người, có lúc lên đến cả ngàn người. Đặc biệt ở đây có các phòng "cải hối", "chuồng cọp" rất nhỏ hẹp và điều kiện sinh hoạt cực kỳ khắc nghiệt, tù nhân sống chẳng khác gì trong lò thiêu xác. Chế độ ăn uống cực kỳ mất vệ sinh, bọn cai ngục mua gạo mục, cá thối dùng để bón ruộng, chiên bằng dầu luyn cho tù nhân ăn dẫn đến nhiều người bị ngộ độc. Với quyết tâm thoát khỏi nhà tù đế quốc, trở về với Đảng, với nhân dân để tiếp tục chiến đấu, giải phóng dân tộc, ngày 2-12-1956, được sự nhất trí của Liên Tỉnh ủy miền Đông, những chiến sĩ cộng sản bị "câu lưu" trong nhà lao Tân Hiệp dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Trọng Tâm (Bảy Tâm) - phụ trách Đảng ủy nhà tù và một số đồng chí khác đã bất thần làm một cuộc phá xiềng tập thể giải thoát gần 500 đồng chí, đồng bào yêu nước. Sự kiện này đã làm xôn xao cả Lầu Năm Góc. Mỹ - Diệm vội vã huy động cả quân chủ lực lẫn bảo an, dân vệ đang trấn thủ 3 tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một và hai biệt đoàn biệt động quân đến bủa lưới bao vây, truy bắt đoàn tù nhưng đều thất bại. Các đồng chí, đồng bào của ta thoát khỏi nhà lao Tân Hiệp đã được sự giúp đỡ, che chở của các cơ sở địa phương, trở về căn cứ an toàn. Trong số tù nhân vượt ngục có các đồng chí: Bảy Tâm, Hai Thông, Lý Văn Sâm... đã trở thành những hạt nhân nòng cốt cho phong trào Đồng Khởi sau này. Năm 2001, để tái hiện phần nào tội ác của Mỹ - Diệm đối với các đồng chí, đồng bào ta bị giam cầm tại nhà lao Tân Hiệp và diễn tả lại toàn bộ cuộc nổi dậy phá khám Tân Hiệp ngày 2-12-1956, Bảo tàng Đồng Nai đã tiến hành sưu tầm hình ảnh, tài liệu, hiện vật trưng bày tại di tích và làm một sa bàn để phục vụ nhu cầu nghiên cứu, tham quan của mọi tầng lớp nhân dân. Hàng ngày, di tích luôn mở cửa đón khách tham quan. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 8062 lượt xem
Di tích chiến thắng La Ngà (tại km số 104-112 trên quốc lộ 20 đi Đà Lạt, thuộc xã Phú Ngọc, huyện Định Quán) được Bộ Văn hóa xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 12-12-1986. Để cổ vũ cho chiến thắng Việt Bắc thu - đông 1947 và cũng để giáng cho kẻ thù một đòn chí mạng, Ban chỉ huy chi đội 10 đã quyết định phải tổ chức một trận đánh lớn, để quân giặc thấy rằng dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam không dễ dàng chịu khuất phục trước bất kì một kẻ thù nào; Bằng tinh thần quả cảm và sự khôn khéo sau gần nửa năm chuẩn bị, nghiên cứu địa hình, chọn địa điểm: vào lúc 15 giờ 12 phút ngày 1/3/1948 trận chiến phục kích La Ngà bắt đầu và kết thúc vào lúc 15 giờ 57 phút cùng ngày, chỉ trong vòng 45 phút. Chiến thắng La Ngà đã làm nức lòng nhân dân Định Quán nói riêng, quân dân Đồng Nai nói chung. Đây là chiến thắng thể hiện sự mưu trí, dũng cảm của quân và dân ta làm cho địch một phen kinh hồn, bạt phía. Từ chiến thắng này lực lượng ta ngày càng thêm lớn mạnh, góp phần đánh bại kế hoạch đánh nhanh, thắng nhanh của địch, buộc chúng phải rơi vào thế bị động. Quần thể danh thắng đá Chồng, Thác Mai, sông La Ngà và Tượng đài chiến thắng La Ngà là một quần thể du lịch kì thú của Định Quán. Vẻ đẹp kỳ thú của Hòn Ba Chồng, Núi Đá Voi, Hòn Dĩa, cùng với ngôi chùa thiên nhiên dưới chân núi đá là những cụm tiêu biểu tạo thành cảnh đẹp hài hòa cho khu danh thắng Đá Chồng. Quần thể Đá Chồng Định Quán còn là nơi lưu lại những dấu tích của cuộc sống người tiền sử. Tại đây dưới các mái đá, ven các khe suối và cả các sườn dốc ven thung lũng đã phát hiện nhiều công cụ sản xuất, sinh hoạt của người xưa bằng đá, đồng, đất nung. Trong suốt cuộc kháng chiến dài 30 năm. Định Quán là một phần quan trọng của Chiến khu Đ. Đá Chồng đã chứng kiến sự hình thành, phát triển, trú quân, triển khai chiến đấu của lực lượng cách mạng. Ngày nay, một phần đất của khu danh thắng Đá Chồng Định Quán đã được sử dụng, xây dựng thành khu Trung tâm văn hóa thể thao huyện Định Quán. Tương lai không xa khu danh thắng Đá Chồng Định Quán sẽ được đầu tư tôn tạo góp phần làm cho cảnh quan thiên nhiên ngày càng tươi đẹp, là địa điểm du lịch sinh thái hấp dẫn. Nguồn: Uỷ Ban Nhân Dân Huyện Định Quán
Đồng Nai 6085 lượt xem
Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh còn gọi là đình Bình Kính tọa lạc bên tả ngạn sông Đồng Nai, xưa kia thuộc ấp Bình Kính, thôn Bình Hoành, tổng Trấn Biên, nay là ấp Nhị Hòa, xã Hiệp Hòa, TP Biên Hòa, đã được Bộ Văn Hoá – Thông Tin – Thể Thao & Du Lịch xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 25-3-1991. Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ 18, ban đầu ngôi đền có qui mô nhỏ, vách làm bằng ván, mái ngói âm dương, cách ngôi đền hiện tại khoảng 400m về hướng Nam. Các tư liệu cho biết: ngôi đền được xây dựng lại lần đầu tiên vào năm Tự Đức thứ tư (1851); đến năm 1923, đền được tái thiết lại ở địa điểm hiện nay. Nguyễn Hữu Cảnh sinh vào năm 1650 tại Gia Miêu, huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa trong một gia đình có nhiều bậc danh tướng đương triều. Ông là người văn võ song toàn, lập được nhiều chiến công lớn và được chúa Nguyễn tin yêu, trọng vọng. Mùa Xuân năm Mậu Dần (1698), ông vâng lệnh chúa Nguyễn vào kinh lược xứ Đàng Trong khi ấy còn rất hoang vu. Đến đất Đồng Nai, ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố (nay là xã Hiệp Hòa); lấy đất Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn, đất đai mở mang ngàn dặm. Ông chiêu mộ lưu dân đến lập nghiệp, tổ chức bộ máy hành chính từng bước có qui củ, khuyến khích khai hoang, thúc đẩy Cù lao Phố phát triển thành một trong những cảng thị sầm uất, năng động nhất đàng Trong suốt thế kỷ 18 và chính thức sáp nhập vùng đất mới phương Nam vào bản đồ Đại Việt. Sau khi kinh lược phương Nam trở về, năm sau ông lại phụng mệnh chúa Nguyễn Phúc Chu thống lĩnh đại binh dẹp vua Chân Lạp giữ vững miền biên ải phương Nam. Tháng 4 năm Canh Thìn (1700), sau khi hoàn thành sứ mệnh, trên đường trở về đến Rạch Gầm (Tiền Giang) thì ông thọ bệnh qua đời nhằm ngày 16 tháng 5 âm lịch, thọ 51 tuổi. Trên đường di quan ông về quê an táng, quan tài của ông được đình lại khu đất khi xưa ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố để cho nhân dân địa phương có dịp bái biệt ông lần cuối. Nơi đình quan đã được nhân dân địa phương xây một ngôi mộ vọng để ghi nhớ sự kiện này. Khi hay tin Nguyễn Hữu Cảnh mất, Chúa Nguyễn vô cùng thương tiếc đã phong tặng ông là Thượng đẳng công thần đặc Trấn phủ Chưởng cơ với tước: Lễ Thành Hầu và đưa bài vị của ông vào thờ tại Thái miếu. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 6004 lượt xem
Di tích tòa Đại sứ Mỹ còn được gọi "Nhà trắng phương Đông" là nơi xuất phát các âm mưu thâm độc về quân sự lẫn chính trị nhằm thôn tính lâu dài đất nước Việt Nam, địa điểm di tích là tòa nhà 5 tầng xây dựng theo kiến trúc hiện đại, tọa lạc tại góc đường Mạc Đĩnh Chi - Lê Duẩn, Phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, trên một mảnh đất rộng gần 5.000m2. Trước đó, tòa đại sứ Mỹ nằm tại số 39 đường Hàm Nghi. Khoảng 10 giờ sáng ngày 30/3/1963, tòa đại sứ Mỹ trên đường Hàm Nghi đã bị đội Biệt động F21 đánh chất nổ làm sập 3 tầng lầu: 1, 2, 3 do đó Mỹ đã quyết định xây lại. Tòa nhà được khởi công xây dựng vào năm 1965, hầu hết vật liệu cũng như máy móc xây dựng đều được chở từ Mỹ sang, dưới sự điều khiển của kỹ sư người Mỹ. Theo thiết kế, tòa nhà bao bọc bởi 7.800 viên đá Taredo có khả năng chống đỡ mìn, đạn pháo. Cửa chính trang bị bằng thép dầy, những cửa khác chắn bởi lớp kín dầy đặc biệt chống đạn. Tất cả cửa sử dụng hệ thống tự động kể cả cửa sắt chắn lối lên các tầng lầu. Bên trong tòa nhà gồm 140 phòng với 200 nhân viên phục vụ ngày đêm ngoài ra bên cạnh tòa nhà còn được xây thêm một dãy nhà phụ gọi là khu "Norodom" dành riêng cho nhân viên C.I.A. Khi khánh thành, tòa nhà chỉ có 3 tầng. Cuối năm 1966 xây thêm 2 tầng và 1 sân thượng dùng làm nơi hạ cánh cho máy bay lên thẳng. Bao quanh tòa nhà là bức tường cao 3m, hai đầu tường sát đường Lê Duẩn xây 2 lô - cốt cao, canh gác ngày đêm. Tòa Đại sứ hoàn thành tháng 9/1967 với một hệ thống phòng thủ như là một pháo đài có 60 lính gác, một hầm tránh bom, một hệ thống màn hình ra-đa nhằm kiểm soát mặt tiền. Ngay sau khi tòa nhà hoàn tất, ngày 24/9/1967, hàng ngàn sinh viên, học sinh kéo đến trước cổng Đại sứ quán Mỹ đấu tranh đòi "Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc", "Mỹ cút về nước" và ra thông báo tố cáo Mỹ "chà đạp và vi phạm nghiêm trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam". Nhưng sự kiện nổi bật xảy ra tại Tòa Đại sứ Mỹ là trận đánh của Biệt động thành trong Tổng Tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968. Mục tiêu đánh Đại sứ quán Mỹ được bổ sung ngày 24/ 1/1968 do Ngô Thành Vân phụ trách chung. Đội Biệt động 11 nhận lãnh nhiệm vụ quan trọng này gồm đội trưởng Út Nhỏ (đội trưởng trinh sát quân khu) và các chiến sĩ: Bảy Truyền, Tước, Thanh, Chức, Trần Thế Ninh, Chính, Tài, Văn, Đực, Cao Hoài Vinh, Mang, Sáu và 2 lái xe: Trần Sĩ Hùng và Ngô Văn Thuận. Một sự kiện khác cũng không kém phần tủi nhục cho Toà Đại sứ Mỹ là cảnh hỗn loạn tháo chạy xảy ra trong 2 ngày 29 và 30/04/1975 của Mỹ và đồng bọn. Trước sức tấn công thần tốc của quân và dân Việt Nam trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, trên 1.000 người Mỹ và hơn 5.000 người Việt thân Mỹ đã chen lấn, xô đẩy, đạp nhau để tranh giành một chỗ trên sân thượng của toà nhà hòng được trực thăng cứu thoát. Di tích này đã được cấp bằng công nhận của Bộ Văn hoá ngày 25/6/1976. Hiện nay, toà nhà Đại Sứ Mỹ đã bị phá bỏ, xây mới thành lãnh sự quán tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng cạnh đó một bia tưởng niệm ghi nhớ mãi chiến công của các chiến sĩ biệt động đã hy sinh trong trận đánh. Nguồn: Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 4844 lượt xem
Thời kỳ nhà Mạc đóng đô ở Cao Bằng, để phòng bị quân nhà Lê tiến đánh, nhà Mạc đã tu bổ, sửa chữa thành Na Lữ (nay thuộc xã Hoàng Tung, Hòa An) và thành Bản Phủ (nay thuộc xã Hưng Đạo), thành Phục Hòa, ngoài ra còn xây dựng nhiều thành lũy khác ở Cao Bằng, làm cho Cao Bằng trở thành một trung tâm chính trị và quân sự ở vùng biên viễn Đông Bắc thời bấy giờ. Thành Na Lữ và thành Phục Hoà là hai thành được xây dựng từ trước. Theo ghi chép của Bế Hựu Cung trong Cao Bằng thực lục, thành Na Lữ và thành Phục Hòa mở đầu từ đời Đường Ý Tông năm Giáp Thân, niên hiệu Hàm Thông thứ 5 (874). Căn cứ vào sự hiện diện của nhiều ngôi mộ cổ có đá khắc ghi bia mộ tên, địa chỉ, quê quán những người phu dịch xây thành chết ở đây từ thời Hàm Thông có thể khẳng định hai thành này xây từ đời Đường. Thành Na Lữ được xây qua nhiều triều đại khác nhau. Khi nhà Mạc lên Cao Bằng đã cho xây lại bằng gạch. Thành Na Lữ có hình gần chữ nhật, có tổng diện tích khoảng 37,5 ha, chiều dài khoảng 800 m, chiều rộng khoảng 600 m, thành có 4 cửa. Thành Bản Phủ tại kinh đô Nam Bình, nước Nam Cương của Thục Phán khi xưa ở Cao Bình (Cao Bằng), nhà Mạc đã tu bổ thành Vương phủ tại vòng trong của kinh đô cũ Nam Bình và được gọi là thành Bản Phủ hay Vương phủ. Tại kinh đô Nam Bình xưa của nước Nam Cương và của nhà Mạc, thành Bản Phủ vẫn còn dấu tích khá rõ nét. Kinh đô Nam Bình gồm có hai vòng thành, để bảo vệ kinh thành, vòng ngoài có chu vi khoảng 5 km, gồm cả một vùng gò đồi thấp, quanh chân đồi được bạt dựng đứng như một bức tường thành, thuận lợi cho việc xây dựng phòng tuyến bảo vệ. Bờ thành phía Tây chạy song song với bờ sông Bằng đến đầu làng Bó Mạ, nối bờ thành Đông Nam chảy qua trước mặt Bản Phủ theo chân đồi ra gặp quốc lộ 4, phía Đông Bắc chạy theo chân đồi sát phía ngoài quốc lộ 4, lên đến Đầu gò là phía Tây Bắc tiếp tục chạy theo chân đồi, ra đến bờ sông gặp bờ thành phía Tây tạo thành một vòng thành khép kín. Khi nhà Mạc lên đóng đô đã tu sửa lại và xây dựng thêm một số công trình, trong đó thành Bản Phủ (thành nội - nơi của vua làm việc) được xây lên cao hơn trên các tường thành cũ từ thời kỳ Thục Phán, thành nằm trên một khu đất bằng phẳng. Cùng với việc xây dựng lại kinh thành, nhà Mạc còn xây dựng một hệ thống đồn bốt, thành lũy khá dày xung quanh kinh đô và một số điểm biên giới quan trọng, tạo thành một hệ thống bảo vệ kinh thành và bảo vệ biên giới. Thành Phục Hòa (huyện Phục Hoà) được xây theo kiểu hình vuông, mỗi chiều khoảng 400 m, gồm hai vòng thành, khoảng cách giữa hai vòng là 80 m. Hiện nay, tường thành phía Nam đã bị phá huỷ hoàn toàn. Thành Phục Hòa có 2 cổng chính: Cổng phía Bắc được mở thông ra quốc lộ đi Cửa khẩu Tà Lùng ngày nay, nhân dân thường gọi là Pác Cổng, cổng này được xây theo kiểu hình chữ nhật, rộng 8 m, cao 5 m, gồm hai cánh cổng làm bằng gỗ nghiến dày rất chắc chắn; cổng thứ hai ở phía Nam, mở thông ra bờ sông. Cả hai cổng đều bị san phẳng từ lâu, hiện nay không còn vết tích. Gần thành, tại phía Tây Bắc ngoại thành dọc bờ sông còn có nhiều vết tích lò nung gạch, nhân dân cho biết trong quá trình lao động, khai phá đã tìm thấy ở khu vực này nhiều lò gạch còn nguyên vẹn. Qua nghiên cứu, khảo sát cho thấy, tại Cao Bằng, nhà Mạc đã tu bổ, tôn tạo và xây dựng thêm nhiều thành, đồn luỹ, trong đó tu bổ, tôn tạo xây lại thành Bản Phủ, thành Na Lữ, thành Phục Hoà. Các đồn luỹ này đã tạo thành một hệ thống liên hoàn bảo vệ kinh thành khá vững chắc. Đến nay, những thành cổ nhà Mạc xây dựng thời kỳ đóng đô ở Cao Bằng, một số thành xây dựng bằng đất chỉ còn vết tích, nhưng các thành được xây bằng đá vẫn còn rất rõ. Nguồn: Báo Cao Bằng điện tử
Cao Bằng 4772 lượt xem
Di tích Ngã Ba Giồng là di tích lịch sử cách mạng thuộc Ấp 5, xã Xuân Thới Thượng, huyện Hóc Môn. Được bao quanh bởi ba con đường: Phan Văn Hớn, Nguyễn Văn Bứa và tỉnh lộ 19. Khu di tích Ngã Ba Giồng là khu tưởng niệm về những sự kiện lịch sử trong hai cuộc khácg chiến chống ngoại xâm. Được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia vào năm 2002. Ngã ba Giòng (còn có tên gọi đầy đủ là Ngã ba Giòng Bằng Lăng) nằm trên địa phận thôn Xuân Thới Tây thuộc 18 thôn vườn trầu xưa được hình thành từ những năm 1698 đến năm 1731. Từ lâu đời, Ngã ba Giồng là 1 địa danh có tên gọi dân gian đã đi vào lịch sử của quê hương 18 thôn vườn trầu Hóc Môn – Bà Điểm. Tục truyền rằng xưa kia nơi đây là 1 vùng đất giồng tương đối cao ráo và là nơi mọc nhiều cây bằng lăng nên địa danh này có tên gọi từ đó. Sau khi cuộc khởi nghĩa Nam kỳ (23/11/1940) bị thất bại, thực dân Pháp đã tăng cường đàn áp, khủng bố khốc liệt phong trào cách mạng vùng Hóc Môn – Bà Điểm. Chúng đã lập ra ở Hóc Môn 3 trường bắn để giết hại các đồng chí lãnh đạo Đảng, các đồng chí đồng bào yêu nước của quê hương Hóc Môn và các vùng lân cận. Ngã ba Giồng là trường bắn thứ ba ghi lại tội ác tày trời của giặc pháp và bọn tay sai đối với nhân dân Hóc Môn. Rút kinh nghiệm từ 2 trường bắn trước (1 tại rạp hát cũ trung tâm Quận lỵ Hóc Môn, 1 cạnh giếng nước sau Bệnh viện Hóc Môn ngày nay), chúng xử bắn công khai, bắt nhân dân đến xem nhằm mục đích uy hiếp tinh thần cách mạng của nhân dân Hóc Môn. Nhưng cách xử bắn đó đã phản tác dụng, nhân dân Hóc Môn đã tận mắt chứng kiến sự tàn ác của thực dân Pháp, sự hy sinh cao cả của các chiến sĩ cộng sản nên ngọn lửa yêu nước của họ càng bùng lên mãnh liệt. Trường bắn thứ 3 này, chúng không dám xây dựng gần trung tâm Quận lỵ nữa mà đưa ra khu vực Ngã ba Giồng là vùng hoang vắng, thưa dân để tránh sự phản kháng của nhân dân. Tại đây, chúng xây dựng thành 1 trường bắn có mô đất kiên cố dài 12m, cao 2,2m, phía trước có trồng 6 cột bắn, mỗi cột cao 1.7m, hướng bắn quay về phía đồng ruộng (bưng Tràm Lạc). Vào năm 1941, tại đây chúng lén lúc xử bắn rất nhiều lần, không cho nhân dân xem, hàng trăm chiến sĩ cộng sản và đồng bào yêu nước bị chúng giết hại. Với ý nghĩa lịch sử vô cùng thiêng liêng của Ngã ba Giồng, nơi ghi dấu tội ác dã man của giặc Pháp, nơi thể hiện ý chí chiến đấu bất khuất kiên cường và sự hy sinh cao cả của đồng chí và đồng bào ta sau cuộc khởi nghĩa Nam kỳ (23/11/1940); sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (30/4/1975), huyện Hóc Môn đã nhanh chóng khôi phục và tôn tạo khu di tích lịch sử cách mạng Ngã ba Giồng nhằm giáo dục truyền thống cho các thế hệ thanh thiếu niên. Nơi đây đã trở thành điểm tham quan, nơi tổ chức lễ hội truyền thống trong những ngày lễ lớn hàng năm của huyện Hóc Môn và thành phố đặc biệt là lễ kỷ niệm ngày Nam kỳ Khởi nghĩa (23/11). Hiện nay được sự nhất trí của thành phố, huyện đang tiến hành tôn tạo xây dựng Ngã ba Giồng thành “Khu tưởng niệm liệt sĩ Ngã ba Giồng”. Nguồn: Cổng thông tin điện tử Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 4488 lượt xem
Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt, tọa lạc ấp Xóm Tháp, xã Tân Phong, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử - văn hóa ngày 23 tháng 7 năm 1993. Đồng thời là một trong ba công trình tháp cổ cuối cùng còn lại ở miền Nam nước ta. Trải qua nhiều lần trùng tu vào các năm 1938, 2003 và gần đây nhất là vào năm 2013. Mặc dù trải qua các đợt trùng tu tôn tạo, nhưng khu di tích tháp cổ Chót Mạt đã mang cho mình một diện mạo mới nhưng vẫn giữ nguyên được tinh thần kiến trúc cổ. Toàn bộ tòa Tháp được xây dựng bằng gạch và đá phiến với phần đỉnh tháp nhọn dần lên, từ mặt đất lên nơi cao nhất của đỉnh tháp được ước tính là 10m. Ngoài ra, ngọn tháp cổ này nằm trên gò đất cao giữa cánh đồng nên nhìn từ xa nó tựa như ngọn bút đang vươn lên cao dần. Năm 2003 Uỷ ban nhân dân tỉnh Tây Ninh quyết định phê duyệt dự án đầu tư trùng tu tôn tạo bảo tồn di tích tháp Chót Mạt và được tiến hành triển khai trùng tu tôn tạo phục hồi, trưng bày mở hố khai quật năm 2003 đưa vào sử dụng. Ngày 27/11/2019 UBND tỉnh ban hành Quyết định Quy định về phân cấp quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. Quyết định giao UBND huyện Tân Biên trực tiếp quản lý 4 di tích, trong đó có di tích cấp Quốc gia di tích Lịch sử- văn Hóa Tháp Chót Mạt. Đặc biệt Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt trên địa bàn xã Tân Phong, huyện Tân Biên được chọn nằm trong chũi liên kết phát triển du lịch của Tỉnh Tây Ninh. Đây là một địa điểm tham quan rất đáng để khám phá, góp phần phát triển du lịch trên địa bàn xã Tân Phong nói riêng và huyện Tân Biên nói chung. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Tây Ninh
Tây Ninh 4468 lượt xem
Dinh Quận Hóc Môn tọa lạc tại số 1, đường Lý Nam Đế, thị trấn Hóc Môn, (cạnh trụ sở UBND huyện) là nơi để lại nhiều sự kiện đấu tranh nổi bật suốt chặng đường dài lịch sử từ 1885 đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng của Nhân dân 18 Thôn vườn trầu. Sau khi hạ được Đại đồn Chí Hòa, thực dân Pháp xây dựng tại nơi đây một ngôi nhà gỗ cao 3 tầng dùng làm Đồn binh. Khi tên Trần Tử Ca về nhậm chức Đốc Phủ, dùng Đồn làm Dinh huyện Bình Long. Vốn là một tay say quỷ quyệt của thực dân Pháp, Trần Tử Ca bị nhóm do các ông Phan Văn Hớn (Quản Hớn) và Nguyễn Văn Quá (Chánh Lãnh Binh) cầm đầu gần 1.000 nghĩa quân tiến về đốt Dinh Quận, bắt và cắt đầu bêu giữa chợ. Đó là ngày 8/2/1885 Tết Ất Dậu. Sau đó, Dinh Quận Hóc Môn được xây dựng lại với nền móng đá xanh, tường gạch, có hệ thống phòng thủ từ lầu cao đến tận vòng rào. Lối kiến trúc y như Đồn binh nên người địa phương gọi là Đồn Hóc Môn. Trấn nhậm thay Trần Tử Ca là Đốc phủ Ngôn, đến Quận Trà rồi Quận Thọ. Đây là khoảng thời gian dài người dân vùng Hóc Môn hứng chịu bao cảnh tham tàn, bỉ ổi của thực dân Pháp và bọn tay sai đầu sỏ kể trên. Với truyền thống kiên cường bất khuất của Nhân dân Hóc Môn. Ngày 4/6/1930, khoảng 6 giờ sáng trước Dinh Quận, hàng trăm bà con Hóc Môn kéo biểu tình đòi “bãi bỏ thuế thân, giảm các thuế môn bài và thuế chợ, cấp đất cho dân cày nghèo”. Quận Trà cho mời những người cầm đầu vào Dinh thương lượng, nhưng chúng xảo quyệt bắt giữ họ trong đó có ông Lê Văn Uôi (Bí thư xã Tân Thới Nhì), là người cầm đầu cuộc biểu tình. Mọi người không nao núng, quyết liệt đòi hỏi Quận Trà phải thả những người bị cầm giữ. Đoàn biểu tình càng lúc càng đông, khí thế đấu tranh có phần lan rộng, khiến Quận Trà nhượng bộ. Một mặt chúng thả những người bị giữ, mặc khác chúng gọi điện cho quan thầy ở Sài Gòn cứu viện. 2 giờ sau, cuộc đấu tranh bị 2 tên Blachôlê và Nobbot chỉ huy bắn xối xả vào đoàn biểu tình, gây thương vong nhiều người. Nhưng sự kiện lịch sử gây ấn tượng nhất tại Dinh Quận Hóc Môn là cuộc khởi nghĩa Nam kỳ ngày 23/11/1940. Đồn Hóc Môn rất kiên cố, xây bằng đá xanh như là một pháo đài, cao khoảng 15 thước, có ụ súng và hệ thống phòng thủ lỗ châu mai do một trung đội lính khố xanh trấn giữ. Ngày 22/11/1940, Pháp tăng cường thêm 1 trung đội để đối phó với tình hình. Chiều 22/11/1940, cánh quân của ông Đỗ Văn Cội đột nhập vào thị trấn, giả dạng thường dân, phục kích sau lưng Đồn chờ lệnh cướp Đồn. Một cánh quân khác có nhiệm vụ phá cầu, đốn cây ngăn lộ, đánh chiếm các công sở, nhà việc... Cánh quân từ Phước Vĩnh An, Tân Thông, Tân An Hội, Tân Phú Trung do ông Phạm Văn Sáng và Đặng Công Bỉnh chỉ huy, xuất phát từ ấp Bến Đò, đánh chiếm nhà việc, diệt 1 tên, thu 4 súng, làm chủ tình hình tại đây (Tân Phú trung). Liền đó cánh quân này được lệnh kéo về Hóc Môn. Cánh quân Long Tuy Thượng do ông Bùi Văn Hoạt chỉ huy. Cánh quân thuộc Tổng Long Tuy Trung do ông Đỗ Văn Dậy và Lê Bình Đẳng chỉ huy. Khoảng 24 giờ đêm ngày 22/11/1940, vẫn chưa nghe thấy tiếng pháo lệnh ở Sài Gòn. Sau khi hội ý, các vị chỉ huy những cánh quân thống nhất tấn công Đồn giặc. Lập tức các cánh quân tiến thẳng về Đồn Hóc Môn, nơi trú ngụ của tên Quận trưởng Bùi Ngọc Thọ. 2 nghĩa quân tên Nghé và Kinh xung phong vào cổng trước, hy sinh. Nghĩa quân bốn phía xông vào Đồn như nước vỡ bờ. Trước sức mạnh của nghĩa quân và quần chúng, bọn lính trong Đồn không còn tinh thần kháng cự, bỏ chạy tán loạn. Nghĩa quân chiếm lĩnh hoàn toàn bên trong Đồn nhưng trên lầu, địch vẫn ngoan cố dùng súng bắn tẻ, cùng lúc gọi điện về Sài Gòn, Thủ Dầu Một cấp cứu. Vì nóng lòng bắt cho được tên Quận Thọ nên đồng chí Đỗ Văn Dậy bám ống máng nước để leo lên tầng trên Đồn. Đến lưng chừng bị trúng đạn, đồng chí bị rơi xuống và hy sinh sau đó. Cuộc chiến đấu đang thế giằng co thì viện binh địch đến. Không thể cầm cự, nghĩa quân rút khỏi thị trấn, phân tán về các làng, lực lượng vũ trang rút về ấp Bến Đò (Tân Phú Trung) rồi di chuyển sang ấp Mỹ Hạnh (Đức Hòa). Cuộc tiến công Đồn Hóc Môn (sau gọi là Dinh Quận Hóc Môn) tuy thất bại nhưng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng mọi người dân sự khâm phục lòng dũng cảm của các chiến sĩ cách mạng trong cuộc chiến đấu chống thực dân cướp nước. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, 7 giờ sáng ngày 30/4/1975, thị trấn Hóc Môn hoàn toàn được giải phóng, lá cờ Tổ quốc phất phới bay trên Dinh Quận, nơi tên Quận trưởng Nguyễn Như Sang và bọn tay sai đã chạy trốn từ tối đêm trước. Ngày nay Dinh Quận Hóc Môn được chọn làm Bảo tàng huyện, nơi đây tập trung nhiều tư liệu trưng bày, minh họa các giai đoạn lịch sử thăng trầm cũng như khí thế đấu tranh cách mạng của quân và dân trong huyện Hóc Môn qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Một Tượng đài đặt trước di tích Dinh Quận Hóc Môn thể hiện gương hy sinh bất khuất của quân và dân 18 Thôn Vườn trầu, được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn: Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 4423 lượt xem
Mai Xuân Thưởng là người lãnh đạo phong trào Cần Vương chống Pháp cuối thế kỷ XIX ở Bình Định. Mai Xuân Thưởng sinh năm Canh Thân 1860, mất năm Đinh Hợi 1887 người thôn Phú Lạc, tổng Phú phong, huyện Tuy Viễn, tỉnh Bình Định (nay là thôn Phú Lạc, xã Bình Thành, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Cha là Mai Xuân Tín làm Bố chánh ở Cao Bằng, mẹ là Huỳnh Thị Nguyệt con của một nhà quyền quý trong làng. Mai Xuân Thưởng vốn là người thông minh, ham học. Năm 18 tuổi (1878) ông đỗ Tú tài tại Trường thi Bình Định. năm 25 tuổi (1885) thi đỗ cử nhân. Hưởng ứng chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi, Mai Xuân Thưởng về quê Phú Lạc, chiêu mộ nghĩa binh, lập căn cứ ở hòn Sưng dựng cờ cần vương chống Pháp, sau đó Mai Xuân Thưởng đã đem lực lượng của mình gia nhập vào nghĩa quân do Đào Doãn Địch lãnh đạo và được Đào Doãn Địch phong giữ chức Tán lương quân vụ (phụ trách về lương thực của nghĩa quân). Kể từ đó cho đến năm 1887, phong trào cần vương ở Bình Định phát triển mạnh mẽ và lan ra đến Quảng Ngãi, Phú Yên...thu hút hàng chục ngàn người thuộc mọi tầng lớp tham gia. Ngày 20/9/1885 Đào Doãn Địch mất, giao toàn bộ lực lượng cho Mai Xuân Thưởng. Ông chọn vùng núi Lộc Đổng (nay thuộc xã Bình Tường, huyện Tây Sơn) làm đại bản doanh và tổ chức lễ tế cờ , truyền hịch kêu gọi sỹ phu, văn thân, nhân dân tham gia phong trào cần Vương chống Pháp. Trong buổi lễ ấy, nghĩa quân nhiều vùng trong tỉnh Bình Định đã nhất trí suy tôn ông làm Nguyên soái lãnh đạo cuộc khởi nghĩa và nêu cao khẩu hiệu: “Tiền sát tả, hậu đả Tây”. Đầu năm 1887, quân Pháp dưới sự chỉ huy của Trung tá Cherrean và quân triều đình do Trần Bá Lộc chỉ huy cùng với Công sứ Trira đã mở cuộc tấn công lớn lên căn cứ đại bản doanh của phong trào Cần Vương Bình Định, trận giao chiến giữa lực lượng nghĩa quân với giặc Pháp diễn ra vô cùng ác liệt, cuộc chiến đấu không cân sức, cuối cùng lực lượng khởi nghĩa bị đẩy lùi. Tháng 3 năm 1887, sau trận ác chiến ở Bàu Sấu (thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định), Mai Xuân Thưởng bị thương nặng, nghĩa quân rút về Mật khu Linh Ðổng. Ngày 21 tháng 4 năm 1887, Trần Bá Lộc bao vây đánh chiếm căn cứ mật khu Linh Đổng và bắt được một số nghĩa quân, trong đó có thân mẫu Mai Nguyên Soái. Đêm 30 tháng 4 năm 1887, Mai Xuân Thưởng đã cử một đội quân cảm tử đột nhập doanh trại Trần Bá Lộc, giải vây cho những người bị bắt, ông cùng đoàn thuộc hạ gồm 50 người vượt núi vào Phú Yên, tiếp tục kháng chiến, nhưng khi đến đèo Phú Quý (ranh giới giữa Bình Định và Phú Yên) thị bị phục binh Trần Bá Lộc bắt và đưa ra xử trảm tại Gò Chàm (Phía đông Thành Bình Định). Di tích Lăng mộ nhà yêu nước Mai Xuân Thưởng tọa lạc trên ngọn đồi cao của dãy núi Ngang (thuộc thôn Hòa Sơn, xã Bình Tường, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định) cách thành phố Quy Nhơn khoảng 50km về hướng Tây Bắc; Lăng mộ được xây dựng trên khu đất rộng 1988m2, khánh thành ngày 22 tháng 1 năm 1961.Về tổng thể, Lăng được thiết kế theo kiểu lăng mộ cổ, xung quanh có thành thấp bao bọc. Cổng Lăng (tam quan) là 4 trụ vuông, phía trên thắt lại theo kiểu bầu lọ mang dáng dấp kiến trúc cổng đình, miếu cuối thế kỷ XIX. Giữa nhà Lăng là mộ phần Mai Xuân Thưởng hình khối chữ nhật theo hướng Đông - Tây; Phía đầu mộ dựng tấm Bia đá khắc bài ký ghi tiểu sử và sự nghiệp của Mai Xuân Thưởng: Di tích được Bộ Văn hóa Thông tin quyết định xếp hạng cấp Quốc Gia ngày 20 tháng 4 năm 1995. Nguồn: UBND Huyện Tây Sơn tỉnh Bình Định
Bình Định 4396 lượt xem