Ứng dụng thuyết minh khám phá du lịch Việt Nam

Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch Travelviet

Tải ứng dụng Travelviet

Logo Travelviet

Di tích lịch sử

Việt nam

Khu lưu niệm đồng chí Lương Văn Tri

Đồng chí Lương Văn Tri sinh ngày 17/8/1910 trong một gia đình người Tày ở Bản Hẻo, xã Mỹ Liệt, tổng Mỹ Liệt, châu Điềm He (nay là xã Trấn Ninh, huyện Văn Quan). Thuở nhỏ, đồng chí rất thông minh, học giỏi. Sinh ra và lớn lên dưới chế độ thực dân phong kiến hà khắc, nhân dân vô cùng cực khổ, đồng chí đã sớm có tinh thần yêu nước và tư tưởng tiến bộ. Đồng chí Lương Văn Tri là một nhà hoạt động cách mạng và là người có đóng góp lớn trong phong trào cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam. Đồng chí từng cùng đồng chí Hoàng Văn Thụ lập ra một nhóm thanh niên yêu nước tại thị xã Lạng Sơn vào năm 1926. Năm 1928, được kết nạp vào Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội. Tháng 12 năm 1929, được kết nạp vào Đông Dương Cộng sản Đảng. Sau khi tốt nghiệp Trường quân sự Hoàng Phố (Trung Quốc) năm 1933, Lương Văn Tri được phân công về Việt Nam xây dựng phong trào cách mạng ở Cao Bằng – Lạng Sơn. Năm 1939, đồng chí được bầu làm Xứ Ủy viên Xứ uỷ Bắc kỳ, phụ trách vấn đề quân sự. Năm 1940, đồng chí giữ chức Thường vụ Xứ ủy Bắc kỳ, phụ trách liên tỉnh Thái Nguyên, Bắc Ninh, Bắc Giang, Lạng Sơn… Sau hội nghị Trung ương lần thứ bảy (tháng 11/1940), Lương Văn Tri được cử làm chỉ huy trưởng đội du kích Bắc Sơn và khu căn cứ Cứu quốc quân Bắc Sơn – Võ Nhai. Tháng 8 năm 1941, trên đường hành quân lên Cao Bằng, đồng chí Lương Văn Tri bị thực dân Pháp bắt tại Ngân Sơn (Bắc Kạn) và đã hy sinh sau đó tại nhà tù Cao Bằng vào ngày 29/9/1941. Đồng chí Lương Văn Tri đã nêu tấm gương sáng ngời về chủ nghĩa anh hùng cách mạng, cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, góp phần tô điểm cho trang sử vẻ vang của Đảng ta. Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của đồng chí mãi mãi là tấm gương sáng ngời để lớp lớp con cháu chúng ta học tập và noi theo. Hiện nay, ngôi nhà của đồng chí đã từng sinh ra và lớn lên ở thôn Bản Hẻo, xã Trấn Ninh, huyện Văn Quan được tu bổ, tôn tạo, phục chế nguyên gốc, trở thành di tích Nhà lưu niệm đồng chí Lương Văn Tri. Nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh đồng chí Lương Văn Tri (17/8/1910 – 17/8/2010), đảng và nhà nước ta đã xây dựng công trình Tượng đài đồng chí Lương Văn Tri tại thị trấn Văn Quan, huyện Văn Quan. Đây là những hoạt động thiết thực để tưởng nhớ và tri ân những cống hiến to lớn của đồng chí Lương Văn Tri trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng thời kỳ tiền khởi nghĩa. Di tích lưu niệm và tượng đài đồng chí Lương Văn Tri tại huyện Văn Quan là những địa chỉ văn hóa, thường xuyên thu hút các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ đến tìm hiểu và học tập truyền thống cách mạng của quê hương đất nước. Nguồn: Trung Tâm Thông Tin Xúc Tiến Du Lịch Lạng Sơn

Lạng Sơn 2447 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Khu di tích Khởi nghĩa Bắc Sơn

Khu di tích Khởi nghĩa Bắc Sơn có giá trị lịch sử tiêu biểu, quan trọng trong hệ thống các di tích lịch sử quân sự cách mạng Việt Nam. Khu di tích là an toàn khu nuôi giấu, bảo vệ các cơ quan, cán bộ cao cấp của Trung ương, Xứ ủy Bắc kỳ trong thời gian hoạt động cách mạng tại Bắc Sơn, nơi đặt trạm liên lạc thông suốt giữa Trung ương với Xứ uỷ Bắc kỳ cùng các địa bàn khác và là nơi cung cấp tài liệu cho công tác huấn luyện cán bộ cách mạng của Đảng. Di tích gồm 12 điểm, đã được xếp hạng di tích quốc gia năm 1992, phân bố trên địa bàn 06 xã: Tân Hương, Hưng Vũ, Vũ Lăng, Vũ Lễ, Tân Lập, Long Đống thuộc huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn, bao gồm: 1. Di tích Bó Tát (Mỏ Tát): nơi thành lập Chi bộ Đảng đầu tiên của Đảng bộ huyện Bắc Sơn (25/9/1936 – 25/9/2021). 2. Di tích đồi Nà Kheo: nơi có hệ thống đường hào 3. Di tích đình Nông Lục: ngày 2 tháng 9 năm 1940 những đảng viên sau khi thoát khỏi nhà tù của chế độ thực dân đã di chuyển tới đình Nông Lục để họp. Cuộc họp được tổ chức với mục đích lựa chọn thời cơ để tiến hành cuộc khởi nghĩa đấu tranh chống thực dân Pháp để giải phóng đồn Mỏ Nhài. 4. Di tích đồn Mỏ Nhài: là căn cứ quân sự được thực dân Pháp cho xây dựng ngay khi vừa đặt chân đến xâm lược nước ta. 5. Di tích Thâm Thoông - Dập Dị: là đoạn đèo nằm trên tỉnh lộ 241 (tuyến đường Bắc Sơn - Vũ Lăng). 6. Di tích Trường Vũ Lăng: Ngôi trường được thực dân Pháp xây dựng với mục đích đào tạo nên đội ngũ tay sai làm việc cho chúng. 7. Di tích Sa Khao (Phia Khao): nơi nuôi giấu cán bộ, hoạt động của Đoàn cán bộ Trung ương và Châu ủy Bắc Sơn. 8. Di tích Khuổi Nọi: Đây là địa bàn hoạt động bí mật của Đội Cứu Quốc quân. 9. Di tích Lân Pán: là địa điểm hoạt động bí mật của Đoàn cán bộ Trung ương Đảng trong quá trình triển khai Nghị quyết Trung ương 8 và củng cố phát triển lực lượng vũ trang cơ sở tại Đảng bộ Bắc Sơn. 10. Di tích Lân Táy - Mỏ Pia: gồm 2 điểm là hang Mỏ Pia và địa điểm Lân Táy. 11. Di tích hang Mỏ Rẹ: Đây là nơi hoạt động bí mật của các đồng chí lãnh đạo Xứ ủy Bắc Kỳ và là nơi diễn ra cuộc chiến đấu ác liệt phá vòng vây của địch ngày 28/8/1941. 12. Di tích Đèo Tam Canh: được lựa chọn làm địa điểm xây dựng biểu tượng Khởi nghĩa Bắc Sơn và 1 nhà bia ghi dấu sự kiện với tổng diện tích khuôn viên khoảng 120m2. Hiện nay, các di vật, tài liệu hiện vật liên quan đến khu di tích đang được lưu giữ, bảo quản và trưng bày tại Bảo tàng Bắc Sơn và Nhà trưng bày truyền thống trường Vũ Lăng, với tổng số 138 hiện vật, gồm: 127 hiện vật gốc, 11 hiện vật phục chế. Cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với lịch sử dân tộc Việt Nam, là biểu tượng sáng ngời của lòng yêu nước, ý chí quật cường của quân, dân Bắc Sơn nói riêng và quân, dân Việt Nam nói chung. Với giá trị đặc biệt tiêu biểu, di tích lịch sử Khởi nghĩa Bắc Sơn được xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt. Nguồn: Cục di sản văn hoá

Lạng Sơn 2943 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Ải Chi Lăng

Chi Lăng là vùng đất giàu truyền thống lịch sử hào hùng của dân tộc Việt Nam, gắn liền với những chiến công hiển hách của cha ông ta trong suốt lịch sử dựng nước, giữ nước. Chi Lăng là ải hiểm trở nhất trên đường cái quan từ Nam Quan về Thăng Long. Ải Chi Lăng là một thung lũng nhỏ, hình bầu dục, hai đầu nam bắc thu hẹp, gần như khép kín. Chiều dài ải Chi Lăng khoảng 4km, chỗ rộng nhất hơn 1km. Trong nhiều năm trước đây, các tài liệu về di tích Chi Lăng đều ghi nhận có 52 điểm di tích (trong đó bao gồm cả các di tích, dấu tích, địa danh tên gọi hiện còn và các câu chuyện truyền miệng còn lưu lại trong dân gian). Tuy nhiên theo kết quả kiểm kê di tích do Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh Lạng Sơn thực hiện năm 2018, hiện chỉ còn 46 điểm di tích, địa điểm, địa danh còn được ghi nhận, 6 điểm còn lại đã hoàn toàn mất dấu tích. Khu di tích lịch sử Chi Lăng là một thung lũng hẹp, kẹp giữa hai dãy núi Bảo Đài và Cai Kinh, là nơi thể hiện tài thao lược, nghệ thuật quân sự của nghĩa quân Lam Sơn, góp phần quyết định trong thắng lợi của cuộc kháng chiếng chống Minh. Thời tiền sử Chi Lăng đã là quê hương của các nền văn hóa khảo cổ nổi tiếng như: Bắc Sơn, Mai Pha với hệ thống di tích tiêu biểu như Hang Lạng Nắc, Hang Ngườm Sâu, Hang Nà Ngụm… nơi lưu giữ, phát hiện những di vật, mảnh tước, rìu đá, mảnh gốm… minh chứng cho những giai đoạn sơ sử, tiền sử của người Việt cổ có giá trị về nghiên cứu khoa học. Chi Lăng ghi dấu những trang sử hào hùng của dân tộc với tầng tầng lịch sử, lớp lớp chiến công của cha ông ta với 2 lần chống Tống (năm 981 và 1077), 2 lần kháng chiến chống quân Nguyên xâm lược (năm 1285 và 1287), cuộc chống quân xâm lược Mãn Thanh (năm 1788 – 1789), đến cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ (tiêu biểu như cuộc khởi nghĩa Hoàng Đình Kinh những năm 1882 – 1888, nữ du kích Quang Lang bắn rơi máy bay Mỹ). Trong lịch sử, đây là nơi liên tục diễn ra các trận đánh mang tính chiến lược trong lịch sử quân sự Việt Nam, mà đỉnh cao là chiến thắng Chi Lăng năm 1427 quân và dân ta đã lập nên một chiến công vang dội tiêu diệt đạo quân tiếp viện hơn 10 vạn quân Minh do Liễu Thăng chỉ huy, góp phần kết thúc trường kỳ cuộc kháng chiến, lật nhào ách đô hộ của Nhà Minh dành lại trọn vẹn non sông, đất nước. Chiến thắng Chi Lăng đã đi vào Lịch sử Việt Nam một mốc son chói lọi, cùng với các chiến thắng Bạch Đằng, Như Nguyệt, Rạch Gầm, Xoài Mút, Ngọc Hồi – Đống Đa, Điện Biên Phủ, Chiến dịch Hồ Chí Minh… Chiến thắng Chi Lăng là khúc ca hùng tráng về chủ nghĩa yêu nước, ý chí độc lập, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, tinh thần quyết chiến quyết thắng và nghệ thuật quân sự tuyệt vời của dân tộc ta. Với những giá trị lịch sử quan trọng đó ngày 28/4/1962 Khu di tích được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng di tích quốc gia; Chi Lăng được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”; năm 2019, Khu di tích được xếp hạng Di tích quốc gia đặc biệt, khẳng định vị trí quan trọng của khu di tích trong kho tàng di sản văn hóa dân tộc Việt Nam. Nguồn: Trung tâm Thông tin Xúc tiến Du lịch Lạng Sơn

Lạng Sơn 2777 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Thành Cổ Lạng Sơn

Thành cổ Lạng Sơn hay còn gọi là Đoàn Thành nằm trên địa bàn phường Chi Lăng, Thành phố Lạng Sơn. Qua nghiên cứu các tài liệu lịch sử, Thành cổ Lạng Sơn được xây dựng từ rất lâu đời. Trong các tài liệu của Trung Quốc viết về thời nhà Tống, nhà Minh có ghi chép. Khi đó, Trương Phụ (một vị tướng thời nhà Minh – Trung Quốc) sau khi đánh chiếm nước ta và đặt ách đô hộ đã tiến hành củng cố tổ chức bộ máy chính trị ở địa hạt. Tương truyền rằng trong thời gian này y đã cho đắp thành Khâu Ôn. Về việc xây dựng Đoàn Thành còn có truyền thuyết khác cho rằng Thành là do hai ông Tiên xuống giúp xây dựng, có lẽ vì vậy Thành cổ còn có tên gọi khác là “Thành Tiên xây”. Theo Đại Nam nhất thống chí: “... Năm Hồng Đức thứ 26, nhà Lê (1495) thành đã được tu bổ lại…”. Căn cứ vào một số tư liệu đã nêu trên, có thể dự đoán rằng Thành cổ Lạng Sơn được xây dựng vào thời nhà Lý hoặc nhà Trần vào khoảng thế kỷ XII, XIII. Thành được xây dựng trên địa thế đất rộng và bằng phẳng, bao quát một không gian rộng lớn của thành phố Lạng Sơn (trước đây gọi là Thành Lạng). Xung quanh thành có núi bao bọc và có sông Kỳ Cùng chảy qua, các núi đó còn gọi là núi Hồi Đoàn (phía Bắc), phía Nam có núi Công Mẫu. Kiến trúc của Đoàn Thành cũng giống như bao thành cổ khác là có tường cao, hào sâu… (hào ở đây chính là dòng sông Kỳ Cùng uốn mình lượn quanh). Xung quanh là các đồn ải được bố trí ở các xã, các châu xa gần, tất cả có 19 đồn, 3 điếm và 26 cửa ải. Tường thành được xây bằng “gạch vồ”, là một loại gạch cổ có kích thước lớn, tường cao 4m dựng đứng rất khó xâm nhập tấn công từ ngoài vào, tuy vậy nhưng có thời "... Đoàn Thành đã ba lần bị thất thủ, dân bảy châu bị hãm vào cảnh lầm than. Tường thành phía Tây và phía Nam bên trong được đắp đất cao lên đến mặt thành, ở chân thành được đắp đất rộng 10m , trên mặt thành đắp đất rộng 3m, rất thuận lợi cho số đông binh lính cùng tham gia chiến đấu. Chiều cao tường đất bên trong bằng chiều cao tường xây phía ngoài tạo thành một hình thang vuông vững chãi, có đường huyền thoải dốc rất thuận tiện cho việc triển khai binh lính lên mặt thành, ở góc Tây Nam nơi giao nhau của tường thành phía Tây và phía Nam có một ngọn núi đất nhỏ tên là Tổ Sơn. Tường thành phía Đông và phía Bắc bên trong không đắp đất nhưng trên mặt tường thành lại trổ các lỗ châu mai; Trên đỉnh tường thành gạch được xây chìa ra hai bên, mỗi bên 0,1m để tạo thành mái bảo vệ tường thành bền vững. Thành cổ hiện còn lại hai cổng (một cổng ở phía Tây và một cổng ở phía Nam), cổng thành được thiết kế xây dựng theo kiểu kiến trúc Van Ban (Vô Băng) của Pháp. Đoàn Thành không chỉ nằm trên địa thế hiểm trở, nơi đây còn được xem là mảnh đất linh thiêng. Theo truyền thuyết dân gian thì đây còn là nơi hội ngộ của công chúa Liễu Hạnh (Thánh Mẫu) và Trạng Bùng – Phùng Khắc Khoan. Thành cổ là một trung tâm quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa lớn của Lạng Sơn trong thời kỳ phong kiến. Bên cạnh đó Thành cổ còn thể hiện rõ vai trò, vị trí quan trọng trong vấn đề bang giao với các triều đại phong kiến phương Bắc. Đây là nơi qua lại cửa ngõ biên giới, nơi giao bang giữa hai quốc gia Đại Việt - Trung Hoa. Thành cổ có 4 cổng chính ở bốn hướng Đông, Tây, Nam, Bắc và tương ứng với 4 cổng này là 4 ngôi Đền thiêng được gọi là: Đông Môn từ , Tây Môn từ, Nam Môn từ, Bắc Môn từ (nay gọi là: Đền Cửa Đông, Đền Cửa Tây, Đền Cửa Nam, Đền Cửa Bắc) đó là bốn vị thần trấn yểm bốn phía của Đoàn Thành. Các nhà khoa học đã công nhận đây là Tứ trấn thành cổ Lạng Sơn linh thiêng độc đáo. Với tất cả ý nghĩa và tầm quan trọng nói trên, di tích Thành cổ Lạng Sơn đã được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng di tích cấp Quốc gia năm 1999. Nguồn: Trang Thông Tin Điện Tử Bảo Tàng Tỉnh Lạng Sơn

Lạng Sơn 2826 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Thành Nhà Mạc

Thành nhà Mạc Lạng Sơn có địa chỉ tại phường Tam Thanh, thành phố Lạng Sơn - đây là di tích lịch sử còn sót lại với nét hoang sơ, cổ kính phản ánh kiến trúc quân sự thời phong kiến. Nằm ở vị thế khá quan trọng với thế dựa lưng vào 3 ngọn núi Tô Thị, Lô Cốt, Mạc Kính Cung cao tới hàng chục mét. Từng bức tường thành được xây kiên cố, lên cao vây kín một khoảng đất trống bằng phẳng hàng nghìn m2. Thành Nhà Mạc Lạng Sơn được xếp hạng Di tích lịch sử Quốc gia và được đầu tư, tôn tạo nhằm phục vụ khách du lịch và người dân quanh vùng tham quan, vãn cảnh. Dấu tích của thành Nhà Mạc Lạng Sơn hiện nay còn lại gồm 2 đoạn tường dài khoảng 300m, mặt thành rộng khoảng 1m, xây bằng những khối đá lớn giữa hẻm núi, từ chân núi dẫn lên cổng thành hơn 100 bậc tam cấp được xây dựng để tạo thuận lợi cho du khách lên tham quan. Vào tới trong thành là một khu đất trống rộng hàng trăm m2; bao xung quanh ngoài những đoạn tường thành có 3 đỉnh núi cao hàng chục mét. Để du khách lên các đỉnh núi thăm quan, ngắm cảnh là hàng trăm bậc thang được xây dựng uốn lượn, do vậy đây là một địa điểm lý tưởng để cho du khách và người dân tham quan, vãn cảnh. Vào những ngày lễ, tết, ngày nghỉ lượng du khách về đây tham quan tương đối đông, một phần do vị trí của di tích thuận tiện nằm trong quần thể Di tích núi Tô Thị, Động Tam Thanh, Nhị Thanh, một phần vì sự độc đáo của danh thắng này nên không chỉ du khách phương xa mà các bạn trẻ trong vùng và người dân sinh sống xung quanh danh thắng cũng chọn nơi đây là điểm dã ngoại, tập thể dục để được thưởng thức không khí trong lành. Nguồn: Cục du lịch Quốc Gia Việt Nam

Lạng Sơn 2606 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Khu căn cứ cách mạng Cao Phong - Thạch Yên

Khu căn cứ cách mạng Cao phong - Thạch Yên thuộc huyện Cao Phong, tỉnh Hoà Bình. Vì các hoạt động của khu căn cứ diễn ra trên địa bàn hai xã Cao Phong - Thạch yên (cũ) nên khu căn cứ có tên gọi là Cao phong - Thạch Yên (nay di tích thuộc địa bàn xã Yên Lập - Yên Thượng - Huyện Cao Phong). Được xếp hạng di tích cấp quốc gia năm 1996. Từ giữa năm 1944 trở đi, sau khi có Chỉ thị của Trung ương Đảng về gây dựng cơ sở chiến tranh du kích ở tỉnh Hoà Bình, đặc biệt là sau khi có Chỉ thị của Ban thường vụ Trung ương Đảng (tháng 1 năm 1945) về việc xây dựng chiến khu Hoà - Ninh - Thanh nhằm chủ động tốt địa bàn cho Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân tiến qua; đồng thời chuẩn bị về mặt quân sự cho công cuộc khởi nghĩa giành chính quyền, phong trào cách mạng ở tỉnh Hoà Bình đã phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ. Việc xây dựng cơ sở Việt Minh càng tiến triển với tốc độ nhanh, cho đến cuối năm 1944, đầu năm 1945, ngoài thị xã Hoà Bình, cơ sở Việt minh còn lan ra các xã xung quanh như Quỳnh Lâm và bắt đầu lan tới vùng Cao Phong. Khu căn cứ Cao Phong - Thạch Yên nằm trên vùng rừng núi hiểm trở, tuy địa bàn phân bố hoạt động của khu căn cứ diễn ra rất rộng gồm các địa điểm lịch sử như: 1. Đồi Chùa Khánh ở xóm Khánh xã Yên Thượng. Đây là nơi tập luyện của đơn vị vũ trang - đội ngũ cán bộ đầu tiên của khu căn cứ. Sau khi huấn luyện xong ở đây, đơn vị đã toả đi các xóm để xây dựng các đội tự vệ. Các đồng chí trong đơn vị này trở thành những tiểu đội trưởng của các đội tự vệ của các xóm. 2. Gia đình ông Bùi Văn Y xóm Đai, xã Yên Thượng. Là cơ sở tin cậy của đồng chí Vũ Thơ, Trương Đình Dần…đi lại, nghỉ ngơi trong suốt thời gian tham gia hoạt động. Gia đình ông đã đóng góp rất nhiều lương thực, tiền của ủng hộ cho cách mạng. 3. Gia đình ông Bùi Văn Hoảnh ở xóm Trang, xã Tân Phong. Là cơ sở tin cậy để các đồng chí Vũ Thơ, Trương Đình Dần…đi, về, ăn, nghỉ, trong suốt thời gian hoạt động tại khu căn cứ Cao Phong - Thạch Yên. 4. Chùa xóm Trang, xã Tân Phong. Đây là địa điểm Ban cán sự Đảng tỉnh Hoà Bình đã họp vào tháng 4/1945. Trong cuộc họp này, Ban cán sự đã quyết định thành lập các khu căn cứ. Sau ngày kháng chiến chống Pháp thành công, do nhiều nguyên nhân nên ngôi chùa đã bị hư hỏng mất. 5. Gia đình ông Phó Viễn (tức Đặng Chí Viễn). Là người có công trong việc giúp đỡ đồng chí Vũ Thơ đến giác ngộ các lang của vùng Cao Phong - Thạch Yên. Trong suốt thời gian hoạt động tại khu căn cứ, gia đình ông đã trở thành một địa điểm tin cậy của các đồng chí tham gia hoạt động tại khu căn cứ cách mạng Cao Phong - Thạch Yên. Gia đình ông Phó Viễn còn là địa điểm Ban cán sự Đảng tỉnh triệu tập Hội nghị đại biểu mặt trận Việt Minh toàn tỉnh họp tháng 7 năm 1945 thực hiện Chỉ thị của Tổng bộ Việt Minh về gấp rút chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền ở tỉnh Hoà Bình. Chiến khu Cao Phong - Thạch Yên là một trong những điểm xây dựng cơ sở cách mạng của Ban cán sự Đảng tỉnh Hoà Bình. Khu căn cứ Cao Phong - Thạch Yên thực sự là khu căn cứ vững chắc của cách mạng tỉnh Hoà Bình và hệ thống chiến khu Hoà - Ninh - Thanh, góp một phần không nhỏ vào thắng lợi chung của phong trào cách mạng tỉnh Hoà Bình. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Hoà Bình

Hòa Bình 2670 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích Địa điểm Đại hội trù bị Đại hội II Đảng nhân dân cách mạng Lào

Di tích Địa điểm Đại hội trù bị Đại hội 2 Đảng nhân dân cách mạng Lào là di tích lịch sử cách mạng cấp quốc gia, di tích nằm ở phường Dân Chủ Thành Phố Hòa Bình. Đây là di tích có ý nghĩa đặc biệt thể hiện tình hữu nghị 2 nước Việt Nam - Lào. Việt Nam và Lào là 2 nước láng giềng gần gũi, có mối quan hệ truyền thống, gắn bó từ lâu đời. Mối quan hệ đó đã được dày công vun đắp, tôi luyện trong thực tế, hun đúc bằng công sức và xương máu của biết bao anh hùng liệt sĩ, bằng sự hy sinh phấn đấu của nhiều thế hệ người dân Việt Nam và người dân nước bạn Lào. Quan hệ giữa hai nước đã trở thành tài sản vô giá của 2 dân tộc. Trong những năm tháng đấu tranh chống kẻ thù chung để giành độc lập tự do, 2 dân tộc đã chia ngọt sẻ bùi, hy sinh xương máu và dựa vào nhau để tồn tại và phát triển. Sự gắn bó đó đã tạo nên mối quan hệ đặc biệt vô cùng quý giá được xây đắp trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, tự chủ của nhau. Mối quan hệ tốt đẹp giữa 2 dân tộc Việt Nam - Lào được minh chứng rõ ràng nhất qua lịch sử đấu tranh giành độc lập của 2 dân tộc. Một trong vô vàn những minh chứng đó chính là Đảng Cộng Sản Việt Nam đã giúp đỡ Đảng nhân dân Lào tổ chức thành công Đại hội trù bị đại hội 2 đảng nhân dân Lào và tổ chức thành công các lớp bồi dưỡng chính trị cho các đồng chí đảng viên Lào tại Hòa Bình. Trong quá trình thành lập Đảng nhân dân cách mạng Lào và trong thời kỳ kháng chiến, nhiều địa điểm minh chứng cho mối quan hệ truyền thống, tình đoàn kết đặc biệt đã được hiện diện ở nhiều nơi trên đất nước Việt Nam. Việc tỉnh Hoà Bình là nơi đã diễn ra Đại hội trù bị Đại hội 2 Đảng nhân dân Lào và là nơi các khoá học bồi dưỡng về công tác Đảng, công tác chính trị của Cách mạng Lào trong thời gian từ đầu năm 1971 đến đầu năm 1972, một lần nữa chứng minh và khẳng định sự đóng góp to lớn của Hòa Bình và nhân dân các dân tộc Hòa Bình vào mối quan hệ truyền thống, tình đoàn kết đặc biệt và sự hợp tác toàn diện giữa tỉnh Hoà Bình với Đảng, Nhà nước và nhân dân Lào nói riêng, minh chứng cho tình gắn bó keo sơn giữa hai dân tộc Việt - Lào trường tồn mãi mãi. Ngày nay, dự án khôi phục, tôn tạo di tích lịch sử cách mạng, Địa điểm huấn luyện chính trị và Đại hội trù bị Đại hội lần thứ 2 Đảng nhân dân Lào, nay là Đảng Nhân dân Cách mạng Lào được triển khai thực hiện trở thành điểm đến quen thuộc đối với các đoàn du khách của nước bạn Lào khi đến làm việc, học tập, thăm quan du lịch tại Việt Nam. Nguồn: Báo Hòa Bình Điện Tử

Hòa Bình 2273 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Khu di tích Chiến khu Cách mạng Mường Khói

Chiến khu Mường Khói là di tích lịch sử cách mạng, khu căn cứ địa cách mạng thời kỳ tổng khởi nghĩa giành chính quyền tháng 8 năm 1945, thuộc hệ thống chiến khu (Hoà - Ninh - Thanh) do xứ uỷ Bắc kỳ trực tiếp xây dựng và chỉ đạo hoạt động, tại đây xứ uỷ Bắc Kỳ đã mở lớp huấn luyện quân sự tập trung (Trường Sơn du kích kháng Nhật học hiệu). Cách trung tâm thành phố Hoà Bình khoảng 70km, cách thị trấn Vụ Bản, huyện Lạc Sơn theo đường 12 khoảng 15km. Được xếp hạng di tích cấp quốc gia năm 1993. Mường Khói bao gồm vùng đất của 3 xã Hoài Ân, Hiếu Nghĩa và Tân Mỹ (nay là xã Ân Nghĩa, xã Yên Nghiệp và xã Tân Mỹ), nằm ở phía Đông Nam huyện Lạc Sơn, địa hình rừng núi hiểm trở, Mường Khói có vị trí chiến lược hết sức quan trọng, có đường 12A chạy qua nối liền với tỉnh Ninh Bình, tỉnh Thanh Hoá, nối liền với đường số 6 cửa ngõ của khu vực Tây Bắc. Khu vực hoạt động của chiến khu Mường Khói kéo dài từ đường 12A vào chân dẫy núi Trường Sơn nối liền với các chiến khu Quỳnh Lưu (Ninh Bình), Ngọc Trạo (Thanh Hoá) và từ Mường Khói toả lên thị trấn Vụ Bản, Mường Vang (vùng Cộng Hoà - Lạc Sơn). Các địa điểm di tích chủ yếu của khu căn cứ cách mạng Mường Khói: Khu vực ba cây đa cổ thụ: Là địa điểm liên lạc đón tiếp cán bộ của ban cán sự Đảng tỉnh Hoà Bình về hoạt động cách mạng. Ngày 20/8/1945 các lực lượng vũ trang và quần chúng cách mạng Mường Khói đã tập trung tại đây để đứng lên giành chính quyền ở châu Lạc Sơn. Đây là nơi lần đầu tiên lá cờ đỏ sao vàng của phong trào cách mạng ở châu Lạc Sơn tung bay trên ngọn cây đa cổ thụ. Khu vực nhà ông Quách Hy: Ông Quách Hy và con trai là Quách Dưỡng là những hội viên cứu quốc đầu tiên của Mường Khói. Nhà ông Quách Hy là nơi đón tiếp cán bộ, là địa điểm liên lạc của ban cán sự đảng tỉnh Hoà Bình và cán bộ xứ uỷ Bắc kỳ về hoạt động xây dựng cơ sở cách mạng ở chiến khu Mường Khói. Khu vực gia đình nhà ông Bùi Văn Khuýnh: Trước đây nhà ông cư trú tại xóm Lọt, là địa điểm tổ chức lớp học quân sự cách mạng tập trung của xứ uỷ Bắc kỳ (Trường sơn du kích kháng Nhật học hiệu). Tại chiến khu Mường Khói trung đội tự vệ cứu quốc, lực lượng vũ trang đầu tiên của phong trào cách mạng Lạc Sơn được thành lập tại đây (tháng 3/1945). Tháng 7/1945 xứ uỷ Bắc Kỳ mở lớp huấn luyện quân sự tập trung (Trường Sơn du kích kháng Nhật học hiệu) để đào tạo các cán bộ quân sự lãnh đạo khởi nghĩa ở các địa phương thuộc Bắc Kỳ. Chiến khu Mường Khói còn là địa bàn hoạt động cách mạng của các đồng chí Bạch Thành Phong (uỷ viên thường vụ xứ uỷ Bắc Kỳ), Vương Thừa Vũ (cán bộ xứ uỷ Bắc Kỳ), Lê Quang Hoà (Bí thư ban cán sự Đảng tỉnh Sơn Tây) và nhiều đồng chí cán bộ nòng cốt của phong trào cách mạng ở tỉnh Hoà Bình và các tỉnh khác ở Bắc Kỳ. Chiến khu Mường Khói là một trong những cái nôi của phong trào cách mạng tỉnh Hoà Bình. Trong phong trào khởi nghĩa giành chính quyền tháng 8/1945, Mường Khói là nơi các lực lượng cách mạng và quần chúng nhân dân huyện Lạc Sơn, tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền thành công đầu tiên ở tỉnh Hoà Bình. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Hoà Bình

Hòa Bình 2707 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích Nhà máy in tiền tại đồn điền Chi Nê

Nhà máy in tiền đầu tiên của chính quyền cách mạng Việt Nam nằm ở đồn điền Chi Nê (giai đoạn 1946 - 1947) nay là xã Cố Nghĩa, huyện Lạc Thủy, tỉnh Hòa Bình. Tại đây, những tờ “Giấy bạc Tài chính - Giấy bạc cụ Hồ” đầu tiên mang sứ mệnh lịch sử lớn lao trong những ngày đầu độc lập của chính quyền cách mạng đã ra đời. Di tích đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng cấp Quốc gia năm 2007. Sau khi cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, đất nước ta đứng trước những thử thách vô cùng khắc nghiệt. Một trong những vấn đề nổi lên là tài chính, mà quan trọng là việc phát hành đồng tiền của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Trong khi Chính phủ lâm thời đang gặp khó khăn, lúng túng với cơ sở in và phát hành giấy bạc Việt Nam để có thể chủ động về mặt tài chính và đấu tranh kinh tế với địch, ông Đỗ Đình Thiện, một nhà tư sản yêu nước đã tự nguyện bỏ tiền ra mua lại toàn bộ nhà in Tô-panh (Taupin) của Pháp tại Hà Nội và hiến tặng cho Chính phủ để lập nhà máy in tiền. Nhờ đó chính quyền cách mạng mới có được nhà in tiền riêng, đáp ứng một phần nhu cầu chi tiêu trong hoàn cảnh ngân khố hầu như trống rỗng. Đến tháng 3/1946, trước nguy cơ bị lộ việc in tiền tại Nhà in Tô-panh, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chính phủ và Bộ Tài chính quyết định tìm địa điểm mới để di chuyển toàn bộ nhà in ra khỏi Hà Nội. Một lần nữa, chính ông Đỗ Đình Thiện đã chủ động đề xuất Bộ Tài chính chuyển nhà máy in lên đồn điền của gia đình ông ở Chi Nê (Hoà Bình). Chính tại nơi đây, tờ bạc 100 đồng Việt Nam, còn được gọi là tờ bạc “con trâu xanh” ra đời. Tờ bạc Tài chính cụ Hồ ra đời mang theo sứ mệnh lịch sử vô cùng quan trọng: góp phần đấu tranh tiền tệ với địch để bảo vệ nền độc lập dân tộc và trở thành vũ khí đấu tranh trên mặt trận kinh tế - tài chính - tiền tệ, loại bỏ đồng tiền Đông Dương của thực dân Pháp ra khỏi nước ta, góp phần quyết định vào việc cung cấp nhu cầu vật chất, lưu thông hàng hoá trong cuộc kháng chiến chống Pháp trường kỳ của nhân dân ta. Nhà máy in tiền tại đồn điền Chi Nê đã hai lần vinh dự được đón Bác Hồ về thăm. Đây là nơi lưu giữ những dấu ấn lịch sử đầu tiên của Bộ Tài chính nói riêng, nền Tài chính quốc gia nói chung và một thời kỳ cách mạng vẻ vang. Năm 2007, khu di tích lịch sử Nhà máy in tiền tại đồn điền Chi Nê (1946-1947) được Nhà nước xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia. Nhà máy in tiền tại đồn điền Chi Nê có tổng diện tích là 15,64 ha, bao gồm các hạng mục như: Xưởng in tiền; Nhà Bác Hồ về thăm và làm việc; Kho chứa bạc; Nhà hội trường; Nhà đón tiếp; phù điêu tại khu xưởng in; sân vườn trồng cây; hệ thống giao thông toàn khu vực; khu công viên vườn hoa; khu đón tiếp và các công trình văn hoá, vui chơi giải trí; khu nghỉ dưỡng, khách sạn, nhà hàng... Khu di tích thực sự là công trình có ý nghĩa, nơi lưu giữ những dấu ấn lịch sử của Bộ Tài chính nói riêng, của nền tài chính quốc gia nói chung và một thời kỳ lịch sử cách mạng vẻ vang của dân tộc Việt Nam. Nguồn: Cổng thông tin điện tử bộ tài chính

Hòa Bình 2266 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền và miếu Trung Báo

Đền và Miếu Trung Báo, trước đây có tên nôm là đền Beo (gọi theo tên làng vì phía sau làng có dãy núi gọi là núi hổ phục). Di tích nằm tại Thôn Trung Báo, xã Thanh Cao, huyện Lương Sơn, tỉnh Hoà Bình. Đền gồm hai hạng mục kiến trúc: Đền Trung Báo và Miếu Trung Báo. Đền và miếu Trung Báo được công nhận Di Tích Lịch Sử-Văn Hoá cấp quốc gia năm 1997. - Đền Trung Báo: Thờ ba vị thần là Tam Vị Đại Vương Tản Viên Sơn Thánh; Quốc Mẫu Hoàng Bà và Thành hoàng làng Trung Báo. Được toạ lạc trên một khu đất thoáng rộng cạnh bìa làng, là một ngôi đền bề thế khang trang. Hai bên đền là luỹ tre làng toả bóng mát, trước đền là cánh đồng lúa, phía sau có dòng suối Rồng chảy qua. Đền có kết cấu hình chữ nhất, mặt đền quay theo hướng Đông bắc, gồm ba gian, mái đền lợp ngói Hương Canh, hai đầu hồi xây bít đốc. Phía trước đền có bức đại tự đắp nổi ba chữ Hán: Thượng đẳng thần (thần tối cao). - Miếu Trung Báo: Thờ Tam vị Đại Vương Tản Viên Sơn Thánh; Quốc Mẫu Hoàng Bà và Thành hoàng làng. Miếu được xây dựng trên một thế đất cao phía Tây Bắc của làng cách đền chừng 300m, cảnh quan nơi đây khá đẹp. Dưới con mắt của nhà phong thuỷ thì thế Miếu nằm trên thế đất mai Rùa (Thần Kim Quy ứng hiện). Mặt sau ngôi miếu là dãy núi Hổ phục và Long Lĩnh. Ba mặt còn lại có dòng suối uốn quanh với cây cổ thụ vươn cao toả bóng mát. Miếu xưa làm bằng gỗ lợp tranh, gồm ba gian, mái vòm cung (hình mai rùa). Trải qua thời gian, khí hậu vùng nhiệt đới gió mùa mưa nắng nhiều, cộng với những biến thiên của lịch sử, miếu với kiến trúc làm bằng gỗ, mái lợp tranh nên không tồn tại được lâu. Đến đời vua Khải Định thứ 2 (1917) được nhân dân ba giáp của xã đóng góp công sức và kinh phí xây dựng lại ngôi miếu, với kết kiến trúc hình chữ nhất, phía trước có bức đại tự với 4 chữ Hán đắp nổi: Bảo sơn dục tú (Núi Báu hun đúc sự tốt đẹp). Hiện nay đền Trung Báo còn lưu giữ được 3 sắc phong gốc của các triều đại Nhà nước Phong kiến Việt Nam phong tặng cho các vị thần được thờ ở đền. - Lễ hội đền và miếu Trung Báo được tổ chức thường niên mỗi năm một lần vào ngày 11 và 12 tháng 11 âm lịch hàng năm. Trong quá trình tổ chức lễ hội diễn ra các trò chơi dân gian như: chọi gà, ném còn, đánh đu… Lễ hội đền và miếu Trung Báo gắn liền với bản sắc văn hoá, thể hiện cảnh vui chơi, ăn mừng của dân làng sau một vụ mùa bội thu. Qua lễ hội chúng ta sẽ hiểu được những nghi thức truyền thống của người dân nơi tiếp giáp vùng văn hoá "Việt - Mường" ở Hoà Bình. Đồng thời chúng ta còn hiểu được mong muốn khát vọng và bản sắc của người dân nơi đây thông qua các nghi trình, nghi thức của lễ hội. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Hoà Bình

Hòa Bình 2383 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Hang Chùa và chùa Hang

Hang Chùa còn có tên là: Văn Quang Động, Chùa Hang là tên thường gọi của ngôi chùa được xây dựng trong động Văn Quang, xưa kia chùa có tên chữ là: Thanh Lam Tự. Gọi là Hang chùa vì tại 4 động ở núi này thì có tới 2 động có chùa ở trong đó. Núi Chùa Hang nằm giữa cánh đồng thuộc thôn Đồng Mai, núi Đọc và thôn Á Đồng, xã Yên Trị, huyện Yên Thuỷ, tỉnh Hoà Bình. Chùa Hang- Hang Chùa là di tích lịch sử - văn hoá, kiến trúc nghệ thuật, tôn giáo và danh lam thắng cảnh. Chùa hang 1: được xây dựng có kết cấu hình chữ nhất (-), có chiều dài 3m; chiều rộng 3,14m; cao 4,10m, với cấu trúc cột cái, cột quân, cửa bức bàn phía trước, phía sau và ván bưng xung quanh chùa đều bằng gỗ. Chùa được xây dựng từ lâu đời và được tôn tạo lại vào thời nhà Nguyễn ở trên thượng lương chùa có ghi dòng chữ: “Hoàng triều Khải Định Nhâm tuất niên” (Khải Định năm Nhâm Tuất 1892). Chùa hang 2: với kiến trúc hình chữ nhất (-), gồm có bốn hàng cột cái cao 2,81m; cột quân cao 2,38m, ngôi chùa đứng án ngữ trước cửa hang thứ 3. Chùa hang 2 cũng có kiến trúc hoàn toàn bằng gỗ, kể cả mái lợp. Theo nhân dân địa phương Chùa Hang 2 được xây dựng từ lâu và được trùng tu tôn tạo lại vào năm thời nhà Nguyễn. Hiện trên thượng lương chùa có ghi dòng chữ năm trùng tu: “Đại Nam Bảo Đại thập nhị niên, tuế thứ Đinh sửu thập nhị nguyệt, thập nhị nhật lương thời thụ trụ, thượng lương đại cát lượng”. Nghĩa là chùa được tu bổ vào năm Bảo Đại thứ 12, tháng 12, ngày 12 năm Đinh sửu (năm 1937). Chùa Hang được xây dựng trong hang thứ 2, có kiến trúc hoàn toàn bằng gỗ, trong chùa có hệ thống tượng phật được tạc từ thế kỷ 18, đây là một di sản độc đáo đối với di tích tỉnh Hoà Bình, trên những bức cốn là những đường nét hoa văn được chạm trổ cầu kỳ mang phong cách nghệ thuật thời Nguyễn. Hang chùa: Chùa có 4 chữ Hán được khắc trên vách núi: “Lăng tiêu tiếu bích” nghĩa là: Ngọn núi biếc cao vút, sương phủ mờ ảo. Theo các nhà khảo cổ học thì Hang Chùa cũng là nơi phát hiện ra dấu vết khảo cổ học thuộc nền “Văn hoá Hoà Bình”. Trong hang 2 và hang 3 người ta đã tìm thấy các trầm tích hoá thạch thức ăn của người xưa như vỏ ốc, vỏ sò, mảnh công cụ... Vào thời Trung đại dấu tích văn hoá cũng để lại ở đây khá đậm nét đó là quả chuông đồng được đúc vào năm Cảnh Hưng thứ 44 (năm 1783). Người xưa cũng để lại ở đây 2 dòng chữ đại tự, 1 bài thơ, 2 bài ký, một bia đá. Đó là những văn tự thành văn rất hiếm hoi ở các di tích hang động của tỉnh Hoà Bình hiện nay. Nguồn: Báo Hòa Bình Điện Tử

Hòa Bình 2209 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Tượng đài anh hùng Cù Chính Lan

Di tích ghi dấu chiến công diệt xe tăng của Cù Chính Lan hiện nằm ở dốc Giang Mỗ cạnh đường 6A (cũ) thuộc địa phận xóm Giang Mỗ, xã Bình Thanh, huyện Cao Phong, tỉnh Hoà Bình. Anh hùng liệt sỹ Cù Chính Lan (tên thật là Cù Văn Mấu), sinh năm 1930 trong một gia đình nông dân nghèo tại làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Năm 1946, quân Pháp trở lại xâm lược nước ta, anh Cù Chính Lan khi đó mới 16 tuổi đã xin gia nhập Vệ quốc đoàn, tình nguyện lên đường đánh giặc. Tháng 11/1951, thực dân Pháp mở rộng cuộc tấn công ra vùng tự do của ta ở Hòa Bình với âm mưu nối lại "hành lang Đông - Tây” nhằm cắt đứt liên lạc của ta giữa Việt Bắc và Khu 3, Khu 4 để giành lại quyền chủ động trên chiến trường chính. Ở Hòa Bình, chúng thực hiện âm mưu thành lập "Xứ Mường tự trị” để phá hoại khối đoàn kết dân tộc. Ngày 24/11/1951, Tổng Quân ủy quyết định mở chiến dịch Hòa Bình. Trong trận đánh ngày 13/12/1951, khi quân Pháp lọt vào trận địa, cả đơn vị đã nổ súng quyết liệt, diệt gọn 1 đại đội địch, lúc chuẩn bị rút thì xe tăng địch tới tiếp viện bắn dữ dội vào đội hình của ta, chặn đường rút và làm nhiều chiến sỹ thương vong. Anh Cù Chính Lan đã nhanh chóng nhảy lên xe tăng, kề tiểu liên vào khe hở trên tháp xe bóp cò, nhưng không may tiểu liên bị hóc, chiếc xe tăng vẫn vừa chạy vừa bắn. Anh hô đồng đội tập trung lựu đạn đến cho mình rồi tiếp tục nhảy lên xe, giật nắp quăng lựu đạn vào trong xe, giặc nhặt lựu đạn ném trả lại và lái xe tăng chuyển hướng. Thời cơ diệt xe tăng địch ngay trước mắt, anh Cù Chính Lan táo bạo mở chốt lựu đạn, chờ cho khói thuốc xì ra vài giây rồi mới ném vào buồng lái. Lựu đạn nổ, những tên giặc trong xe chết đè lên nhau. Chiếc xe tăng mang nhãn hiệu "B2885498 USA”, dừng ngay tại chỗ, trận đánh kết thúc thắng lợi. Chiến thắng oanh liệt tại dốc Giang Mỗ với tinh thần anh dũng của Anh hùng Cù Chính Lan và các chiến sỹ Tiểu đoàn 353, Trung đoàn 66 diệt xe tăng của bọn xâm lược Pháp do đế quốc Mỹ trang bị đã mở đầu phong trào đánh xe tăng chiến đấu hiện đại của địch bằng vũ khí thông thường. Ngày 29/12/1951, khi tham gia trận đánh ác liệt trên đường 6 đoạn Lương Sơn - Hòa Bình. Mặc dù bị thương rất nặng nhưng anh Cù Chính Lan vẫn không rời trận địa, chỉ huy tiểu đội liên tiếp phá mở những lớp hàng rào dây thép gai vào lô cốt địch, dọn đường cho đồng đội lên tiêu diệt quân thù. Khi đồn Cô Tô của địch bị quân ta tiêu diệt hoàn toàn cũng là lúc anh trút hơi thở cuối cùng. Anh hy sinh khi vừa 21 tuổi. Ngày 19/5/1952, tại Đại hội Chiến sỹ thi đua toàn quốc lần thứ nhất, liệt sỹ Cù Chính Lan là 1 trong 7 người đầu tiên trên toàn quốc được Chủ tịch nước truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân . Để ghi nhớ chiến công của Anh hùng Cù Chính Lan, năm 1993, Bộ Văn hóa - Thông tin ra quyết định công nhận địa điểm ghi dấu chiến công diệt xe tăng Pháp của Cù Chính Lan là di tích lịch sử cách mạng cấp quốc gia. Năm 1994 khởi công xây dựng khu di tích, dựng Tượng đài Anh hùng diệt xe tăng. Nguồn : Báo Hòa Bình Điện Tử

Hòa Bình 2698 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Tượng đài Triệu Phúc Lịch

Tượng đài Triệu Phúc Lịch tại dốc Tra, xã Toàn Sơn, huyện Đà Bắc, tỉnh Hoà Bình. Tượng đài được xây dựng năm 1979, do họa sỹ Nắng Mai thể hiện. Tượng đài có chiều cao hơn 3m, nằm ở sườn đồi bên phải đường lên thị trấn Đà Bắc, được Bộ Văn Hoá –Thể Thao công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia năm 1996. Có lẽ người dân xã Toàn Sơn không ai không biết đến đội trưởng Triệu Phúc Lịch xưa kia luôn dũng cảm, mưu trí chỉ huy đội du kích chiến đấu chặn đánh nhiều cuộc càn quét của giặc Pháp vào quê hương. Đặc biệt là sự kiện ngày 10/9/1947 mãi được các thế hệ lưu truyền. Đó là khi được tin giặc Pháp ở đồn xóm Cháu (xã Tu Lý trước đây) huy động một trung đội lính lê dương trên 20 tên và lính dõng đi càn quét ở khu vực xã Toàn Sơn. Đội du kích xã do Triệu Phúc Lịch chỉ huy gồm 30 người đã nhanh chóng triển khai phương án mai phục đánh địch. Vũ khí thô sơ của các đội viên là nỏ, cung tên tẩm thuốc độc, bẫy đá, cần bật bằng bương, tre, bàn chông tre và súng trường, lựu đạn cướp được của giặc. Gần trưa bọn địch ồ ạt kéo đến. Chờ cho chúng lọt vào trận địa mai phục, Triệu Phúc Lịch hạ lệnh tiến công. Tiếng súng, tiếng lựu đạn nổ giòn giã, hàng loạt mũi tên tẩm thuốc độc bay tới tấp vào quân thù; bẫy đá từ lưng chừng núi đổ xuống đội hình giặc làm cho chúng hốt hoảng, chạy tán loạn. Trong trận này, đội du kích xã Toàn Sơn đã tiêu diệt 14 tên địch, bắt sống 4 tên và thu được 7 khẩu súng... Sử sách viết: Bị đánh bất ngờ, tiến không xong, rút lui thì bị chặn, quân địch tìm cách tháo chạy theo đường mòn qua suối Sâu để rút về Tu Lý. Mưu trí biết được ý đồ của giặc, Triệu Phúc Lịch đã cho du kích truy đuổi với quyết tâm tiêu diệt sạch trung đội giặc. Bản thân người đội trưởng tay không rượt đuổi theo tên giặc chỉ huy, rồi quật ngã tên lính lê dương ấy và nhanh chóng cướp được khẩu tiểu liên. Liền sau đó, anh phát hiện ra hướng rút lui của quân giặc chính là khu căn cứ của ta. Để đảm bảo bí mật cho khu căn cứ và an toàn cho lực lượng của đội du kích, Triệu Phúc Lịch đã nhanh chóng đánh lạc hướng địch bằng cách chạy ngược lên nương lúa. Bọn giặc phát hiện liền đuổi theo và bắn anh bị thương nặng. Mặc dù vậy, anh vẫn cố sức rút dao găm đâm tên lính đứng sát gần. Điên cuồng trước hành động quả cảm của Triệu Phúc Lịch, quân giặc đã xả cả băng đạn vào anh, người con ưu tú của đồng bào Dao xã Toàn Sơn đã anh dũng hy sinh. Hành động của Triệu Phúc Lịch tay không cướp súng giặc, chiến đấu ngoan cường, hy sinh anh dũng đã thắp sáng thêm lòng yêu nước, căm thù giặc và cổ vũ tinh thần chiến đấu, chiến thắng giặc Pháp của đồng bào Dao nói riêng và Nhân dân các dân tộc trong tỉnh nói chung. Liệt sỹ Triệu Phúc Lịch được Nhà nước truy tặng Huân chương Kháng chiến chống Pháp hạng nhất. Ngày 11/6/1999, Triệu Phúc Lịch được Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân. Để tưởng nhớ công lao to lớn của anh và đội du kích xã Toàn Sơn, đồng thời góp phần giáo dục truyền thống cho thế hệ mai sau, UBND tỉnh đã chỉ đạo xây dựng Đài chiến công Đội du kích Toàn Sơn và được khánh thành ngày 2/9/1991, nhân kỷ niệm 46 năm ngày Quốc khánh. Đài tưởng niệm được xây dựng chính nơi năm xưa, anh hùng Triệu Phúc Lịch đã ngã xuống. Phần mộ của anh được đặt ở vị trí cao nhất trong khuôn viên Đài tưởng niệm. Ngày nay, vào dịp lễ, Tết, cán bộ, đảng viên và Nhân dân xã Toàn Sơn lại thành kính dâng hương, hoa tưởng nhớ những người con ưu tú và có thêm quyết tâm chung sức, đồng lòng xây dựng quê hương ngày một đổi mới. Nguồn : Báo Hòa Bình Điện Tử

Hòa Bình 2666 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích lịch sử Nhà tù Hòa Bình

Nhà tù Hoà Bình nằm bên suối Đúng, khu vực bờ trái sông Đà, thuộc phường Tân Thịnh (TP Hòa Bình). Nhà tù được xây dựng năm 1896 để giam giữ thường phạm. Năm 1943, thực dân Pháp chuyển một số tù chính trị từ Nhà tù Sơn La về đây giam giữ. Di tích Nhà tù Hòa Bình có diện tích 1.500m2, được tỉnh trùng tu từ nhiều năm trước và được xếp hạng di tích cấp quốc gia năm 2000. Những dấu tích còn lại của nhà tù hầu như không còn nhiều ngoài một chòi canh tròn bằng bê tông, được lính Pháp xây dựng tại triền đê Đà Giang vẫn hiện hữu. Theo lịch sử ghi lại, nhà tù Hoà Bình được xây dựng ban đầu trên diện tích đất hình chữ nhật, phía ngoài bao quanh bằng 4 bức tường cao 3 thước, trên tường chăng dây thép gai, 4 góc tường là 4 chòi canh. Tháng 3/1943, thực dân Pháp chuyển một số tù chính trị từ nhà tù Sơn La về giam giữ ở nhà tù Hoà Bình để giảm bớt số lượng, đồng thời chờ điều kiện thuận lợi để chuyển bớt, di lý một số tù nhân ra giam giữ tại Côn Đảo. Những năm 1943 và 1945, phong trào hoạt động của chi bộ nhà tù Hoà Bình, do đồng chí Lê Đức Thọ làm Bí thư phát triển mạnh đã có ảnh hưởng sâu sắc đến phong trào cách mạng ở tỉnh Hoà Bình. Năm 1943, chi bộ nhà tù có kế hoạch kết nạp đảng viên mới, đây là lớp đảng viên đầu tiên chi bộ phát triển được ở nhà tù Hoà Bình. Tháng 3/1945, chớp thời cơ Nhật đảo chính Pháp, được sự chỉ đạo của Trung Ương Đảng, Xứ ủy Bắc Kỳ, chi bộ nhà tù đã phát động và tổ chức thành công cuộc đấu tranh đòi thả tù chính trị. Trong 1 tuần, phần lớn tù chính trị tại nhà tù được thả tự do, được cán bộ và quần chúng cách mạng thị xã Hòa Bình tích cực giúp đỡ. Các đảng viên của chi bộ đã trở về bắt liên lạc với Trung Ương Đảng, Xứ ủy Bắc Kỳ. Một số đồng chí được bổ sung cho lực lượng cách mạng của tỉnh… Tháng 8/1945, hòa chung khí thế tiến công của cả nước, những người con đất Mường đồng loạt rũ bùn đứng dậy sáng lòa. Những chiến sỹ cộng sản trong nhà tù Hòa Bình ngày ấy cũng là nhân tố quan trọng góp phần tạo đà cho ngày cách mạng quật khởi. Nhà tù Hoà Bình là chứng tích công cụ đàn áp, nói lên tội ác của thực dân Pháp, là nơi giam giữ, tra tấn các chiến sỹ cách mạng. Đồng thời chính nơi này đã bồi dưỡng, rèn luyện những chiến sỹ cộng sản kiên cường, bất khuất, giữ trọn khí tiết cách mạng, đấu tranh vì độc lập, tự do của dân tộc. Hàng năm có nhiều đoàn thăm quan trong và ngoài tỉnh đến tìm hiểu về truyền thống cách mạng tại nhà tù Hoà Bình. Di tích Nhà tù Hoà Bình được xây dựng lại không chỉ góp phần soi sáng lịch sử, mà còn thể hiện sự tri ân sâu sắc của Đảng bộ, quân và dân tỉnh nhà đối với các thế hệ cha anh đi trước; góp phần giáo dục truyền thống cách mạng, giúp mỗi người dân nhận thức sâu sắc hơn về lịch sử dân tộc, từ đó biết trân trọng, giữ gìn và phát huy giá trị lịch sử dân tộc trong thời đại mới. Nguồn: Báo Hòa Bình Điện Tử

Hòa Bình 2858 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Chúa Thác Bờ

Thác Bờ là tên gọi từ xa xưa của đoạn sông Đà khi chảy qua địa bàn khu vực chợ Bờ, xã Hào Tráng. Hiện tại thì nó đã được tách ra thành hai xã, Thung Nai Hòa Bình của huyện Cao Phong và xã Vầy Nưa của huyện Đà Bắc. Từ thời xa xưa nơi đây đã là mảnh đất trù phú nơi người Mường sinh sống. Tương truyền, đền bà Chúa Thác Bờ thờ hai vị nữ tướng là bà Đinh Thị Vân, người dân tộc Mường và một bà (không rõ tên) người dân tộc Dao. Dưới thời vua Lê Lợi, hai bà đã có công giúp dân và quân vận chuyển lương thực, thuyền bè qua Thác Bờ lên Mường Lễ (Sơn La) dẹp loạn. Sau khi mất, hai bà thường hiển linh giúp người dân an toàn vượt qua con thác nổi tiếng hiểm trở, khắc nghiệt khi sông Đà chưa ngăn dòng. Nhân dân biết ơn nên lập đền thờ hai bà nhằm tỏ lòng thành kính và mong muốn hai bà sẽ phù hộ, che chở cho họ khỏi nguy hiểm khi đi qua dòng nước. Được xây dựng theo thế nhìn sông, tựa núi với phong cảnh hữu tình, khu di tích đền Thác Bờ được chia làm 2 khu vực, đền bà Chúa Thác Bờ phía tả ngạn nằm trên đỉnh đồi Hang Thần, thuộc xã Vầy Nưa và đền Thác Bờ phía hữu ngạn nằm ở chân Thác Bờ, ngay cạnh sông Đà. Trải qua một số lần trùng tu, xây dựng lại, đền vẫn giữ được những nét độc đáo, đặc trưng. Đền phía tả ngạn có kiến trúc mặt bằng hình chữ đinh, gồm nhà đại bái và nhà hậu cung. Phía trước đền có 5 cửa được lợp bằng mái ngói vảy cá. Cửa chính treo bức đại tự viết bằng chữ Hán. Trên nóc có đắp nổi mặt rồng chầu. Đền phía hữu ngạn gồm 3 gian thờ chính và hậu cung, được xây 2 tầng tựa vào núi. Tầng 1 làm nơi nghỉ trọ cho khách hành hương, tầng 2 là nơi thờ tự các vị thần linh. Trong đền không chỉ thờ bà Chúa Thác Bờ mà còn thờ các vị thần thánh khác như công đồng quan lớn, ngũ vị tôn ông, bà chúa Sơn Trang, tứ phủ Thánh Cô, tứ phủ Thánh Cậu, Đức Đại vương Trần Quốc Tuấn, tứ phủ Chầu Bà. Lễ hội đền diễn ra từ ngày mồng 7 tháng Giêng, kéo dài đến hết tháng 3 âm lịch. Mỗi năm, Di tích lịch sử quốc gia đền Thác Bờ thu hút hàng vạn du khách đến vãn cảnh, hành lễ. Nơi đây không chỉ là địa chỉ tín ngưỡng linh thiêng cầu bình an, may mắn mà còn là được lựa chọn cho sự khởi đầu thuận lợi cho hành trình du xuân, khám phá vẻ đẹp thiên nhiên ấn tượng trên hồ Hòa Bình. Nguồn: Cục du lịch Quốc Gia Việt Nam

Hòa Bình 2162 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Thắm

Đền Thắm thuộc huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn với nhiều huyền sử, huyền tích đã đi vào tâm thức các cư dân vùng núi nơi đây. Đền nằm ngay cạnh con đường rải nhựa cấp phối dẫn đến xã Quảng Chu, cách quốc lộ 3 chưa đầy 4km cách thành phố Bắc Kạn 45km về phía Nam. Đền thờ vị nữ tướng có tên là Thắm - người có công lớn trong công cuộc chống giặc Cờ Đen vào nửa cuối thế kỷ XIX. Trước đây đền là nơi thờ Sơn thần, Thuỷ thần để cầu cho thuyền bè được qua lại bình yên. Cho đến cuối thế kỷ XIX đền được tu bổ để thờ phụng vị nữ tướng có công lớn đánh giặc Cờ Đen là cô Thắm. Chuyện kể rằng, có hai cha con ông lão đánh cá mưu sinh bên khúc sông Tràng Cổ. Một năm thiên tai, lụt lội, con nước hung dữ đã cuốn trôi thuyền, lưới của ông lão nghèo khổ. Sau khi nước rút, ông lão mang chài ra sông. Đến khi chiều xuống ông mới cất được một mẻ nặng trịch nhưng buồn thay chỉ là một tảng đá. Những lần tiếp theo, vẫn chỉ có tảng đá đó vào lưới. Ông bỏ sang khúc sông khác, vẫn cất lên tảng đá kỳ lạ kia. Ông toan vứt bỏ thì có tiếng vọng từ trong lòng đá: “Ông lão, hãy mang tôi về”. Thấy lạ, ông mang theo tảng đá biết nói về nhà. Đến nơi, mệt bã người ông quăng tảng đá xuống đất, nó va phải một tảng đá khác, vỡ ra. Kỳ lạ thay, rực một màu vàng trong bụng đá. Đó là những thỏi vàng, nghĩ rằng Giàng (Trời) cho làng để bù đắp tai ương lụt lội, ông đem vàng chia cho khắp người dân quanh vùng. Có vàng nhưng hai cha con ông lão vẫn làm lụng kiếm sống bên khúc sông Tràng Cổ. Biết ơn, người dân nơi đây đã lập đền thờ hai hòn đá Sơn thần, Thủy thần để thuyền bè qua lại bình an. Cô Thắm con ông lão đánh cá nết na hiền thục lại xinh đẹp có tiếng, trai khắp mường trên, mường dưới đều mơ ước được kết tóc xe duyên cùng nàng. Đương tuổi xuân thì, nàng bị tay Chúa mường dùng quyền lực bắt về làm vợ. Nàng sống trong cảnh vàng son mà tủi nhục trăm bề, nhất là khi lũ giặc Cờ Đen kéo sang nhũng nhiễu, tên Chúa mường chẳng những không chống giặc mà còn làm tay sai cho chúng. Nàng đã tìm mọi cách thoát ra khỏi nhà tên Chúa mường, tập hợp dân nghèo vùng lên đánh giặc. Tên Chúa mường uất hận và muốn lập công đã dẫn giặc đến đánh. Vị nữ tướng cầm quân kiên cường đánh trả. Tại khúc sông Tràng Cổ đã diễn ra một trận kịch chiến, máu chảy thành sông mà quân sĩ Cô Thắm vẫn không hề nao núng. Chẳng may, nữ tướng trúng phải tên độc mà mất, quân sĩ tức giận quyết chiến để rửa thù. Giặc khiếp sợ tháo chạy tán loạn, tên Chúa mường bị bắt sống và bị xử tử để tế vị chủ tướng. Để tưởng nhớ vị nữ tướng can trường, người dân đã lập đền thờ cô Thắm. Quần thể đền Thắm gồm đền chính, miếu cô Thắm và miếu Sơn thần. Đền chính được chia làm ba gian, thờ: Ngũ vị tôn ông, Bách Linh, Đức thánh Trần Hưng Đạo, mẫu Thượng Thiên, Phật Quan âm. Miếu thờ cô Thắm nằm kề ngay bên đền chính, về phía trái có kiến trúc bê tông cuốn vòm, trên bệ thờ là tượng cô Thắm mặc áo xanh, dưới bệ có đôi chim phượng tạc bằng đá. Hàng năm, du khách thập phương về đền Thắm lễ bái, cầu nguyện rất đông, nhất là dịp giêng hai. Sau nhiều năm tôn dựng và tu sửa, năm 2012 ngôi đền được xếp hạng cấp tỉnh là di tích lịch sử - văn hóa, nơi sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của nhân dân. Nguồn: Cục du lịch quốc gia Việt Nam

Bắc Kạn 2180 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Di tích lịch sử Khuổi Linh, đồi Khau Mạ

Di tích lịch sử Khuổi Linh (thuộc xã Nghĩa Tá, huyện Chợ Đồn) là nơi ở và làm việc của đồng chí Trường Chinh, nguyên Tổng bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng và văn phòng Trung ương từ tháng 8 đến tháng 12 năm 1950. Nơi ở của đồng chí Trường Chinh nằm trên sườn đồi, chỗ làm việc nằm trên đỉnh một mỏm đồi kê sát nơi ở thuộc chân núi Khau Bon. Khu vực văn phòng Trung ương Đảng nằm trên một quả đồi gần nơi ở của đồng chí Trường Chinh. Khu di tích Khuổi Linh ở vào vị trí rất hiểm trở nhưng giao thông lại rất thuận lợi cho việc liên lạc đi các hướng. Ngày 18/3/1996, Khuổi Linh được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Năm 2000, xã Nghĩa Tá được Đảng và Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Di tích lịch sử Đồi Khau Mạ thuộc bản Vèn, xã Lương Bằng (Chợ Đồn) là nơi đồng chí Phạm Văn Đồng - nguyên Thủ tướng Chính phủ cùng cơ quan Văn Phòng Chính phủ ở và làm việc từ đầu năm 1950 đến mùa hè năm1951. Tại nơi này, đồng chí Phạm Văn Đồng đã cùng với Trung ương Đảng, Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Nhân Dân Việt Nam dưới sự chỉ đạo của Chủ Tịch Hồ Chí Minh tổ chức họp bàn mở chiến dịch biên giới năm 1950, mở ra thời kì mới cho cách mạng Việt Nam. Có thể nói, trong thời kì ở chiến khu Việt Bắc, đặc biệt là thời kì sống và làm việc ở Khau Mạ - Bản Vèn (Lương Bằng), Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã có nhiều hoạt động tích cực cùng với Trung ương Đảng và Bác Hồ lãnh đạo nhân dân đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đến thắng lợi hoàn toàn. Năm 1996, nhân dân xã Lương Bằng đã vinh dự đón nhận Bằng di tích lịch sử do Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia. Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Tỉnh Bắc Kạn

Bắc Kạn 2849 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Thạch Long

Chùa Thạch Long (Rồng đá) thuộc xã Cao Kỳ, huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn. Nơi đây được mệnh danh là “chùa thiêng trong hang đá”. Ngôi chùa chứa trong mình nhiều sự tích, huyền sử đẹp. Chùa Thạch Long thu hút hàng ngàn khách thập phương tới dự hội và dâng hương cầu phúc, cầu tài mỗi dịp xuân về. Nhiều người nói rằng, đi khắp Bắc chí Nam chưa thấy chùa nào nằm trong hang núi đá rộng, sạch mà thoáng như chùa Thạch Long. Tăng ni Phật tử tới dự hội có thể vào hang lễ Phật tới hàng ngàn người. Chuyện kể rằng, ngày xưa, người dân xã Vi Hương - Bạch Thông xuôi dòng sông Cầu rước tượng Phật Thích Ca về thờ ở làng mình là Hoa Sơn, trên đỉnh dãy núi Phja Bjoóc. Tượng Phật bằng vàng rất nặng nên khi ngược lên Vi Hương phải kéo bằng mảng. Đến vằng Bó Mi thuộc xã Cao Kỳ ngày nay, mảng cứ xoay tròn không sao đi được. Trời đã tối, đêm ấy, người đi rước tượng phải căng lều ngủ tại vằng Bó Mi để hôm sau tính tiếp. Sáng hôm sau tỉnh dậy, họ hốt hoảng không thấy Đức Phật đâu. Người đi rước tượng đành thắp một bó nhang to và khấn: “Nếu ngài muốn ở đây thì con đành thuận theo ý ngài, nhưng ngài hãy cho con biết nơi ngài đang thượng tọa để con cháu đời sau thờ phụng hương khói”. Dứt lời, bó nhang cuộn khói bay sang bên kia bờ sông, luồn mãi vào trong núi. Người rước tượng cứ đi theo khói nhang ấy và phát hiện ra một hang động tuyệt đẹp, rộng thênh thang. Đức Phật Thích Ca đã ngự tọa ở chốn cao nhất. Biết hang đá thiêng, từ đó dân làng lập chùa ngay tại hang đá này. Chùa có tên Thạch Long (con rồng đá) là vì hang động nằm trong núi đá, cổng hang có hình miệng con rồng đang há. Chùa có hai phần chính. Phần thứ nhất là chùa Thiên. Chùa này nằm ở trên cao, có một bậc đá xếp từ chân núi dẫn thẳng lên tới cửa động. Gian cao nhất thờ Đức Phật Thích Ca. Ở gian trung, trên bệ cao nhất có ảnh thờ Bác Hồ. Phần thứ hai của chùa là chùa Âm, đường đến chùa Âm phải đi vòng quanh sườn núi. Cửa vào chùa Âm hẹp hơn chùa Thiên một chút. Lòng hang cũng không rộng bằng chùa Thiên. Ước chừng cao khoảng 6m, rộng 6m và có ngách ăn sâu vào bên trong. Cả chùa Thiên và chùa Âm đều có nhiều tượng thiên tạo hình các Chư Phật. Trong lòng chùa Thiên, vách đá tự chia thành từng múi như những chiếc lọng cao và sang trọng che cho các vị Chư Phật ngồi dưới. Không chỉ chứa trong mình nhiều huyền tích, chùa Thạch Long còn là một di tích lịch sử, là niềm tự hào của bà con xã Cao Kỳ trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Bác Hồ đã 3 lần đến đây. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954, chùa trở thành trạm vận chuyển vũ khí và là kho vũ khí bí mật của quân đội ta. Hoà bình lập lại, chùa lại được bà con thờ tự như xưa. Hội chùa Thạch Long được tổ chức vào mùng 7 tháng Giêng hằng năm, thu hút rất nhiều du khách thập phương, họ đến để dâng hương cầu may mắn, hạnh phúc cho gia đình và người thân. Chùa Thạch Long không những là thắng cảnh đẹp của Bắc Kạn, mà còn là một di tích lịch sử. Di tích này đã và đang nhận được rất nhiều sự quan tâm, bảo vệ, tôn tạo để trở thành điểm du lịch văn hoá hấp dẫn của tỉnh Bắc Kạn. Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Tỉnh Bắc Kạn

Bắc Kạn 2690 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Di Tích Đồi Nà Pậu

Địa danh Nà Pậu - xã Lương Bằng, huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn. Cùng với di tích lịch sử Bản Ca, Khuổi Linh, Đồi Pù Cọ, Khau Mạ, Nà Quân và Nà Pậu là nơi Bác Hồ đã sống và làm việc đầu năm 1951. Đầu năm 1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến làm việc tại Nà Pậu, thuộc bản Thít, xã Lương Bằng (Chợ Đồn). Trên quả đồi này, Trung ương Đảng đã cho làm hầm, dựng lán để Người làm việc. Nà Pậu - nơi Người ở và làm việc có địa thế rất thuận tiện cho hoạt động cũng như khi di chuyển để tránh tai mắt kẻ thù. Phía trước đồi Nà Pậu là một đám ruộng rộng, có khả năng quan sát phía xa, bên cạnh là một con suối trong vắt cung cấp nguồn nước, phía sau liền với cánh rừng đại ngàn mà khi có động, Người và các đồng chí trong cơ quan có thể rút thẳng sang xã Phong Huân, Nghĩa Tá hoặc sang thẳng Chiêm Hóa (Tuyên Quang) rất an toàn. Từ Km 18, đường 254 Chợ Đồn - Thái Nguyên, men theo con đường mòn của bản Thít khoảng 150m là đến đồi Nà Pậu. Nhà của Người có hai gian, một gian để làm việc, một gian để nghỉ ngơi và một nhà khoảng 6 gian để cho anh em cơ quan (đơn vị 41) ở”. Cách nền nhà khoảng 70m đi về hướng Tây là căn hầm trú ẩn của Hồ Chủ tịch. Căn hầm có hình chữ T, chiều cao cửa hầm là 1,5m, đi sâu vào 4m thì chia làm 2 ngách cân đối. Tuy thời gian đã lâu, mưa xói đất lấp mất một chút cửa hầm nhưng căn hầm vẫn như còn được giữ nguyên vẹn. Từ hầm của Hồ Chủ tịch đi ra phía trước khoảng 5 - 6m có một cây cổ thụ khá lớn, có tuổi khoảng 90 - 100 năm, dân địa phương gọi là cây Phay. Trước cửa hầm là một khu đất bằng phẳng, nơi trước đây Người thường tăng gia trồng rau… Trước đồi Nà Pậu là suối Nà Pậu, bên cạnh có 2 cây đại thụ đan chéo nhau, dưới tán cây có tảng đá to, nơi Người thường câu cá, tắm giặt. Tại Nà Pậu, Người đã viết nhiều bức thư và điện mừng gửi tới các cơ quan, đoàn thể trong và ngoài nước. Ngày 20/1/1951, Người ký quyết định khen thưởng các đơn vị bộ đội đã chiến thắng trong chiến dịch Trung Du và Đông Bắc, đồng thời gửi 4 lá cờ danh dự để trao tặng cho các đơn vị bộ đội đạt nhiều thành tích và lập nhiều chiến công xuất sắc. Cũng trong thời gian này, Người đã ký nhiều quyết định quan trọng góp phần đưa cuộc kháng chiến của nhân dân ta đến thắng lợi. Người còn đi thăm một số cơ quan của Trung ương Đảng, quân đội đóng trên địa bàn Chợ Đồn, động viên tinh thần cán bộ, chiến sỹ, đồng bào hăng hái thi đua giết giặc và lao động sản xuất phục vụ kháng chiến. Chiều ngày 27/2/1951, Hồ Chủ tịch rời Nà Pậu - Lương Bằng lên đường đi dự Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng ở Chiêm Hóa (Tuyên Quang). Ngày 28/6/1996, Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận và xếp hạng Di tích Đồi Nà Pậu xã Lương Bằng, huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn là di tích lịch sử cấp quốc gia. Nguồn: Cổng Thông tin điện tử tỉnh Bắc Kạn

Bắc Kạn 2777 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích lịch sử Bản Ca

Di tích lịch sử Bản Ca, xã Bình Trung, huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn. Đây là nơi Bác Hồ từng sống và làm việc trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Người đã ở Bản Ca từ ngày 7/12/1947 đến cuối tháng 12/1947. Ban đầu Người cho dựng lán trại ở đầu suối Bản Ca, sau đó cho dựng thêm một lán nữa ở đồi Khau Phay gần dân trong bản. Hai lán này cách nhau 800m, bên cạnh có lán đặt máy chữ để in ấn và soạn thảo tài liệu, máy soạn thảo văn bản và lán của các chiến sĩ bảo vệ. Theo người dân nơi đây kể lại, trong thời gian sống và làm việc tại đây, Người sống rất giản dị và gần gũi với nhân dân, cũng mặc áo nâu, đeo túi vải như người dân. Người làm việc có giờ giấc, sau giờ làm việc, Người thường tập thể dục và tham gia trồng rau xanh cùng cán bộ trong Phủ Chủ tịch. Người thường xuyên đến thăm các đồng chí lãnh đạo Trung ương Đảng khác ở Chợ Đồn nhưng thỉnh thoảng mới đi ngựa còn lại là đi bộ. Trong thời gian ở đây, Bác Hồ đã từng ra nhiều sắc lệnh, chỉ thị, thư từ như: Người kí sắc lệnh khen thưởng các chủ tịch kiêm hành chính xã nhân kỷ niệm một năm ngày toàn quốc kháng chiến. Ngày 8/12/1947, Người đã viết thư gửi giám mục Lê Hữu Từ nhân dịp lễ giáng sinh. Ngày 12/12/1947, Người viết thư gửi Chính phủ Cao Miên giải phóng (Cam-pu-chia) hoan nghênh việc thành lập Ủy ban giải phóng Việt-Miên-Lào. Ngày 19/12/1947, Người ra lời kêu gọi đồng bào thi đua giết giặc lập công nhân ngày toàn quốc kháng chiến, và kí thông tư gửi các Bộ về việc “cử các nhân viên làm việc đắc lực để khen thưởng”. Nhân kỉ niệm 3 năm ngày thành lập Giải phóng quân Việt Nam, Người đã viết bài về quá trình phát triển của lực lượng vũ trang nhân dân, và mong muốn lực lượng vũ trang của ta không ngừng trưởng thành về mọi mặt. Ngày 24/12/1947, Người viết thư gửi đồng bào công giáo, mong muốn đồng bào công giáo sát cánh cùng đồng bào chiến sĩ cả nước đánh đuổi thực dân xâm lược. Ngoài ra, Người còn viết rất nhiều bài báo cổ vũ động viên đồng bào cả nước tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược… Hiện nay, chứng tích còn lại của khu vực lán Bác Hồ tại bản Ca chỉ còn lại dấu tích của nền lán cạnh cây cọ già. Hai hiện vật là kiềng nấu ăn cho Bác Hồ và chiếc áo dạ đen Người tặng cho gia đình cụ Bàn Văn Trai (cụ Nhuôi). Đầu năm 1990, gia đình cụ Trai đã tặng lại hai hiện vật này cho bảo tàng Bắc Thái (cũ). Hiện nay hai hiện vật này vẫn được lưu giữ tại bảo tàng Thái Nguyên. Ngày 28/6/1996, Bản Ca đã được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng là di tích lịch sử cấp Quốc gia. Nguồn: Cổng Thông tin điện tử tỉnh Bắc Kạn

Bắc Kạn 2599 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích lịch sử Đồn Phủ Thông

Đồn Phủ Thông nằm trên địa bàn thị trấn Phủ Thông, huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn. Toàn bộ khu vực này là núi đất với độ cao trung bình trên 350m. Đồn được xây dựng trên một mỏm nhỏ nhô ra của núi Nà Cọt, độ cao gần 200m, cách ngã ba Phủ Thông 300m. Ngày 7/10/1947, binh đoàn đổ bộ đường không của quân viễn chinh Pháp với gần 1.200 tên đã nhảy dù xuống thị xã Bắc Kạn, ngày 15/10 chúng tiến quân lên chiếm đóng Đồn Phủ Thông. Đồn dài 100m, rộng 50m; tường đắp bằng đất dày 1m, cao 2m, trong và ngoài tường ghép gỗ, bên ngoài có cọc chống, bốn phía có nhiều lỗ châu mai, bốn góc đồn có 4 lô cốt mẹ, có đài quan sát. Nhà chỉ huy ở chính giữa đồn, địch đào hầm từ nhà chỉ huy, nhà lính thông đến các lô cốt. Ngoài bờ tường có 3 lớp hàng rào tre nứa. Trong những năm 1947 - 1948, khi địch mới chiếm đóng Đồn Phủ Thông liên tiếp gặp phải các trận công đồn của quân ta, khiến cho chúng tinh thần hoang mang. Trong đó, trận tập kích lần thứ nhất đêm 30/11/1947 đã tiêu diệt và hạ thương 50 tên địch, thu 2 súng máy, 1 súng trường. Đây là lần đầu tiên quân địch bị tiêu diệt ngay tại sào huyệt có công sự kiên cố. Ta thực hiện một phần nhiệm vụ đề ra, góp phần vào thắng lợi chung của quân và dân ta trong Chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông năm 1947, làm tiền đề cho trận đánh tiếp theo. Đêm 12/3/1948, quân ta mở trận tập kích thứ hai vào Đồn Phủ Thông. Trận này, quân ta phá sập phần lớn công sự và doanh trại trong cứ điểm, làm thương vong gần 70 tên địch. Sau trận này, quân ta liên tiếp nắm thế chủ động trên mặt trận đường số 3. Ngày 25/7/1948, Bộ Tổng chỉ huy quyết định mở trận công đồn lần thứ 3 vào Đồn Phủ Thông. Khoảng 18 giờ ngày 25/7/1948, pháo binh của Tiểu đoàn 410 nổ súng, phá sập một phần khu thông tin, phá hủy đường rào giao thông hào bao quanh điểm. Tiểu đoàn 11 chia làm hai mũi tiến công vào Đồn. Quân ta cắt hàng rào dây thép gai, phá hàng rào tre nứa, bắc thang phên trèo qua tường tiến công vào Đồn. Địch hoảng sợ, rút xuống hầm ngầm, quân ta làm chủ chiến trường, thu vũ khí, chiến lợi phẩm. Sau ít phút đầu hoang mang, địch phục hồi lại thế phòng ngự, chống trả quyết liệt, tập trung hoả lực súng máy, súng cối ngăn chặn các đơn vị vào sau, quân ta có một số chiến sỹ hy sinh, bị thương. Trận đánh kéo dài đến 23 giờ đêm. Ta rút khỏi Đồn, tuy không chiếm được cứ điểm nhưng đã tiêu diệt, làm bị thương 3 phần 4 quân số trong đồn, phá hủy nặng nề hệ thống công sự, vật cản, nhà ở trong đồn; thu được 5 trung liên, 4 tiểu liên, 10 súng trường, một số đạn, lựu đạn. Tuy không giành thắng lợi hoàn toàn, song trận đánh Đồn Phủ Thông ngày 25/7/1948 có ý nghĩa to lớn. Sau trận công Đồn Phủ Thông, quân địch ở các cứ điểm không dám càn quét, sạo sục các vùng xung quanh, quân ta giành được chủ động trên địa bàn Bắc Bạch Thông. Trận Phủ Thông được Trung ương Đảng, Bộ Tổng chỉ huy biểu dương. Ngày 27/3/1998, Đồn Phủ Thông được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng là di tích lịch sử cấp Quốc gia. Ngày 01/6/1999 nhân dân và lực lượng vũ trang nhân dân thị trấn Phủ Thông vinh dự được Đảng và Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Tỉnh Bắc Kạn

Bắc Kạn 2824 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích Chiến thắng Đèo Giàng

Đèo Giàng nằm trên Quốc lộ 3, giáp ranh giữa hai huyện Bạch Thông và Ngân Sơn. Nơi đây trong kháng chiến chống thực dân Pháp, quân và dân ta đã làm nên chiến thắng vang dội và đã đi vào lịch sử hào hùng của dân tộc. Đây là trận đánh có quy mô lớn nhất so với các trận phục kích đánh địch khác ở khu vực Đèo Giàng. Từ trận đánh này, ta đã rút được nhiều kinh nghiệm về chiến thuật phục kích cấp tiểu đoàn cho các trận phục kích địch trong thời kỳ chống thực dân Pháp xâm lược. Trận đánh này gắn liền với trận đánh đồn Phủ Thông, đã gây tiếng vang lớn, có tác dụng mạnh mẽ, cổ vũ, động viên lực lượng vũ trang trong những ngày đầu kháng chiến chống thực dân Pháp, góp phần cùng nhân dân cả nước đánh bại mọi âm mưu phá hoại của thực dân Pháp tại chiến khu Việt Bắc. 9 giờ sáng ngày 12/12/1947, tại km số 187 -188 Đèo Giàng - thuộc xã Lãng Ngâm (Ngân Sơn) có 1 đoàn xe cơ giới của địch gồm 22 chiếc xe tăng, xe thiết giáp, ô tô tải, xe jíp chở lính lọt vào trận địa phục kích của trung đoàn 165 (Trung đoàn Thủ đô). Trận phục kích là đoạn đường hiểm trở, một bên là núi cao, một bên là vực sâu. Ngay từ loạt đạn đầu của bộ đội ta, 1 xe ô tô của địch đã bị phá hủy, nhiều tên lính địch bị tiêu diệt. Sau ít phút dùng hỏa lực mạnh bắn thẳng vào đội hình địch, bộ đội ta ào ạt xung phong xuống mặt đường tiêu diệt địch. Kết quả trận đánh: Diệt tại chỗ 60 tên (trong đó có hai tên trung úy), phá hủy, đốt 17 xe cơ giới, thu 2 triệu đồng tiền Đông Dương và nhiều vũ khí quân trang, quân dụng. Từ trận đánh vang dội này, Đèo Giàng đã trở thành địa danh lịch sử gắn liền với những chiến công oanh liệt của quân và dân ta trong chiến dịch phản công Việt Bắc - Thu Đông năm 1947. Di tích lịch sử Đèo Giàng trở thành niềm tự hào của quân đội nhân dân Việt Nam và quân dân Bắc Kạn. Ngày 12/7/2001, Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận và xếp hạng di tích lịch sử Chiến thắng Đèo Giàng xã Lãng Ngâm, huyện Ngân Sơn, tỉnh Bắc Kạn là di tích lịch sử cấp quốc gia. Hiện nay, đoạn đường tại khu di tích Đèo Giàng đã thay đổi nhiều, chính quyền và nhân dân tỉnh Bắc Kạn đã xây dựng một nhà bia kỉ niệm chiến thắng Đèo Giàng. Nhà bia được xây sát vách núi trên một khu đất rộng, có cửa sắt, tường rào bảo vệ. Nhà bia được xây dựng bằng bê tông cốt thép, mái làm theo kiểu cổ (Bốn mái đao, dán ngói mũi hài) trên bốn cột bê tông sơn màu giả gỗ, để trống bốn mặt. Bên trong có đặt bia kỉ niệm ghi lại chiến thắng Đèo Giàng năm 1947. Bia được làm bằng đá, mặt bia hướng ra đường quốc lộ 3. Nền nhà bia được xây bằng gạch, vữa xi măng, lát đá và trồng hoa trang trí. Đường lên nhà bia được xây bậc thang bằng gạch trát xi măng. Đối diện với nhà bia là công trình phù điêu lớn ghi dấu chiến công của quân và dân đã có công trong trận đánh tại Đèo Giàng, có khắc hình Ban Chỉ huy, quân và dân chuẩn bị cho trận chiến cùng với toàn cảnh trận chiến đấu ác liệt diễn ra tại Đèo Giàng. Bia dẫn tích và các hạng mục công trình phụ trợ kèm theo, kè xung quanh nền, trồng cây xanh tạo cảnh quan công trình. Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Tỉnh Bắc Kạn

Bắc Kạn 2281 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Khu Di Tích Lịch Sử Nà Tu

Nà Tu là một di tích lịch sử cách mạng thuộc xã Cẩm Giàng, huyện Bạch Thông (Bắc Kạn) nằm dọc bên Quốc lộ 3, cách thị xã Bắc Kạn 10 km về phía Bắc. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp đây là nơi Tổng đội thanh niên xung phong đóng quân, thực hiện nhiệm vụ đảm bảo giao thông vận tải phục vụ kháng chiến. Trong chiến tranh giặc Pháp luôn tăng cường máy bay bắn phá các tuyến giao thông, trong đó trọng điểm nhất là đoạn Quốc lộ 3 đi qua Bắc Kạn. Do vậy lúc này việc đảm bảo giao thông vận tải đã trở thành nhiệm vụ trọng yếu của quân và dân Bắc Kạn. Ngay từ năm 1950, Trung ương Đảng đã chủ chương cho sửa chữa, khôi phục lại quốc lộ 3 đoạn từ Thái Nguyên đi Cao Bằng nhằm phục vụ cho kháng chiến. Cũng tại thời điểm này Chính phủ đã phát động chiến dịch 3 tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên đồng thời tăng cường cho Bắc Kạn nhiều liên phân đội thanh niên xung phong. Tổng đội thanh niên xung phong đã chọn Nà Tu để đóng quân. Mặc dù còn thiếu thốn nhiều thứ, lại phải lao động nặng nhọc mà thời gian máy bay địch bắn phá thì nhiều, thanh niên xung phong phải làm việc ngày đêm rất nguy hiểm nhưng họ đã cùng quân và dân Bắc Kạn hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Thật vinh dự thay trong lúc khó khăn vất vả, ác liệt đó ngày 28/3/1951 trong một chuyến đi công tác Bác Hồ đã đến Nà Tu để thăm hỏi sức khoẻ, động viên thanh niên và nhân dân ở đây. Bác nhắc nhở Ban chỉ huy công trường, cán bộ phải tổ chức lao động thật khoa học, đoàn kết yêu thương lẫn nhau. Trước khi ra về Bác đã đọc tặng lực lượng thanh niên xung phong 4 câu thơ: Không có việc gì khó, Chỉ sợ lòng không bền, Đào núi và lấp biển, Quyết chí ắt làm nên. Như vậy tại địa danh Nà Tu đã là nơi ra đời 4 câu thơ bất hủ của Bác, và Nà Tu ngày nay đã trở thành khu di tích lịch sử. Từ đó cùng với nhịp độ phát triển của cách mạng, lời dạy của Bác trong 4 câu thơ trở thành nguồn động viên cho các thế hệ trẻ, củng cố lòng quyết tâm đạp bằng mọi trở lực làm nên chiến thắng. Cho đến hôm nay khi đã được sống trong hoà bình tự do nhân dân thôn Nà Tu - Cẩm Giàng vẫn không thể nào quên những lời dạy sâu sắc của Bác và coi đây là kim chỉ nam cho mọi hành động. Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Tỉnh Bắc Kạn

Bắc Kạn 2344 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích tích lịch sử An toàn khu (ATK) Chợ Đồn

Khu di tích An toàn khu (ATK) Chợ Đồn, thuộc địa bàn 3 xã: Bình Trung, Nghĩa Tá, Lương Bằng, huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn. ATK Chợ Đồn thuộc quần thể di tích Chiến khu Việt Bắc (bao gồm ATK Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên và ATK Tân Trào, tỉnh Tuyên Quang), là nơi ở và làm việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí lãnh đạo Trung ương trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1946 - 1954). Di tích ATK Chợ Đồn là căn cứ địa chiến lược, chứng kiến và ghi dấu nhiều sự kiện lịch sử quan trọng trong thời kỳ trước Cách mạng tháng 8 năm 1945 và thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp (1946 - 1954); gắn với sự nghiệp cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí: Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Trường Chinh, Hoàng Văn Thái, Nguyễn Chí Thanh, Trần Đăng Ninh… Tại đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trung ương Đảng, Chính phủ đã hoạch định đường lối kháng chiến, đưa ra những quyết sách mang tầm chiến lược, quyết định vận mệnh của đất nước trong một giai đoạn lịch sử đấu tranh gian khổ, lãnh đạo toàn dân, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Nằm trên địa bàn 3 xã phía Nam huyện Chợ Đồn, nơi có địa hình rừng núi hiểm trở, độ cao trung bình là 600m, hệ thống sông, suối, khe, ngòi khá dày đặc, lớn nhất là sông Phó Đáy, Khu ATK Chợ Đồn, bao gồm 25 di tích, trong đó có: 6 di tích đã được xếp hạng quốc gia, 3 di tích được xếp hạng cấp tỉnh, 16 di tích đưa vào danh mục kiểm kê. 1. Di tích Đồi Pù Cọ (thôn Bản Bẳng, xã Nghĩa Tá - Nơi hai đoàn quân Nam tiến và Bắc tiến gặp nhau tháng 10/1943) 2. Di tích Lán đồng chí Võ Nguyên Giáp (thôn Bản Bẳng, xã Nghĩa Tá - Nơi ở và hoạt động cách mạng của đồng chí Võ Nguyên Giáp, sau khi con đường Nam tiến được khai thông năm 1943). 3. Di tích Khuổi Khít (thôn Nà Cà, xã Nghĩa Tá - nơi tổ chức triển lãm biểu dương lực lượng Đồng Minh thời kỳ trước năm 1945). 4. Di tích Nhà ông Triệu Phú Dương (thôn Bản Bẳng, xã Nghĩa Tá - Nơi các đồng chí lãnh đạo của Mặt trận Việt Minh hội họp trong suốt thời kỳ tiền khởi nghĩa 1945). 5. Di tích Nà Pay (thôn Nà Kiến, xã Nghĩa Tá - Nơi Bác Hồ dừng chân nghỉ trên đường từ Pác Bó (Cao Bằng) đến Tân Trào (Tuyên Quang) ngày 17, 18, và 19/5/1945. 6. Di tích L-sao L-sô đỗ (Khe Nứa) (thôn Bản Bẳng, xã Nghĩa Tá - Nơi lực lượng Việt Minh đặt cơ sở sửa chữa và tự chế vũ khí thô sơ phục vụ trực tiếp cho hai đoàn quân Bắc tiến, Nam tiến, năm 1943 – 1945). 7. Di tích Bản Ca (thôn Bản Ca, xã Bình Trung - Nơi ở và làm việc của Bác Hồ tháng 12/1947) 8. Di tích Nà Kiến (thôn Nà Kiến, xã Nghĩa Tá - Nơi tổ chức Lễ Bế giảng Khóa 2, Khóa 3 Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn vào ngày 28/10/1947. 9. Di tích Khuổi Đăm (thôn Nà Khằn, xã Nghĩa Tá - Nơi ở và làm việc của Báo Sự thật từ năm 1948 đến năm 1953), nằm ở một thung lũng nhỏ, nơi giao nhau giữa 2 con suối nhỏ, xung quanh là đồi núi cao, cây cối rậm rạp, thuộc phạm vi khoanh vùng bảo vệ khu vực II, chia thành 3 khu vực: 10. Di tích Đồi Bản Tảng (thôn Nà Quân, xã Bình Trung - Nơi ở và làm việc của đồng chí Hoàng Văn Thái từ năm 1947 - 1954). 11. Di tích Nền lán Chuyên gia (thôn Nà Quân, xã Bình Trung - Nơi ở và làm việc của chuyên gia từ năm 1947 - 1954) 12. Di tích Nà Đon (thôn Đon Liên, xã Bình Trung - Nơi ở và làm việc của cơ quan Hậu cần Bộ Quốc phòng từ năm 1948 - 1951). 13. Di tích Khuổi Đó (thôn Nà Tông, xã Nghĩa Tá - Nơi ở và làm việc của cơ quan cơ khí Thăng Long từ năm 1948 - 1950) 14. Di tích Khuổi Tói (thôn Nà Quân, xã Bình Trung - Nơi ở và làm việc của Bác Hồ năm 1948). 15. Di tích Khuổi Dân (thôn 8 Vằng Quân, xã Bình Trung - Nơi Nhà máy giấy Minh Khai đặt cơ sở sản xuất giấy từ năm 1948 - 1952), chia làm 2 khu: 16. Di tích Nhà ông Ma Văn Chương (thôn Nà Phầy, xã Bình Trung - Nơi ở và làm việc của đồng chí Nguyễn Chí Thanh từ năm 1948 – 1952) 17. Di tích Nà Chang (thôn Nà Chang, xã Nghĩa Tá - Nơi đặt khu Giao tế (Nhà khách Chính phủ) từ năm 1948 – 1953) 18. Di tích Nà Săm (thôn Nà Quân, xã Bình Trung - Nơi ở và làm việc của đồng chí Võ Nguyên Giáp năm 1948- 1953) 19. Di tích Khuổi Chang (thôn Bản Pèo, xã Bình Trung - Nơi ở và làm việc của Bác Hồ từ ngày 12 tháng 5 đến ngày 1 tháng 6 năm 1949. 20. Di tích Khuổi Áng (thôn Khuổi Áng, xã Bình Trung - Nơi ở và làm việc của cơ quan Báo Cứu Quốc năm 1949). 21. Di tích Khuổi Linh (thôn Nà Đeng, xã Nghĩa Tá - Nơi ở và làm việc của đồng chí Trường Chinh và Văn phòng Trung ương Đảng từ năm 1950 – 1951) 22. Di tích Đồi Khau Mạ (thôn Bản Vèn, xã Lương Bằng - Nơi ở và làm việc của đồng chí Phạm Văn Đồng và Văn phòng Chính phủ năm 1950 - 1951). 23. Di tích Nà Quân (thôn Nà Quân, xã Bình Trung - Nơi đặt Hội trường Trung ương Đảng từ năm 1948 – 1952). 24. Di tích Nhà ông Trần Văn Lý (thôn Nà Phầy, xã Bình Trung - Nơi ở và làm việc của cơ quan Bộ Quốc phòng từ năm 1950 – 1953). 25. Di tích Nà Pậu (thôn Bản Thít, xã Lương Bằng - Nơi Bác Hồ ở và làm việc từ năm 1950 – 1951), nằm trên một khu đất rộng: Ngày nay, khu di tích ATK Chợ Đồn trở thành địa chỉ đỏ khơi dậy niềm tự hào dân tộc; tuyên truyền, giáo dục tinh thần yêu nước, truyền thống đấu tranh cách mạng của các thế hệ cha anh đi trước cho thế hệ trẻ hôm nay và mai sau. Với những giá trị đặc biệt tiêu biểu, di tích lịch sử An toàn khu (ATK) Chợ Đồn (huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn) được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt. Nguồn: Cục Di sản văn hóa

Bắc Kạn 2943 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Di tích lịch sử Hoàng Phài

Đây là địa điểm nơi Bác Hồ dừng chân trên đường từ Pác Bó về Tân Trào tháng 5 năm 1945 tại thôn Hoàng Phài xã Cốc Đán, huyện Ngân Sơn, tỉnh Bắc Kạn. Mới đây, di tích lịch sử Hoàng Phài đã được Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch công nhận là Di tích lịch sử cấp Quốc gia. Đây là một địa chỉ đỏ đánh dấu chặng đường lịch sử cách mạng của ông cha ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Năm 1945 chiến tranh thế giới lần thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc. Trong nước, Nhật đảo chính Pháp. Nhận thấy đây là cơ hội ngàn năm có một, tình thế lúc này đòi hỏi ta phải hành động kiên quyết, linh hoạt, mau lẹ, kịp thời. Bác Hồ quyết định nhanh chóng chuyển địa điểm từ Pác Bó (Cao Bằng) đến Tân Trào (Tuyên Quang) để thuận lợi cho việc lãnh đạo toàn dân tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Trong thời gian này tại xã Cốc Đán, huyện Ngân Sơn phong trào cách mạng của các tổ chức quần chúng dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ Việt Minh phát triển mạnh. Chiều ngày 9/5/1945, Bác Hồ và đoàn đến thôn Hoàng Phài. Thời gian lưu lại tại thôn Hoàng Phài của Bác Hồ và đoàn cán bộ đã để lại những tình cảm tốt đẹp, mãi mãi khắc sâu trong ký ức của nhân dân các dân tộc địa phương. Tại đây, Bác đã đến lớp bình dân học vụ thăm hỏi tình hình học tập của các học viên. Trước lúc ra về, Bác đã dặn nam nữ thanh niên cố gắng rèn luyện, chăm chỉ học hành để sau này trở thành chủ nhân của nước Việt Nam độc lập. Sáng 10/05/1945, Bác cùng đoàn cán bộ tiếp tục cuộc hành trình về Tân Trào (Tuyên Quang), tại khu vực Hoàng Phài, Ban Việt Minh, các đoàn thể xã cùng nhân dân đã lưu luyến tiễn Bác và đoàn công tác trước khi lên đường. Để ghi dấu sự kiện quan trọng này, đồng thời xây dựng một điểm di tích xứng tầm với ý nghĩa lịch sử của nó nhằm phát huy giá trị di sản văn hóa, giáo dục truyền thống cách mạng cho các thế hệ hôm nay và mai sau, ngày 31/10/2011, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã công nhận và xếp hạng di tích lịch sử, Địa điểm Lưu niệm nơi Bác Hồ dừng chân trên đường từ Pác Bó về Tân Trào, tháng 5 năm 1945 tại thôn Hoàng Phài xã Cốc Đán, huyện Ngân Sơn, tỉnh Bắc Kạn là di tích lịch sử cấp Quốc gia. Đó là niềm tự hào không chỉ của Đảng bộ và nhân dân xã Cốc Đán nói riêng mà là của tỉnh Bắc Kạn nói chung. Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Huyện Ngân Sơn Tỉnh Bắc Kạn

Bắc Kạn 2402 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Sắc Tứ Tịnh Quang

Chùa Sắc Tứ nằm trên vùng đồi phía tây nam làng Ái Tử thuộc địa phận thị trấn Ái Tử, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Chùa thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông. Chùa Sắc Tứ Tịnh Quang ban đầu có tên là Am Tịnh Độ, được xây dựng từ những năm đầu thời Lê (1735 - 1739) . Năm Kỷ Sửu, Vĩnh Hựu thứ 5 (1739, đời vua Lê Ý Tông) chúa Nguyễn Phúc Khoát (Võ Vương) trong một dịp ngự giá ra Quảng Trị, cảm khái với cảnh trí chốn Phật đường và tiếng tăm của chùa trong dân chúng nên đã thân hành ngự bút viết 5 chữ "Sắc Tứ Tịnh Quang Tự" rồi cho làm bảng sơn son thếp vàng để tặng cho chùa. Từ đó Am Tịnh Độ đổi thành chùa Tịnh Quang và dân chúng cũng từ đó quen gọi chùa bằng cái tên là chùa Sắc Tứ (chùa được nhà nước sắc phong), còn nhà Phật thì quen dùng tổ hợp: Tổ đình Sắc Tứ Tịnh Quang. Chùa có cấu trúc gồm một ngôi nhà rường truyền thống có mái chồng diêm, nguyên liệu chủ yếu được sử dụng là xi măng, cốt thép với tổng diện tích là 837m2. Bộ mái trang trí công phu bằng nghệ thuật đắp vữa và ghép mảnh sành sứ. Bờ nóc của chùa thẳng, trang trí hoa văn hình rồng. Trong khuôn viên chùa có đài Quan Thế Âm Bồ Tát (xây dựng năm 1976) cùng một số tháp là phần mộ của các vị sư trụ trì đã quá cố. Cổng tam quan xây hai tầng mái, tầng trên tôn trí tượng Hộ Pháp hướng mặt vào chùa. Sau tam quan có chiếc cầu bắc qua hồ sen để đi vào sân trước chùa và chánh điện. Ngôi chánh điện có chiều sâu 31m, rộng 27m, cao gần 15m, kiến trúc mái chồng diêm, phần nóc trang trí tứ linh; mặt trước, giữa hai mái có 5 bức phù điêu về cuộc đời đức Phật: Đản sanh, xuất gia, thành đạo, thuyết pháp và nhập niết bàn. Chính điện chùa Sắc Tứ ở gian giữa, lớp trên thờ bộ tượng Tam Thế, kế tiếp là Thích Ca tọa thiền cùng tả, hữu là A Nan Đà và Ca Diếp đang đứng. Ngoài cùng là Di Lặc, Thích Ca sơ sinh. Gian bên tả thờ tượng Quan Thế Âm Bồ Tát. Phía trước có tượng Phổ Hiền Bồ Tát đang ngồi trên mình lân. Gian hữu thờ tượng địa tạng Bồ Tát, phía trước là tượng Văn Thù Bồ Tát đang cưỡi long mã. Hậu điện thờ tượng Bồ Đề Đạt Ma, tổ sư Chí Khả- người dựng nên chùa Sắc Tứ cùng hai vị hòa thượng là Tuyết Phong và Bửu Ngạn- những người thuộc thế hệ đầu tiên trụ trì ở chùa. Chùa có pho tượng đức Phật Thích Ca bằng đồng nặng 2700 kg, đúc năm 1997 và chiếc trống lớn bằng da trâu, đường kính mặt trống là 165 cm. Trong khuôn viên chùa có đài Bồ tát Quan Thế Âm. Chùa Sắc tứ Tịnh Quang là ngôi tổ đình danh tiếng của Phật giáo xứ Đàng Trong, là nơi từng bồi dưỡng và đào tạo nhiều danh tăng thạc đức. Lễ hội giỗ Tổ chùa hằng năm vào ngày 18 tháng 2 âm lịch, tổ chức rất quy mô với sự tham dự của hàng ngàn Tăng Ni, Phật tử ở Quảng Trị, các tỉnh lân cận và khách hành hương khắp nơi. Ngày 15/11/1991 chùa được xếp hạng là di tích lịch sử - văn hoá cấp quốc gia. Nguồn: Báo Quảng Trị

Quảng Trị 2582 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Khu Di Tích Lịch Sử Chiến Thắng Đông Khê

Khu di tích lịch sử Chiến Thắng Đông Khê (Chiến dịch Biên giới 1950) nằm tại Nà Lạn, xã Đức Long, huyện Thạch An, cách thành phố Cao Bằng. Đây là một khu di tích gắn liền với sự nghiệp hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, với chiến thắng Chiến dịch Biên giới năm 1950, do Bộ Tư lệnh Quân khu, Quân khu 1, Quân khu II và tỉnh Cao Bằng phối hợp xây dựng. Khu di tích được đưa vào sử dụng ngày 19/05/2004, thể hiện đạo lý cao cả "Uống nước nhớ nguồn " đối với vị lãnh tụ thiên tài, vị cha già kính yêu của dân tộc và ghi lại dấu ấn oanh liệt, hào hùng của một chiến thắng mang ý nghĩa chiến lược trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Khu di tích gồm 2 phần: Nhà tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh và Cụm tượng đài Bác Hồ quan sát trận đánh Đông Khê trên núi Báo Đông. Nhà tưởng niệm được thiết kế theo kiểu kiến trúc sàn hiện đại, trưng bày những hình ảnh, hiện vật liên quan đến hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngồi quan sát trận đánh trên núi Báo Đông. Cụm tượng đài Bác Hồ quan sát trận đánh Đông Khê trên núi Báo Đông làm bằng vật liệu compozit giả đồng, cao 2,8m, nặng 418 kg, cột bê tông cốt thép, toàn bộ bức tượng đặt trên bệ đá ốp gạch lát hoa. Để đến Đài Bác Hồ quan sát trận đánh Đông Khê trên núi Báo Đông đi qua 846 bậc đá, được chia thành 79 cung bậc, tượng trưng cho 79 mùa xuân của Bác. Những bậc đá hôm nay chính là con đường năm xưa, ngày 13/9/1950, Bác rời Sở Chỉ huy Chiến dịch đến Sở Chỉ huy tiền phương ở Nà Lạn, lên núi Báo Đông quan sát trận đánh Đông Khê. Sáng sớm 16/9/1950, từ vị trí quan sát đặt trên núi Báo Đông, Chủ tịch Hồ Chí Minh chăm chú quan sát, theo dõi chặt chẽ diễn biến trận Đông Khê, mở màn Chiến dịch Biên giới năm 1950, tạo tiền đề cho cuộc kháng chiến thắng lợi vĩ đại của dân tộc. Ngày 16/9/1950, các đơn vị quân đội ta nổ súng mở đầu Chiến dịch bằng trận đánh vào cứ điểm Đông Khê. Mất Đông Khê, quân địch ở Thất Khê lâm vào tình thế bị uy hiếp, Cao Bằng bị cô lập. Trước nguy cơ bị tiêu diệt, quân Pháp buộc phải rút khỏi Cao Bằng theo đường số 4. Để yểm trợ cho cuộc rút quân này, Pháp huy động quân từ Thất Khê lên chiếm lại Đông Khê và đón cánh quân từ Cao Bằng rút về; đồng thời, cho quân đánh lên Thái Nguyên để thu hút chủ lực của ta. Đoán được ý định của địch, quân ta chủ động mai phục, chặn đánh địch nhiều nơi trên đường số 4 khiến cho 2 cánh quân này không gặp được nhau. Đến lượt Thất Khê bị uy hiếp, ngày 8/10/1950, quân Pháp phải rút về Na Sầm; ngày 13/10/1950, Pháp rút khỏi Na Sầm về Lạng Sơn. Trong khi đó, cuộc hành quân của địch lên Thái Nguyên cũng bị quân ta chặn đánh, quân Pháp trở nên hoảng loạn, phải rút chạy, ngày 22/10/1950, đường số 4 được giải phóng. Ngày 3/10/1950, tỉnh Cao Bằng được giải phóng, ghi dấu mốc quan trọng trong lịch sử, trở thành ngày kỷ niệm lớn của Cao Bằng hằng năm. Chiến dịch Biên giới kết thúc, ta đã loại khỏi vòng chiến đấu hơn 8.300 tên địch, giải phóng toàn tuyến biên giới Việt - Trung từ Cao Bằng đến Đình Lập với 35 vạn dân, với diện tích rộng 4.500 km2 ; chọc thủng “Hành lang Đông - Tây” của Pháp. Thế bao vây của địch cả trong và ngoài đối với căn cứ địa Việt Bắc bị phá vỡ. Thắng lợi của Chiến dịch Biên giới đã làm thay đổi cục diện chiến tranh giữa ta và Pháp, tạo bước chuyển biến mới về chiến lược tiến công, phản công, góp phần đưa cuộc kháng chiến đi đến thắng lợi mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ, tiến tới đại thắng mùa xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, đi lên chủ nghĩa xã hội. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Cao Bằng

Cao Bằng 2802 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

KHU DI TÍCH PÁC BÓ

Di tích lịch sử Pác Bó nằm trên địa bàn xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng. Đây là địa điểm từng gắn với hoạt động của Bác trong giai đoạn đầu trở về Tổ quốc lãnh đạo Cách mạng (1941 - 1945). Đầu năm 1941, Nguyễn Ái Quốc cùng 5 đồng chí đã về nước và ở tại nhà ông Lý Quốc Súng, sau đó chuyển vào hang Cốc Bó, hang Lũng Lạn và lán Khuổi Nặm. Tại đây, từ ngày 10 đến ngày 19/5/1941, đã diễn ra Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8. Và, cũng tại lán Khuổi Nặm II, Bác đã thành lập Báo Việt Nam độc lập, kêu gọi toàn dân đoàn kết đánh kẻ thù chung là thực dân Pháp, phát xít Nhật và Việt gian, giành độc lập, tự do. Theo “Quy hoạch tổng thể di tích” đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, di tích Pác Bó bao gồm: 1. Cụm di tích khu vực đầu nguồn - Hang Cốc Bó (tiếng Nùng có nghĩa là “đầu nguồn”) rộng khoảng 80m2, cửa hang chỉ một người đi vừa. Đây là nơi Bác và các đồng chí cán bộ cách mạng ở từ ngày 08/02/1941 đến trung tuần tháng 3 năm 1941. - Nền nhà ông Lý Quốc Súng: là ngôi nhà Bác Hồ đã ở khi mới trở về Tổ quốc chỉ đạo cách mạng (từ ngày 28 tháng 1 đến ngày 07/02/1941). - Hang Lũng Lạn: là nơi Bác ở và làm việc trong khoảng cuối tháng 3 năm 1941. - Hang Ngườm Vài: tại đây, năm 1941, Bác trực tiếp hướng dẫn và kết nạp Đảng cho đồng chí Nông Thị Trưng. - Suối Lê Nin: thời gian ở Pác Bó, Bác thường ngồi câu cá ở suối này. - Nền nhà ông La Thanh: là cơ sở cách mạng quan trọng thời kỳ tiền khởi nghĩa. Đây là nơi đón tiếp các đại biểu toàn quốc về dự Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8. - Cột mốc 108: nay là cột mốc số 675, là một trong 314 cột mốc biên giới Việt - Trung. - Khu ruộng Goọc Mu: Năm 1940, nhân dân thôn Pác Bó đã từng vào đây cắt máu ăn thề, nguyện suốt đời đi theo cách mạng. 2. Các điểm lưu niệm tại khu trung tâm - Nhà tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh và sân quảng trường: được xây dựng theo mô hình nhà sàn dân tộc, nằm trên dãy Linh Sơn, thuộc khu di tích Pác Bó. - Khu ruộng Nà Chang: Là nơi mít tinh đón Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm và nói chuyện với nhân dân Pác Bó ngày 20/2/1961. - Các công trình: nhà trưng bày, nhà đón tiếp. 3. Cụm di tích Bó Bẩm - Nhà ông Dương Văn Đình: là nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên nói chuyện, tuyên truyền về cách mạng. - Núi Các Mác, suối Lê Nin, hang Đầu Hổ: là nơi nhân dân Cao Bằng đã tổ chức lễ truy điệu Bác (tháng 9 năm 1969). 4. Cụm di tích Khuổi Nặm - Lán Khuổi Nặm: là nơi Bác ở lâu nhất. Ngoài ra, để đảm bảo an toàn cho Bác, các đồng chí cán bộ đã làm thêm cho Người hai lán nữa (lán Khuổi Nặm II và III). - Hang Slí Điếng và hang Diêm Tiêu: là địa điểm được Bác sử dụng làm hòm thư bí mật, giai đoạn 1941 - 1945. Ngày 10/5/2012, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định xếp hạng Di tích lịch sử Pác Bó là Di tích Quốc gia đặc biệt. Nguồn: Cục Di sản văn hóa

Cao Bằng 2438 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Di tích Rừng Trần Hưng Đạo

Khu di tích Quốc gia đặc biệt rừng Trần Hưng Đạo nằm dưới chân núi Slam Cao thuộc địa bàn 2 xã Tam Kim, Hoa Thám (huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng). Đây là nơi lưu giữ một hệ thống các di tích gắn liền với giai đoạn lịch sử đặc biệt quan trọng của cách mạng Việt Nam. Khu di tích quốc gia đặc biệt rừng Trần Hưng Đạo là nơi ghi dấu sự thành lập và hoạt động của Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam. Đồng thời, đây cũng là nơi gắn liền với cuộc đời và sự nghiệp hoạt động cách mạng của Đại tướng Võ Nguyên Giáp - người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Khu di tích gồm 5 điểm quan trọng: Cụm di tích rừng Trần Hưng Đạo (gồm Địa điểm thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, Lán nghỉ và bếp ăn, mỏ nước phục vụ nước sinh hoạt, Đỉnh Slam Cao); Hang Thẳm Khẩu (xã Tam Kim) - từng được sử dụng làm trạm liên lạc, đưa cơm phục vụ cho các đồng chí hoạt động cách mạng; Đồn Phai Khắt (xã Tam Kim) - nơi diễn ra trận đầu ra quân của đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân (25/12/1944); Đồn Nà Ngần (xã Hoa Thám) - nơi ghi dấu trận đánh thứ 2 giành thắng lợi của Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân (26/12/1944); di tích Vạ Phá (xã Tam Kim). Với những giá trị lịch sử này, năm 2013, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định xếp hạng Di tích lịch sử Rừng Trần Hưng Đạo (huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng) là di tích quốc gia đặc biệt. Nhà trưng bày tại khu di tích sau khi được hoàn thành, đưa vào sử dụng đã góp phần tôn vinh và tri ân thế hệ đi trước, đồng thời bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị khu di tích. Các hiện vật tại đây được trưng bày tập trung, đảm bảo tính khoa học và giá trị lịch sử chân thực theo 3 chủ đề: Cao Bằng - Đất nước, con người và truyền thống; Quá trình hình thành, ra đời và hoạt động của Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân; Quân đội anh hùng truyền thống vẻ vang. Khu di tích quốc gia đặc biệt rừng Trần Hưng Đạo, không chỉ là một địa chỉ đỏ về truyền thống lịch sử vẻ vang với nhiều điểm di tích mà còn là một khu rừng nguyên sinh. Với diện tích rộng trên 201,7 ha, rừng Trần Hưng Đạo mang một vẻ đẹp hoang sơ với bầu không khí trong lành. Nằm sâu dưới những tán cây cổ thụ là nhà bia 34 chiến sĩ của Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, lán nghỉ và bếp ăn mô phỏng lại cuộc sống đời thường giản dị của các chiến sĩ. Men theo con dốc nhỏ chừng 50m là mỏ nước tự nhiên, cũng là điểm lấy nước sinh hoạt của các chiến sĩ, trải qua nhiều năm vẫn cho ra những dòng nước mát lạnh và trong vắt. Cũng tại rừng Trần Hưng Đạo, cây sấu cổ thụ 300 năm tuổi từng gắn bó mật thiết với đời sống hàng ngày của Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân đã được công nhận là Cây di sản Việt Nam. Trải qua 75 năm, những dấu tích từ thuở đầu thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân luôn được đồng bào các dân tộc tỉnh Cao Bằng trân trọng và gìn giữ, góp phần giáo dục tinh thần yêu nước và truyền thống cách mạng cho các thế hệ trẻ sau này. Khu rừng nguyên sinh rộng lớn xòe từng tán cây, bao bọc những di tích thiêng liêng trong tháng ngày hoạt động cách mạng gian khó của Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân. Nguồn: Cục du lịch quốc gia Việt Nam

Cao Bằng 2810 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Điểm di tích nổi bật