Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch Travelviet
Tải ứng dụng Travelviet
Các di tích lịch sử văn hóa tại Quảng Ninh sẽ đưa bạn bước vào hành trình khám phá đầy cuốn hút, nơi lưu giữ những dấu ấn văn hóa và lịch sử đáng tự hào của vùng đất mỏ. Đến Quảng Ninh, hãy dành chút thời gian ghé thăm các điểm di tích đặc sắc này để cảm nhận vẻ đẹp và chiều sâu của một miền di sản độc đáo. Cùng 63Stravel điểm danh các di tích này nhé!
Cùng xem ngay danh sách 27 di tích lịch sử ở Quảng Ninh nổi tiếng được nhiều du khách tham quan, khám phá.
Xã Triều Khê gắn liền với vùng đất thang mộc của An Sinh vương Trần Liễu - thân phụ Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, có bề dày lịch sử từ thời Trần. Đến cuối thế kỷ XVIII, một số gia đình từ Kim Thành, Hải Dương đã đến khai hoang vùng đất ven sông Kinh Thầy, lập nên thôn xóm đông đúc.
Đình Triều Khê - nơi lưu giữ các giá trị văn hoá Việt
Năm 1887, làng Triều Khê chính thức thành lập và xây dựng đình làng để thờ An Sinh vương Trần Liễu và các nhân vật lịch sử khác. Đình Triều Khê không chỉ lưu giữ kiến trúc độc đáo mà còn là nơi lưu trữ nhiều hiện vật quý giá như sắc phong, bia đá và các bức chạm khắc thời Nguyễn.
Trải qua năm tháng, di tích này đã xuống cấp, và năm 2023, dự án tu bổ đã được phê duyệt nhằm bảo tồn, tôn tạo giá trị văn hóa, lịch sử của đình Triều Khê. Đồng thời nâng cao đời sống văn hóa cho cộng đồng địa phương.
Chùa La tên chữ là Tam Thánh Tự, nằm tại thôn Cẩm Liên, xã Cẩm La, được xây dựng từ thế kỷ XVI dưới triều Nguyễn, là nơi sinh hoạt văn hóa và tâm linh của Phật tử địa phương. Chùa còn lưu giữ nhiều tác phẩm điêu khắc nghệ thuật mang phong cách thời Nguyễn, phản ánh giá trị văn hóa sâu sắc.
Hằng năm, lễ hội Chùa La diễn ra vào mùng 5 và mùng 6 tháng Giêng âm lịch với nhiều hoạt động truyền thống như đánh đu, hát đúm và đánh cờ. Với giá trị văn hóa độc đáo, năm 2006, Chùa La được xếp hạng là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh.
Chùa Lái (còn gọi là Linh Ngai Tự) tọa lạc tại thôn Vị Khê, xã Liên Vị, thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh. Ngôi chùa cổ này được xây dựng từ thế kỷ XVI với kiến trúc ban đầu đơn sơ, và đã trải qua nhiều lần trùng tu bởi các thế hệ tín đồ.
Chùa Lái (còn gọi là Linh Ngai Tự) Xếp hạng Di tích cấp tỉnh
Chùa nổi bật với hơn 125 hiện vật quý giá từ thời Mạc và Nguyễn, trong đó có tượng Phật, bia đá, chuông đồng, mang giá trị nghệ thuật cao. Đặc biệt, vị trí của chùa nằm trên vùng đất có thế tay ngai của hai nhánh sông, tạo nên cảnh sắc hữu tình.
Trong kháng chiến, chùa từng là nơi cất giữ tài liệu và vũ khí của cách mạng. Với bề dày lịch sử và giá trị văn hoá, Chùa Lái được công nhận là Di tích kiến trúc nghệ thuật cấp tỉnh từ năm 2000, trở thành điểm tựa tâm linh và di sản đáng quý của địa phương.
>> Tham khảo: Tổng hợp ảnh đẹp về những địa điểm du lịch Quảng Ninh
Chùa Yên Mỹ (hay còn gọi là chùa Phúc Khánh) nằm tại thôn Tân Tiến (xã Lê Lợi, TP Hạ Long). Đây là ngôi chùa cổ mang đậm nét kiến trúc truyền thống từ cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX.
Chùa Yên Mỹ - Phúc Khánh Tự Xếp hạng Di tích cấp tỉnh
Năm 1854, chùa được tu sửa với sự đóng góp của người dân địa phương và đã trải qua nhiều lần trùng tu sau đó. Tọa lạc trên một khu đất cao, chùa quay hướng Nam, theo thế phong thủy đẹp: trước mặt có sông, phía sau là ruộng, hai bên là núi chầu. Kiến trúc chùa theo kiểu chữ đinh, gồm ba gian tiền đường và hai gian hậu cung.
Dù trải qua thời gian, chùa vẫn giữ hệ thống tượng Phật và đồ thờ phong phú, với 23 tượng gỗ, tượng Tam Thế, Thích Ca sơ sinh, Ngọc Hoàng… Khuôn viên chùa rộng khoảng 1000m², có nơi thờ Mẫu và nhiều công trình phụ trợ. Năm 1999, chùa Yên Mỹ được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh, thu hút đông đảo du khách đến chiêm bái và tìm hiểu văn hóa địa phương.
Đình chùa Hoàng Xá (còn gọi là đình Nhị) là một di tích lịch sử đầy ý nghĩa của xã Hoàng Xá. Trong kháng chiến chống Pháp, nơi đây đã trở thành căn cứ cách mạng, chứng kiến nhiều trận đấu ác liệt giữa quân ta và kẻ địch. Để tưởng nhớ những anh hùng liệt sĩ đã hy sinh trong các cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, chính quyền đã xây dựng đài tưởng niệm ngay tại khuôn viên đình chùa.
Cụm di tích này bao gồm tam quan, đình, chùa và đài tưởng niệm liệt sĩ, với kiến trúc chữ đinh (J) truyền thống. Sau nhiều lần trùng tu, đình Hoàng Xá và chùa Hoàng Hoa tự đã được tôn tạo, giữ gìn nét kiến trúc cổ kính đặc trưng. Lễ hội đình chùa Hoàng Xá, diễn ra vào ngày 9-10 tháng Giêng hàng năm, thu hút đông đảo dân làng và du khách tham gia với các nghi lễ trang trọng và trò chơi dân gian như kéo co, bóng đá…
Với giá trị văn hóa và lịch sử, đình chùa Hoàng Xá đã được xếp hạng di tích lịch sử cấp Tỉnh vào năm 2016. Hiện nay, công tác bảo tồn và tôn tạo vẫn đang được thực hiện, rất cần sự đóng góp từ các Phật tử và mạnh thường quân để giữ gìn và phát huy giá trị di tích cho thế hệ mai sau.
Chùa Nhuệ Hổ (hay còn gọi là chùa Quảng Phúc) là di tích văn hóa nghệ thuật cấp Tỉnh, mang đậm giá trị lịch sử và kiến trúc cổ kính. Được xây dựng cách đây khoảng 400 năm, chùa không chỉ là nơi thờ Phật và thánh hoàng làng mà còn lưu giữ nhiều di vật quý hiếm. Trong đó, nổi bật là 15 pho tượng đất nung thời Lê – bộ tượng đất nung nguyên vẹn hiếm có tại Quảng Ninh.
Di tích nghệ thuật chùa Quảng Phúc (Chùa Nhuệ Hổ)
Trong thời kỳ kháng chiến, chùa Nhuệ Hổ đóng vai trò quan trọng, trở thành căn cứ cách mạng, là kho lưu trữ vật tư và nơi trú ngụ của các công nhân xây dựng cầu đường. Đặc biệt, nơi đây từng là nơi Đại lão Hòa thượng Thích Thanh Bình – một vị sư tham gia trực tiếp vào phong trào kháng chiến chống Pháp – trụ trì và đã được lập bảo tháp tưởng niệm ngay trước chùa. Năm 2013, Chủ tịch nước truy tặng Hòa thượng Huân chương Đại đoàn kết dân tộc, ghi nhận những đóng góp to lớn của ông cho cách mạng và cho sự đoàn kết dân tộc.
Chùa Mỹ Cụ tọa lạc ở thôn Mỹ Cụ, xã Hưng Đạo, TX Đông Triều, là một điểm đến hấp dẫn cho du khách yêu thích văn hóa tâm linh. Nằm bên sườn núi Chè, chùa mang trong mình những dấu ấn lịch sử sâu sắc, ghi dấu sự hiện diện của vua Trần Nhân Tông tại am Ngọa Vân vào năm 1308. Trong thời kỳ thịnh vượng của phái Trúc Lâm, chùa Mỹ Cụ đã ra đời, góp phần vào mạng lưới 800 ngôi chùa lớn nhỏ trên toàn miền.
Chùa có kiến trúc chữ Đinh, được mở rộng với các công trình như chùa chính, nhà tổ và nhà tăng, tạo thành hình chữ Khẩu. Qua thời gian, mặc dù bị tàn phá trong các cuộc chiến, chùa vẫn giữ được vẻ đẹp và nét kiến trúc cổ xưa.
Du khách sẽ không thể không ấn tượng với những bức tượng Phật tỉ mỉ, từ tượng A Di Đà, Thích Ca Mâu Ni đến Quan Âm Chuẩn Đề. Tất cả đều được chế tác khéo léo từ đất sét, mang đến linh hồn sống động cho mỗi tác phẩm.
Đặc biệt, chùa Mỹ Cụ là một trong số ít chùa ở Quảng Ninh sở hữu tượng Phật đất sét, cùng với những chi tiết chạm trổ công phu trên mái. Khi đến đây, du khách không chỉ được chiêm bái mà còn mở mang thêm kiến thức về văn hóa tôn giáo của dân tộc Việt Nam.
Đình Bình Lục tọa lạc tại khu Bình Lục Hạ, phường Hồng Phong, là nơi thờ Khâm Minh Thánh Vũ Hiển Đạo An Sinh vương Trần Liễu, thân phụ của Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn. Với văn bia lâu đời nhất có niên đại năm 1696, đình được biết đến như một trong những ngôi đình cổ kính nhất vùng Đông Bắc, mang đậm dấu ấn kiến trúc thời Lê Trung Hưng.
Đình Bình Lục - Ngôi đình lâu đời ở Quảng Ninh
Dù từng trải qua nhiều lần trùng tu, đình đã bị xuống cấp nghiêm trọng vào giữa thế kỷ XX và bị cháy vào những năm 70-80, dẫn đến sự sụp đổ hoàn toàn. Năm 1995, nhân dân địa phương đã dựng lên một ngôi đình nhỏ đơn sơ trên nền cũ để phục vụ nhu cầu tín ngưỡng của cộng đồng.
Đền thờ Đức Thánh Hang Son tọa lạc trong quần thể di tích lịch sử và văn hóa phong phú của xã Yên Đức, nơi có các danh thắng nổi bật như núi Đống Thóc, núi Con Chuột, chùa Cảnh Huống và Hang 73. Theo truyền thuyết, Đức Thánh Hang Son là một chàng trai tài giỏi, đã hóa thành cá chép, giúp dân làng và được người dân hai làng Yên Khánh và Quỳ Khê thờ phụng để tôn vinh công lao.
Được xây dựng từ thời Trần, đền thờ thể hiện sự kết hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng thờ Thần, thờ Mẫu của người Việt. Nằm trên gò đất cao, xung quanh là những ngọn núi và cánh đồng lúa xanh tươi, đền hiện lưu giữ nhiều hiện vật quý giá như bát hương đá thời Lê và các sắc phong của triều Nguyễn, chứng minh cho giá trị lịch sử của nó.
Mặc dù đã trải qua thiên tai và chiến tranh, ngôi đền đã được trùng tu lại vào năm 1992 và tiếp tục được bảo tồn cho đến nay. Ngày 9/3/2023, UBND tỉnh Quảng Ninh đã công nhận Đền thờ Đức Thánh Hang Son là di tích cấp tỉnh, một niềm tự hào của nhân dân Yên Đức, khẳng định giá trị văn hóa lịch sử và nâng cao ý thức bảo vệ các di sản của vùng đất này.
Khu Danh Thắng Vũng Đục là một trong những điểm đến nổi bật và quyến rũ nhất của thành phố Cẩm Phả, Quảng Ninh, luôn để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng du khách khi có dịp đặt chân tới đây. Đây chính là điểm du lịch không thể bỏ qua trong hành trình khám phá vẻ đẹp của vùng đất mỏ xinh đẹp này.
Ngày xưa, Vũng Đục là một vùng nước sâu, nằm giữa hai dãy núi hùng vĩ: Bàn Cờ và Cạp Rùa. Vào thời kỳ thực dân Pháp, nhằm phục vụ việc vận chuyển than về nước, họ đã xây dựng con đường từ bến xe 52 đến cảng Vũng Đục mà ngày nay chúng ta vẫn biết đến.
Những cơn mưa lớn từ các dãy núi phía Tây đã tạo ra dòng chảy mạnh mẽ mang theo các khoáng chất từ vỉa than cháy xuống biển, khiến cho nước biển tại Vũng Đục có màu vàng đục đặc trưng. Trong khi các vùng biển khác lấp lánh sắc xanh, nước ở Vũng Đục lại mang một vẻ huyền bí riêng, gợi nhớ về lịch sử đau thương nhưng hào hùng của vùng đất này.
Quần thể di tích bao gồm Đền Vũng Đục, Đền thờ liệt sĩ, Đài tưởng niệm cùng hệ thống hang động Vũng Đục, nơi có những nhũ đá lung linh, tạo nên một không gian kỳ bí và tĩnh lặng. Du khách đến đây không chỉ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn có dịp ôn lại lịch sử hào hùng của dân tộc, từ đó nuôi dưỡng lòng tự hào và ý thức trách nhiệm với thế hệ mai sau. Khu di tích Vũng Đục hiện đang thu hút trên 50.000 lượt khách mỗi năm, đồng thời luôn được chú trọng đầu tư, nâng cấp để phục vụ tốt nhất nhu cầu của du khách.
Đình Hưng Học là di tích lịch sử thờ Quận công Vũ Hoàng Đào - một nhân vật có công lớn trong việc phát triển quê hương, trừ dịch bệnh và bảo vệ làng xã. Ông là Tiến sĩ đầu tiên của dòng họ Vũ tại Hưng Học và có những đóng góp quan trọng trong việc khai hoang, lấn biển, hình thành thị xã Quảng Yên và tỉnh Quảng Ninh ngày nay.
Tương truyền, khi ông qua đời, được vua Khải Định phong làm Thần Đông Hải, vị thần bảo hộ cho ngư dân và làng Hưng Học, nơi người dân thường đến cầu khấn mỗi khi ra khơi. Đình còn thờ Huyền Quang, Tổ sư thiền phái Trúc Lâm - một nhân vật văn hóa quan trọng của dân tộc.
Với kiến trúc độc đáo và nhiều cổ vật giá trị, đình Hưng Học không chỉ là nơi lưu giữ tín ngưỡng địa phương mà còn là điểm đến nghiên cứu về lịch sử và văn hóa vùng đất Quảng Ninh. Đình đã được công nhận là Di tích lịch sử quốc gia, khẳng định giá trị văn hóa và lịch sử của nơi đây.
Đình Lưu Khê mang tên làng Lưu Khê, được xây dựng để thờ hai vị Tiên Công Đỗ Độ và Đào Bá Lệ - những người đã góp công chiêu tập dân cư và khai phá bãi bồi cửa sông Bạch Đằng vào năm 1434, tạo dựng nên làng Lưu Khê ngày nay. Theo tư liệu còn lại và truyền thuyết từ các bậc cao niên, đình được khởi dựng vào năm 1822 và đã trải qua nhiều lần tu bổ, với một trong những lần cải tạo lớn vào năm 1942, khi đình được lợp ngói Tây và xây tường đá bao quanh.
Đến năm 2006, đình lại được nâng cấp, bảo tồn các yếu tố kiến trúc cổ điển và phục hồi một số hạng mục, khiến cho nơi thờ tự ngày càng khang trang và đẹp đẽ. Đình không chỉ thờ Đỗ Độ và Đào Bá Lệ mà còn liên kết với ngôi đền thờ Trần Hưng Đạo gần đó.
Dù trải qua nhiều cải tạo, các cấu kiện và điêu khắc của đình vẫn giữ nguyên nét truyền thống của nghệ thuật dân gian thế kỷ 17 và 18, với những bức chạm nổi tinh xảo hình rồng, mây và các biểu tượng phong thủy. Đình Lưu Khê đã được công nhận là di tích cấp Quốc gia từ năm 1995 nhờ vào giá trị lịch sử và nghệ thuật đặc sắc của nó.
Đình Phong Cốc (hay Đình Cốc) nằm tại Khu 4, phường Phong Cốc, thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh, là một trong những ngôi đình cổ kính và lớn nhất khu vực Hà Nam. Nằm ở vị trí trung tâm, đình được xây dựng trên nền đất cao, hướng Đông Nam, nhìn ra dòng sông Cửa Đình và được bao quanh bởi những cây bồ đề cổ thụ.
Kiến trúc mái đình lợp ngói mũi hài với bờ nóc đắp nổi hình hai rồng chầu mặt trời tạo nên vẻ đẹp thanh thoát. Trong khi sân đình lát đá xanh rộng lớn từng là nơi họp chợ Cốc trước khi được di dời để bảo tồn di tích.
Độc đáo kiến trúc đình Phong Cốc ở Quảng Ninh
Đình Phong Cốc bao gồm tiền đường, bái đường và hậu cung, trong đó:
Tiền đường được xây dựng vào cuối thế kỷ XVII, với kết cấu vững chãi và những cột lớn theo lối "Thượng thu, hạ thách".
Bái đường được xây dựng năm Cảnh Thịnh (1800) mang phong cách Hậu Lê với điêu khắc tinh xảo.
Hậu cung kết nối với bái đường là nơi thờ cúng Thành Hoàng và Thần Nông, những nhân vật có vai trò quan trọng trong lịch sử và văn hóa địa phương.
Không chỉ có giá trị về kiến trúc, Đình Cốc còn là trung tâm văn hóa, nơi lưu giữ phong tục tập quán của người dân nơi cửa biển. Các lễ hội truyền thống như lễ cầu mưa và hội ăn cơm mới được tổ chức thường niên, thể hiện nguyện vọng về cuộc sống ấm no, bình an. Những giá trị văn hóa tốt đẹp này vẫn được gìn giữ và phát huy cho đến ngày nay.
Đền Quan Đại tọa lạc tại thôn La Khê, xã Tiền An, huyện Quảng Yên, thờ hai vị đại thần Trương Quốc Dụng và Văn Đức Giai của triều Nguyễn. Họ đã lãnh đạo quân dân Quảng Yên chiến đấu chống lại quân xâm lược Pháp và bọn tay sai, bảo vệ biên cương Tổ quốc.
Trương Quốc Dụng là một tướng tài và nhà văn hóa có tầm ảnh hưởng vào giữa thế kỷ XIX, ông có nhiều đóng góp cho triều đình và được vua Tự Đức truy tặng hàm vị cao quý. Văn Đức Giai hay còn gọi là Văn Đức Khuê, nổi bật với tài năng và đức độ, đã dẫn dắt quân đội trong các chiến dịch chống thực dân Pháp.
Khi hai vị tướng tử trận trong trận đánh ở đồn La Khê, truyền thuyết kể rằng hai con voi của họ đã đưa thi thể vào rừng trúc, nơi dân làng lập đền thờ. Đền Quan Đại không chỉ là nơi tưởng niệm công lao của các vị anh hùng mà còn là trung tâm văn hóa của làng, với lễ hội “giỗ trận” được tổ chức hàng năm.
Đền có kiến trúc hình chữ Nhị, được xây dựng lại vào năm 1993. Hiện, đền vẫn lưu giữ nhiều hiện vật quý giá liên quan đến cuộc đời và sự nghiệp của hai vị anh hùng như bia ký, sắc phong… thể hiện lòng tri ân của dân làng đối với những người đã hy sinh vì đất nước.
Đình Hải Yến hay còn gọi là “Hải Yến đình,” tọa lạc tại xóm Tây, thôn Hải Yến, xã Yên Hải, huyện Yên Hưng, Quảng Ninh. Trước đây, làng được gọi là Hải Triều, được hình thành vào thời Lê bởi cư dân từ Tuần Châu và Hải Dương đến khai hoang lấn biển. Đến đầu thế kỷ XIX, làng đổi tên thành Hải Yến.
Đình Hải Yến ở Quảng Ninh
Xây dựng vào thời Hậu Lê, đình Hải Yến là kết quả sự đóng góp công sức và tài chính của người dân trong làng. Qua nhiều lần trùng tu, đặc biệt vào năm 1815 và 1963, đình vẫn giữ được vẻ đẹp kiến trúc cổ xưa với kết cấu gỗ, mái ngói vẩy cong vút như những mũi thuyền.
Đình thờ ba vị thần, trong đó nổi bật là “Đại Hải Phạm chi thần,” tức Phạm Tử Nghi, một võ tướng thời Mạc, được tôn vinh là Thành hoàng của làng. Những bức chạm trổ tinh xảo trên đình với hình ảnh rồng, hoa lá và tứ linh tạo nên bức tranh sinh động, phản ánh nghệ thuật kiến trúc đặc sắc của thời Hậu Lê. Đình Hải Yến không chỉ là di sản văn hóa quý giá mà còn là niềm tự hào của người dân địa phương.
Miếu Tiên Công hay Đền Thập cửu Tiên Công, tọa lạc tại thôn Cẩm Thành, xã Cẩm La, cách trung tâm thị xã khoảng 5 km. Đền thờ 17 vị tiên công “Thập thất Tiên Công” có quê ở phường Kim Hoa, phủ Hoài Đức, thành Thăng Long, những người đã có công trong việc quai đê lấn biển, thành lập khu đảo Hào Nam, trong đó có xã Cẩm La.
Ban đầu, miếu được xây dựng bằng nhà đất lợp tranh tre và chỉ thờ 19 vị Tiên Công vào năm 1434. Qua thời gian, miếu đã được nâng cấp và vào năm 1804, được xây dựng bằng gạch ngói kiên cố, mang kiến trúc kiểu chữ nhị. Với diện tích 2.912 m², miếu được bố trí thành ba gian, hai trái, mái lợp ngói mũi hài, hướng về phía Đông, bao gồm bái đường, sân, và nhà thờ tổ.
Kiến trúc trong miếu thể hiện rõ phong cách nghệ thuật thời Nguyễn và đã trải qua nhiều lần trùng tu, gần đây nhất là vào các năm 1994, 1946, 1931 và 1920. Miếu Tiên Công không chỉ là nơi tưởng niệm các vị tiên công mà còn là di sản văn hóa quý báu của địa phương, thể hiện lòng biết ơn của người dân đối với những bậc tiền nhân đã khai hoang lập ấp.
Trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc, những địa danh ghi dấu ấn mạnh mẽ về những năm tháng hào hùng không thể quên. Khu di tích Pò Hèn từng là đồn biên phòng 209, là một trong những địa danh quan trọng ấy. Nơi đây không chỉ là một di tích lịch sử, mà còn là biểu tượng của lòng dũng cảm và sự hy sinh.
Khu Di tích lịch sử Pò Hèn được xếp hạng di tích quốc gia
Khu di tích Pò Hèn bao gồm bốn điểm nổi bật: đài tưởng niệm liệt sĩ Pò Hèn, chốt đồi Quế, chốt trạm kiểm soát cửa khẩu Pò Hèn và đài quan sát đồi Tây. Đặc biệt, đài tưởng niệm cao 16m, được xây dựng bằng bê tông cốt thép, có hình ảnh ba bàn tay chụm vào nhau, tượng trưng cho ba dân tộc Kinh, Dao và Sán Chỉ cùng nhau gắn bó. Ngôi sao năm cánh giữa đài thể hiện khí phách kiên trung của cả đất và người nơi biên cương. Hai nhà bia bên cạnh ghi danh các cán bộ chiến sĩ đã hy sinh trong giai đoạn 1979-1991.
Hàng năm, vào ngày 17 tháng 2, đồn biên phòng Pò Hèn tổ chức lễ giỗ cho các liệt sĩ, nhắc nhớ thế hệ trẻ về tinh thần bất khuất. Khu di tích được tôn tạo vào năm 2010, nhân dịp kỷ niệm 110 năm sinh nhật Bác Hồ, đã trở thành “địa chỉ đỏ” trong giáo dục truyền thống yêu nước, khuyến khích thế hệ sau tiếp nối những trang sử vẻ vang của dân tộc. Đài tưởng niệm Pò Hèn sừng sững giữa núi rừng Đông Bắc, là biểu tượng cho khí phách anh hùng và lòng dũng cảm của những người đã ngã xuống để gìn giữ từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc.
Đền Xã Tắc được xây dựng vào đầu thế kỷ XIII dưới triều đại nhà Trần, là một nơi thờ phụng thần Đất và thần Nông, hai vị thần tượng trưng cho nền nông nghiệp lúa nước. Ngoài ra, đền còn được gọi là miếu Xã Tắc Đại Vương, thể hiện vai trò của vị thần bảo vệ và phù hộ cho vùng đất Móng Cái.
Trong tâm thức người Việt, thành hoàng không chỉ là người lập làng mà còn là biểu tượng của sự bảo vệ và an toàn cho dân cư. Cụm từ “sơn hà xã tắc” phản ánh ý nghĩa rộng hơn của xã tắc, biểu trưng cho non sông, đất nước.
Đền Xã Tắc, tọa lạc tại địa điểm sát biên giới, không chỉ đơn thuần là nơi thờ cúng mà còn là cột mốc linh thiêng giữ gìn xã tắc của Tổ quốc. Hiện nay, đền còn thờ các vị thần như Hưng Nhượng Đại Vương Trần Quốc Tảng và Cao Sơn Đại Vương, ghi nhớ công lao của những người khai khẩn vùng đất này.
Chùa Vạn Linh Khánh tọa lạc trên diện tích hơn 5.000m², có nguồn gốc lịch sử chưa được xác định rõ. Dựa vào bài minh trên chuông đồng đúc năm 1843, có thông tin cho rằng Linh Khánh Tự đã tồn tại từ năm 1754. Dù trải qua nhiều thăng trầm, các hiện vật thờ cúng và tượng pháp tại đây vẫn còn lưu giữ khá đầy đủ, chứng tỏ ngôi chùa này là một di sản văn hóa quan trọng ở vùng biên giới Việt - Trung.
Chùa Nam Thọ( Vạn Linh Khánh Tự) Xếp hạng Di tích cấp quốc gia
Chùa được xây dựng theo hình chữ Hồi, gồm các công trình chính như Tam quan, nhà Tổ, nhà Mẫu và nhà khách. Mặc dù nhiều lần được trùng tu, dấu ấn thời Lê đã phai mờ nhưng chùa vẫn lưu giữ 53 pho tượng cổ, trong đó nổi bật là 4 pho tượng Thích Ca sơ sinh và 2 pho tượng Quan Âm Tống tử. Các hiện vật và chạm khắc ở đây phản ánh tài năng của các nghệ nhân Việt Nam, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc.
Không chỉ là nơi thờ phụng, chùa Vạn Linh Khánh còn gắn liền với lịch sử đấu tranh bảo vệ Tổ quốc, thu hút nhiều phật tử và du khách tìm kiếm sự thanh tịnh và hiểu biết về giáo lý Phật giáo. Nơi đây tổ chức nhiều lễ hội lớn như lễ Phật Thích Ca, Vu Lan và lễ Phật A Di Đà, góp phần vào sự giao thoa văn hóa phong phú giữa các cộng đồng.
Được công nhận là di tích nghệ thuật cấp quốc gia vào năm 1999, chùa Vạn Linh Khánh không chỉ là một biểu tượng văn hóa mà còn là cột mốc khẳng định chủ quyền lãnh thổ tại vùng biên cương của Tổ quốc.
>> Nên xem: Tổng hợp những trải nghiệm đáng nhớ khi đi du lịch Việt Nam
Thương cảng Vân Đồn là một trung tâm giao thương sầm uất của Đông Á, Nhật Bản, Trung Quốc, Ấn Độ và nhiều quốc gia khác. Đã trải qua thời kỳ hưng thịnh dưới ba triều đại Lý, Trần và Hậu Lê trước khi bị lãng quên vào thời nhà Mạc. Di tích thương cảng này không chỉ ghi dấu công cuộc chống ngoại xâm mà còn phản ánh sự phát triển mạnh mẽ của hoạt động buôn bán, trao đổi hàng hóa.
Di tích thương cảng Vân Đồn – Thương cảng cổ xưa nhất Việt Nam
Năm 2003, Vân Đồn được công nhận là Di tích lịch sử quốc gia, với nhiều hiện vật quý giá từ các bến thuyền cổ. Đến năm 2021, tỉnh Quảng Ninh đã đề xuất công nhận quần thể di tích này là Di tích quốc gia đặc biệt. Ngày nay, dấu tích của thương cảng còn lại chỉ là những mảnh sành sứ, nền nhà và tiền cổ nhưng vẫn khẳng định vai trò quan trọng của hệ thống bến thuyền phân bố trên các đảo và ven biển, từ Móng Cái đến Hạ Long.
Trong hơn 700 năm tồn tại, Vân Đồn không chỉ là một bến cảng đơn lẻ mà còn là một mạng lưới các bến bãi, giúp giảm lưu lượng tàu thuyền và tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý. Các hiện vật được phát hiện, đặc biệt tại Cái Làng, cho thấy thương cảng đã từng là nơi trung chuyển hàng hóa phong phú, từ hương liệu, gốm sứ đến lâm thổ sản.
Hàng hóa tại Vân Đồn rất đa dạng, với những sản vật tự nhiên như hương liệu, sừng tê giác, ngà voi và vàng, ngọc trai, cùng đồ sứ nổi tiếng, được sản xuất tinh xảo thời Lý, không kém cạnh đồ sứ Trung Quốc. Đồ sứ triều Lý được ưa chuộng đến mức đã xuất khẩu sang tận Đông Ấn. Dưới thời Trần, đồ sứ tiếp tục phát triển với kiểu dáng khỏe khoắn, được cả thương nhân nước ngoài và vua chúa Trung Hoa yêu thích. Lụa và gấm vóc, dù không chiếm tỷ trọng lớn nhưng với chất lượng tinh tế và màu sắc rực rỡ, vẫn là mặt hàng được ưa chuộng tại thương cảng này.
Di tích Lịch sử Khu Lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh trên đảo Cô Tô ghi dấu sự kiện đặc biệt ngày 9/5/1961, khi Bác Hồ thăm đảo. Đây là nơi duy nhất trong cả nước được Người đồng ý dựng tượng khi còn sống, thể hiện sự gắn bó sâu sắc của Bác với vùng biển đảo.
Khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh trên đảo Cô Tô
Xây dựng từ năm 1968 và được công nhận là Di tích quốc gia năm 1997, khu lưu niệm đã trải qua nhiều lần tu sửa, mở rộng nhưng vẫn giữ nguyên giá trị lịch sử và văn hóa. Ngày 18/1/2022, Thủ tướng Chính phủ đã công nhận khu di tích là Di tích Quốc gia Đặc biệt.
Ngày nay, Khu lưu niệm không chỉ là điểm đến thu hút du khách mà còn là biểu tượng của niềm tự hào và tinh thần vững chắc cho cán bộ, chiến sĩ và nhân dân huyện đảo, góp phần tôn vinh di sản văn hóa và lịch sử của dân tộc.
Chùa Ngọa Vân, hay còn gọi là chùa am Ngọa Vân, mang ý nghĩa là "ngôi chùa nằm trên mây" với độ cao hơn 500m so với mực nước biển. Từ đây, bạn có thể ngắm nhìn cảnh sắc tuyệt đẹp của những dãy núi trập trùng và những áng mây trắng lượn lờ vào mỗi sáng sớm. Tựa lưng vào đỉnh Ngọa Vân, nơi quanh năm được mây bao phủ, chùa không chỉ là một công trình lịch sử mà còn là một thánh địa Phật giáo Trúc Lâm, nơi Phật hoàng Trần Nhân Tông từng tu hành.
Khu di tích gồm ba tầng với các di tích phong phú, từ những di tích dưới chân núi như rừng già Tàn Long đến những công trình trên sườn núi Bảo Đài. Đặc biệt, lớp thứ hai với kiến trúc hình chữ Nhị, được tôn tạo năm 2014, là nơi diễn ra nhiều lễ hội quan trọng. Ở tầng cao nhất, di tích Ngọa Vân nổi bật với vẻ đẹp huyền ảo, luôn được bao phủ bởi sương mù.
Không chỉ mang ý nghĩa lịch sử sâu sắc, chùa Ngọa Vân còn sở hữu khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp, với thảm thực vật đa dạng, nơi bạn có thể chiêm ngưỡng những loài cây cổ thụ và rừng trúc xanh mướt. Đây thực sự là một điểm đến lý tưởng cho những ai yêu thiên nhiên và muốn khám phá vẻ đẹp của núi rừng.
Khu di tích lịch sử nhà Trần tại Đông Triều là một quần thể ấn tượng bao gồm 14 di tích với 22 điểm tham quan như đền, miếu, lăng tẩm, am tháp và chùa. Tất cả đều mang đậm dấu ấn lịch sử của triều đại Trần và Thiền phái Trúc Lâm. Nơi đây nổi bật với nhiều công trình văn hóa quy mô lớn, tiêu biểu như Thái Miếu, đền An Sinh, hệ thống lăng miếu nhà Trần, chùa Quỳnh Lâm và chùa Ngọa Vân, tạo nên những biểu tượng kiến trúc mang tầm quốc gia.
Khu di tích lịch sử nhà Trần ở Đông Triều Quảng Ninh
Được xếp hạng là Di tích Quốc gia Đặc biệt theo Quyết định số 2383/QĐ-TTg ngày 9/12/2013, khu di tích không chỉ có giá trị kiến trúc mà còn là nơi lưu giữ nhiều di vật và cổ vật quý giá, phản ánh sâu sắc lịch sử, văn hóa và khoa học. Hơn thế, khu vực này còn duy trì nhiều hoạt động văn hóa dân gian độc đáo, góp phần làm phong phú thêm bản sắc văn hóa của vùng đất Đông Triều.
Khu di tích Yên Tử nổi tiếng với danh xưng "đất Phật linh thiêng", là một quần thể chùa chiền mang đậm lối kiến trúc truyền thống, thu hút du khách thập phương. Nằm trên núi Yên Tử hay còn gọi là núi Tượng Đầu, với độ cao 1.068 mét, khu vực này sở hữu hệ sinh thái phong phú và đa dạng.
Yên Tử không chỉ là nơi hội tụ các di tích lịch sử gắn liền với thiền phái Trúc Lâm mà còn là điểm đến tuyệt đẹp với cảnh quan núi non hùng vĩ và khí hậu trong lành. Nơi đây đặc biệt gắn liền với Phật hoàng Trần Nhân Tông, người sáng lập thiền phái và là vị vua đã hai lần dẫn dắt quân dân đánh bại quân Nguyên-Mông.
Khu di tích bao gồm các am, tháp, tượng và rừng cây cổ thụ, được tô điểm bởi các điểm cảnh quan kỳ vĩ như thác Ngự Dội, cổng Trời và đỉnh Yên Tử, nơi kiến trúc cổ truyền hòa quyện cùng thiên nhiên hùng vĩ. Được công nhận là Di tích Quốc gia Đặc biệt theo Quyết định số 1419/QĐ-TTg ngày 27/9/2012, Yên Tử đã trở thành một trong những điểm sáng của du lịch văn hóa và tâm linh tại Quảng Ninh.
Di tích Lịch sử Bạch Đằng tọa lạc tại Thị xã Quảng Yên và thành phố Uông Bí, là chứng nhân lịch sử cho chiến thắng lẫy lừng của quân và dân nhà Trần trước quân xâm lược Nguyên Mông vào năm 1288. Nơi đây ghi dấu ấn sâu sắc của trận Bạch Đằng, một sự kiện trọng đại trong công cuộc bảo vệ độc lập dân tộc.
Dẫu trải qua bao thăng trầm, những dấu tích của trận chiến vẫn còn hiện hữu, phản ánh tinh thần kiên cường của dân tộc. Di tích Bạch Đằng đã được công nhận là Di tích Quốc gia Đặc biệt theo Quyết định số 1419/QĐ-TTg vào ngày 27/9/2012, khẳng định giá trị văn hóa và lịch sử của nơi này trong lòng người dân và du khách.
Danh lam thắng cảnh Vịnh Hạ Long được công nhận là Di sản - Kỳ quan Thiên nhiên Thế giới, là minh chứng cho quá trình hình thành và phát triển của trái đất, đồng thời là nơi cư trú của người Việt cổ. Vịnh Hạ Long là một tác phẩm nghệ thuật vĩ đại của thiên nhiên, với hàng nghìn đảo đá muôn hình vạn trạng và nhiều hang động kỳ thú, tạo nên một thế giới vừa sống động vừa huyền bí.
Vịnh Hạ Long - Tác phẩm nghệ thuật của thiên nhiên
Được UNESCO công nhận hai lần với các giá trị nổi bật toàn cầu về thẩm mỹ vào năm 1994 và về địa chất-địa mạo vào năm 2000, Vịnh Hạ Long có diện tích 434 km² và sở hữu 775 hòn đảo đá vôi lớn nhỏ. Đây không chỉ là một di sản thiên nhiên mà còn là một biểu tượng văn hóa, được bảo tồn theo các quy định nghiêm ngặt. Gần đây, vào ngày 16/9/2023, quần thể Vịnh Hạ Long - Quần đảo Cát Bà cũng đã được UNESCO công nhận là Di sản Thiên nhiên Thế giới, khẳng định giá trị văn hóa và thiên nhiên đặc biệt của vùng đất này.
Núi Bài Thơ là một trong những ngọn núi cao nhất Hạ Long với độ cao 200 mét, nổi bật giữa thành phố nhờ cảnh sắc tuyệt đẹp. Một nửa ngọn núi nằm trên cạn, nửa còn lại vươn ra biển, tạo nên khung cảnh hùng vĩ. Từ đỉnh núi, du khách có thể thu trọn trong tầm mắt vẻ đẹp thơ mộng của vịnh Hạ Long, được công nhận là một trong bảy kỳ quan thiên nhiên thế giới.
Núi Bài Thơ – điểm đến không thể bỏ qua khi tới Hạ Long
Từng mang tên núi Tròn, Bài Thơ còn lưu giữ những dấu ấn lịch sử với 9 bài thơ khắc trên đá, bao gồm tác phẩm của Lê Thánh Tông từ năm 1468. Những bài thơ này không chỉ là di sản văn hóa quý giá mà còn là linh hồn của núi, khiến nơi đây trở thành niềm tự hào của người dân Hạ Long.
Trên đỉnh núi, lá cờ đỏ sao vàng tung bay, ghi dấu sự kiên cường của người dân trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Tấm bia đá khắc ghi những ký ức oai hùng của dân tộc cũng là điểm dừng chân không thể bỏ qua. Từ đây, du khách sẽ choáng ngợp trước bức tranh thiên nhiên hoàn mỹ, với làn nước trong xanh, núi non xanh mướt và những con tàu lướt sóng, tạo nên không gian yên bình và thư thái, giúp xua tan mọi lo âu.
Bài viết trên chia sẻ danh sách 27 di tích lịch sử ở Quảng Ninh dành cho bạn đọc tham khảo và có chuyến trải nghiệm thú vị. Mong rằng, thông tin sẽ hữu ích và giúp bạn có một chuyến khám phá ở Quảng Ninh thật tuyệt vời!
Quảng Ninh 3124 lượt xem
Ngày cập nhật : 04/11/2024
Thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh, cách Hà Nội khoảng 180 km, được mệnh danh là thiên đường du lịch miền Bắc. Với vị trí thuận lợi, cơ sở hạ tầng hiện đại và hệ thống giao thông phát triển, thành phố Hạ Long thu hút hàng chục triệu lượt khách du lịch trong và ngoài nước mỗi năm. Vịnh Hạ Long có diện tích 1.553 km vuông bao gồm 1.900 hòn đảo đá vôi lớn nhỏ với hình thù sinh động. Vịnh đã nhiều lần được UNESCO vinh danh là kỳ quan thiên nhiên thế giới và là điểm du lịch không thể bỏ qua. Thời tiết ở Hạ Long được chia thành hai mùa rõ rệt: mùa hè - từ tháng 5 đến tháng 10 và mùa đông - từ tháng 11 đến cuối tháng 4. Nhiệt độ trung bình hàng năm là 25ºC, khá lý tưởng cho các chuyến tham quan ngoài trời. Với thảm thực vật đa dạng và khí hậu thuận lợi, bạn có thể đi du lịch Vịnh Hạ Long vào bất kì thời điểm nào trong năm. Tuy nhiên, theo kinh nghiệm du lịch vịnh Hạ Long, bạn nên tránh thời điểm mưa bão vào tháng 7 và tháng 8 để chuyến đi được trọn vẹn nhất. Về chi phí di chuyển từ Hà Nội đến thành phố Hạ Long hoặc TP. Hồ Chí Minh đến Hạ Long, bạn có thể tham khảo dưới đây: Về chi phí lưu trú, tùy từng khu vực bạn chọn mà mức giá phòng sẽ có sự chênh lệch nhất định. Giá phòng Hạ Long thường dao động từ 200.000 VNĐ/đêm đến 2.000.000 VNĐ/đêm. Chi phí ăn uống cũng phụ thuộc vào số lượng món ăn mà bạn đặt, và số lượng người ăn. Tuy nhiên, nhìn chung, chi phí cho mỗi bữa ăn không quá cao. Nếu bạn ăn hải sản trong nhà hàng, chi phí từ 150.000 - 500.000 VNĐ/ người. Chi phí tham quan vinh Hạ Long rơi vào khoảng 250.000 VNĐ - 2.000.000 VNĐ tùy thuộc vào hình thức tham quan bạn lựa chọn. Thông thường, những người có kinh nghiệm du lịch vịnh Hạ Long tự túc, sẽ chọn tham quan vịnh bằng tàu thuyền với giá 250.000 VNĐ/ người. Có thể thấy, chi phí cho chuyến đi vịnh Hạ Long không cố định mà phụ thuộc vào lịch trình của cá nhân và nhu cầu vui chơi giải trí của từng du khách. Tuy nhiên, nếu bạn chọn du lịch tự túc thì chi phí phù hợp nhất để ăn uống, nghỉ ngơi và tham quan các địa danh trong khoảng 2 ngày sẽ rơi vào khoảng từ 3.000.000 VNĐ đến 5.000.000 VNĐ. Theo kinh nghiệm du lịch vịnh Hạ Long, có nhiều phương tiện di chuyển thuận tiện để tham quan mọi ngóc ngách của thành phố Hạ Long: Xe máy: Bạn có thể dễ dàng thuê xe máy để tự khám phá thành phố Hạ Long với giá cả hợp lý. Tuy nhiên, có nhiều du khách bạn nên hỏi trước giá thuê xe và ghi nhớ giờ trả xe để không bị “mất tiền oan”. Xe buýt: Hạ Long có hệ thống xe buýt kết nối các địa điểm du lịch nổi tiếng. Giá vé xe buýt trung bình ở thành phố Hạ Long khoảng 7.000 - 10.000 VNĐ/ chiều. Xe điện: Xe điện là phương tiện di chuyển khá phổ biến, đặc biệt là ở trung tâm và các điểm du lịch tại Hạ Long. Theo kinh nghiệm du lịch vịnh Hạ Long, giá vé xe điện khoảng 500.000 - 900.000 VND cho một chuyến. Bạn có thể sử dụng dịch này từ 7h đến 22h hàng ngày. Taxi: Đây là phương tiện di chuyển thuận tiện và phù hợp với hầu hết khách du lịch. Các địa điểm du lịch ở Vịnh Hạ Long không cách xa nhau nên chi phí đi lại bằng taxi không phải là vấn đề. Giá taxi ở Vịnh Hạ Long dao động từ 5.000 - 11.000 VNĐ/ km, tùy hãng xe và quãng đường di chuyển. Vịnh Hạ Long mang vẻ đẹp thiên nhiên hùng vĩ, thơ mộng với hàng nghìn hòn đảo lớn nhỏ và nhiều hang động độc đáo. Vịnh còn được UNESCO công nhận là kỳ quan thiên nhiên thế giới và thu hút lượng lớn khách du lịch hàng năm. Khi đi vòng quanh vịnh, bạn có thể chiêm ngưỡng những khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp như với những điểm đến tuyệt đẹp như hang Sửng Sốt, hòn Con Cóc, đảo Mắt Rồng, đảo Ti Tốp, đảo Ngọc Vừng,... Bãi biển Bãi Cháy là một bãi biển nhân tạo nằm cạnh vịnh Hạ Long. Đây là bãi biển đẹp nhất thành phố, với làn nước trong xanh, cát trắng mịn trải dài gần 1.000m. Theo kinh nghiệm du lịch vịnh Hạ Long, bạn có thể thỏa sức tắm biển, check in và trải nghiệm những trò chơi dưới nước. Nằm trên đảo Tuần Châu, khu du lịch Tuần Châu hấp dẫn du khách với không gian trang trí đẹp mắt và thơ mộng. Khi đến Tuần Châu, bạn nên tham gia buổi biểu diễn nhạc nước và vui chơi tại khu vui chơi ngoài trời hay công viên khủng long mới khai trương. Chèo thuyền Kayak nhàn nhã trên làn nước mát lạnh, ẩn mình sau dãy núi hang Luồng sẽ khiến bạn cảm thấy vô cùng thanh thản. Sau khi tham quan hang Luồng, bạn có thể đi bộ đến đảo Ti Tốp và ngắm hoàng hôn với bạn bè trên du thuyền. Bảo tàng Quảng Ninh được coi là mô hình thu nhỏ của tỉnh Quảng Ninh, nơi lưu giữ nét văn hóa và cuộc sống yên bình của người Hạ Long. Các bạn trẻ đi du lịch Quảng Ninh đều có những bức ảnh “để đời” tại điểm tham quan này.
Quảng Ninh 2614 lượt xem
Tháng 5 đến tháng 10
Đảo Tuần Châu là địa điểm du lịch nghỉ dưỡng siêu nổi tiếng tại thành phố Hạ Long, Quảng Ninh. Nằm cách trung tâm thành phố Hạ Long khoảng 2km, đảo có diện tích khoảng 400ha với nhiều cảnh quan, bãi biển, khu du lịch siêu đẹp cho du khách ghé thăm. Đảo Tuần Châu là địa điểm du lịch nghỉ dưỡng siêu nổi tiếng tại thành phố Hạ Long, Quảng Ninh. Nằm cách trung tâm thành phố Hạ Long khoảng 2km, đảo có diện tích khoảng 400ha với nhiều cảnh quan, bãi biển, khu du lịch siêu đẹp cho du khách ghé thăm. Đảo Tuần Châu là điểm du lịch biển tuyệt đẹp nên chắc chắn thời gian ghé thăm lý tưởng nhất sẽ là vào mùa hè rồi. Thời điểm từ tháng 3 đến tháng 10 sẽ là thời gian phù hợp nhất, lúc này trời thì trong xanh, nước biển xanh mát, bờ cát trắng cùng nắng vàng cực đẹp. Tuy nhiên bạn cần lưu ý là giai đoạn hè từ tháng 5 đến tháng 7 sẽ có nhiệt độ rất cao, có thể lên đến 40 độ C. Với những bạn có sức khoẻ yếu hay gia đình có trẻ con và người lớn tuổi nhớ cẩn thận. Du lịch mùa hè nhớ đừng quên mang theo các vật dụng tránh nắng cho mình nhé. Đến đảo Tuần Châu, bạn có thể tham gia các hoạt động như tắm biển. Tắm biển chắc chắn luôn là hoạt động đầu tiên khi đến khu vực đảo Tuần Châu. Với bãi biển nhân tạo siêu đẹp lên đến 5km, bãi cát trắng mịn, làn nước biển xanh mát thì biển Tuần Châu chắc chắn sẽ là liều thuốc tuyệt vời để quên đi những mệt mỏi thường ngày. Bạn có thể lao ngay xuống dòng nước biển mát lạnh kia, thỏa sức bơi lội tung tăng hay tham gia các hoạt động hấp dẫn. Ngoài ra bạn có thể tham gia chương trình nhạc nước Tuần Châu. Cung trình diễn nhạc nước đảo Tuần Châu là địa điểm biểu diễn nhiều chương trình nhạc nước kết hợp với ánh sáng cực kỳ hoành tráng. Nơi đây được thiết kế với kiến trúc rất đặc biệt lấy cảm hứng từ đầu trường La Mã. Diện tích Cung nhạc nước là 15ha với 12.000 chỗ ngồi. Các chương trình tại đây được đầu tư rất chuyên nghiệp, trung bình một buổi biểu diễn sẽ kéo dài khoảng 40 phút. Và còn nhiều hoạt động hấp dẫn khác.
Quảng Ninh 2314 lượt xem
Từ tháng 4 đến tháng 12
Cô Tô là một quần đảo gồm khoảng 50 đảo nằm ở phía đông của tỉnh Quảng Ninh với diện tích 46,2 km². Huyện đảo Cô Tô hiện có 1.500 hộ dân, với gần 6.000 nhân khẩu. Quần đảo Cô Tô có khoảng hơn 50 đảo, đá lớn nhỏ trong đó Cô Tô lớn và Cô Tô con là 2 đảo sở hữu những bãi biển đẹp nhất. Đây cũng là nơi có tiềm năng phát triển du lịch rất lớn. Đến với Cô Tô bạn có thể ghé qua các điểm sau đây. Đầu tiên, Bãi đá Cầu Mỵ. Đây là nơi được mệnh danh là thiên đường của tình yêu và tuổi trẻ giữa sóng nước Cô Tô. Toàn bộ khu vực có hình giống đuôi chuột, hướng ra biển, nằm phía Nam của đảo Cô Tô Lớn. Cầu Mỵ với hệ thống đá trầm tích được bào mòn qua hàng vạn năm bởi nước biển tạo ra một kì quan duy nhất trong các đảo của Việt Nam Ngoài bãi đá, các điểm cao để bạn có thể ngắm nhìn toàn cảnh khu vực cảnh quan này chắc chắn sẽ khiến bạn có cảm giác đang ở Địa Trung Hải. Tiếp theo là Hải Đăng Cô Tô, thuộc quần đảo phía Đông của đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh, nằm trên một ngọn núi cách thị trấn chừng 5km, là điểm cao nhất của đảo, được xây dựng từ cuối thế kỷ XIX. Đường từ chân núi lên hải đăng quanh co dưới những tán lá rừng rậm rạp, những rặng hoa sim tím, gập ghềnh sỏi đá trên con đường mòn ít người qua lại. Hải đăng Cô Tô có tầm nhìn sáng 118m so với mực nước biển, từ đây phóng tầm mắt ra xa ta có thể thấy xa xa đằng kia là biển ca bao la mất hút phía dưới chân trời, phía dưới là núi rừng bờ bãi, làn nước trong xanh của hòn đảo ngọc Cô Tô, thu vào tầm mắt thị trấn biển đẹp như mơ, xen lẫn những rừng cây xanh mướt, êm đềm những mái nhà khiêm nhường và giản dị. Du khách đến Cô Tô không thể bỏ lỡ trải nghiệm độc đáo này. Tiếp đến, Nhà thờ đảo Cô Tô Lớn thuộc khu 4, Giáo Xứ Cẩm Phả, Hạt Hòn Gai, Giáo Phận Hải Phòng, khánh thành ngày 28/05/2013. Đây là nhà thờ đầu tiên trên đảo được xây dựng nhằm phục vụ những giáo dân trên đảo. Nhà thờ này được xây dựng dưới chân một quả đồi với chiều dài là 26,7 m và chiều rộng là 9,8 m. Tuy đây là một nhà thờ nhỏ nhưng là nhà thờ duy nhất trên đảo, là một trong những điểm tham quan mà du khách ghé qua khi đến du lịch Cô Tô. Bên cạnh có còn một số địa điểm tuyệt với khác như: Bãi biển Hồng Vàn, Bãi tắm Vàn Chảy, Đảo Thanh Lân, Đảo Cô Tô con. Cũng như các bãi biển của các điểm du lịch khác, ở đảo Cô Tô bạn có thể mua hải sản tươi sống ngay trong buổi sáng đi về. Các ngư dân trên đảo thường đem hải sản mới đánh bắt được đi bán ở bến tàu để tiện cho khách du lịch. Những người bán hàng cũng sẽ đóng thùng và ướp đá hải sản cho bạn để bạn có thể đem về nhà mà không lo hải sản bị hỏng. Ngoài ra, ở Cô Tô còn có rất nhiều mặt hàng lưu niệm ấn tượng được làm từ các con sò, vỏ trai, ốc, bạn hoàn toàn có thể chọn cho mình những vật dụng đó về làm quà.
Quảng Ninh 2593 lượt xem
Từ tháng 3 đến tháng 10
Đảo Quan Lạn nằm trên vịnh Bái Tử Long, bao gồm xã Quan Lạn và xã Minh Châu thuộc huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh. Toàn đảo có diện tích 11km2, trải dài từ chân dãy núi Vân Đồn đến núi Gót với những dãy núi cao ở phía đông như bức tường thành vững chãi ngăn những cơn sóng để bảo vệ cho cư dân trên đảo. Các bạn có thể lựa chọn du lịch biển Quan Lạn vào mùa hè hoặc mùa thu đều được vì đây là thời điểm thời tiết mát mẻ, thuận lợi để các bạn có thể thỏa thích vui chơi và nghỉ dưỡng. Khoảng thời gian từ tháng 4 đến tháng 6 và từ tháng 9 đến tháng 11 được xem là khoảng thời gian đẹp nhất để đến với Quan Lạn. Bên cạnh đó bạn cũng nên lưu ý không nên đi vào tháng 7 và tháng 8 vì đây là khoảng thời gian hay xuất hiện mưa bão sẽ làm ảnh hưởng đến chuyến đi. Phương tiện di chuyển chủ yếu của khách du lịch khi tới đảo là xe tuk tuk. Mỗi chuyến xe chở được khoảng 8-10 người chạy vun vút trên những con đường nhỏ đến bãi tắm. Mức giá thông thường khoảng 100.000/chuyến. Bạn cũng có thể thuê xe đưa đón cả hành trình trong 2-3 ngày với mức giá khoảng 500.000đ Ngoài ra bạn cũng có thể thuê xe máy hoặc đi xe ôm để thăm thú đảo. Tuy nhiên giá xe ôm ở đây đắt gấp đôi so với đất liền bởi xăng dầu trên đảo phải chở từ đất liền ra nên các bạn cần phải cân nhắc kĩ. Đảo Quan Lạn thu hút khách du lịch với những bãi tắm đẹp cùng không gian trong lành, nước biển xanh mát và cực kỳ yên tĩnh chứ không xô bồ ồn ào như những bãi tắm khác. Quan Lạn có 3 bãi tắm bao gồm bãi Quan Lạn, bãi Minh Châu và bãi Sơn Hào. Tùy thuộc vào thời gian cũng như kinh phí ban đầu, các bạn có thể lựa chọn mang theo trại để cắm hoặc tìm hiểu về kinh nghiệm thuê khách sạn để tiết kiệm tối đa chi phí cho chuyến du lịch Quan Lạn của mình. Nếu thuê nhà nghỉ hay khách sạn thì tốt nhất các bạn nên đặt phòng trước để tránh tình trạng bị ép giá mùa cao điểm. Dịch vụ ăn uống ở Quan Lạn chưa được phát triển, vì vậy bạn nên đặt trước nếu không muốn bị đói. Ngoài ra nên đem theo đồ ăn sẵn cũng như nước bởi ở trên đảo không có nước ngọt. Một số loại hải sản ở Quan Lạn nổi tiếng là sá sùng, tu hài, ngao, cù kì, bề bài… là những món đặc sản mà bạn không thể bỏ qua khi tới đây.
Quảng Ninh 2330 lượt xem
Tháng 3 đến tháng 8
Bãi biển Trà Cổ là một trong những đường bờ biển đẹp nhất Quảng Ninh với chiều dài lên đến 15km. Bãi Trà Cổ nằm cách thành phố Móng Cái khoảng 8km và cách thành phố Hạ Long khoảng 200km. Trà Cổ nức tiếng với không gian thiên nhiên xinh đẹp, làn nước xanh mát cùng bờ cát vàng. Bãi biển Trà Cổ là một trong những đường bờ biển đẹp nhất Quảng Ninh với chiều dài lên đến 15km. Bãi Trà Cổ nằm cách thành phố Móng Cái khoảng 8km và cách thành phố Hạ Long khoảng 200km. Trà Cổ nức tiếng với không gian thiên nhiên xinh đẹp, làn nước xanh mát cùng bờ cát vàng. Du lịch biển thì chắc chắn chỉ có mùa hè là đỉnh nhất. Tại biển Trà Cổ thì thời gian lý tưởng nhất sẽ là từ tháng 4 đến tháng 7. Thời gian này bãi Trà Cổ sẽ mang đến cảnh quan siêu đẹp với làn nước trong vắt, sóng biển êm nhẹ, nặng không quá gắt nên rất phù hợp để tắm biển nha. Với các bạn muốn trải nghiệm các lễ hội tại bãi biển Trà Cổ thì nhớ đến đây vào tầm 25/5 đến 6/6 Âm lịch nhé. Lúc này nhiều hoạt động thú vị sẽ diễn ra như Lễ rước Thần, Lễ rước Thuyền, Lễ rước Ông Voi,... Ghé thăm biển Trà Cổ thì chắc hẳn điều đầu tiên mà ai cũng muốn làm chính là thả mình vào làn nước trong xanh của nơi đây. Bãi Trà Cổ gây ấn tượng sâu sắc với khung cảnh hoang sơ, làn nước biển xanh ngắt, sóng biển nhẹ nhàng êm dịu suốt mọi mùa khiến nhiều du khách nhìn là nhớ mãi. Dưới biển đã đẹp trên bờ lại càng tuyệt vời hơn, với bãi cát trắng mịn, nhiều rặng phi lao xanh mướt hay các dải muống biển xanh đã tạo nên một khung cảnh cực kỳ tuyệt vời. Vào thời gian sáng sớm hay xế chiều, biển Trà Cổ còn chiêu đãi du khách bằng khung cảnh bình minh và hoàng hơn siêu đẹp nữa. Thời điểm này, bạn sẽ thấy rõ biển Trà Cổ như đang khoác lên mình một lớp áo hoàn toàn mới vậy đó. Đặc biệt là khung cảnh hoàng hôn, vừa mang đến vẻ đẹp mê hôn vừa tạo ra cảm giác tiếc nuối khi chiêm ngưỡng. Bãi Đá Đen hay còn gọi bãi Ngọc Sơn, là một bãi biển nằm khá gần biển Trà Cổ. Đúng như tên gọi bãi Đá Đen sở hữu rất nhiều phiến đá màu đen với hình dáng đa dạng từ nhỏ cho đến lớn. Chúng nằm cạnh nhau trên bờ cát vào tạo thành một khung cảnh vừa bí ẩn lại vừa thu hút. Bên cạnh đó bãi Đá Đen còn có một bãi cát trắng mịn, làn nước xanh cùng khung cảnh hoang sơ tuyệt đẹp. Đến đây thì bạn sẽ còn tìm thấy các góc check-in siêu đẹp nữa nha.
Quảng Ninh 2280 lượt xem
Tháng 4 đến tháng 7
Đến với du lịch Quảng Ninh không ai là không biết đến bờ biển Bãi Cháy là một bờ biển nhân tạo với nhiều cảnh đẹp vô cùng hấp dẫn, thu hút lượng khách du lịch rất đông đảo vào mùa du lịch biển. Để giúp bạn có một chuyến đi du lịch thỏa thích vui chơi và phù hợp với ngân sách của mình thì có lẽ bài viết dưới đây sẽ giúp ích cho bạn rất nhiều. Là bãi biển rộng nhất thành phố Hạ Long, thu hút được mọi ánh nhìn của khách du lịch. Bờ biển nhân tạo nhưng trải dài hơn 1000m và rộng hơn 100m được thiên nhiên ban tặng một vẻ đẹp tuyệt vời với dòng nước trong xanh, bãi tắm sạch đẹp nên thu hút được đông đảo khách du lịch. Dọc theo bờ biển là một hàng thông kéo dài vô tận tạo ra không khí trong lành, bình an, thư giãn thoáng mát của gió biển kết hợp với cây xanh. Mọi khách du lịch trong và ngoài nước đến đây tham quan không chỉ tham quan, nghỉ ngơi thư giãn, tha hồ seofi, chụp ảnh, lướt web, đọc sách nằm trên bờ biển với dịch vụ wifi internet miễn phí mà còn được nghe truyền thuyết anh hùng chống giặc ngoại xâm của ông cha ta. Đặc điểm của bờ biển này là một dải đồi thấp chạy thẳng về xuống phía biển 2 bên bờ biển là những hàng cây thông cổ thụ và xem vào đó là những ngôi nhà biệt thự xinh xắn cùng dãy khách sạn Quảng Ninh nổi tiếng. Đến với nơi đây bắt đầu là một bãi biển trong xanh với một bờ cát trắng trải dài với hai bên là những hàng cây cổ thụ, những buổi hoàng hôn, bình minh thơ mộng, tạo nên cho du khách sự thoải mái, bình yên đến lạ thường. Ngoài ra tại đây còn phục vụ cho thuê xe đạp đi trên bờ biển, ô tô lướt sóng , thuê diều, các dịch vụ ăn uống đa dạng vô cùng độc đáo. Bên cạnh đó thì cầu Bãi Cháy cũng là một địa điểm du lịch mà du khách không thể bỏ qua khi tới đây. Là cây cầu có chiều dài 1106m nằm trên quốc lộ 18. Kết nối Hòn Gai và Bãi Cháy qua cửa sông Cửa Lục hai phần của Thành Phố Hạ Long. Cây cầu này cũng là biểu tượng cuả Quảng Ninh. Vào buổi tối, ban đêm cây cầu là chốn an yên của mọi gia đình đi bộ hóng gió trên cầu. Có lẽ lúc ấy sẽ xua tan đi mọi gánh nặng, lo âu của bộn bề cuộc sống để thả hồn mình vào những giây phút yên bình, sự khoan khoái thư giãn cùng với gió biển. Về tham quan du lịch Bãi Cháy không ai là không đi chợ đêm. Nơi chuyên bán, trưng bày những đồ lưu niệm, những quán đồ ăn hải sản nổi tiếng của nơi đây. Đặc biệt hơn đồ lưu niệm nơi đây đều tự tay người dân làm từ vỏ ốc, vỏ sò, chuông gió, những bức tranh vùng vịnh, và mĩ nghệ than đá – đặc sản của vùng. Chợ đêm bắt đầu họp lúc xế chiều, khi mặt trời tắt nắng mọi người bắt đầu trưng bày hàng hóa. Vì vậy có thể tắm biển xong đi ăn tối ở các quán ăn rồi chuẩn bị đi chợ đêm mua sắm đồ lưu niệm vui chơi là một ý kiến không tệ.
Quảng Ninh 2191 lượt xem
Tháng 4 đến tháng 10
Di tích Lịch sử Bạch Đằng nằm trên địa bàn Thị xã Quảng Yên và thành phố Uông Bí. Đây là địa điểm ghi dấu sự kiện quân và dân nhà Trần đã lập nên chiến thắng lẫy lừng - Chiến thắng Bạch Đằng, đánh tan quân xâm lược Nguyên Mông năm 1288. Trong lịch sử giữ nước của dân tộc ta, sông Bạch Đằng đã ba lần chứng kiến quân và dân ta chiến thắng oanh liệt quân xâm lược phương Bắc hùng mạnh đều bằng các cây cọc gỗ cắm xuống lòng sông Bạch Đằng. Đó là chiến thắng Bạch Đằng năm 938 của Ngô Quyền; năm 981 của Lê Hoàn và đỉnh cao là chiến thắng Bạch Đằng năm 1288 của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn. Sông Bạch Đằng đã trở thành dòng sông lịch sử, cọc Bạch Đằng đã trở thành biểu tượng truyền thống đánh giặc ngoại xâm bằng đường thủy của dân tộc Việt Nam. Trải qua hơn 700 năm do phù xa của sông bồi đắp, bãi cọc nằm sâu dưới các lớp bùn đất, mãi đến năm 1953 nhân dân đi đào đất đắp đê đã phát hiện ra những cây cọc Bạch Đằng. Lúc đầu người dân chưa có kiến thức và ý thức bảo vệ di sản văn hóa rất nhiều cọc đã bị nhổ lên làm xà nhà, cọc rơm. Sau nhiều lần khai quật, các nhà khảo cổ phát hiện hàng trăm chiếc cọc chủ yếu là gỗ lim, táu dài 2,6 đến 2,8 m, đường kính 20 đến 30 cm được cắm thẳng. Khoảng cách giữa các cọc trung bình từ 0,9 m đến 1,5 m. Khu di tích bãi cọc Bạch Đằng (gồm bãi cọc Yên Giang, bãi cọc Đồng Vạn Muối, bãi cọc Đồng Má Ngựa). Di tích bãi cọc Yên Giang diện tích khoảng 3.000m2 nằm ở cửa sông Chanh có hình chữ nhật dài khoảng 120m, chiều rộng khoảng 20m. Bãi cọc Yên Giang được xếp hạng Di tích Quốc gia đặc biệt vào năm 2012. Sau đó, di tích được khoanh vùng bảo vệ, dựng bia giới thiệu, tôn tạo đường vào tạo điều kiện thuận lợi cho du khách tham quan. Đây cũng là địa chỉ để các em học sinh đến tìm hiểu lịch sử, phục vụ việc học tập. Hiện bãi cọc Yên Giang còn khoảng trên 300 cây nằm trong lòng đất. Ở khu di tích, bãi cọc được bơm nước đầy mặt ao để bảo tồn. Gần bãi cọc Yên Giang là bãi cọc đồng Vạn Muối diện tích khoảng 6.000m2 nằm ở cửa sông Rút, thuộc phường Nam Hòa được nhân dân Quảng Yên phát hiện trong quá trình canh tác, đào ao. Sau lần khảo sát và khai quật năm 2005. Các cuộc khai quật khảo cổ học sau đó tìm thấy tổng cộng gần 200 cọc, cho thấy những cọc gỗ cắm đứng và cắm xiên trong khu vực đồng Vạn Muối thuộc nhiều loại gỗ được sử dụng cả thân và cành. Đường kính mỗi cọc từ 7 - 10 cm, phần được vạt nhọn chỉ khoảng 25 - 30 cm. Tuy nhiên, mật độ cọc ở đây được cắm rất dày, phổ biến cách nhau từ 40 - 60 cm, một số cọc chỉ cách nhau từ 10 - 30cm. Theo các nhà nghiên cứu, đây là nửa phía Nam của trận địa cọc Bạch Đằng, còn nửa phía Bắc là bãi cọc Yên Giang. Do giữa hai bãi cọc có một dải cồn đá cao, khi nước triều xuống thuyền không qua được buộc phải đi vào sát bờ. Vì vậy, Trần Hưng Đạo đã chọn vị trí cắm cọc ở hai bên cồn đá tạo thành một phòng tuyến hình chữ V bịt chặt lấy họng sông Bạch Đằng để chặn đường rút lui của quân địch tạo nên chiến thắng vẻ vang của trận chiến trên sông Bạch Đằng năm 1288. Bãi cọc sau đó được vùi lấp dưới lớp bùn để được bảo quản tốt hơn. Cũng trong địa phận phường Nam Hòa, thị xã Quảng Yên, bãi cọc đồng Má Ngựa diện tích khoảng 2.100m2 đã được phát hiện và tiến hành khảo sát, khai quật vào năm 2010. Đây là bãi cọc thứ ba thuộc bãi cọc Bạch Đằng nằm ở cửa sông Kênh, cách bãi cọc đồng Vạn Muối khoảng 1 km về hướng Nam. Bãi cọc có chiều dài 70 m, rộng 30 m, cắm cọc thuộc nhiều loại gỗ có đường kính từ 6 - 22 cm dày đặc thành dải như một lớp tường thành. Ba bãi cọc Yên Giang, Đồng Vạn Muối và Đồng Má Ngựa đã làm thành những bãi chông ngầm lớn, phức tạp, kín đáo dưới mặt nước khóa chặt đường tháo lui ra biển, giúp tiêu diệt và bắt sống 600 chiến thuyền với 4 vạn binh tướng quân Nguyên – Mông trong lần thứ ba chúng xâm lược nước ta năm 1288. Ngày nay, khu di tích bãi cọc Bạch Đằng ở thị xã Quảng Yên đã được đắp bờ bao bảo vệ xung quanh. Một số cọc đã được lấy lên và những cọc còn lại được bảo tồn trong hố trưng bày tại chỗ. Tuy nhiên, những cọc Bạch Đằng ở di tích này đa số phần đầu cọc nhô lên đã bị mục gẫy, phần thân cọc vẫn cắm dưới bùn đất nhưng đây lại là chứng tích vô cùng quan trọng của trận chiến lịch sử trên dòng sông Bạch Đằng năm 1288. Với những giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học đặc biệt của Khu di tích, ngày 27/9/2012, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định xếp hạng Khu di tích lịch sử Chiến thắng Bạch Đằng năm 1288 là Di tích Quốc gia đặc biệt. Lễ hội Bạch Đằng diễn ra từ ngày 6-9/3 âm lịch với nhiều nghi lễ trang nghiêm và các hoạt động lễ hội phong phú, được tổ chức tại tất cả các điểm trong khu di tích. Nhằm tôn vinh giá trị ngày đại thắng của dân tộc ta và tưởng nhớ những người đã hy sinh trong các trận chiến Bạch Đằng. Nguồn: Báo điện tử Quảng Ninh
Quảng Ninh 2899 lượt xem
Di tích lịch sử, khảo cổ học Hòn Hai Cô Tiên thuộc tổ 65, phường Bạch Đằng, thành phố Hạ Long. Từ năm 2001 đến nay, Bảo tàng Quảng Ninh phối hợp với Viện Khảo cổ học Việt Nam, Viện Bảo tàng lịch sử Việt Nam khảo sát, khai quật và đã phát hiện nhiều di vật mang dấu ấn đặc trưng của giai đoạn muộn của văn hóa Hạ Long (Hậu kỳ đá mới) đến giai đoạn Văn hóa Đông Sơn (Thời đại Kim khí) có niên đại cách đây từ 4.000 năm đến 2.000 năm. Tại đây, các nhà khoa học đã khai quật được 91 hiện vật, 1.000 tiêu bản khoa học gồm công cụ sản xuất, đồ dùng sinh hoạt, trang sức, tín ngưỡng... với các chất liệu gốm, xương, đá; một khu mộ táng với 46 di cốt người cổ, trong đó có những di cốt còn tương đối hoàn chỉnh. Các di cốt được chôn bó gối kèm theo đồ tùy táng. Bảo tàng Quảng Ninh còn thám sát 4 vị trí ở khu vực thung lũng và chân núi, đã thu được 294 hiện vật, trên 20.000 tiêu bản khoa học gồm các chất liệu đồng, đá, xương, gốm như: lưỡi câu, rìu, đục, đồ trang sức. Tại đây, các nhà khoa học đã phát hiện được nhiều mảnh khuôn đúc đồng của Văn hóa Đông Sơn cùng những mảnh xỉ đồng dùng để đúc rìu, mũi giáo, lao... Tại khu vực I, Bảo tàng Quảng Ninh còn phát hiện được một quần thể San hô hóa thạch có thể là thuộc kỷ Devon - Cacbon (cách ngày nay khoảng 400 triệu năm). Cùng với giá trị khảo cổ, Di tích Hòn Hai Cô Tiên còn có rừng nguyên sinh núi đá với nhiều loài linh trưởng quý, bò sát như khỉ lông vàng, kỳ nhông, tắc kè... và một hệ thực vật phong phú đặc hữu của rừng núi đá như chè dây, Phất Dụ núi, Phong lan Hạ Long, Hài vệ nữ hoa vàng, Thiên tuế Hạ Long... Việc công nhận di tích Hòn Hai Cô Tiên là Di tích quốc gia đã góp phần nâng cao giá trị văn hóa của Di sản thế giới Vịnh Hạ Long và vị trí lịch sử quan trọng của Quảng Ninh với nền văn hóa cổ Hạ Long, trong vùng Đông Bắc của Việt Nam. Đồng thời, di tích còn tạo ra một sản phẩm du lịch văn hóa độc đáo ngay trong thành phố Hạ Long. Nguồn: Sở văn hoá thể thao tỉnh Quảng Ninh
Quảng Ninh 2762 lượt xem
Trong lịch sử, Yên Tử luôn là một trong những trung tâm Phật giáo của cả nước, gắn với nhiều kiến trúc cổ, được xây dựng qua các thời kỳ lịch sử khác nhau (Lý, Trần, Lê, Nguyễn). Về địa lý, Yên Tử là dãy núi thấp, thuộc hệ thống cánh cung Đông Triều, một vùng địa chất được hình thành từ kỷ Đệ tứ, với các loại đá gốc, như sa thạch, sỏi kết sạn và phù sa cổ… Địa hình, địa chất phức tạp của khu vực đã kiến tạo nên các điểm cảnh quan kỳ vĩ, như thác Ngự Dội, thác Vàng, thác Bạc, cổng Trời, đường Tùng, rừng trúc, đỉnh núi Yên Tử…, nơi có những kiến trúc cổ truyền như hòa mình vào thiên nhiên hùng vĩ. Khu vực Yên Tử có tổng diện tích tự nhiên khoảng 2686 hétta, trong đó có 1736 hétta rừng tự nhiên, đặc trưng cho hệ sinh thái rừng Đông Bắc, nơi còn bảo tồn được nhiều nguồn gen động, thực vật quý hiếm... Xen kẽ với thiên nhiên là hệ thống chùa, am, tháp… Ven lối dẫn lên các chùa, am, tháp thường trồng rất nhiều tùng. Trong khu vực này hiện còn khoảng hơn 200 cây tùng đại thụ, thuộc 4 nhóm quý hiếm, được trồng cách đây khoảng 700 năm. Ngoài đường tùng cổ thụ, rừng trúc ở đây cũng nổi tiếng từ ngàn xưa... Trúc là sản phẩm độc đáo của Yên Tử, tượng trưng cho sức sống dẻo dai, vẻ đẹp thanh bạch và tao nhã của tạo hóa. Có lẽ, đó cũng chính là lý do mà Trần Nhân Tông đã chọn nơi đây để tu hành và lấy tên "rừng Trúc", tức Trúc Lâm, để đặt tên cho dòng Thiền do ông sáng lập. Hội Yên Tử là lễ hội hành hương vào mùa xuân, bắt đầu từ ngày 10 tháng Giêng hằng năm và kéo dài suốt 3 tháng mùa xuân. Khu vực Yên Tử bao gồm một số địa điểm và kiến trúc Phật giáo chính như: 1. Chùa Bí Thượng xưa được khởi dựng từ thời Hậu Lê, trên mặt nền kiến trúc hình chữ Nhất, từng được trùng tu, tôn tạo nhiều lần trong lịch sử. Thờ Thập bát La Hán. 2. Chùa Suối Tắm Được dựng dưới chân núi, sát bên bờ suối Tắm. 3. Chùa Cầm Thực Nằm về bên trái con đường vào Yên Tử. 4. Chùa Lân và Chùa Giải Oan đều được dựng từ thời Trần. 5. Cụm tháp Hòn Ngọc nằm trên một gò đất khá rộng, bằng phẳng, gồm ba tháp đá và một tháp gạch. 6. Vườn tháp Huệ Quang nay chỉ còn 64 ngọn tháp và mộ, trong đó có 40 tháp mới được trùng tu năm 2002, 11 tháp đá, 13 tháp gạch, một số ngôi tháp đã bị đổ chỉ còn lại dấu tích. 7. Chùa Hoa Yên được dựng từ thời Lý và được tôn tạo nhiều lần trong lịch sử. Chùa tọa lạc trên lưng chừng núi, quay hướng Tây Nam. 8. Am Thiền Định xưa vốn là một ngôi tháp cổ đặc biệt ở Yên Tử, đứng đơn lẻ một mình, phía sau chùa Hoa Yên. Tháp xây bằng gạch đỏ tráng men xanh, bề mặt đúc nổi nhiều hoa văn và mặt thú lạ. 9. Chùa Một Mái nằm nép mình bên sườn núi cao. Một nửa chùa ẩn sâu trong hang núi, nửa còn lại phô ra bên ngoài và chỉ có một mái. 10. Am Thung và Am Dược hiện nay chỉ còn là các phế tích. 11. Chùa Bảo Sái nằm trên sườn núi, quay hướng Tây Nam. 12. Chùa Vân Tiêu toạ lạc trên sườn núi. Hai bên chùa có 2 dãy núi cao, tạo thành thế tay ngai bao bọc lấy chùa. Bên phải chùa có một dòng suối. 13. Chùa Đồng nằm trên đỉnh cao nhất của núi Yên Tử, được đúc từ chất liệu đồng. Những giá trị lịch sử - văn hóa đặc biệt của khu di tích đã đưa Yên Tử trở thành một chốn thiêng trong đời sống tinh thần của người Việt. Để khẳng định giá trị đặc biệt của di tích, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định xếp hạng Di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh Yên Tử là di tích quốc gia đặc biệt ngày 27/09/2012). Nguồn: Cục di sản văn hoá
Quảng Ninh 2731 lượt xem
Đền Cửa Ông (còn gọi là Đông Hải linh từ hay đền Đức Ông) nằm trên địa bàn phường Cửa Ông, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh. Đền thờ thần chủ là Quốc Khảo Hưng Nhượng Đại Vương Trần Quốc Tảng, ngoài ra còn phối thờ Cửu Thiên Vũ Đế Quốc Phụ Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương cùng gia thất và các tướng lĩnh của Ngài. Qua sử sách ghi chép có thể khẳng định đền Cửa Ông được khởi dựng, tồn tại qua hơn 100 năm. Lúc khởi dựng, đền chỉ là một thảo am nhỏ làm bằng tranh, tre, lứa lá; năm 1907 – 1916, đền được trùng tu lại; năm 1916, xây thêm đền Thượng, đền Trung, đền Hạ, chùa; năm 1946, đền Hạ, đền Thượng tiếp tục được tu bổ, tôn tạo; năm 2014, quy hoạch tổng thể khu di tích Đền Cửa Ông được phê duyệt với diện tích 18,125 ha; đến năm 2016, đền Trung được xây dựng và hoàn thành vào năm 2017. Ngoài ra, còn có đền Cặp Tiên (nhân dân gọi là đền “Cô bé Cửa Suốt”) được tạo dựng vào thời Nguyễn. Đền Cửa Ông lúc đầu khởi dựng chỉ thờ Trần Quốc Tảng, sau khi xây thêm các khu đền Hạ, đền Trung và đền Thượng, chùa Cẩm Sơn... cụ thể như sau: Khu vực đền Hạ: gồm đền Mẫu và đền Trung Thiên Long Mẫu Đền Mẫu: thờ tam tòa Thánh Mẫu (Mẫu Thượng thiên, Mẫu Thượng ngàn, Mẫu Thoải phủ), Ngọc hoàng thượng đế, Nam Tào, Bắc Đẩu, Tứ vị chầu bà, Ngũ vị tôn ông, ông Hoàng Mười, ông Hoàng Bơ, ông Hoàng Bẩy. Đền Trung Thiên Long Mẫu: thờ Trung Thiên Long Mẫu và phối thờ ba cô, cậu bé Cửa Suốt, cô bé Cửa Suốt (hai vị giống như Kim Đồng, Ngọc Nữ, tượng trưng cho âm và dương luôn theo hầu bảo hộ mẫu, bảo vệ vùng đất, vùng biển Cửa Suốt, bảo vệ ngôi đền mà Trung Thiên Long Mẫu tọa lạc). Hiện, đền Cửa Ông còn lưu giữ đạo sắc phong cho xã Cẩm Phả, huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Yên, phụng thờ Trung Thiên Long Mẫu tôn thần, ghi ngày 18 tháng 3 năm Khải Định thứ 2 (1917). Bia đá ở đền Hạ dựng vào năm Mậu Tý (1948). Khu vực đền Trung: thờ Khâm Sai Đông Đạo Tiết Chế Hoàng Cần, người có công dẹp giặc ngoại xâm phương Bắc, trấn giữ vùng biển Đông. Tại đây, còn thờ Sơn thần, Thủy thần vì đền Trung nằm trên dãy núi Cẩm Sơn, phía trước là biển Đông, người dân ở khu vực cửa biển cũng như thuyền bè qua lại đều cầu mong sự phù trợ, giúp sức của các vị Sơn thần, Thủy thần. Khu vực đền Thượng: gồm đền Thượng, đền Quan Châu, đền Quan Chánh, chùa và lăng mộ Trần Quốc Tảng. Đền Thượng: thờ thần chủ là Quốc Khảo Hưng Nhượng Đại Vương Trần Quốc Tảng, ngoài ra còn phối thờ Cửu Thiên Vũ Đế Quốc Phụ Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương cùng gia thất và các tướng lĩnh của Ngài. * Hưng Nhượng Đại Vương Trần Quốc Tảng (1252 - 1313) Ông là vị anh hùng dân tộc, con trai thứ 3 của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Hiện nay, một số sắc phong cho Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng vẫn còn được lưu giữ tại đền khẳng định công trạng của Ông, cũng như lịch sử hình thành, tồn tại của đền Cửa Ông. Ngoài thần tích, thần sắc, sắc phong ghi chép về Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng, tại đền Cửa Ông còn lưu giữ được bia đá, biển gỗ, hoành phi, câu đối mà qua đó đã xác định được thần chủ chính của đền là Quốc Khảo Hưng Nhượng Đại Vương Trần Quốc Tảng. * Đồng thời, tại đền Thượng còn phối thờ các nhân vật lịch sử như: - Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn: Hưng Đạo Đại Vương sau khi giúp nhà Trần đánh đuổi giặc Nguyên xâm lược, trừ đại họa cho dân tộc, được nhân dân sùng kính, sau khi mất trở thành Thượng Tiên Cửu Thiên Vũ Đế. - Tướng công Phạm Ngũ Lão; Dã Tượng; Yết Kiêu; Nguyễn Khoái; Huyền Du; Cao Mang; Đỗ Hành; Hưng Vũ vương Nghiễn, Hưng Trí vương Hiện, Hưng Hiến vương Uất; Trần Bình Trọng; Phạm Ngộ; Trần Thì Kiến; Trần Quang Triều; Trần Quốc Toản; Hà Đặc; Trương Hán Siêu; Lê Phụ Trần; Nguyễn Địa Lô; Trần Khánh Dư; Đỗ Khắc Chung; Vi Hùng Thắng; Nguyễn Chế Nghĩa; Thánh Mẫu Thiên Thành (Nguyên Từ Quốc Mẫu); Quyên Thanh công chúa (Vương Cô Đệ Nhất); Đại Hoàng công chúa; Thuận Thánh (Bảo từ Hoàng hậu) Đền Quan Chánh: thờ Quan Chánh, Quan Tuần Tranh và Quan Giám Sát. Đền Quan Châu: thờ Quan Tri Châu cai quản khu vực châu Cẩm Phả. Lăng Mộ: căn cứ vào thần tích, thần sắc làng Cẩm Phả, tổng Cẩm Phả, huyện Cẩm Phả, tỉnh Quảng Yên, chép vào năm 1938, thì lăng mộ Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng chỉ mang tính tượng trưng, là nơi thể hiện lòng thành kính của nhân dân đối với Ngài, cũng như của người con đối với người cha. Chùa: thờ Phật, Ngọc Hoàng Thượng Đế, Nam Tào, Bắc Đẩu,Quan Âm Tống Tử, Tuệ Trung thượng sĩ, Đức Chúa Ông, Đức Thánh Hiền...như các ngôi chùa truyền thống khác của Việt Nam. Đền Cặp Tiên: thờ một vị tiểu thư - con gái của Trần Quốc Tảng (còn gọi là “Cô bé Cửa Suốt”), quan Chánh và các vị nhân thần, sau đó lại thờ thêm Phật, Ngọc Hoàng, Nam Tào, Bắc Đẩu, Tiên Thiên Thánh Mẫu. Các thần tích, thần sắc, sắc phong cho các vị thần còn được lưu giữ tại đền Cửa Ông trở thành kho tư liệu lịch sử quý giá cho các thế hệ con cháu tìm hiểu về quá trình dựng nước và giữ nước của triều Trần. Khu di tích đền Cửa Ông đã trải qua các cuộc chiến tranh và thăng trầm của lịch sử, nhưng vẫn bảo lưu được nhiều kiến trúc cổ kính (tường hồi hai bên ống muống và Hậu cung) và các pho tượng cổ có niên đại từ thế kỷ XIX. Với giá trị đặc biệt trên, Di tích lịch sử Đền Cửa Ông đã được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là Di tích quốc gia đặc biệt ngày 25/12/2017. Nguồn: Cục di sản văn hoá
Quảng Ninh 2655 lượt xem
Khu di tích lịch sử nhà Trần ở Đông Triều thuộc các xã An Sinh, Tràng An, Bình Khê, Thủy An. Hiện nay đây là khu di tích lưu giữ nhiều dấu ấn nhất của nhà Trần hiển hách. Năm Ất Dậu 1225 Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh, đánh dấu sự chuyển giao quyền lực từ nhà Lý sang nhà Trần. Từ đây nhà Trần trị vì đất nước trong 175 năm, với 12 đời vua, đã tạo nên triều đại hiển hách bậc nhất trong lịch sử nước ta. Triều Trần (1225 – 1400) với võ công, văn trị, đã mở ra kỷ nguyên hào hùng trong lịch sử dựng và giữ nước. Theo tư liệu, vùng Đông Triều chính là đất tụ cư đầu tiên của họ Trần. Sau đó, vùng đất này được vua Trần Thái Tông ban cho anh trai Trần Liễu làm ấp thang mộc. Đối mới mỗi triều đại khi trị vì đều quan tâm đến hai vấn đề, duyên trạch là vùng đất định đô, âm trạch là nơi đặt thái miếu lăng tẩm. Bên cạnh Thăng Long tiếp tục được lựa chọn làm kinh đô, thì nhà Trần cũng cho xây dựng và phát triển hai trung tâm văn hóa, hai khu sơn lăng ở phía đông và nam kinh thành. Nhiều nhà nghiên cứu đã nhận định Đông Triều là trung tâm văn hóa tín ngưỡng lớn, cùng với Thăng Long – trung tâm chính trị, kinh tế và Thiên Trường Long Hưng, nơi phát tích của nhà Trần. Tên cổ của Đông Triều là An Sinh, đến đời vua Trần Dụ Tông mới đổi tên, và trở thành khu di tích lịch sử nhà Trần hiện nay. Đây là khu di tích quốc gia đặc biệt gồm lăng mộ, đền, chùa, am tháp với 14 di tích trải rộng. Đây là vùng thánh địa linh thiêng mang đậm tinh thần lịch sử, văn hoá là nơi quê gốc nhà Trần. Từ thế kỷ 13, nhà Trần cho xây dựng Thái Miếu, thờ tự Tam tổ thánh Trần, là điểm di tích quan trọng bậc nhất. Đến cuối thế kỷ 14, nhiều lăng mộ vua Trần mới được di chuyển về Đông Triều. Khu di tích lịch sử nhà Trần bao gồm 3 nhóm, nhóm di tích đình miếu, nhóm di tích lăng tẩm và nhóm di tích chùa tháp. Đền miếu và lăng tẩm gắn với tông miếu của nhà Trần. Cùng với việc xây dựng lăng mộ, triều Trần còn xây dựng đền miếu để thờ cúng các bậc tiền đế, chùa chiền cũng theo đó mọc lên không ít. Nhưng khi ấy Đông Triều chỉ đóng vai trò khu sơn lăng, chưa trở thành trung tâm Phật giáo của Đại Việt. Phải đến khi vua Trần Nhân Tông xuất gia lên núi Yên Tử tu hành và sáng lập nên dòng thiền phái Trúc Lâm. Ông đã thống nhất các thiền phái tồn tại trước đó và toàn bộ giáo hội Phật giáo đời Trần về một mối. Vào thời kỳ này, Đông Triều trở thành trung tâm Phật giáo quan trọng. Các đời vua Trần đã cho xây dựng ở đây hệ thống đền miếu, lăng mộ, chùa tháp dày đặc trong vùng cảnh quan có diện tích rộng lớn trải dài lên tận sườn núi Yên Tử. Chùa Ngọa Vân Hồ Thiên là nơi Đức vua Phật hoàng Trần Nhân Tông đăng đàn thuyết pháp, cũng là nơi gắn liền với sự nghiệp hoằng hóa Phật Giáo của nước Đại Việt, đào tạo những vị sư ở cấp độ cao hơn. Trên chùa Hồ Thiên còn có ngọn tháp đá 7 tầng mà đến nay kiến trúc của ngôi tháp vẫn là bí ẩn đối với các nhà nghiên cứu, thu hút nhiều nhà nghiên cứu, người yêu thích lịch sử khắp nơi tìm đến tham quan, nghiên cứu. Chùa Quỳnh Lâm được coi là trường đại học Phật giáo đầu tiên của Việt Nam, sở hữu tượng Phật một trong An Nam tứ đại khí. Vườn tháp trong chùa và tháp đá mộ các thiền sư có kiến trúc độc đáo, một di sản văn hoá tiêu biểu không chỉ của tỉnh Quảng Ninh mà là của cả Việt Nam. Trải qua thời gian, thiên tai hủy hoại, chiến tranh tàn phá, nhiều công trình xưa ở khu di tích lịch sử nhà Trần ở Đông Triều chỉ còn là phế tích. Tuy vậy những phế tích đó trong lòng người dân vẫn còn vẹn nguyên giá trị. An Sinh xưa, Đông Triều nay là nơi các vua nhà Trần thể hiện tư tưởng lá rụng về cội của dân tộc Việt. Những thứ còn hiện hữu hay cả những thứ chỉ còn trong lòng đất vẫn là di sản vượt thời gian không chỉ mang giá trị lịch sử của vương triều vang danh mà còn là minh chứng cho 700 năm tồn tại của nền Phật giáo thuần Việt. Nguồn: Báo du lịch Quảng Ninh
Quảng Ninh 2486 lượt xem
Theo các nhà khoa học, vùng Hạ Long và vùng rìa bờ, đảo phụ cận của vịnh, bao gồm nhiều hệ tầng trầm tích lục nguyên và cacbonat, có tuổi từ nguyên đại Cổ sinh đến Tân sinh. Nhiều hệ tầng trầm tích ở khu vực này chứa đựng các vết tích cổ sinh vật dưới các dạng hoá thạch khác nhau, trong đó có những nhóm ngành động, thực vật đã tuyệt diệt hoàn toàn hoặc gần như hoàn toàn trên trái đất. Lịch sử địa chất Vịnh Hạ Long, được mở ra từ khoảng gần 500 triệu năm trước đây, với những hoàn cảnh cổ địa lý hết sức khác nhau và khá phức tạp. Sự hiện diện của vịnh và những hòn đảo trên vịnh là những minh chứng độc đáo về lịch sử phát triển của trái đất, bao gồm đặc điểm địa chất và quá trình vận động, phát triển liên tục của dạng địa hình Karst, hệ Fengcong và Fengling. Địa hình đặc biệt của vịnh Hạ Long có liên quan chặt chẽ tới lịch sử khí hậu và quá trình vận động kiến tạo của trái đất. Những hòn đảo ở đây là mẫu hình khá lý tưởng về Karst hình thành trong điều kiện nhiệt đới, ẩm. Toàn bộ khu vực Vịnh Hạ Long là một cảnh quan Karst qua nhiều triệu năm, với các tháp Karst hình chóp, hình tháp, bị bào mòn, tạo nên cảnh đẹp nổi bật, độc đáo toàn thế giới. Thạch nhũ trong hang động trong khu Vịnh có tuổi trẻ hơn các hang động. Nước mưa theo các khe nứt trên trần hang động và vách chảy xuống, trên đường đi chúng hoà tan, bào mòn đá vôi và lắng đọng thành nhũ đá ở trần, măng đá ở nền… Hàng ngàn hòn đảo, hàng chục hang động đẹp đã tạo nên giá trị thẩm mỹ của Vịnh. Vẻ đẹp của Hạ Long được tạo nên từ 3 yếu tố: đá, nước và bầu trời. Hệ thống đảo đá ở Hạ Long muôn hình vạn trạng quyện với trời biển, tạo ra một bức tranh thủy mặc. Phía trong những đảo đá lớn lại hấp dẫn bởi những hang động đẹp đẽ, kỳ lạ. Hang Đầu Gỗ gợi cảm giác choáng ngợp, với những nhũ đá muôn hình dáng vẻ. Động Thiên Cung như một đền đài hoành tráng, mỹ lệ. Hang Bồ Nâu có cửa uốn vòng cung, với vô số nhũ đá buông xuống mềm mại như cành liễu. Hang Sửng Sốt đẹp đến bất ngờ, với nhũ đá mang hình hài của gà rừng, cóc, rồng, thác nước, cùng với nhiều hình hài khác, như mở ra một thế giới cổ tích. Những hang động như Tam Cung, Trinh Nữ, Ba Hang, Tiên Long,… mỗi hang có những vẻ đẹp độc đáo, kỳ thú. Lịch sử kiến tạo của vịnh Hạ Long đã trải qua những hoàn cảnh cổ địa lý rất khác nhau, nhiều lần tạo sơn, biển thoái, sụt chìm, biển tiến… Vịnh Hạ Long còn giữ lại được những dấu ấn của quá trình tạo sơn, địa máng vĩ đại của trái đất, có cấu tạo địa lũy, địa hào cổ. Khu vực Vịnh Hạ Long đã từng là biển sâu vào các kỷ Odovic - Silua (khoảng 500 - 410 triệu nẳm trước), là biển nông vào các kỷ Cacbon - Pecmi (khoảng 340 - 250 triệu năm trước), biển ven bờ vào cuối kỷ Paleogen, đầu Neogen (khoảng 26 - 20 triệu năm trước) và trải qua một số lần biển lấn trong kỷ Nhân sinh (khoảng 2 triệu năm trước). Vào kỷ Trias (240 - 195 triệu năm trước), khi trái đất nói chung, châu Âu nói riêng có khí hậu khô nóng, thì khu vực Vịnh Hạ Long là những đầm lầy ẩm ướt, với những cánh rừng tuế, dương xỉ khổng lồ tích tụ nhiều thế hệ… Địa hình Karst của vịnh Hạ Long có ý nghĩa toàn cầu và có tính chất nền tảng cho khoa học địa mạo. Môi trường địa chất còn là nền tảng phát sinh các giá trị khác của vịnh, như đa dạng sinh học, văn hóa khảo cổ và các giá trị nhân văn khác. Tổng số loài thực vật sống trên các đảo ở vịnh Hạ Long khoảng trên một nghìn loài. Một số quần xã các loài thực vật khác nhau đã được tìm thấy, như các loài ngập mặn, các loài thực vật ở bờ cát ven đảo, các loài mọc trên sườn núi và vách đá, trên đỉnh núi hoặc mọc ở cửa hang hay khe đá. Các nhà nghiên cứu của Hiệp hội Bảo tồn thiên nhiên Thế giới (IUCN) đã phát hiện 7 loài thực vật đặc hữu của vịnh Hạ Long. Những loài này chỉ thích nghi sống ở các đảo đá vôi của Vịnh Hạ Long, mà không nơi nào trên thế giới có được, đó là: thiên tuế Hạ Long, khổ cử đại tím, cọ Hạ Long, khổ cử đại nhung, móng tai Hạ Long, ngũ gia bì Hạ Long, hài vệ nữ hoa vàng. Theo thống kê, hệ sinh thái rừng kín thường xanh, mưa ẩm nhiệt đới ở Hạ Long, Bái Tử Long có: 477 loài mộc lan, 12 loài dương xỉ và 20 loài thực vật ngập mặn; đối với động vật cũng đã thống kê được 4 loài lưỡng cư, 10 loài bò sát, 40 loài chim và 14 loài thú. Những kết quả nghiên cứu, khảo cổ học và văn hóa học cho thấy, sự hiện diện của những cư dân tiền sử trên vùng vịnh Hạ Long từ khá sớm, đã tạo lập được những hình thái văn hóa cổ đại tiếp nối nhau, bao gồm văn hóa Soi Nhụ(trong khoảng 18.000 - 7.000 năm trước Công nguyên), văn hóa Cái Bèo (7.000 - 5.000 năm trước Công nguyên) và văn hóa Hạ Long (cách ngày nay khoảng từ 3.500 - 5.000 năm). Phương thức sống chủ yếu của chủ nhân Soi Nhụ là “bắt sò ốc, có cả hái lượm hoa quả, đào củ, rễ cây”, biết bắt cá mà chưa có nghề đánh cá. Di chỉ Cái Bèo là một trong những bằng chứng đầu tiên để có thể khẳng định, tổ tiên của người Việt cổ, từ rất sớm đã đương đầu với biển khơi và đã phát triển ở đây một nền văn hóa rực rỡ, là điểm hội tụ của nhiều yếu tố, sắc thái khác biệt vào một dòng văn hóa truyền thống rất lâu đời trong khu vực Việt Nam và Đông Nam Á: dòng văn hóa Cuội. Về phương thức cư trú và sinh sống của người Cái Bèo, ngoài săn bắt hái lượm, đã có thêm khai thác biển. Vịnh Hạ Long là khu vực có giá trị nổi bật toàn cầu, tiêu biểu nhất là các giá trị về thẩm mỹ, khoa học, lịch sử, khảo cổ... Năm 1962, khu vực vịnh Hạ Long được công nhận là di tích thắng cảnh cấp quốc gia. Năm 1994, vịnh Hạ Long được UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên thế giới về giá trị thẩm mỹ và được tái công nhận lần thứ 2, với giá trị ngoại hạng toàn cầu về địa chất - địa mạo vào năm 2000. Với những giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học và thẩm mỹ đặc biệt của vịnh, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định xếp hạng Danh lam thắng cảnh Vịnh Hạ Long là di tích quốc gia đặc biệt (Quyết định số 1272/QĐ-TTg, ngày 12/8/2009). Nguồn: Cục di sản văn hoá
Quảng Ninh 2434 lượt xem
Di Tích Danh Thắng, Đường Yên Tử, Thượng Yên Công, Khu Du Lịch Yên Tử, Thành Phố Uông Bí, Quảng Ninh, Việt Nam
Hiệp hội du lịch Quảng Ninh
Chỉ từ : Liên hệ
Giảm giá 0% Travelviet VIP
Giá cuối cùng : Liên hệ
Số 2 Đường Hoàng Quốc Việt khu ĐTM, Cái Dăm, P, Thành phố Hạ Long, Quảng Ninh.
Hiệp hội du lịch Quảng Ninh
Giảm giá 10% Travelviet VIP
SH 2-8 Times Garden đường 25/4 phường Bạch Đằng Bach Dang Ward, Ha Long Việt Nam
Hiệp hội du lịch Quảng Ninh
Giảm giá 10% Travelviet VIP
Ô Số 1, Lô 20, Hoàng Quốc Việt P.Bãi Cháy, Ha Long, Quảng Ninh.
Hiệp hội du lịch Quảng Ninh
Giảm giá 10% Travelviet VIP
Đỗ Sĩ Họa, Bãi Cháy, Thành phố Hạ Long, Quảng
Hiệp hội du lịch Quảng Ninh
Giảm giá 10% Travelviet VIP
Khu C, Cái Dăm, khu đô thị mới, Thành phố Hạ Long, Quảng Ninh
Hiệp hội du lịch Quảng Ninh
Giảm giá 10% Travelviet VIP
Số 87 Tổ 6 Khu 8 Đường Hải Đông, Phường Hồng Hải, Thành Phố Hạ Long
Hiệp hội du lịch Quảng Ninh
Giảm giá 10% Travelviet VIP