Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch Travelviet
Tải ứng dụng Travelviet
Vĩnh Phúc không chỉ nổi tiếng với cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp mà còn sở hữu nhiều di tích lịch sử mang giá trị văn hóa, tâm linh đặc sắc. Top các di tích lịch sử tại Vĩnh Phúc là những điểm đến lý tưởng cho du khách muốn tìm hiểu về truyền thống và dấu ấn lịch sử của vùng đất này. Cùng 63Stravel khám phá các địa điểm này nhé!
Lưu ngay các di tích lịch sử tại Vĩnh Phúc dưới đây để khám phá nếu có dịp ghé đến vùng đất này.
Địa chỉ: phường Tiền Châu, thành phố Phúc Yên.
Đình Đạm Xuyên là một công trình kiến trúc cổ kính, thờ ba vị thần là Cao Bi Hùng Thánh Hộ Quốc Đại Vương, Dương Uy Phấn Vũ Hộ Quốc Đại Vương và Bạch Ngọc Thủy Tinh Thần Nữ. Ngôi đình không chỉ là nơi tụ họp, gắn kết của cộng đồng mà còn mang đậm dấu ấn lịch sử và tín ngưỡng truyền thống của dân làng.
Đình Đạm Xuyên Xếp hạng Di tích cấp Quốc gia
Trải rộng trên diện tích 1.000m², đình Đạm Xuyên có cấu trúc hình chữ "Công" với ba khu vực chính: đại đình, hậu cung và hậu tế, được xây dựng bằng gạch vuông cổ và mái ngói mũi hài độc đáo. Nội thất đình với các cột và vì kèo bằng gỗ lim chắc chắn, trang trí công phu với họa tiết tứ linh (Long, Lân, Quy, Phụng) và chạm khắc "lộng" hình rồng cuốn mềm mại, uyển chuyển.
Ngoài ra, đình còn lưu giữ ba ngai thờ sơn son thếp vàng, câu đối cổ, kiệu bát cống, bia đá từ năm Tự Đức, cùng các sắc phong thời Nguyễn. Hằng năm, dân làng tổ chức lễ hội truyền thống vào ngày 10 tháng 8 Âm lịch, với nghi lễ rước kiệu và các trò chơi dân gian, tái hiện lại nét đẹp văn hóa đặc sắc của làng Đạm Xuyên.
Địa chỉ: huyện Yên Lạc, Vĩnh Phúc
Chùa Biện Sơn là ngôi chùa cổ kính tọa lạc trên gò đất cao 1,5 ha tại huyện Yên Lạc, Vĩnh Phúc, là di tích lịch sử cấp Quốc gia từ năm 1996. Trước đây, chùa được biết đến với tên gọi Độc Nhĩ (hay Núi Biện) gắn liền với dáng hình rồng uốn khúc độc đáo.
Dưới bóng cây cổ thụ rợp xanh, chùa Biện Sơn nổi bật với kiến trúc chữ Đinh đặc trưng thời Nguyễn, gồm bái đường, chính điện và Tam quan ba tầng 12 mái chạm trổ tinh xảo. Nét đặc sắc của chùa còn thể hiện qua tòa Bảo tháp đồng nguyên khối nặng 12 tấn, tôn trí tượng Phật Hoàng Trần Nhân Tông bằng ngọc xanh nguyên khối cùng hơn 40 pho tượng cổ mang phong cách tạo tác thời Lê.
Hằng năm, chùa đón đông đảo du khách đến tham quan, chiêm bái, đặc biệt trong lễ hội sông Loan - núi Biện. Nơi gìn giữ và lan tỏa bản sắc văn hóa độc đáo của vùng đất linh thiêng này.
Địa chỉ: TDP Minh Lương, thị trấn Thanh Lăng, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc.
Đền Thánh Mẫu với diện tích rộng 6.705m² và khu thờ tự 3.114m², được xây dựng từ lâu đời và mang đậm phong cách kiến trúc cổ kính. Đền có kiến trúc chữ Đinh, gồm 5 gian hai dĩ và hậu cung ba gian, tạo nên vẻ uy nghi và trang nghiêm. Bố cục tổng thể bao gồm cổng nghinh môn, nhà tiền tế, nhà hậu cung, nhà tả vu, nhà hữu vu và hệ thống sân vườn thoáng đãng.
Về Thanh Lãng thăm Đền Thánh Mẫu tỉnh Vĩnh Phúc
Điểm nhấn của đền là cổng nghinh môn với cột đồng trụ chạm trổ hình tứ phượng và chữ Hán tinh xảo. Bên trong, nhà tiền tế và hậu cung đều được xây dựng bằng gỗ, mái lợp ngói mũi hài, các chi tiết kiến trúc như con chồng, giá chiêng mang giá trị nghệ thuật cao.
Đền là nơi thờ Thánh Mẫu Triệu Thị Khoan Hòa - dòng dõi Vua Hùng thứ 18, từng làm thứ phi vua Vệ Dương Vương. Bà có 5 người con trai dũng mãnh và tinh thông võ nghệ, theo truyền thuyết được sinh ra từ 5 quả trứng của vị thần Vịt – một huyền tích kỳ bí gắn liền với tâm linh của người dân địa phương.
Địa chỉ: phường Nam Viêm, thành phố Phúc Yên, Vĩnh Phúc
Đình Khả Do được xây dựng từ thời Hậu Lê (1741) và là nơi thờ phụng Tam Giang Đại Vương - danh tướng phò Triệu Việt Vương, Minh Phi Hoàng Hậu - mẹ của Đức Tam Giang, và Tá Phụ Nương Tử - em gái của ngài, người phụ trách quân lương.
Ngôi đình mang đậm kiến trúc Hậu Lê, với kết cấu bề thế và nghệ thuật chạm khắc tinh xảo ở gian giữa. Tại đây, hình tượng rồng và các linh vật như long - ly - quy- phượng được chạm trổ khéo léo, biểu trưng cho ước vọng và quyền uy của con người nơi đây từ hơn 200 năm trước. Đặc biệt, tục lệ "mua Tư văn" của trai đinh làng thể hiện niềm tự hào và sự gắn bó với đình làng, cùng nét đẹp đạo lý và gia phong.
Đình Khả Do còn lưu giữ nhiều di vật quý giá như kiệu bát cống, án gian thờ, ngai thờ và các vật phẩm bằng giấy, đồng và sứ. Với những giá trị lịch sử và văn hóa độc đáo, đình Khả Do không chỉ là nơi thờ tự mà còn là dấu ấn văn hóa đặc sắc của cộng đồng.
Địa chỉ: thuộc thôn Thượng, xã Tuân Chính, tỉnh Vĩnh Phúc.
Chùa Hoa Dương (còn gọi là chùa Tuân Lộ) là một điểm đến tiêu biểu tại Vĩnh Phúc. Xây dựng từ thời Hậu Lê, ngôi chùa mang kiến trúc đồ sộ với mặt bằng hình chữ "CÔNG," bao gồm ba tòa chính: Tiền đường (7 gian), Thượng điện (4 gian) và Nhà tổ (5 gian). Trước chùa là cây bồ đề cổ thụ hàng trăm năm tuổi, cùng những loài cây như ngâu, lan, đại tạo nên không gian trầm mặc, uy nghiêm.
Chùa Hoa Dương – Ngôi chùa có lịch sử trên 300 năm tuổi ở Vĩnh Phúc
Điểm đặc sắc của chùa Hoa Dương nằm ở kiến trúc cột lim to, điêu khắc gỗ tinh xảo và hệ thống tượng Phật thuộc phái Đại thừa. Bộ tượng Tam Thế Phật, Di Đà tam tôn, Thích Ca cửu long cùng các vị Thánh hiền, Hộ pháp đều được tạc từ gỗ mít già, mỗi chi tiết đều công phu, sống động. Các bức y môn được chạm nổi hoa lá, chim muông tự nhiên, xen kẽ những “đại tự” và câu đối sơn son thếp vàng, vừa truyền tải triết lý Phật pháp vừa hòa quyện với tinh thần Nho học.
Địa chỉ: ở làng Cói, xã Hợp Thịnh, huyện Tam Dương, nay thuộc phường Hội Hợp, thành phố Vĩnh Yên.
Chùa Cói được xây dựng từ thế kỷ XII, nổi bật với kiến trúc cổ kính và giá trị văn hóa độc đáo. Đến thế kỷ XVIII, Nguyễn Danh Phương đã cho xây thêm hai tòa tháp bảy tầng, tạo nên một tổng thể kiến trúc hoàn chỉnh và có giá trị nghệ thuật cao. Nhờ đó, chùa Cói được trường Viễn Đông Bác Cổ xếp hạng là di sản văn hóa quý giá của Đông Dương vào năm 1939. Qua thời gian và chiến tranh, chùa nay chỉ còn lại một tháp xây bằng gạch Bát Tràng, được gắn kết bằng vôi vỏ sò trộn muối và mật mía, mang nét cổ kính, uy nghi.
Chùa Cói – vẻ cổ kính với tòa bảo tháp 7 tầng thời Hậu Lê
Khuôn viên chùa Cói bao gồm tam quan với hệ cột đá xanh kiên cố và mái đao cong vút uyển chuyển, gợi vẻ trang nghiêm giữa vòm lá xanh. Bên trong chùa còn lưu giữ 12 pho tượng cổ được điêu khắc tinh xảo từ gỗ, sơn son thếp vàng, đại diện cho phong cách điêu khắc cuối thế kỷ XVIII. Tháp Cói bảy tầng, cao 7,7m, với dáng tháp thanh thoát thu nhỏ dần từ chân đế đến đỉnh, là biểu tượng của kiến trúc Phật giáo cổ.
Tương truyền, tháp Cói được xây dựng trong thời kỳ khởi nghĩa của Quận Hẻo, như một dấu ấn lịch sử mang đầy màu sắc huyền thoại, khiến nơi đây trở thành điểm đến thu hút du khách trong và ngoài tỉnh tìm hiểu về di sản Phật giáo độc đáo của Vĩnh Phúc.
>> Tham khảo: Danh sách 22+ điểm du lịch tại Vĩnh Phúc nổi tiếng, đừng bỏ lỡ
Địa chỉ: thuộc thị trấn Hương Canh, Bình Xuyên, Vĩnh Phúc.
Đình Hương Canh được xây dựng gần 300 năm trước, vẫn đứng uy nghi, bền bỉ với thời gian, khoe bộ mái đồ sộ được lợp ngói mũi hài xếp tinh tế theo kiểu "vẩy rồng." Mái đình với các đầu đao cong vút và bờ nóc đắp thẳng tạo dáng như một cánh diều khổng lồ, vừa hoành tráng vừa uyển chuyển.
Ban đầu, đình có ba tòa kiến trúc xếp theo kiểu chữ “Vương" nhưng nay chỉ còn tiền tế và đại đình. Đại đình gồm 5 gian, dài 26m và rộng 13,5m, với hệ khung chắc chắn, giúp mái đình đứng vững mà không kém phần duyên dáng.
Kỹ thuật chạm trổ của nghệ nhân ở đây đạt đến độ tinh vi, biến các chi tiết dư thành những tác phẩm nghệ thuật sống động, như hình ảnh các đấu võ, bầu rượu túi thơ và bát tiên, tái hiện cảnh hội làng xưa. Đình Hương Canh là kiệt tác kiến trúc dân gian, thu hút du khách từ khắp nơi khi đến Vĩnh Phúc.
Địa chỉ: thuộc phường Trưng Nhị, thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc.
Chùa Báo Ân được xây dựng từ thế kỷ XII dưới triều vua Lý Cao Tông. Nằm trên đồi cao, nơi từng gọi là rừng Cấm, chùa có phong cảnh yên tĩnh, cây xanh bốn bề và gió lộng, tạo nên không gian thanh tịnh, đậm chất thiền.
Xưa kia, chùa Báo Ân là trung tâm Phật giáo lớn thời Lý – Trần với nhiều kiến trúc cổ. Trải qua biến cố lịch sử, nhiều hạng mục bị hư hại và đã được người dân trùng tu. Hiện nay, ngôi chùa được xây dựng lại khang trang nhưng vẫn lưu giữ nhiều di vật quý như tượng Tam thế, A Di Đà, Di Lặc và tấm bia đá Báo Ân từ năm 1209. Đây là bia đá thời Lý duy nhất còn lại ở Vĩnh Phúc, với 1.498 chữ Hán, ghi lại vẻ đẹp cổ kính của chùa và được xem là báu vật văn hóa quý hiếm.
Địa chỉ: thuộc phường Ngô Quyền, Tp.Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc.
Vĩnh Phúc tự hào là nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh đã về thăm và làm việc nhiều lần trong thời kỳ kháng chiến. Để tưởng nhớ công lao của Bác, Nhà lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh được xây dựng tại thành phố Vĩnh Yên và hoàn thành vào ngày 31/8/2003.
Nhà lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Vĩnh Yên
Nằm trên khu Đồi Cao giữa cây cối xanh tươi, Nhà lưu niệm là một công trình kiên cố, bao gồm ba gian mái ngói mũi hài, nơi thờ Bác với bức tượng đồng chân dung nặng 600kg. Nơi đây ghi dấu những lần Bác thăm Vĩnh Phúc, với kỷ vật như cây bút máy Hồng Hà Người dùng ký tặng Đảng bộ và nhân dân tỉnh. Hiện nay, Nhà lưu niệm trở thành địa chỉ đỏ, thu hút du khách đến dâng hương và học hỏi về tư tưởng, nhân cách của Bác.
Địa chỉ: thuộc xã Thổ Tang, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc.
Đình Thổ Tang xây dựng từ thế kỷ XVII, thờ Lân Hổ Hầu đô thống Đại Vương - vị tướng giúp vua Trần Nhân Tông đánh giặc Nguyên Mông. Được xếp hạng di tích Quốc gia năm 1964, đình có kiến trúc đồ sộ, gồm hai tòa nhà bố cục theo hình chữ "đinh".
Toàn bộ công trình được làm bằng gỗ tốt, với những cột lớn và các bức chạm trổ tinh xảo. Đặc biệt, các bức chạm khắc gỗ tại đây mô tả sinh hoạt đời sống dân gian như lễ tịch điền, cảnh vui chơi giải trí và thờ phụng với các hình rồng, phượng. Đình Thổ Tang không chỉ là di tích lịch sử mà còn là điểm du lịch hấp dẫn, thu hút du khách đến chiêm ngưỡng nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc độc đáo của dân tộc.
Địa chỉ: thuộc làng Quan Tử, xã Sơn Đông, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc.
Chùa Am khởi công xây dựng vào năm 1696 và hoàn thành sau 15 năm, là một di tích lịch sử văn hóa đặc sắc ở Vĩnh Phúc. Qua nhiều lần trùng tu, đặc biệt là trong thời Nguyễn, chùa đã thay đổi về kết cấu và quy mô, phản ánh ảnh hưởng của Đạo giáo, Nho giáo và Phật giáo.
Chùa có ba tòa theo kiểu chữ “Tam”, với tòa Bái đường lớn và đẹp nhất, mái chùa hình cánh sen tỏa ra, tạo nên cảnh sắc nổi bật giữa mùa nước ngập. Chùa còn nổi bật với hệ thống 31 pho tượng, bao gồm Phật, thiên thần, nhân thần và phúc thần, phản ánh sự hội tụ của các tôn giáo và tín ngưỡng. Với giá trị lịch sử, khoa học và nghệ thuật, Chùa Am không chỉ là nơi sinh hoạt văn hóa của người dân địa phương mà còn là điểm du lịch tâm linh thu hút du khách đến tham quan.
Địa chỉ: thuộc xã Tam Hồng, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc.
Đền Bắc Cung (hay còn gọi là đền Thính) là một trong bốn đền lớn thờ Tản Viên Sơn Thánh quanh vùng núi Ba Vì và châu thổ sông Hồng. Tản Viên hay Sơn Tinh trong truyền thuyết, nổi tiếng với chiến thắng Thuỷ Tinh và sự kiện cưới công chúa Hùng Duệ Vương. Đền thờ Ngài vì công lao dẹp yên lũ lụt và thống nhất đất nước.
Đền Bắc Cung Xếp hạng Di tích cấp quốc gia
Được xây dựng từ thời Thành Thái, đền đã trải qua nhiều lần trùng tu, với kiến trúc gồm 14 gian, chắp hình chữ Đinh, cửa võng cầu kỳ, sơn son thiếp vàng lộng lẫy, tạo nên không gian tôn nghiêm và hài hòa. Đền Bắc Cung là một di tích văn hóa, giữ gìn giá trị lịch sử và kiến trúc độc đáo đến ngày nay.
Địa chỉ: tọa lạc trên cánh đồng xóm Giếng, xã Phú Đa, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc.
Đền Phú Đa được xây dựng vào thời vua Lê Hiển Tông (1740 - 1786), là một trong những ngôi đền "vĩnh cửu" của Vĩnh Phúc. Thờ Lãng Phương hầu Nguyễn Danh Thường - một vị quan có công lớn trong triều đại Lê - Trịnh, đền được xây dựng từ khi ông còn sống và chưa từng đại tu.
Kiến trúc của đền bao gồm ba tòa: cổng, đại bái và từ đường, được xây dựng bằng đá và gỗ lim chọn lọc. Đặc biệt, đền được gia cố nền móng cao hình nón để chống lại lũ lụt, giúp công trình tồn tại vững chãi qua hàng trăm năm.
Ngoài kiến trúc vững chắc, đền còn lưu giữ 48 tác phẩm chạm khắc đá tinh xảo, phản ánh trình độ nghệ thuật cao của các nghệ nhân xưa. Những di vật này không chỉ mang giá trị lịch sử mà còn tạo nên không gian trang nghiêm, ấm áp, gắn liền với hơi thở cuộc sống.
Địa chỉ: thuộc xã Định Trung, thành phố Vĩnh Yên, Vĩnh Phúc
Chùa Hà Tiên xây dựng từ năm 1703 dưới triều vua Lê Hiển Tông, là một di tích lịch sử văn hóa quan trọng của Vĩnh Phúc. Xưa, đây là nơi Quốc Mẫu Tây Thiên Lăng Thị Tiêu chiêu binh, tụ kiệt khi hội quân với vua Hùng Vương thứ 6.
Chùa không chỉ là trung tâm Phật giáo lớn trong thời kỳ Lý - Trần mà còn là nơi truyền bá giáo lý, đào tạo nhiều thế hệ tăng ni, cư sĩ. Nơi đây còn thờ bà thánh mẫu Năng Thị Tiêu và ghi dấu ấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Chùa Hà Tiên – nơi lưu giữ dấu chân Bác Hồ về thăm Vĩnh Phúc
Ngôi chùa nổi bật với kiến trúc độc đáo, gồm 5 tháp ba tầng, đặc biệt là Tháp Sư tổ, được cây đa hơn 300 tuổi bao phủ. Mái chùa uốn cong, trên nóc là “Lưỡng Long Triều Nguyệt”, thể hiện sự uy nghi, thanh tịnh.
Khuôn viên chùa rộng 6,2ha, với các công trình như nhà thờ tổ, phòng tiếp khách và các trưng bày di vật, tạo nên một không gian hài hòa, tĩnh lặng, đậm chất truyền thống. Chùa Hà Tiên là một điểm đến không thể bỏ qua đối với du khách muốn khám phá văn hóa tâm linh và di sản quý giá của Vĩnh Phúc.
>> Đọc thêm: Khám phá điều thú vị của 10+ tỉnh thành nhỏ nhất Việt Nam
Địa chỉ: TT. Tam Đảo, Tam Đảo, Vĩnh Phúc.
Nhà thờ đá Tam Đảo là điểm đến lý tưởng cho những ai yêu thích kiến trúc và lịch sử. Nằm trên triền núi cao, nhà thờ hòa quyện với thiên nhiên, tạo nên một cảnh quan tuyệt đẹp. Khởi công từ năm 1906 và hoàn thành vào năm 1937, nhà thờ được xây dựng theo phong cách Gothic với vật liệu đá, khiến nó trở thành một trong những ngôi nhà thờ đá nổi tiếng tại Việt Nam.
Nhà thờ đá Tam Đảo – Một trong bốn nhà thờ đá nổi tiếng của Việt Nam
Với nền cao 10m và hai tầng kiến trúc độc đáo, nhà thờ là sự kết hợp tinh tế giữa văn hóa, tôn giáo và thiên nhiên. Gian thánh đường trang nghiêm, không trụ cột, chỉ có ô cửa vòm với tranh kính màu, mang đến không gian thanh tịnh.
Tháp chuông 18m cao vút, với ô gạch hoa màu đỏ và cây thánh giá, tạo nên điểm nhấn đặc biệt cho công trình này. Nhà thờ đá Tam Đảo không chỉ là di tích lịch sử mà còn là một biểu tượng văn hóa độc đáo của vùng đất này.
Địa chỉ: thôn Đa Cai, xã Sơn Đông, Huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc.
Đền thờ Trần Nguyên Hãn (hay còn gọi là đền Tả Tướng) được xây dựng hơn 200 năm trước, gắn liền với sự nghiệp của vị anh hùng dân tộc này. Ông xuất thân từ dòng dõi nhà Trần, đã giúp Lê Lợi đánh đuổi quân Minh trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
Đền được xây trên nền đất rộng, nơi từng là phủ đệ của ông, với kiến trúc kiểu chữ "Đinh", bao quanh bởi tường bao tạo thành khuôn viên vuông vắn. Qua nhiều lần tu sửa, đặc biệt vào năm 2011, đền được xây dựng hoàn chỉnh với các công trình như đền thờ chính, nhà tả mạc, hữu mạc và lầu thiêu hương.
Đền thờ không chỉ là nơi lưu giữ giá trị văn hóa, lịch sử mà còn mang đến cảm giác bình yên, tĩnh lặng. Cây lộc vừng cổ thụ trước cổng đền, cùng không gian thiên nhiên xung quanh, tạo nên một bức tranh thanh bình, hòa hợp với lịch sử.
Nơi đây còn lưu giữ phiến đá mài gươm, một di vật gắn liền với những chiến công của Trần Nguyên Hãn. Mỗi dịp lễ, hàng vạn du khách hành hương về đây, thể hiện lòng kính trọng đối với vị Tả Tướng quốc vĩ đại.
Địa chỉ: thuộc xã Bồ Sao, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc.
Đền Đuông thờ Đông Hải Long Vương, con thứ 25 của Lạc Long Quân và Âu Cơ, vị thần được giao cai quản vùng Bồ Sao và trị thủy sông Hồng. Người dân gọi đền bằng tên "Đuông" để kiêng huý chữ "Đông".
Theo truyền thuyết, Long Vương giúp giữ gìn yên bình cho các làng chạ vùng châu thổ, từ Ngã ba Hạc tới cửa biển. Các triều đại phong kiến sau này đều phong ngài là "Đông Hải Long Vương tế thế chi thần".
Về Thăm Di Tích Đền Đuông ở Vĩnh Phúc
Đền Đuông nằm giữa thiên nhiên tươi đẹp, với kiến trúc hình chữ "Công". Hai toà tiền đường và hậu cung được nối với nhau bằng ống muống, với 48 cột đá tảng vững chắc.
Mái đền có hai tầng, với lầu chuông và lầu trống nổi bật. Du khách đến đây sẽ chiêm ngưỡng 10 pho tượng cổ, gồm Đông Hải Long Vương và các nhân vật quan trọng, cùng 14 đạo sắc phong từ thời Cảnh Hưng đến Khải Định, ghi lại lịch sử và thần tích của đền.
Địa chỉ: thuộc xã Đại Đình, huyện Tam Đảo, Vĩnh Phúc.
Khu danh thắng Tây Thiên là một quần thể văn hóa du lịch đã được xếp hạng di tích quốc gia từ năm 1991. Nằm trong lòng rừng nguyên sinh Tam Đảo, Tây Thiên sở hữu phong thủy đặc biệt, với các huyệt mạch quốc gia như Đền Hùng, Hoa Lư và Yên Tử.
Du khách đến Tây Thiên sẽ được chiêm ngưỡng những địa danh nổi bật như Thiền Viện Trúc Lâm, Đại Bảo Tháp Kim Cương và các đền thờ linh thiêng. Thiền Viện Trúc Lâm xây dựng trên nền ngôi chùa Thiên Ân cổ, nằm giữa cảnh quan thiên nhiên kỳ vĩ, bao quanh là rừng già và suối trong vắt. Công trình kiến trúc này kết hợp hài hòa giữa truyền thống Phật giáo và nét hiện đại, tạo nên không gian tâm linh tĩnh lặng, thu hút du khách tìm về với thế giới nội tâm.
Địa chỉ: thuộc địa phận thôn Bình Sơn, thị trấn Tam Sơn, huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc.
Tháp Bình Sơn (hay còn gọi là Tháp chùa Vĩnh Khánh) là một kiệt tác đất nung thời Trần, nổi bật với 11 tầng còn lại, cao khoảng 16m. Được xây dựng từ 13.200 viên gạch nung, tháp mang vẻ đẹp bền vững với các hoa văn tinh xảo như hoa chanh, lá đề, rồng uốn khúc và sư tử vờn cầu.
Bảo tháp Bình Sơn Vĩnh Phúc – Công trình đặc biệt sống mãi với thời gian
Tháp có hình vuông, nhỏ dần về phía ngọn và các tầng trang trí bằng hoa văn phong phú, tạo nên một công trình nghệ thuật đặc sắc. Đặc biệt, chân tháp có nhiều vành đai hình cánh sen, khiến tháp như mọc lên từ một bông sen lớn. Dù trải qua gần ngàn năm, Tháp Bình Sơn vẫn đứng hiên ngang, tươi sáng giữa không gian lịch sử, thu hút du khách đến tham quan.
Trên đây là các di tích lịch sử tại Vĩnh Phúc nổi tiếng dành cho mọi người khám phá. Mong rằng, với những địa điểm sẽ cho mọi người một chuyến trải nghiệm thật thú vị tại vùng đất này nhé!
Vĩnh Phúc 4089 lượt xem
Ngày cập nhật : 11/11/2024
Để đến khu du lịch Đại Lải, bạn nên đi vào mùa hè, khoảng thời gian từ tháng 4 đến tháng 9. Đây là lúc thích hợp để đi tránh nóng, Đại Lải sẽ có nắng đẹp vào ban ngày và se se lạnh vào ban đêm, không khí luôn được điều hoà vì xung quanh có rất nhiều rừng xanh bao bọc, cực kì thích hợp với các hoạt động vui chơi ở đây như đua thuyền, đạp vịt, du thuyền quanh hồ. Đại Lải cách Hà Nội khoảng 60km nên có thể đi đến đây bằng ô tô hoặc xe máy khá dễ dàng và thuận tiện. Nếu xuất phát từ Hà Nội, bạn đi theo hướng quốc lộ 2, sau khi đi qua điểm soát vé Thăng Long-Nội Bài, đến ngã tư đầu tiên thì rẽ trái, đến chặng Xuân Hoà thì rẽ phải rồi đi thẳng tiếp khoảng 10km là đến nơi. Vì khoảng cách cũng không xa nên bạn có thể đi bằng xe máy, nhưng cần chú ý trên đường đi để đảm bảo an toàn cho bản thân. Hồ Đại Lải rộng 525 ha, xung quanh bát ngát màu xanh của cả một rừng cây phòng hộ. Từ bãi tắm dưới hồ có thể lên đỉnh núi Thằn Lằn ở phía nam để ngắm cảnh từ trên cao, xa xa là dãy núi Tam Đảo huyền ảo. Bên cạnh đó, du khách có thể đi thăm những làng bản của người Sàn Dìu để khám phá thêm về phong tục tập quán, thưởng thức các món ăn dân tộc vô cùng đặc sắc và thú vị. Đảo Ngọc, hay còn có tên gọi khác là đảo Chim, nằm giữa lòng hồ Đại Lải là nơi tụ họp của hàng trăm loài chim khác nhau từ khắp nơi bay về, khiến cho nơi đây giống như một bức tranh thiên nhiên đầy sống động mà hiếm nơi nào có được. Đến Đại Lải, bạn có thể tham gia vào rất nhiều những hoạt động thú vị ngoài trời như tắm hồ, đạp vịt, đi thuyền tới tham quan các đảo xung quanh hồ Đại Lải, ngắm cảnh chụp hình và đến thăm vùng rừng núi xanh mát. Các bạn sẽ có những trải nghiệm khó quên khi được vẫy vùng trong làn nước mát hay vừa thảnh thơi đạp vịt vừa ngắm cảnh non nước mây trời. Vì du lịch Đại Lải Vĩnh Phúc gần đây rất phát triển nên các nhà nghỉ cũng mọc lên khá nhiều. Để tìm kiếm một nơi ở lại qua đêm dịch vụ tốt, giá cả hợp lí cũng không quá khó khăn, tuy nhiên bạn nên đặt phòng trước vì rất dễ bị hết phòng. Đặc biệt gần đây có khu resort Flamingo Đại Lải cũng được rất nhiều người ưa chuộng vì sự kết hợp giữa cảnh sắc thiên nhiên với kiến trúc do con người sáng tạo. Ngoài những đồ ăn ngon còn có các dịch vụ, trò chơi vô cùng hấp dẫn. Bạn được tận hưởng mọi thứ theo chuẩn khách sạn 5 sao và hơn thế nữa : hồ bơi, bida, tenis, sân golf, thuyền, vườn… tuy nhiên giá cả cũng khá cao so với những nơi nghỉ ngơi khác.
Vĩnh Phúc 3333 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Là một dãy núi trung bình nằm trên địa phận ba tỉnh Vĩnh Phúc, Thái Nguyên và Tuyên Quang, tên gọi núi Tam Đảo bắt nguồn từ ba đỉnh núi cao nhất là Rùng Rình, Thạch Bàn và Thiên Thị. Chính địa hình khép kín cùng với hệ thống rừng đặc trưng đã gợi lên cho các tín đồ xê dịch một vùng rừng núi huyền bí cần được khám phá. Hầu hết các chuyến leo núi đều bắt đầu từ vườn quốc gia Tam Đảo và đi sâu vào bên trong với nhiều tuyến khác nhau như tuyến đèo Thái Nguyên, tuyến đỉnh Thạch Bàn hay tuyến lên đỉnh phía nam….Lộ trình vẫn được nhiều “nhà leo núi” lựa chọn nhất chính là tuyến đi qua ba đỉnh theo thứ tự là Thiên Thị, Thạch Bàn và Rùng Rình. Trước khi bắt đầu thử thách, bạn phải thông báo với trạm kiểm lâm tại chân núi để được cấp phép leo núi. Nếu là là lần đầu tiên thử thách mình với địa hình núi tại Tam Đảo, bạn nên thuê người hướng dẫn tại trung tâm thị trấn Tam Đảo để đề phòng lạc đường cũng như đối phó với các tình huống xấu. Đoạn đường leo núi Tam Đảo sẽ bao gồm nhiều dạng địa hình dốc thoải, trơn trượt, những rừng tre xanh mát kỳ bí nhưng cùng không kém phần thú vị và kịch tính. Các đỉnh núi Thạch Bàn và Thiên Thị tuy đường đi không quá hiểm trở và âm u nhưng đòi hỏi bạn phải có sức bền cùng với sự phán đoán để có thể chinh phục được những vách đá phân bố dọc đường leo núi. Đứng từ trên đỉnh thứ nhất và thứ hai, bạn sẽ đem về cho mình những trải nghiệm siêu thực khi được hòa mình vào thiên nhiên, ngắm nhìn những làn sương và mây trôi dần phía dưới. Một cảnh tượng choáng ngợp mà có lẽ phải đến đây người ta mới dễ dàng cảm nhận được. Chặng chinh phục đỉnh Rùng Rình (hay còn gọi là Phù Nghĩa) có lẽ chính là thử thách thật sự cho các bạn trẻ quyết định du lịch Tam Đảo. Sau khi đã thấm mệt với những chướng ngại vật tại hai đỉnh núi trước, đỉnh Rùng Rình đòi hỏi ở bạn sự nhẫn nại và lòng quyết tâm chinh phục của một nhà leo núi. Thông thường một chặng leo núi như vậy mất khoảng từ 4 đến 6 giờ. Bạn nên lưu ý thời gian và quyết định thật sáng suốt nếu như không muốn lưu trú lại trong rừng. Vấn đề an toàn luôn được đặt lên hàng đầu cho mỗi chuyến đi, đặc biệt là những hành trình mang tính trải nghiệm như leo núi Tam Đảo. Nước sạch, các thức ăn vặt như sô cô la, bánh snack cùng mì tôm là những loại thực phẩm nhanh, gọn, nhẹ nhất mà bạn nên chuẩn bị, đề phòng phải ở lại trong rừng vào ban đêm. Đêm xuống, nhiệt độ tại các đỉnh núi sẽ giảm thấp, bạn cần lưu ý mang theo áo ấm hoặc thuê các loại lều và túi ngủ dày, tránh bị sốc nhiệt. Ngoài ra, đèn pin là một vật dụng bắt buộc nếu cần phải di chuyển trong đêm. Đừng quên mang theo thuốc chống mũi, thuốc giảm đau, dao găm và các túi ni lông để bọc các vật dụng điện tử, đề phòng trời mưa đột xuất, các vết cắn của côn trùng hay tai nạn không đáng có.
Vĩnh Phúc 2377 lượt xem
Tháng 3 đến tháng 10
Nằm trên sườn núi Thạch Bàn thuộc dãy Tam Đảo, cách Hà Nội khoảng một giờ lái xe, Tây Thiên là một vùng sơn thuỷ hữu tình với hệ động thực vật phong phú và khí hậu quanh năm dịu mát. Chính vì thế nên bạn có thể du lịch Tây Thiên Tam Đảo vào bất kì thời điểm nào trong năm, mỗi mùa là một trải nghiệm không giống nhau. Nếu đi vào mùa xuân, bạn sẽ được trẩy hội để cầu tài, cầu lộc cho cả năm may mắn và tham gia nhiều hoạt động văn hoá độc đáo. Du lịch Tây Thiên Tam Đảo vào mùa hè bạn sẽ được tận hưởng không khí thanh bình, tịnh tâm và được dự lễ sám hối tại thiền viện. Đi vào mùa thu hoặc mùa đông để hít thở không khí trong lành của núi rừng. Mỗi mùa có một nét đặc sắc riêng nên bạn có thể đến đây vào bất kỳ thời điểm nào trong năm. Với diện tích khoảng 148ha, quần thể di tích Tây Thiên nằm trong một vùng đa dạng sinh học với gần 500 loài thực vật và 300 loài động vật, trong đó có nhiều loài quý hiếm. Tại Tây Thiên có những cây thông đã sống đến ngàn năm tuổi, kiêu hãnh vươn mình và tỏa bóng xuống những lối đi quanh co trong rừng. Một ngày ở nơi đây, người ta có thể thưởng thức được dư vị của bốn mùa trong một năm: gió xuân mơn man lúc bình minh, nắng hạ ấm áp vào buổi trưa, tiết thu dìu dịu khi chiều về và cái se lạnh của mùa đông khi bóng tối đổ xuống. Tây Thiên Tam Đảo không chỉ hấp dẫn bởi phong cảnh thiên nhiên nên thơ trữ tình, núi non trùng điệp thơ mộng mà còn là điểm tâm linh linh thiêng ở miền Bắc. Nếu bạn đang có dự định ghé thăm khu danh thắng đẹp nhất của tỉnh Vĩnh Phúc này thì không thể bỏ qua nơi này. Cảnh sắc thiên nhiên sơn kỳ thuỷ tú, hùng vĩ, thanh bình và ngoạn mục đẹp trong từng giây, từng khoảnh khắc. Đó là cảnh núi rừng nguyên sơ, là những ngôi cổ tự, thảo am tịnh thất cheo leo tren độ cao ngút ngàn hay nguồn Bát Nhã tuyền róc rách ca lên khúc nhạc hoàn hương từ vô thuỷ. Xa xa dòng Thác Bạc trắng xoá như dải ngân hà vắt mình thả xuống từ trời cao xanh thẳm tạo nên một bầu không khí thanh bình. Không những mang vẻ đẹp của thiên nhiên núi rừng hùng vĩ mà Tây Thiên còn đem đến cho du khách những trải nghiệm hết sức thú vị và mới lạ với những loại kiến trúc đền, chùa cổ kính. Thảng trong sự tĩnh lặng đến vô chừng là tiếng chuông từ xa vọng về, gợi ra những yên bình và thanh thản cho tâm hồn của bất kì du khách nào từng đặt chân đến nơi đây. Thiền viện trúc lâm Tây Thiên (hay nhiều người còn gọi là chùa Tây Thiên) nằm cách Hà Nội khoảng 65 km về phía Tây Bắc, thuộc xã Đại Đình, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc là một quần thể văn hoá du lịch tổng hợp. Cùng với thiền viện Trúc Lâm ở chùa Yên Tử và Đà Lạt, thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên là một trong những thiền viện lớn nhất của Việt Nam. Nếu quan tâm đến loại hình tôn giáo Phật giáo, có lẽ không ai không biết đến thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên thuộc dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử, là một trong những thiền viện lớn nhất của Việt Nam. Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên xây dựng ngay bên cạnh khu di tích danh thắng Tây Thiên cổ tự. Đây là nơi đào tạo về Phật giáo một cách có hệ thống, tạo điều kiện để Phật giáo Việt Nam phát triển cả về bề rộng cũng như chiều sâu và đẩy mạnh giao lưu với các dòng phật giáo của các nước khác. Nếu có ghé qua Tây Thiên du khách cũng nên một lần đến với trải nghiệm về Phật giáo tại nơi này. Trong Kiến Văn Tản Lục của Lê Quý Đôn cũng có đoạn tả về Tây Thiên: “Bên dưới sắc nước như chàm, sâu thẳm không thấy đáy; sườn núi có Tây Thiên cổ tự, cảnh sắc thanh nhã. Trên đỉnh núi có chùa Đồng Cổ; từ phía tả khe Giải Oan trèo lên núi đến hồ sen, nước xanh biếc, trong hồ có thứ đá lạ và có sen đỏ, hoa nở bốn mùa. Hai bên ngoài hồ, suối từ sườn núi chảy ra, bên tả là suối Bạc, bên hữu là suối Vàng…”. Hệ thống Thiền viện Trúc lâm ở khu vực Tây Thiên bao gồm chùa tăng và chùa ni. Thiền Viện Trúc Lâm An Tâm được xây dựng từ năm 2009 do ni sư thích nữ Thuần Giác xây dựng và phần cơ bản hoàn tất năm 2012. An Tâm có ngôi chính điện thờ Phật Thích Ca mâu ni, ngôi nhà tổ thờ các vị tổ thiền tông, một nhà khách, một nhà ăn phục vụ được một lúc 200 người. Ngoài ra còn có ni đường, thiền đường dành cho các thiền sinh tu tập; nhiều thiền thất cho các ni sư tu hành. Ngoài ra du khách khi tới đây có thể tham quan đại bảo tháp Mandala, là bảo tháp dòng tu kim cương thừa đầu tiên tại Việt Nam. Cuối cuộc hành trình là đền Quốc Mẫu Tây Thiên, nơi thờ Quốc mẫu Lăng Thị Tiêu, vương phi của Hùng Vương thứ 7, người có công giúp vua mở mang bờ cõi, dạy dân trồng lúa trong buổi đầu dựng nước.
Vĩnh Phúc 2537 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Vĩnh Phúc may mắn được mẹ thiên nhiên ban tặng những phong cảnh thiên nhiên sơn thủy hữu tình, đẹp mê đắm lòng người, bởi vậy mà khi người ta nhắc đến Vĩnh Phúc là sẽ nhắc đến một khu du lịch tiềm năng với rất nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng vươn tầm thế giới. Đó là những khung cảnh núi non hùng vỹ của khu du lịch Tam Đảo, chùa Tây Thiên nơi tâm linh an lạc giúp bạn nuôi dưỡng tâm hồn, hay hồ Đại Lải với hồ nước trong xanh thơ mộng,… và đặc biệt không thể không kể đến tháp Bình Sơn. Tháp Bình Sơn là một trong những tháp cao nhất ở tỉnh Vĩnh Phúc. Cùng với di tích Tây Thiên, tháp Bình Sơn đã được nhận bằng di tích quốc gia đặc biệt ngày 14/03/2016. Do trải qua quá trình lịch sử khá lâu đời nên tháp Bình Sơn hiện nay chỉ còn lại 11 tầng và 1 tầng bệ. Phần chóp của tháp đã bị phá nên tháp có bình đồ hình vuông và nhỏ dần về phía ngọn với cạnh của tầng cuối cùng là 4,45 mét, cạnh của tầng thứ 11 là 1,55 mét. Nhìn bao quát tháp Bình Sơn là một tuyệt tác tháp uy nghi, cổ kính. Tháp được xây dựng bằng 13.200 viên gạch nung, gồm hai loại là gạch vuông và gạch chữ nhật. Những viên gạch này không cần vôi vữa để lắp ghép với nhau mà được xây dựng bằng phương pháp hết sức đặc biệt đó là nung ở nhiệt độ cao, chính vì sử dụng bằng phương pháp này nên tháp được xây dựng khá vững chắc. Ruột tháp không kín mà có một phần rỗng chạy dọc từ chân tháp lên đến ngọn tháp. Bên ngoài tháp được ốp bằng một lớp gạch vuông được trang trí bằng những hoa văn như hình hoa chanh, hình lá đề, sư tử vờn cầu, rồng uốn khúc,… Những đường nét hoa văn được chạm khắc hết sức tỉ mỉ, tinh tế, mang nét phóng khoáng, chắc khỏe mang đậm nét văn hóa nghệ thuật thời Lý- Trần. Nét độc đáo của tháp Bình Sơn là ở phần chân tháp. Chân tháp có nhiều vành đai sen chồng lên nhau nên khi nhìn vào ta sẽ cảm nhận như tòa tháp được mọc ra từ một đóa sen, mang hình ảnh đặc trưng cho nét đẹp văn hóa Việt. Hình rồng được chạm khắc ở đây cũng rất đặc biệt là hình rồng có sừng và cuộn tròn mình, đầu rúc vào giữa, chân đạp ra ngoài, sống lưng có vây như răng cưa, một chân trước đưa lên. Tháp Bình Sơn với nhiều nét độc đáo về kiến trúc, nghệ thuật cũng như kỹ thuật xây dựng nên tháp Bình Sơn được đánh giá là một trong những cây tháp đẹp nhất xứ Bắc Kỳ. Nếu du khách lựa chọn thời điểm tham quan vào 15 tháng Giêng thì du khách không chỉ có thể tham quan và chiêm ngưỡng vể đẹp nghệ thuật của tháp Bình Sơn mà còn có thể tham gia vào “Lễ hội chùa tháp” với các nghi thức truyền thống nhu rước kiệu, lễ cầu nguyện cho mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an, những chương trình văn hóa nghệ thuật, thể dục thể thao và những trò chơi dân gian.
Vĩnh Phúc 2264 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Nói đến những làng nghề cổ ở miền Bắc nói chung và làng nghề gồm nổi tiếng nói riêng thì không thể không nhắc đến làng gốm Hương Canh ở tỉnh Vĩnh Phúc. Với tuổi đời hơn 300 năm, làng gốm đã có thời kỳ bị mai một nhưng chính nhờ sự yêu nghề và mong muốn giữ gìn nét đẹp của làng nghề truyền thống của nhiều nghệ nhân chân chính. Giờ đây, làng gốm dù đổi mới nhưng vẫn còn giữ lại lại nét đẹp đơn sơ, giản dị và trở thành điểm tham quan hấp dẫn của khách du lịch trong và ngoài nước. Nằm tại thôn Lò Cang, thị trấn Hương Canh, huyện Xuyên Bình, tỉnh Vĩnh Phúc, làng gốm Hương Canh cách thành phố Vĩnh Yên tầm 12km, cách Hà Nội 42km, vô cùng phù hợp cho những chuyến du lịch ngắn ngày, kết hợp với các điểm du lịch nổi tiếng khác tại Vĩnh Phúc như hồ Đại Lải, Tam Đảo, thiền viền trúc lâm Tây Thiên, v.v… Dù không nổi tiếng như gốm Bát Tràng, Hà Nội nhưng làng gốm Hương Canh, Vĩnh Phúc lại có nét đẹp và sức hút riêng. Nghề gốm ở đây đã có mặt từ cách đây hơn 300 năm nhưng cho đến những năm 1950 – 1970, khi xuất hiện hợp tác xã gốm thì làng nghề mới thực sự lớn mạnh, tạo ra nhiều sản phẩm gốm cung cấp cho các khu vực gần xa. Đây cũng có thể nói là thời điểm hưng thịnh nhất của làng gốm Hương Canh lúc đó. Giờ đây, làng nghề đã trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm nhưng vẫn quyết tâm tồn tại, trở thành một trong những làng nghề độc đáo của miền Bắc nói chung và tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng. Trong chuyến du lịch Tam Đảo, du khách có thể ghé qua để chiêm ngưỡng những sản phẩm gốm với nét thẩm mỹ cao cũng như là hiểu hơn về lịch sử của một trong những làng nghề cổ này. Đường đi tới làng gốm Hương Canh không quá khó so với một số điểm du lịch khác trong Vĩnh Phúc. Những du khách du lịch Tam Đảo tự túc có thể thuê xe máy hoặc đi xe buýt từ các bến xe của Hà Nội để tiết kiệm chi phí, còn đối với những khách đoạn nên di chuyển bằng ô tô hoặc là đi tour sẽ là hợp lý nhất. Từ thành phố Vĩnh Yên, Vĩnh Phúc du khách có thể đi theo tuyến quốc lộ 2, hỏi đường về UBND xã Bình Xuyên, đi một đoạn nữa là sẽ tới ngay làng gốm Hương Canh. Còn nếu đi từ Hà Nội, du khách chỉ cần chạy xe máy đi theo quốc lộ 23, tới cầu Lò Cang rồi hỏi đường vào làng gốm. Đây thực sự là điểm đến cho những ai yêu thích nghệ thuật làm gốm cũng như là có niềm đam mê với các sản phẩm gốm truyền thống. Đến với làng gốm, du khách sẽ có dịp được ngắm nhìn và chạm tay vào những sản phẩm gốm truyền thống nhu chậu, chai, lọ, chum, vại,… Ngoài ra, để tạo sự đa dạng phong phú nhằm đáp ứng nhu cầu thẩm mĩ, làng gốm không chỉ chuốt gốm mà còn các loại đồ mỹ nghệ, bức phù điêu bằng gốm vô cùng độc đáo, có giá trị. Một điều thú vị khác là loại đất sét dùng để nặn gốm ở đây là dòng đất sét xanh, nhiều thịt nên khi sản phẩm hình thành có độ dày, màu sắc đẹp và hơn hết là sở hữu nhiều công dụng hơn là một sản phẩm để trưng bày. Những chiếc bình gốm dùng để pha trà sẽ giúp giữ được độ nóng và vị trà rất lâu, càng tuyệt vời hơn khi để đựng rượu vì rượu sẽ không bị giảm đi độ cồn mà còn ngon hơn nếu để lâu. Đặc biệt, do đặc trưng về nguyên liệu nên khi dùng tay để gõ vào, các sản phẩm gốm đều tạo ra tiếng kêu leng keng rất thú vị hệt như những sản phẩm bằng kim loại. Ngày nay, để đáp ứng được nhu cầu và tính thị hiếu thẩm mỹ của người tiêu dùng, các nghệ nhân tại đây đã đổi mới, sáng tạo nhưng đồng thời cũng giữ lại những sản phẩm truyền thống không chỉ đẹp mà còn đa dạng, mang lại nguồn thu nhập ổn định cho những người dân địa phương. Đến làng gốm nơi đây, du khách cũng đừng bỏ lỡ cơ hội được ngồi nghe các nghệ nhân kể về lịch sử tạo ra gốm, hiểu hơn về quy trình làm gốm và thích thú nhất vẫn là "vào vai" một nghệ nhân gốm thực thụ để tự tạo nên những sản phẩm gốm handmade. Đây cũng chính là những trải nghiệm tuyệt vời hứa hẹn sẽ mang lại cho bạn những giây phút đáng nhớ và ý nghĩa nhất khi đến với làng gốm Hương Canh, Vĩnh Phúc.
Vĩnh Phúc 2163 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Ẩn mình giữa thung lũng núi Con Trâu, thuộc xã Minh Quang huyện Tam Đảo Vĩnh Phúc, hồ Xạ Hương chỉ cách trung tâm Hà Nội khoảng 60km nên rất dễ để bạn có một chuyến đi phượt bằng xe máy tới đây. Hồ rộng hơn 83ha, là một hồ nước ngọt nhân tạo được đào vét từ năm 1984. Bao quanh hồ là những ngọn núi non trùng điệp theo đúng như ý tưởng thiết kế ban đầu là hồ trên lưng núi. Một năm hồ Xạ Hương có hai mùa nước là mùa ngập nước và mùa nước vơi. Tuy nhiên vào mùa nào thì hồ cũng đẹp, cũng sạch như vậy. Trải qua hơn 30 năm, hồ vẫn luôn giữ được vẻ đẹp đến nao lòng, cảnh sắc thiên nhiên quanh vẫn như những bức tranh sơn thủy hữu tình mê hoặc bao du khách ghé qua đây. Mỗi khi đất trời giao mùa, hồ Xạ Hương lại khoác lên mình một vẻ đẹp yêu kiều mê hoặc khác nhau. Vào mùa xuân, những chồi non bắt đầu chớm nở, hồ Xạ Hương cũng như hòa mình cùng núi rừng cỏ cây vươn mình sau những ngày tháng mùa đông giá rét. Khung cảnh thiên nhiên mộng mơ của những cánh hoa sim tỏa sắc hai bờ, của làn nước phẳng lặng của những rặng cây đang căng tràn nhựa sống khiến nàng thơ của mảnh đất Tam Đảo trở nên xinh đẹp biết nhường nào! Hạ đến cũng là sự xuất hiện của những ánh nắng vàng rực rỡ làm mặt nước Xạ Hương cũng rạo rực đáp lời chào mùa hạ. Cái nắng gay gắt của mùa hè có lẽ cũng phải chịu khuất phục trước không khí mát mẻ, những cơn gió mát lạnh lùa qua rừng cây mặt nước. Một thời điểm vô cùng thích hợp cho các dân phượt Tam Đảo cắm trại. Thu sang, thời điểm mà cảnh sắc của hồ Xạ Hương được phô ra những gì đẹp nhất, quyến rũ nhất. Cả một bầu trời trong xanh với những đám mây trắng hững hờ thả trôi in bóng xuống mặt nước trong veo. Nàng thơ của Tam Đảo được núi rừng hùng vĩ điểm những sắc vàng, sắc đỏ tô thắm. Cả một vùng trời mộng mơ, bình yên khiến bất kỳ một lữ khách nào cũng ngỡ như mình đang lạc vào một chốn Châu Âu nào đó. Đông ghé qua, sự lạnh lẽo của hồ Xạ Hương lại làm nên một vẻ đẹp ma mị đầy quyến rũ. Hòa quyện cùng làn sương trắng xóa buốt giá, núi rừng cũng trở nên trầm mặc hơn. Những ngày đông hồ lại gợi lên trong tâm hồn ai đó một nỗi niềm thật khó tả.
Vĩnh Phúc 2180 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Đền Bắc Cung (tên gọi nôm là đền Thính) thuộc xã Tam Hồng, huyện Yên Lạc là một trong bốn cung đền lớn ở quanh vùng núi Ba Vì và châu thổ sông Hồng thờ đức thánh Tản Viên. Các đền: Tây cung, Nam cung, Đông cung ở bên kia sông Hồng thuộc địa phận Sơn Tây, đây là bốn cung đền được nhân dân xây dựng và bảo tồn tương đối cẩn thận. Đền tọa lạc giữa cánh đồng màu mỡ trên khu đất rộng 10.000m2 tựa mình bên những con kênh uốn lượn, bao quanh là làng mạc trù phú, dân cư đông đúc. Hai bên tả mạc, hữu mạc đứng uy nghi và trầm mặc bao lấy khu sân gạch rộng lớn, trông lên một công trình kiến trúc độc đáo. Đền Thính được khởi dựng cách đây 20 thế kỷ trên nền một ngôi miếu nhỏ thờ đức thánh Tản, nơi trước đó ông đã cho quân nghỉ lại trong một lần vi hành giúp dân khai điền trị thủy. Thần phả truyền lại rằng: Đức thánh Tản (tục vẫn gọi là Sơn Tinh) húy là Nguyễn Tuấn, sinh ngày 15 tháng Giêng năm Đinh Hợi tại động Lăng Xương, xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ. Người mồ côi cha từ nhỏ, ở với mẹ và hai anh em họ là Nhuyễn Hiển, Nguyễn Sùng. Hàng ngày, ba anh em vượt sông Đà, sang vùng núi Ba Vì phát rẫy làm nương, tìm kế sinh nhai. Nơi đây, Nguyễn Tuấn đã gặp bà chúa Thượng ngàn, được bà nhận làm con nuôi và ban cho chiếc gậy đầu tử đầu sinh cùng nhiều phép thuật để cứu nhân độ thế. Sau khi chiến thắng Thủy tinh và cưới được công chúa Ngọc Hoa, Người đã từ chối ngôi báu mà Vua Hùng muốn trao, cùng hai em du ngoạn khắp nơi, giúp dân khai điền, trị thủy và được nhân dân nơi nơi tôn kính. Khi đi ngang qua vùng Tam Hồng, Người đã cho quân nghỉ chân, dạy dân trồng lúa, đánh cá…Sau khi ông đi, dân làng kéo tới nơi Đức Thánh nghỉ chân và thấy ở đó còn sót lại một số gói thính nên sau này, đền có tên gọi là đền Thính. Cũng có sự tích lại kể rằng: khi cho quân nghỉ lại nơi đây, đức Thánh Tản đã dậy dân làm thịt Thính nên dân gian mới gọi tên đền như vậy. Từ một ngôi miếu nhỏ, đến đời vua Lý Thần Tông (1072-1128) miếu được xây lại thành đền lớn. Đây là nơi vua đến cầu thọ. Đời Vua Minh Mạng (1820-1840) đền lại được tu sửa nhiều lần. Đến đời vua Thành Thái, Tri huyện Yên Lạc cử bần tăng Thanh Ất trùng tu lại đền, công trình kéo dài đến đời Khải Định thứ 6 mới xong (1900-1921). Trải qua bao thăng trầm, đền tiếp tục được nhân dân địa phương gìn giữ và bảo tồn. Ngày 21/1/1992 đền được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích lịch sử văn hoá. Hàng năm, lễ hội đền Thính được mở từ ngày mùng 6 tháng Giêng đến hết ngày 20 tháng Giêng âm lịch. Lễ hội gồm phần lễ tế, rước kiệu của các làng trong và ngoài xã cùng rất nhiều trò chơi dân gian sẽ được tổ chức. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Vĩnh Phúc
Vĩnh Phúc 4271 lượt xem
Chùa Báo Ân, tên chữ đầy đủ trong thư tịch cổ là Báo Ân Thiền Tự hay Tự Già Báo Ân, tên dân gian thường gọi là chùa Cấm, trước thuộc xã Tháp Miếu, tổng Bạch Trữ, huyện Yên Lãng, tỉnh Phúc Yên, nay thuộc phường Trưng Nhị, thành phố Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc. Chùa được xây dựng vào thế kỷ XII thời vua Lý Cao Tông (1176-1210). Đây là một trong số ít ngôi chùa có niên đại khởi dựng từ thời Lý đến ngày nay. Chùa làm trên một quả đồi cao, cây cối xum xuê, bốn bề lộng gió, phong cảnh đẹp, tĩnh tại, đậm chất u tịch chốn thiền tôn. Xưa khu vực này gọi là núi Tiêu Dao, tục gọi là rừng Cấm có lẽ do vậy mà chùa nổi tiếng với tên gọi chùa Cấm. Theo văn bia, ngọc phả thì chùa đã có từ lâu, đến thế kỷ XII, thái tử con vua Lý Cao Tông đã cúng hơn trăm mẫu ruộng, hai nghìn quan tiền để tu bổ chùa, còn công đức 700 quan tiền để làm tiệc cúng dàng. Giao cho võ tướng họ Nguyễn trực tiếp chỉ đạo, vận động quyên góp công đức tu sửa chùa. Kết quả là chùa được trùng tu xong với “bảy gian san sát vừa xây, cột sơn hoa thắm, màu ngọc tươi chiếu rọi, cung cao điện báu, ánh nhật nguyệt chói ngời sáng láng, tượng phật huy hoàng, tòa sen đĩnh đạc, chuông to gác phượng, khánh quý khám rồng, vẻ lộng lẫy uy nghi rõ rệt…”. Võ tướng họ Nguyễn còn công đức một nghìn quan tiền để mua hơn một trăm mẫu ruộng cúng cho chùa làm ruộng oản. Đến thế kỷ XIV đời vua Trần Anh Tông, chùa Báo Ân lại được công chúa Hưng Nương cấp nhiều tiền của tu bổ, tôn tạo. Để ghi nhớ công đức của ngài, như nhiều ngôi chùa khác trong vùng, nhân dân đã lập điện thờ Hưng Nương công chúa ở trong chùa. Trải qua những biến cố thăng trầm của thời gian cả nghìn năm lịch sử, đến nay chùa Báo Ân vẫn còn tại khuôn viên cũ nhưng đã có nhiều thay đổi. Các tòa kiến trúc cổ như: tiền đường, thiêu hương, thượng điện, nhà tổ, điện thờ công chúa Hưng Nương và điện thờ mẫu do xuống cấp nên đã dỡ bỏ. Hiện nay chùa đã được tôn tạo, xây dựng lại với quy mô lớn, kiến trúc bằng bê tông cốt thép, mái lợp ngói mũi. Trong chùa còn lưu giữ được những di vật, cổ vật có giá trị như: tượng pháp, khám thờ, chuông đồng, bia đá. Trong đó, tiêu biểu nhất là bia đá “Báo Ân thiền tự bi ký” (bài ký bia chùa Báo Ân). Cho đến nay, theo các số liệu rà soát, khảo sát, thống kê, đây là văn bia triều Lý duy nhất còn lại trên địa bàn tỉnh. Văn bia được khắc vào tháng Chạp năm Trị Bình Long Ứng (1209) và được khắc lại về sau, có lẽ là vào cuối thế kỷ XVIII, đặt tại chùa Báo Ân. Bia được nhiều nhà nghiên cứu đề cập đến và công bố trong Thơ văn Lý Trần (Nxb KHXH, H.1977) và Văn bia thời Lý (Nxb ĐHQGHN, H.2010). Đây là tấm bia mang niên đại cổ nhất Vĩnh Phúc và là một trong 18 tấm bia thời Lý còn lại đến nay ở nước ta. Bia cao 1,4m, rộng 0,85m, dày 0,14m, đặt trên lưng rùa đá mai trơn, đầu nhô lên, chân bốn móng choãi ra bốn phía. Bia khắc cả hai mặt với 50 dòng gồm 1498 chữ Hán - Nôm, nét chữ sắc sảo theo lối chữ trân thời Lý, rất đẹp. Nội dung bài ký do Ngụy Tư Hiền soạn với lối văn biền ngẫu, đăng đối, súc tích, Cuối bài ký là một bài minh viết theo lối kệ nhà phật. Nội dung văn bia miêu tả cảnh chùa Báo Ân ở thế kỷ XII hết sức lộng lẫy, huy hoàng, ghi lại công đức tu sửa chùa của thái tử Sâm con vua Lý Cao Tông và võ tướng họ Nguyễn cùng phật tử, nhân dân nơi đây. Theo Nguyễn Hữu Mùi (Nghiên cứu Văn bia Vĩnh Phúc, 2013), mặc dù văn bia còn đậm sự khoa trương, nhưng đã hiện lên rõ ràng hình ảnh của một ngôi chùa thời Lý: chùa chỉ do một người bỏ công đức trùng tu, quy mô chùa bề thế, trong chùa có tượng phật, đài sen, ngoài chùa có chuông, có khánh; chùa sở hữu nhiều ruộng đất và có Hội Thiền Thích Giáo (một dạng hội phật tử, ban hộ tự) để quản lý chốn thiền môn. Căn cứ vào văn bia này có thể thấy, việc xây dựng, trùng tu chùa chiền diễn ra trên đất Vĩnh Phúc đã có từ thời Lý. Việc xây dựng, trùng tu chùa chiền được triều đình khuyến khích chứ không cấm cản và giao cho tầng lớp quan lại, quý tộc đứng ra chủ trì, tổ chức. Việc xây dựng, trùng tu chùa chiền còn được xem như một sự kiện trọng đại trong đời sống tinh thần của nhân dân, thu hút cả vùng, thậm chí cả nước cùng tham gia công đức. Điều đó chứng tỏ trong sự phát triển cực thịnh của Phật giáo thời Lý, địa bàn Vĩnh Phúc cũng là một trung tâm thịnh hành của tôn giáo này. Điều đặc biệt là trong số gần 1500 chữ trên bia, có xen lẫn những chữ Nôm, những chữ Nôm này để ghi tên người và tên đất. Có nhận định cho rằng, đây là một trong những chứng tích chữ Nôm xưa nhất được tìm thấy ở Việt Nam. Trước văn bia này, dấu vết một vài chữ Nôm chỉ mới được tìm thấy ở hai nơi: trên quả chuông chùa Vân Bản, Hải Phòng (năm 1076), trong bài bi ký ở chùa xã Hương Nộn, huyện Tam Nông tỉnh Phú Thọ (năm 1173). Chùa Báo Ân được xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh năm 1995. Trong giai đoạn 2021 - 2025, tỉnh Vĩnh Phúc có dự kiến xây dựng hồ sơ khoa học để đề nghị công nhận Bảo vật quốc gia đối với bia chùa Báo Ân và nâng cấp xếp hạng di tích cấp quốc gia đối với di tích chùa Báo Ân, đây là những hoạt động nhằm tăng cường hơn nữa công tác quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị di sản. Nguồn: Chùa Báo Ân Vĩnh Phúc
Vĩnh Phúc 3530 lượt xem
Tháp Bình Sơn (Tháp Then, Tháp chùa Then, Tháp chùa Vĩnh Khánh) thuộc thị trấn Tam Sơn, huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc; là một kiến trúc Phật giáo mang dấu ấn của một giai đoạn khá dài (khoảng từ thế kỷ XIV tới XVI). Tháp Bình Sơn - Chùa Vĩnh Khánh toạ lạc trên một gò đất cao và rộng rãi, diện tích khu vực khoanh vùng bảo vệ là 17.200m2, bao gồm: Tháp Bình Sơn, tòa Tam bảo cũ, Tam bảo mới, giếng mực, nhà khách, hồ sen, cổng, các công trình phụ trợ. 1. Tháp Bình Sơn Tháp hiện nay cao 16,5 mét, (chỉ còn 11 tầng và 1 tầng bệ vì phần chóp của tháp đã bị vỡ), được cấu tạo với bình đồ hình vuông nhỏ dần về ngọn, với cạnh của tầng dưới cùng là 4,45 mét, cạnh của tầng thứ 11 là 1,55 mét. Toàn bộ ngôi tháp được xây bằng gạch nung không tráng men. Từ bệ tháp đến hết tầng 2, có chiều cao dưới 6 mét hoa văn hoàn chỉnh nhất. Ở hai tầng này có họa tiết trang trí kỹ lưỡng với hàng hoa cúc, cánh sen, lá đề, hoa mặt nhẵn, rồng chạm nổi, cùng mô típ "sư tử hí cầu"… Từ tầng thứ ba trở lên, trang trí vẫn còn, nhưng càng lên cao, chiều ngang mặt tháp càng bị thu hẹp, thì trang trí cũng giảm dần. 2. Toà Tam bảo cũ: được đại trùng tu năm 1976, dạng chữ Đinh, có diện tích 131,5 m2, bao gồm Tiền đường 5 gian , Hậu cung 3 gian . Đặc biệt công trình có 2 cột đồng trụ phía trước, đua ra 6m, tạo như tay ngai. Hệ thống tượng thờ tại đây chủ yếu được làm bằng đất phủ sơn, niên đại cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, một vài tượng có niên đại thế kỷ XX. 3. Tam bảo mới: được xây dựng năm 2012, trên nền nhà tam bảo cũ, hình thức kiến trúc mang phong cách thiền viện. 4. Giếng Mực: tương truyền vị trí này xưa kia là đế của một ngôi tháp cổ màu xanh, khi tháp cổ này biến mất để lại một hố sâu hình giếng tròn. 5. Nhà khách: mới được xây dựng năm 2012, diện tích 283,5m2 có mặt bằng chữ nhất, kiến trúc đao mái, phù hợp với kiến trúc cổ truyền thống. 6. Hồ sen: nằm ở vườn trước tháp Bình Sơn, hiện đang trồng sen 7. Cổng vào khu di tích: gồm 4 cột trụ xây gạch, gắn 2 cánh cổng sắt ở lối chính giữa, hai lối bên rào tạm bằng cây, tre mang tính chất là cổng bảo vệ. 8. Một số trang trí của Tháp Bình Sơn Sư tử hý cầu: một trong những đồ án gây thắc mắc cho các nhà nghiên cứu là "sư tử hý cầu”, vì nó khác xa những con "sấu đớp ngọc" đội toà sen ở các bệ Phật thời Lý. Rồng: có sừng, uốn trong “ổ”, đầu quay vào giữa vòng tròn, thân không cuộn khúc mà lượn thành hình sin, do đó không "thắt túi", chân đạp ra ngoài, hoặc vắt qua thân để đạp ra ngoài, sống lưng hình “răng cưa” một chân trước đưa lên nắm "tóc"... Một số chi tiết vừa nêu phảng phất bóng dáng những con rồng cuối Trần, nhưng các chi tiết khác lại không cho phép quy con rồng trên tháp Bình Sơn vào một kiểu thức nhất định nào cả. Điều quan trọng hơn là rồng Bình Sơn thường đưa chân trước lên nắm tóc, trong một tư thế ngộ nghĩnh, rất nghịch ngợm, do đó khá "dân gian": trong trường hợp này, nó đã mang phong cách của mô - típ rồng vuốt râu thời hậu Lê. Lá đề: là một loại hình tương đối phổ biến, với những hoạ tiết hàm nhiều ý nghĩa. "Lá đề” Bình Sơn thuộc nhiều kiểu thức, nhưng kiểu nào cũng đơn giản, không thực trau chuốt như "lá đề" thời Lý. Hoa cúc dây: đã có từ thời Lý dưới dạng uốn thành khung tròn, lòng khung chứa gọn các đồ án trang trí khác. Thời Trần kế thừa bố cục ô tròn đó. Đấu ba chạc (con sơn): một điểm đáng quan tâm là đấu này đã thấy xuất hiện từ thời Lý (Tháp Chương Sơn, Nam Định) chúng càng phổ biến hơn ở dưới thời Mạc (Đình Tây Đằng, Ba Vì, Hà Nội). Tháp Bình Sơn có nhiều nét độc đáo cả về kiến trúc nghệ thuật, mỹ thuật, kỹ thuật xây dựng. Tháp Bình Sơn không những có giá trị về kiến trúc nghệ thuật, mà còn có giá trị mỹ thuật cao được gọi là “Hòn ngọc báu của kho tàng dân tộc”, trên các hòn gạch có rất nhiều loại hoa văn trang trí, chỗ hình tròn, chỗ lượn vòng tròn, chỗ sâu, nông, chỗ đậm… chứng tỏ bàn tay người thợ vô cùng điêu luyện. Tháp Bình Sơn là một công trình có kiến trúc độc đáo, theo đánh giá của người Pháp đây là một cây tháp đẹp nhất xứ Bắc Kỳ. Hiện nay, Lễ hội tại Khu di tích Tháp Bình Sơn - Chùa Vĩnh Khánh được địa phương tổ chức vào ngày 15 tháng Giêng hàng năm, gọi là “Lễ hội chùa tháp”, bao gồm những nghi thức: rước kiệu, lễ cầu nguyện cho mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an và những chương trình văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao, trò chơi dân gian (cờ tướng, cờ người, chọi gà...) Tháp Bình Sơn (huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc) được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt ngày 23/12/2015 . Nguồn: Cục di sản văn hoá
Vĩnh Phúc 3005 lượt xem
Chùa Hoa Dương ở xã Tuân Lộ, tổng Tuân Lộ, huyện Bạch Hạc, phủ Tam Đới, trấn Sơn Tây. Nay là thôn Thượng, xã Tuân Chính, huyện Vĩnh Tường. Chùa được xây dựng vào năm Chính Hoà thứ nhất (Canh Thân 1680), đời vua Lê Hy Tông Duy Hiệp. Chùa Hoa Dương được xây dựng thời Hậu Lê, năm 1680, còn lại cho đến ngày nay là một di tích có kiến trúc khá đồ sộ, nguy nga, mặt bằng hình chữ “công” gồm 3 toà chính: Tiền đường (7 gian), thượng điện (4 gian) và nhà tổ (5 gian), tổng diện tích 262m2 cùng 2 nhà hành lang gồm 20 gian với diện tích 196m2, phía trước sân còn cây Bồ Đề cổ thụ trăm năm tuổi và các loài cây: Đại, Ngâu, Lan, Sấu tạo nên không khí thâm nghiêm, u tịch nơi cửa thiền. Về kiến trúc: Kết cấu bộ vì theo kiểu thức “chồng rường giá chiêng”, hệ thống cột chịu lực đều bằng gỗ lim to, chu vi cột 1,5m và đều được kê trên chân đá tảng vuông, to mỗi chiều 75cm để chống mối và chống ẩm. Về mỹ thuật: Giá trị nổi bật của chùa Hoa Dương là nghệ thuật điêu khắc, được biểu hiện ở hệ thống tượng tròn và các tác phẩm điêu khắc gỗ (y môn, tranh kệ, hoành phi, câu đối). Đó là các lớp tượng cơ bản, đại diện chung cho hệ thống tượng được bài trí trong một ngôi chùa thờ phật theo phái Đại thừa ở miền Bắc Việt Nam, gồm các lớp: Bộ tượng Tam thế phật, Di Đà tam tôn phật, Thích ca cửu long, tứ Bồ tát, tứ Thiên vương, tượng Đức ông, Thánh hiền, Hộ pháp phật và tượng phật Tổ. Tất cả các pho tượng phật đều được tạo từ gỗ mít già, nguyên lõi, kỹ thuật công phu, tỉ mỉ, nghệ thuật sáng tạo, điêu luyện, thể hiện khả năng tư duy thẩm mỹ nghệ thuật cao và hoà nhuyễn trong nhận thức giá trị tuyệt đối “không” của phật pháp. Giá trị chân, thiện, mỹ của đạo phật bắt nguồn từ những chân lý giản đơn của cuộc sống thường nhật qua hàng nghìn năm tu luyện, bồi dưỡng, lưu truyền đã trở thành một bộ phận cơ bản của tâm hồn Việt Nam, tâm hồn nghệ sỹ khi thổi hồn cho các pho tượng hoặc từ gỗ, đá, hay đất mà trở nên lung linh, huyền ảo nhưng rất thực trước mỗi người khi bước chân vào chùa chiêm bái phật. Các tác phẩm điêu khắc gỗ có: 8 bức y môn (biển hoành) đều chung kích thước (dài 3,0m rộng 0,6m) được chạm nổi, sơn son thếp vàng các đề tài thiên nhiên: Hoa lá, vân mây, cổ thụ, chim muông vô cùng gần gũi, tự nhiên và sống động, chính giữa đục các “đại tự” mang ý nghĩa tụng ca, răn dạy, đan xen giữa phật pháp và triết lý Nho học. 8 bức “tranh Kệ” khắc các bài kệ bằng chữ Hán với nội dung về phong cảnh thiên nhiên và những đề tài liên quan đến việc hoằng dương phật pháp, là những thi ca tuyệt hảo lồng trong tác phẩm điêu khắc tài ba, trên nền của kỹ thuật chạm khắc, trang trí phóng khoáng, bố cục hài hoà, sơn thếp đẹp, xứng đáng là di sản cho muôn đời hậu thế chiêm ngưỡng và ngẫm suy. 8 bộ hoành phi, câu đối sơn son thếp vàng, câu chữ chuẩn chỉnh, ngay ngắn, ý tứ sâu xa, ngữ nghĩa bao trùm, chân tâm, chân thiện. Cùng với các di vật cổ: Chuông đồng, cây hương, bia đá,.đồng thời là những tư liệu văn tự cổ trên đá lưu mãi để muôn đời hậu thế, thập phương du khách, tăng ni phật tử tìm cơ hội đến chiêm bái nơi cảnh thiền ẩn lặng dấu quê. Chùa Hoa Dương có lịch sử trên 300 năm tuổi. Chùa được xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 12/12/1994. Nguồn: Cổng thông tin giao tiếp điện tử Vĩnh Phúc
Vĩnh Phúc 2941 lượt xem
Hương Canh vốn là tên một xã của huyện An Lãng, trấn Sơn Tây đời Hậu Lê, rồi được lấy làm tên tổng thời Nguyễn và tên của thị trấn ngày nay - thị trấn Hương Canh (thuộc huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc). Theo dân gian, Hương Canh còn được gọi là Tam Canh bởi đây là tên chung của ba làng Canh gồm: Hương Canh, Ngọc Canh, Tiên Canh. Địa danh Hương Canh còn có tên nôm cổ là Kẻ Cánh. Tên gọi này bắt nguồn từ giống lúa của địa phương, thứ lúa có hai tia nhọn ở hai bên hạt thóc. Người ta gọi hai tia nhọn ấy là CÁNH và hạt thóc có tên là GIÉ CÁNH được lấy chữ CÁNH làm danh xưng của làng. Ban đầu ở đây mới có một làng Hương Canh, dần dần dân số phát triển mới tách thêm làng lấy tên là Ngọc Canh - nơi có thứ lúa Gié Cánh, hạt gạo đẹp như ngọc. Sau cùng, khi cả hai làng Hương Canh (lúa Cánh thơm), Ngọc Canh (lúa Cánh đẹp) cư dân đông đúc, mới mở rộng sang phía Tây và Tây Bắc thêm một làng nữa và lấy tên là Tiên Canh với nghĩa “lúa Cánh sớm”. Ba ngôi đình của ba làng Hương Canh, Ngọc Canh và Tiên Canh đều được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa quốc gia và hiện đang trong quá trình lập hồ sơ đề nghị xếp hạng cấp quốc gia đặc biệt. Các đình tọa lạc tại vị trí cách nhau từ 50m đến 100m, tạo thành quần thể di tích hoành tráng, kề sát quốc lộ 2A, thuận lợi cho tham quan, du lịch và hành hương. Về các nhân thần được thờ, theo truyền tụng của nhân dân địa phương, sau khi đánh bại quân Nam Hán xâm lược, Ngô Quyền lên làm vua, đóng đô ở Cổ Loa (nay thuộc Hà Nội). Đất nước đã độc lập, hòa bình nhưng Ngô Quyền vẫn không quên đề cao cảnh giác, luyện tập binh mã để phòng giặc. Bấy giờ săn bắn cũng là một hình thức tập trận, nên có lần Ngô Quyền đã cử hai con là Ngô Xương Ngập và Ngô Xương Văn cùng vị tướng thân cận Đỗ Cảnh Thạc mang quân đi tập trận dưới hình thức đi săn. Họ đã hành quân qua Hương Canh, đóng doanh trại tại một gò đất giữa đồng, nhân dân gọi là Gò Ngự. Để ghi lại dấu thiêng và tri ân các vị anh hùng nhà Ngô, nhân dân Hương Canh đã lập ở Gò Ngự một ngôi miếu để thờ các vị, theo quan niệm “sinh vi tướng, tử vi thần” (sống là tướng giỏi - chết là thần thiêng). Đến thời Hậu Lê, nhân dân ba làng Hương Canh, Ngọc Canh và Tiên Canh lại xây dựng mỗi làng một ngôi đình, rước thần hiệu về thờ ở đình và hàng năm đều mở hội, tế lễ như hiện nay. 1.Đình Hương Canh Được hình thành sớm nhất nên làng Hương Canh xây dựng đình trước hai làng còn lại. Tuy không to hơn đình Ngọc Canh và đình Tiên Canh, nhưng đình Hương Canh được gia công, thể hiện nhiều hơn về trang trí, chạm trổ. Đình tọa lạc ở phía Nam thị trấn Hương Canh, mặt tiền hướng Tây Nam, nhìn ra hồ Điếm Lang, đấu trường kéo song và sông Cầu Treo. Trải qua thời gian và những biến cố thăng trầm của lịch sử, gần 300 năm nay đình Hương Canh vẫn đứng đó như thách thức với nắng mưa, chống chọi với thiên nhiên về bộ mái đồ sộ, duyên dáng của mình. Mái đình lợp bằng ngói mũi hài, được xếp đặt một cách thứ tự theo kiểu đóng ốc vảy rồng, rất chặt chẽ, phẳng đẹp. Bờ nóc đình được đắp thẳng ke, các đầu đao cong vút. Toàn bộ mái đình trông như một cánh diều khổng lồ đang động đậy, sắp sửa bay lên không trung. 2.Đình Ngọc Canh được kiến tạo vào thời Hậu Lê, trùng tu vào đầu triều Nguyễn. Trên câu đầu thứ nhất ở đình Ngọc Canh có 2 vế chữ chạm nổi: “Gia Long thập nhị niên, tuế tại Quý Dậu, thập nguyệt, nhị thập lục nhật y cựu thượng lương, trùng tu thổ mộc Giáp Tuất niên, ngũ nguyệt, thập ngũ nhật hoàn thành, hòa ninh đại cát”. (Nghĩa là: Năm Gia Long thứ 12 là năm Quý Dậu, ngày 26 tháng 10, dựng cây nóc như cũ. Chữa lại mộc, ngõa năm Giáp Tuất. Ngày 15 tháng 5 hoàn thành, mong hòa thuận tốt lành). Tính theo dương lịch, Quý Dậu là năm 1813 và Giáp Tuất là năm 1814, việc trùng tu kéo dài 7 tháng. Câu đầu thứ hai khắc là: “Minh mệnh nguyên niên, tuế tại Canh Thìn, lục nguyệt, thập nhất nhật, khởi công trang sức kim chu, chí thập nguyệt, thập nhật, hoàn thành đại cát đại vượng” (Nghĩa là: Năm Minh Mệnh thứ nhất là năm Canh Thìn, ngày 11 tháng 6 khởi công, sơn vẽ vàng son, đến ngày 10 tháng 10 hoàn thành, mong tốt lành lợi vượng). Tính theo dương lịch, Canh Thìn là năm 1820, niên hiệu Minh Mệnh thứ nhất. Việc trang trí kéo dài 4 tháng. 3.Đình Tiên Canh được xây dựng sau cùng, song đình Tiên Canh có quy mô lớn hơn hai đình Ngọc Canh và Hương Canh. Về niên đại xây dựng, khi dỡ thượng lương nhà hậu xuống để phục chế, nét chữ khắc còn rõ rành rành “Cảnh Hưng tam thập thất niên, tuế thứ Bính Thân, thập nhị nguyệt, nhị thập nhị nhật, hoàng đạo thời, thụ trụ thượng lương đại cát lợi vượng thịnh” (Nghĩa là: Niên hiệu Cảnh Hưng thứ 37, năm Bính Thân, tháng 12, ngày 22, giờ hoàng đạo, dựng cây nóc rất tốt lành, lợi vượng nhiều). Chiếu theo dương lịch, Bính Thân là năm 1776. Như vậy nhà hậu của đình được kiến tạo cách ngày nay (2022) đã 300 năm. Câu đầu hữu biên cũ của đại bái khắc “Kỷ Mùi niên, thập nguyệt Ất Hợi, nhị thập nhật Đinh Mùi, Ất Tỵ thời, thụ trụ thượng lượng đại bái” (Nghĩa là: Năm Kỷ Mùi, tháng 10 Ất Hợi, ngày 20 Đinh Mùi, 10 giờ sáng Ất Tỵ, dựng cây nóc nhà đại bái). Như vậy, tòa đại bái đình Tiên Canh được xây cất vào niên hiệu Cảnh Thịnh thứ 8, triều Tây Sơn Nguyễn Quang Toản - 1799, cách ngày nay (2022) đã 223 năm, làm sau nhà hậu 23 năm. Đây là 3 ngôi đình cổ tiêu biểu của nghệ thuật kiến trúc đình làng Bắc Bộ được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ 17, đầu thế kỷ 18. Di tích kiến trúc nghệ thuật cụm đình Hương Canh được công nhận là di tích quốc gia đặc biệt ngày 29/12/2022 của Thủ tướng Chính phủ. Nguồn: Báo Vĩnh Phúc tổng hợp
Vĩnh Phúc 2927 lượt xem
Đền thờ Trần Nguyên Hãn, còn gọi là đền Tả Tướng hay đền Thượng là một công trình kiến trúc nghệ thuật được xây dựng vào thời Hậu Lê cách đây trên 200 năm. Di tích này gắn liền với thân thế và sự nghiệp của anh hùng dân tộc Trần Nguyên Hãn. Ông vốn xuất thân dòng dõi vương tộc nhà Trần và là một vị tướng tài đức song toàn, có công lớn giúp Lê Lợi đánh tan quân xâm lược nhà Minh, giành thắng lợi trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Đền ở thôn Đa Cai, xã Sơn Đông, Huyện Lập Thạch. Đền thờ Trần Nguyên Hãn Tả Tướng Quốc, phò Lê Lợi diệt giặc Minh giải phóng đất nước thế kỷ XV. Đền được xây dựng trên một thế đất bằng phẳng, rộng cao, tương truyền chính là nơi đặt Phủ đệ cũ của Trần Nguyên Hãn. Đền được cấu trúc theo kiểu chữ “Đinh”, xung quanh có tường bao bọc tạo thành khuôn viên chữ “điền” vuông vắn. Các công trình xây dựng gồm 3 phần: Cổng đền, nhà tiền tế, hậu cung. Từ khi xây dựng đến nay, đền đã được tu sửa nhiều lần và xây dựng thêm, chủ yếu vào đời Nguyễn. Nghệ thuật kiến trúc mang phong cách thời Nguyễn: Đục trơn bào nhẵn, trang trí đơn giản. Liên quan tới di tích tương truyền còn có 2 vật cổ: Thanh Gươm và phiến đá mài gươm. Chuyện kể rằng: Trong thời kỳ giặc Minh thống trị nước ta, Trần Nguyên Hãn mới bước vào tuổi thanh xuân. Vì cha mẹ lên khai hoang lập trại ở địa đầu trang Sơn Đông, nên ngày ngày Trần Nguyên Hãn vẫn đi cày, đi cuốc. Trong một lần đi cày ở nương Gò Rạch, Trần Nguyên Hãn cày lên một thanh sắt dài như gươm. Đêm đêm ông đem gươm ra mài ở một hòn đá lớn bên bờ ao Son, vì vậy hòn đá đó có tên là đá mài gươm, hòn đá có một vết lõm trông tựa như vết chém tương truyền đó là vết chém thử gươm của Trần Nguyên Hãn. Thanh gươm được Trần Nguyên Hãn mang bên người, tình cờ Trần Nguyên Hãn được một ông chủ bè ở cửa sông Phú Hậu tặng một thanh gỗ hình chuôi gươm vớt ở dưới lòng sông, khi cắm lưỡi gươm vào thì vừa khít, thanh gươm từ đó công hiệu. Thanh gươm huyền thoại ấy đã gắn liền với những chiến tích lẫy lừng của vị công thần khai quốc thứ nhất triều Lê. Tương truyền, về sau Tôn Thất Thuyết đã mượn thanh gươm ấy đem đi Cần Vương chống Pháp. Còn phiến đá, sau một thời gian dài bị phù sa sông Lô lấp, ngày 12/1/1998 nhân dân thôn Đa Cai tìm thấy ở độ sâu 2m nghiêng về phía ao sen, chiều dài khoảng 2,49m, chiều rộng khoảng 1,6m, bề dày khoảng 0,4m và nặng khoảng 2 tấn. Phiến đá cổ tích này được chính quyền và nhân dân xã Sơn Đông trục vớt lên, chuyển về đặt trong khuôn viên đền thờ Tả Tướng Quốc để mọi người cùng chiêm ngưỡng dấu tích còn lại của người anh hùng thủa trước. Năm 1984, Bộ Văn hóa xếp hạng di tích lịch sử đền thờ Tả Tướng quốc Trần Nguyên Hãn là Di tích quốc gia. Hằng năm, vào những dịp kỷ niệm ngày sinh và ngày mất của ông, nhất là vào dịp đầu Xuân, nhân dân trong vùng và khắp nơi trong cả nước thường về đây dâng hương tưởng nhớ công lao của người Anh hùng dân tộc. Nguồn: Báo điện tử Vĩnh Phúc
Vĩnh Phúc 2907 lượt xem