Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch Travelviet
Tải ứng dụng Travelviet
Bà Rịa - Vũng Tàu 841 lượt xem
Rừng quốc gia Bình Châu sẽ là nơi thách thức những bước chân phiêu lưu, thích chinh phục thiên nhiên khi đến Vũng Tàu đó nha.
Từ Rừng nguyên sinh Bình Châu đi khoảng 2km là bạn sẽ đến được biển Hồ Cốc, một bãi biển nguyên sơ không kém Hồ Tràm thuộc xã Bưng Riềng.
Hồ Tràm là một trong những bãi biển đẹp và hoang sơ nhất thế giới do kênh truyền hình Mỹ CNNGo bình chọn.
Côn Đảo - nơi được bình chọn là một trong những hòn đảo đẹp nhất Châu Á, một trong những bãi biển vắng đẹp nhất thế giới - hiện đang trở thành điểm du lịch hấp dẫn đông đảo du khách trong nước và quốc tế. Thiên nhiên nguyên sơ, những câu chuyện tâm linh bí ẩn, một lịch sử cách mạng hào hùng…thôi thúc bao bước chân du khách đến với nơi đây. Côn Đảo là một quần đảo ngoài khơi của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, nơi cách Tp. Vũng Tàu 97 hải lý. Vì nằm giữa biển nên du khách đến với Côn Đảo sẽ có cơ hội khám phá các bãi biển và vịnh biển đẹp. Một số bãi biển và vịnh biển nổi tiếng ở Côn Đảo như: Bãi Đầm Trầu, Bãi Biển An Hải, Bãi Lò Vôi, Vịnh Đầm Tre, Vịnh Côn Sơn,... Côn Đảo gắn liền với lịch sử cách mạng kiên cường, hào hùng và bi thương của dân tộc ta. Du khách chưa biết Côn Đảo có gì chơi có thể ghé thăm những di tích, địa danh và chứng tích lịch sử như: Dinh Chúa Đảo, Bảo tàng Côn Đảo, Cầu Tàu Lịch sử 914, nhà tù Côn Đảo,.. Hải sản Côn Đảo bạn nên tìm thưởng thức là ốc vú nàng, ốc nón, ốc tai tượng, ốc bàn tay, tôm hùm đỏ, tôm mũ ni, cá mú đỏ, mực một nắng... và các loại cá biển. Đặc sản mang về được bày bán nhiều ở chợ Côn Đảo, gồm các loại hải sản tươi sống, sấy khô và hàng lưu niệm. Du khách chuộng nhất mứt hạt bàng và rượu sâm đất. Vị sâm Côn Đảo ngọt nhẹ, hăng hắc thơm khá giống sâm Hàn Quốc. Dân gian thường lấy củ sâm đất ngâm rượu, tiềm gà, hầm vịt bồi bổ...
Bà Rịa - Vũng Tàu 2513 lượt xem
Từ tháng 3 đến tháng 9
Hòn Bà tại Vũng Tàu là một ốc đảo nhỏ giữa biển với diện tích khoảng 5000m2, nơi đây có vị trí khá gần với đất liền nên được rất nhiều du khách ghé thăm. Đây là địa điểm du lịch tâm linh rất hấp dẫn, trên đảo có ngôi Miếu Bà nổi tiếng linh thiêng. Ngoài ra, du khách khi đến đây còn được chiêm ngưỡng con đường rẽ biển siêu đẹp nối liền hòn Bà và bờ biển nữa đấy. Về vị trí thì hòn Bà tọa lạc tại khu vực Bãi Sau của thành phố Vũng Tàu, nằm cách Mũi Nghinh Phong và chân Núi Nhỏ chỉ khoảng 200m. Nếu muốn nhìn thấy toàn cảnh hòn Bà thì bạn có thể thử lên vai tượng Chúa Kito nha, từ đây sẽ nhìn được bao quát toàn bộ khung cảnh của hòn đảo này. Để thuận tiện cho việc khám phá văn hóa tín ngưỡng tại hòn Bà và du lịch Vũng Tàu thì bạn nên đi vào các dịp lễ cúng như tháng Giêng, tháng 4, 7, 10 Âm lịch mỗi năm. Với những du khách muốn kết hợp tham quan Vũng Tàu luôn thì giai đoạn từ tháng 5 đến tháng 10 sẽ là tốt nhất, lúc này trời mưa ít, nắng nhẹ nên cực kỳ lý tưởng cho việc du ngoạn. Còn giai đoạn từ tháng 11 đến tháng 4, Vũng Tàu sẽ có thời tiết khá nóng. Miếu hòn Bà Vũng Tàu chắc chắn là địa danh đầu tiên mà nhiều du khách sẽ muốn ghé qua. Tên gọi Miếu Bà ra đời từ cuối thế kỷ thứ XVIII, miếu được xây dựng để thờ cúng Thuỷ Long Thần nhằm cầu mong mưa thuận gió hòa để ngư dân an tâm đi đánh bắt. Bà trong từ Miếu Bà là ý chỉ Thuỷ Long Thần là một vị thần nữ. Để Miếu Bà được khang trang như hôm nay, người dân làng Thắng Tam đã rất nhiều lần quyên góp tiền để trùng tu lại miếu. Miếu Bà cũng gắn với một sự tích cực kỳ linh thiêng, vào năm 1939 có một sĩ quan người Pháp là Archinard đã ra lệnh nổ 3 phát đại pháo vào miếu Bà, thế 3 phát thì chỉ trúng một phát. Chỉ vài ngày sau, tên sĩ quan này đã mất mạng tại miếu do sử dụng súng bất cẩn. Chính điều này làm cho quân Pháp cảm thấy miếu Bà rất linh thiêng và không còn dám phá hoại nữa. Ngoài việc du lịch tâm linh tại hòn Bà Vũng Tàu , bạn sẽ còn cơ hội chiêm ngưỡng khung cảnh thiên nhiên tại đây. Tại đây có nguồn không khí trong lành nên thảm thực vật rất phát triển với màu xanh của cây dương, dừa, cau và hoa sứ. Nơi này cũng là một trong số ít những địa danh không bị tác động bởi bàn tay con người, cảnh vật vẫn còn vẹn nguyên nét hoang sơ tự nhiên nên rất phù hợp để khám phá. Khi đến thăm hòn bà, bạn cần lưu ý những điều sau. Đầu tiên cần di chuyển cẩn thận, do trên đường đi có rất nhiều đá sắc nhọn và các mảnh hàu vỡ. Nên cẩn thận vì mặt đá khá trơn trượt, nhớ mang giày để bảo vệ chân được tốt hơn nha. Khi di chuyển chắc chắn sẽ có nhiều du khách khác đi cùng, bạn nên cẩn thận việc xô đẩy, chen lấn. Do nơi đây là địa điểm tâm linh nên bạn nhớ chọn trang phục kín đáo khi tham quan. Con đường biển đến hòn Bà Vũng Tàu thường xuất hiện từ 16 giờ đến 18 giờ nên bạn nhớ chuẩn bị sẵn nước uống và đồ ăn nhẹ. Cuối cùng, Không nên xả rác xuống biển hay tại địa điểm tham quan để chung tay bảo vệ môi trường biển.
Bà Rịa - Vũng Tàu 2232 lượt xem
Từ tháng 5 đến tháng 10
Di tích địa đạo Long Phước cách trung tâm thành phố Bà Rịa khoảng 7 km. Đây là công trình sáng tạo, một chứng tích hào hùng của quân và dân ta trong suốt hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Hình thành ngay trong vùng địch tạm chiếm, địa đạo Long Phước khởi nguồn từ việc người dân đào hầm tránh bom đạn và sự càn quét khủng bố của địch. Phong trào toàn dân đào hầm bí mật sau đó được cán bộ xã Long Phước phát động. Đầu năm 1946, Long Phước có hơn 300m địa đạo luồn sâu dưới lòng đất 3 – 5m. Từ hệ thống địa đạo, du kích và nhân dân Long Phước liên tiếp bẻ gãy nhiều trận càn, trong đó có trận càn lớn vào tháng 10 năm 1949, đảm bảo an toàn cho khu căn cứ Xuyên Phước Cơ, căn cứ kháng chiến của tỉnh, đồng thời là đầu mối giao liên giữa trung ương và Đông Nam Bộ. Đến thời kỳ chống Mỹ, địa đạo Long Phước mở rộng đến hầu hết các ấp trong xã. Quân dân Long Phước lấy địa đạo làm bàn đạp tấn công địch. Đế quốc Mỹ đã phải dùng máy bay rải bom, đạn pháo cày xới, xe tăng, xe ủi cùng hàng ngàn bộ binh đánh địa đạo. Sau đó, hệ thống địa đạo được mở rộng sâu hơn, dài hơn. Địa đạo có hầm bí mật dự trữ lương thực, vũ khí; có nơi cứu chữa thương binh; có các công sự chiến đấu theo thế liên hoàn ở cả 5 ấp thuộc xã Long Phước. Đường hầm dưới địa đạo lan tỏa theo hình xương sống cách mặt đất 2-3m, lòng địa đạo cao hơn 1,5m và rộng hơn 0,7m, người bên trong đi lại, vận động dễ dàng. Sau ngày giải phóng, địa đạo Long Phước được phục dựng, cải tạo trở thành điểm tham quan của du khách, nơi học tập của thế hệ trẻ về truyền thống đấu tranh của cha ông trên mảnh đất Long Phước. Di tích lịch sử cách mạng địa đạo Long Phước được xếp hạng di tích cấp quốc gia vào năm 1990. Di tích này là niềm tự hào, là bản anh hùng ca của người dân Long Phước và toàn thành phố Bà Rịa. Do đó, dự án đầu tư, tôn tạo địa đạo Long Phước được phê duyệt năm 2017. Theo đó, phía bên trên mặt đất sẽ xây nhà truyền thống 3 tầng theo phong cách đình chùa, mái ngói, tường ốp gạch không nung và ốp gạch trang trí. Xây mới nhà ban quản lý di tích với diện tích 115 mét vuông. Xây mới 4 nhà dân thời chiến kiểu nhà chữ Đinh mỗi căn có diện tích hơn 100 mét vuông. Bên dưới lòng đất thực hiện tu bổ hơn 700m đường hầm theo phương pháp gia cố thành hầm xi măng, đắp đất sét. Ngoài ra, nhiều hạng mục phụ trợ khác cũng được xây dựng thêm. Hiện nay du khách có thể trực tiếp trải nghiệm di chuyển trong lòng địa đạo để thấy được sự mưu trí cũng như những khó khăn gian khổ trong thời chiến. Ngoài việc thu hút khách du lịch, di tích này cũng rất thích hợp với các chuyến khám phá tìm hiểu về lịch sử của các chuyên gia, các bạn sinh viên và du lịch về nguồn của đoàn thanh niên.
Bà Rịa - Vũng Tàu 2450 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Ngọn hải đăng Vũng Tàu thuộc đỉnh núi Tao Phùng (phường 2, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu), mở cửa từ 7h30 - 17h00 mỗi ngày (tùy thuộc vào thời điểm). Đây là địa điểm tham quan mà nhiều người truyền tai nhau nhất định phải ghé thăm khi du lịch Vũng Tàu Việt Nam có 79 ngọn hải đăng trải dài khắp đất nước, nhưng hải đăng Vũng Tàu là ngọn hải đăng cổ nhất. Ngọn hải đăng Vũng Tàu là một công trình kiến trúc thuộc tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, được xây dựng bởi người Pháp vào năm 1883 với mục đích đáp ứng nhu cầu vận tải biển của các tàu buôn nước ngoài và quân đội Pháp. Ngọn hải đăng Vũng Tàu có diện tích hơn 3400m2 bao gồm nhiều khu vực như nhà quản đăng, tháp hải quan, hầm chứa,...Cột hải đăng Vũng Tàu có tông màu trắng, được thiết kế theo kiểu hình trụ có độ cao khoảng 18m, đường kiến khoảng 3km. Cột hải đăng được trang bị đèn bật sáng vào mỗi đêm, có thể chiếu sáng với khoảng cách lên đến 63km. Hiện nay, ngọn hải đăng Vũng Tàu vẫn còn hoạt động để hỗ trợ tàu thuyền lưu thông trên biển. Để lên được đỉnh ngọn hải đăng Vũng Tàu, bạn cần đi qua một đường hầm kiên cố, sau đó chinh phục cầu thang xoắn ốc với 55 bậc thang. Bên trong ngọn hải đăng, bạn sẽ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của một nét kiến trúc hoài cổ, mang đậm phong cách phương Tây. Đứng trên đỉnh ngọn hải đăng, bạn sẽ được tận hưởng những đợt gió mát rượi từ biển hướng về. Nếu bạn chọn Vũng Tàu là điểm nghỉ dưỡng sau những giờ làm việc áp lực, thì nhớ lên đỉnh ngọn hải đăng nhé, những ngọn gió nơi đây chắc chắn sẽ làm tinh thần của bạn thư thái vô cùng. Không chỉ là hóng mát, vị trí đắt giá này còn giúp bạn ngắm nhìn toàn cảnh thành phố Vũng Tàu xinh đẹp. Nếu bạn có nhiều thời gian, hãy đi tham quan xung quanh hải đăng Vũng Tàu bạn sẽ phát hiện một bể chứa nước rất lớn cung cấp nguồn nước sinh hoạt cho người dân nơi đây và vườn hoa sứ hàng chục năm tuổi thi nhau đua nở rực rỡ cả một góc hải đăng Vũng Tàu. Ngọn hải đăng Vũng Tàu cách trung tâm thành phố Vũng Tàu khoảng 15km (tương đương với 30 phút lái xe). Nếu bạn đi xe máy, đường đi đến ngọn hải đăng sau đây là con đường phổ biến nhất, bạn có thể tham khảo: Từ trung tâm thành phố Vũng Tàu, bạn đi đường Ba Mươi Tháng Tư, rồi rẽ vào đường Phạm Hồng Thái. Tới cuối đường Phạm Hồng Thái, rẽ trái để vào đường Lê Lợi. Bạn tiếp tục chạy tiếp đến ngã ba, rồi rẽ phải để vào đường Hoàng Diệu. Bạn đi hết đường Hoàng Diệu rồi rẽ trái sẽ thấy được công viên Bãi Trước. Từ công viên Bãi Trước bạn hướng thẳng vào đường Hạ Long. Bạn gặp bến tàu cánh ngầm Vũng Tàu, di chuyển thêm vài chục mét nữa đến Du Thuyền Dương Đông thì rẽ trái Bạn đi thêm 240m nữa thì rẽ phải là thấy được ngọn Hải Đăng Vũng Tàu Trước khi lên được ngọn hải đăng, bạn phải lái xe một vòng Núi Nhỏ mới vào được, khung cảnh ở đây được nhiều du khách khen ngợi hết lời vì quá xinh đẹp. Đoạn đường uốn lượn sát viền núi, xung quanh là những hành cây xanh mát tỏa rợp bóng cả một góc đường. Bạn có thể lái xe chậm để tận hưởng không khí yên bình của cảnh vật nơi đây hoặc chụp vài bộ ảnh lưu lại cảnh đẹp nơi đây.
Bà Rịa - Vũng Tàu 2282 lượt xem
Tháng 11 đến tháng 4 hằng năm
Thích Ca Phật Đài nằm trên một khuôn viên rộng 28ha ở sườn phía Bắc của Núi Lớn, tại địa chỉ 608 Trần Phú, Phường 5, Vũng Tàu. Nơi đây là một điểm tham quan du lịch tín ngưỡng nổi tiếng ở thành phố biển Vũng Tàu. Quần thể Thích Ca Phật Đài có thể tạm chia ra các khu vực: Những ngôi chùa và Khu vườn tượng Phật tích. Thiền Lâm tự là ngôi chùa chính, nằm ngay phía cổng lớn của khuôn viên, hướng đường Trần Phú. Từ đường Trần Phú đi lên sườn núi, khuôn viên được chia làm 3 cấp khu vực. Tam quan và khu vườn hoa ở cấp bậc thấp nhất, cấp thứ hai gồm một số công trình phụ trợ, cấp thứ ba trên cao nhất gồm Thiền Lâm tự và khu vườn tượng Phật tích. Qua khỏi Tam quan là một dãy bậc thang dẫn lên khu mặt bằng cấp 2 trên sườn đồi, sau một khoảnh sân nhỏ tiếp tục tới dãy bậc thang khá dốc dẫn thẳng lên chính điện Thiền Lâm tự - vị trí thấp nhất của mặt bằng cấp 3. Thiền Lâm tự là một ngôi chùa khá đơn sơ được xây dựng từ khoảng năm 1957, do một viên công chức người Việt trong chính quyền thực dân Pháp dựng nên để tu hành sau khi về hưu. Ngoài Thiền Lâm tự, trong khuôn viên Thích Ca Phật Đài còn có một số ngôi chùa khác nữa, là chùa Hộ Pháp và chùa Hoa Sơn, đều nằm khu vực phía sau Tháp thờ Xá lợi và tượng Đức Phận nhập Niết bàn. Chùa Hộ Pháp vốn được xây dựng từ năm 1970, ban đầu mang tên Tịnh thất Thiện Huệ, đến năm 1972 được đổi thành Thiền đường Hộ Pháp. Còn ngôi chùa mới được hoàn thành vào năm 2004 ở vị trí kề bên của Thiền đường Hộ Pháp. Nằm khá gần với chùa Hộ Pháp là ngôi chùa nhỏ xinh xắn Hoa Sơn, nhưng ở một vị trí cao hơn trên sườn núi, đi từ khu vực phía trước tượng Đức Phật nhập Niết bàn, lên một dãy bậc thang vài chục bậc mới tới cổng chùa Hoa Sơn Chùa Hoa Sơn được cố Hòa thượng Thích Huệ Chơn (1943 – 2019) khai mở từ năm 1969 – ban đầu chỉ là một am tranh đơn sơ – để tu tập, rồi dần về sau được xây dựng lên như hiện nay, cơ bản vẫn là một ngôi chùa nhỏ, đơn giản mà trang nhã. Phần rất quan trọng của quần thể Thích Ca Phật Đài là khu vườn tượng Phật tích, tái hiện lại các điểm nhấn chính trong cuộc đời của Đức Phật Thích Ca. Từ Thiền Lâm tự, qua một dãy bậc thang để đi lên khu quần thể vườn tượng Phật tích. Tượng Bồ Tát đản sinh được đặt tại mặt bằng cùng cấp với chính điện Thiền Lâm tự, ngay cạnh lối bậc thang dẫn lên các cụm tượng phía trên. Tượng được thể hiện dưới hình tượng cậu bé đang chỉ một tay lên trời. Cụm tượng về giai đoạn cuộc dời tiếp theo của Đức Phật là cụm Bồ Tát xuất gia, được bố trí trên một sườn dốc cao bên trái con đường bậc thang dẫn từ Thiền Lâm tự lên, bên phải con đường này, dối diện với cụm tượng Bồ Tát xuất gia, là cụm tượng Voi, khỉ dâng hoa quả. Cụm tượng Bồ Tát xuất gia thể hiện hình ảnh Đức Phật xuất gia, dưới hình tượng Thái tử Tất Đạt Đa đang xuống tóc, bên cạnh là người hầu và chú ngựa bạch Kiền Trắc. Công trình quan trọng nhất của cả quần thể: Thích Ca Phật Đài – được dùng làm tên gọi cho cả quần thể kiến trúc này – thể hiện thời điểm Bồ Tát thành đạo. Ngược thời gian trở lại thời điểm những năm 1940 của thế kỷ trước, một vị sư người Sri Lanka là Hòa thượng Narada Maha Thera trong một lần sang thuyết pháp ở Vũng Tàu đã gặp và quen với một vị công chức người Việt (về sau chính là người dựng chùa Thiền Lâm tự để tu tập). Đến năm 1960 ông lại trở lại Vũng Tàu và thường lưu lại chùa Thiền Lâm. Ông đã trồng tại đây một cây Bồ đề, được mang từ cố đô Anuradhapura của Sri Lanka (cây này được chiết ra từ cây gốc ở Bồ Đề đạo tràng – được cho là nơi Đức Phật giác ngộ), đồng thời ông nêu ra ý tưởng xây dựng ở đây một bảo tháp để thờ Xá lợi Phật. Ý tưởng xây dựng Tháp thờ Xá lợi của Hòa thượng Narada đưa ra liền được các Phật tử hưởng ứng, bên cạnh đó họ còn đề xuất xây dựng thêm Thích Ca Phật Đài – còn được gọi là tượng Kim thân Phật Tổ – và nhiều Phật tử đã chung tay đóng góp tài chính để xây dựng tượng này. Bệ tượng có mặt bằng hình bát giác, cao 5.6 mét. Tượng Phật ngồi trên tòa sen cao 6 mét, được hoàn thành năm 1962 và trong thân tượng đặt 3 viên ngọc Xá lợi của Đức Phật. Cụm tượng Đức Phật chuyển Pháp luân được đặt trong ngôi nhà bát giác, bài trí tượng Đức Phật chuyển Pháp luân ngồi trên tòa sen, năm anh em Kiều-Trần-Như ngồi nghe thuyết pháp tại vườn Lộc Uyển. Tôn giả Kiều-Trần-Như là vị đệ tử đầu tiên của Đức Phật chứng quả A-la-hán, thành viên đầu tiên của Tăng đoàn. Ông cùng các anh em của mình – được gọi là “năm anh em Kiều-Trần-Như” – là những người được Đức Phật thuyết pháp đầu tiên trong sự kiện chuyển Pháp luân của Phật giáo. Vườn Lộc Uyển là một trong số các địa điểm linh thiêng của Phật giáo tại thành phố Sarnath, bang Uttar Prades, Ấn Độ - nơi được cho là Đức Phật Thích Ca đã giảng bài pháp đầu tiên (Kinh chuyển Pháp luân) cho những đệ tử đầu tiên (anh em Tôn giả Kiều-Trần-Như). Cụm tượng Voi và khỉ dâng hoa quả được đặt ở khu vực giữa cụm Bồ Tát xuất gia và cụm Đức Phật chuyển Pháp luân, cụm tượng này kể lại sự tích một con voi trắng và một con khỉ trắng vốn đều là chúa đàn của mình, về già không còn được đàn coi trọng nên chán nản tách ra tìm vào rừng sâu ẩn lánh, tình cờ gặp Đức Phật tu thiền, được Ngài cảm hóa mà vui mừng hoan hỉ tình nguyện phục vụ Đức Phật. Tượng Đức Phật nhập Niết bàn được đặt ở vị trí cao nhất trong khu vườn tượng Phật tích. Từ khu vực các cụm tượng Đức Phật chuyển Pháp luân, Voi và khỉ dâng hoa quả gần đó, phải vượt qua một số bậc thang mới lên tới khu vực đặt tượng Đức Phật nhập Niết bàn. Từ phía sân trước của cụm tượng này có lối nhỏ dẫn lên chùa Hoa Sơn đã nói ở phần trước. Tượng Đức Phật nằm quay về hướng Tây, dài hơn 12 mét, cao 2.4 mét, xung quanh bệ tượng bài trí tượng 9 vị Tỳ-kheo đứng chắp tay. Cụm kiến trúc cuối cùng trong khu vườn Phật tích là ngôi Tháp thờ Xá lợi Phật, đã được nhắc đến, khi Hòa thượng Narada đưa ra ý tưởng xây dựng từ năm 1960. Sau một thời gian vận động quyên góp, ngày 4/6/1961 diễn ra lễ đặt viên đá đầu tiên để xây tháp; lễ khởi công xây dựng chính thức được tiến hành vào ngày 20/7/1961. Công trình được hoàn thiện việc xây dựng vào ngày 30/1/1962, và lễ khánh thành được tiến hành hơn 1 năm sau đó, ngày 10/3/1963.
Bà Rịa - Vũng Tàu 2489 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Bạch Dinh được gọi theo tên tiếng Pháp là Villa Blanche nghĩa là biệt thự trắng, nằm bên sườn núi lớn của thành phố Vũng Tàu tại địa chỉ số 4 đường Trần Phú, P.1, TP. Vũng Tàu. Mặt trước hướng ra biển, lưng tựa vào núi tạo cho Bạch Dinh một thế vững chắc. Bạch Dinh là tòa nhà 3 tầng, cao 19m, dài 25m, toàn bộ ngôi nhà được quét vôi trắng, cửa mái vòm, mái lợp ngói. Khi đến tham quan biệt thự, du khách có thể thấy được kiến trúc Pháp từ hình dáng đến cách bày trí với những mảng viền trang trí rất nghệ thuật. Bạch Dinh được xây dựng từ năm 1898 đến năm 1902, từng dùng là nơi nghỉ mát cho Toàn quyền Đông Dương, Hoàng đế Bảo Đại và các đời Tổng thống Việt Nam. Nơi đây cũng là nơi chính quyền thuộc địa Pháp làm nơi giam lỏng vua Thành Thái từ ngày 12 tháng 9 năm 1907 đến năm 1916. Có 2 lối lên Bạch Dinh. Nếu bạn đi xe hơi thì có 1 đường uốn quanh chạy dưới rừng cây gá tỵ dẫn lên tới tiền sảnh. Còn 1 đường đi bộ qua 146 bậc tam cấp cổ xưa, kín đáo nằm giữa hai hàng sứ cao niên. Bạch Đình mang đậm hơi thở của Pháp, đến đây bạn có thể thấy được đặc trưng của kiến trúc Pháp. Tầng hầm của biệt thự dùng để nấu ăn, tầng trệt dùng làm nơi để tiếp khách. Tầng trệt còn bài trí những hiện vật cổ xưa dùng để trang trí nội thất như: Song bình Bách điểu chầu phụng, bộ tràng kỷ Hoàng Gia ghi niên đại Khải định năm 1921, cặp ngà voi Châu Phi dài 170cm, bộ tam đa ngũ thái Phúc – Lộc – Thọ. Vì mang đậm kiến trúc Pháp lên tầng lầu có rất nhiều cửa sổ, mỗi cửa sổ có một view khác nhau, nhìn ra cảnh vật xung quanh thật thích thú, đứng từ đây gió thổi qua cửa sổ mát lạnh. Tầng lầu thoáng đạt thích hợp là nơi dành để nghỉ ngơi. Nguyên liệu để trang trí Bạch Dinh chủ yếu là sứ men. Khi đi xung quanh du khách sẽ thấy trên từng mảng tường là những gương mặt phụ nữ châu Âu xinh đẹp, đôi chim công xòe cánh phô những chấm bạc lấp lánh, đôi cá chép uốn lượn như muốn hóa rồng…Từng chi tiết sắc sảo tôn lên vẻ đẹp của Bạch Dinh. Đặc biệt du khách không khỏi ngạc nhiên với 8 bức tượng bán thân bằng sứ men, mang phong cách của nghệ thuật Hy Lạp cổ đại bao quanh 3 mặt tường của dinh thự. Lúc bình minh hay chiều tà, ánh nắng chiếu vào khiến bức tượng càng thêm lấp lánh, tráng lệ diệu kì. Bạch Dinh không chỉ thu hút du khách bởi kiến trúc mà còn thu hút bởi khung cảnh thơ mộng nơi đây. Khi đặt chân đến đây, du khách không khỏi ngỡ ngàng như đang lạc vào tòa lâu đài cổ kính giữa rừng đầy kì bí. Vào mùa mưa, rừng bao quanh Bạch Dinh xanh ngút ngàn, từng cành lá giá tỵ xòe ô che kín lối đi. Vào mùa lá rụng đâu đâu ở đây cũng bắt gặp hoa sứ, nguyên cả con đường lên Bạch Dinh cũng ngập tràn sắc đỏ, trắng, hồng rực cả đường đi và cả khu vườn. Với vị trí đắc địa, từ Bạch Dinh có thể nhìn ra Bãi Trước, có thể nhìn bao quát ra cảnh biển, du khách có thể cảm nhận hơi thở của thành phố Vũng Tàu. Hiện nay Bạch Dinh được dùng làm bảo tàng trưng bày bộ sưu tập gốm sứ quý hiếm thời Khang Hy vớt được từ các tàu cổ đâm tại khu vực Hòn Cau – Côn Đảo, súng thần công cùng nhiều hiện vật có giá trị khác.
Bà Rịa - Vũng Tàu 2374 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Nhà lưu niệm và tượng đài anh hùng Võ Thị Sáu nằm ở ngã tư Đất Đỏ, thuộc xã Phước Long Thọ - Huyện Đất Đỏ. Ngôi nhà vách gỗ, mái ngói cổ xưa nơi mà chị đã từng sống thời niên thiếu cùng gia đình có các kỷ vật, vật dụng đơn sơ, có bàn thờ tổ tiên và bàn thờ chị đặt ở gian ngoài. Năm 1980 ngôi nhà được ủy ban nhân dân huyện Đất Đỏ tu bổ lại khang trang như ngày nay. Võ Thị Sáu là một nữ du kích trong Chiến tranh Việt-Pháp ở Việt Nam, người nhiều lần thực hiện các cuộc mưu sát nhắm vào các sĩ quan Pháp và những người Việt cộng tác với chính quyền thực dân Pháp tại miền Nam Việt Nam. Nhà nước Việt Nam xem cô như một biểu tượng Liệt nữ Anh hùng tiêu biểu trong cuộc kháng chiến chống Pháp và đã truy tặng cho cô danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân năm 1993. Võ Thị Sáu sinh năm 1933, là con ông Võ Văn Hợi và bà Nguyễn Thị Đậu. Về nguyên quán, trên bia mộ chỉ ghi tại huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Chị sinh ra trong một gia đình nghèo, cha làm nghề đánh xe ngựa chở khách thuê đi Long Điền, Phước Hải, mẹ buôn bán bún bì chả tại chợ Đất Đỏ, từ nhỏ, chị phải phụ giúp cha mẹ để sinh kế. Sau khi quân Pháp tái chiếm vùng Đất Đỏ, cuối năm 1945, các anh trai của chị Sáu đã thoát li gia đình, hoạt động kháng chiến cho phong trào Việt Minh. Chị đã bỏ dở việc học, ở nhà giúp mẹ cha kiếm sống và bí mật tiếp tế cho các anh, vốn công tác trong Chi đội Giải phóng quân của tỉnh Bà Rịa. Năm 1946, chị theo anh trai là Võ Văn Me vào khu kháng chiến, và trở thành liên lạc viên của Đội Công an xung phong Đất uân Pháp; đặc biệt là trận tập kích bằng lựu đạn tại lễ kỉ niệm Quốc khánh Pháp ngày 14 tháng 7 năm 1949 tại Đất Đỏ, gây được tiếng vang lớn ở vùng Đất Đỏ. Năm 1947, chị chính thức trở thành đội viên Công an xung phong Đất Đỏ khi mới 14 tuổi. Từ đó, chị tham gia nhiều trận tập kích bằng lựu đạn, ám sát các sĩ quan người Pháp và Việt gian cộng tác với Thực dân Pháp tạo được tiếng vang và sự ủng hộ của quần chúng nhân dân trong vùng. Vào tháng 12 năm 1949, trong một chuyến công tác tại Đất Đỏ, chị Võ Thị Sáu đã bị quân Pháp bắt được. Một số tài liệu khác ghi cô bị bắt vào tháng 2 năm 1950, sau khi chị và đồng đội dùng lựu đạn tập kích giết chết Cả Suốt và Cả Đay, là hương chức người Việt cộng tác đắc lực với quân Pháp, ở ngay phiên chợ Tết Canh Dần tại chợ Đất Đỏ. Trong ngục giam những người bị án tử hình, Chị vẫn hồn nhiên, vui tươi, tin tưởng vào ngày chiến thắng của Tổ Quốc. Dù các luật sư biện hộ cho chị đã phản ánh với lý do chưa đủ 18 tuổi nhưng thực dân Pháp vẫn ngoan cố tuyên án tử hình. Trước khi bị đưa ra thi hành án, Chị bị đày qua các nhà tù Chí Hòa, Bà Rịa và Côn Đảo. Vì quân Pháp không dám công khai thi hành bản án đối với Chị, chúng đã lén lút đem cô đi thủ tiêu. Chuyện vẫn kể rằng, khi nhóm đao phủ bảo chị quỳ xuống, Chị đã quát lại bọn chúng với một câu đã đi vào huyền thoại, Tao chỉ biết đứng, không biết quỳ. Chị bị xử bắn năm 1952 tại Côn Đảo khi chưa đủ 18 tuổi. Cách đó chừng 100m là công viên tượng đài và đền thờ anh hùng Võ Thị Sáu. Tượng chị được đặt ở đó, một nơi thoáng mát, bốn mùa ngát hương với hoa sứ, hoa ngọc lan, hoa lekima. Một nơi đẹp , yên bình và tĩnh lặng. Tượng được đúc bằng đồng, cao 7m, tạo theo thế chị Sáu ung dung ra pháp trường, tà áo vẫn tung bay trong gió. Một con người hiên ngang, bất khuất, kiên cường, và không bao giờ đầu hàng trước gian khó, hiểm nguy. Đền thờ là nơi cho dân chúng đến phúng viếng, tưởng niệm anh hùng và là nơi trưng bày hiện vật, giới thiệu hình ảnh về cuộc đời hoạt động của anh hùng liệt sỹ Võ Thị Sáu cùng một số hình ảnh về quê hương Đất Đỏ. Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
Bà Rịa - Vũng Tàu 2970 lượt xem
Nhà truyền thống cách mạng TP Vũng Tàu (số 1, Ba Cu, TP Vũng Tàu) trước đây là trụ sở Ủy ban Việt Minh. Trải qua các thời kỳ chiến tranh, nơi đây vẫn còn lưu giữ nguyên vẹn các hình ảnh về ký ức lịch sử đấu tranh hào hùng của quân dân Bà Rịa - Vũng Tàu. Nhà truyền thống cách mạng TP Vũng Tàu được xây dựng từ năm 1908-1913 với diện tích đất rộng 6.580m2. Nhà được xây dựng theo kiến trúc công sở thời Pháp thuộc, vốn là văn phòng chỉ huy quân sự khu vực Vũng Tàu từ thập niên đầu của thế kỷ 18 đến khi Nhật đảo chính Pháp. Đó là một ngôi biệt thự xây cất đồ sộ có hai tầng thoáng mát, đủ tiện nghi, nằm sát biển ở Bãi Trước. Trong khu biệt thự còn có văn phòng tham mưu trực thuộc, nơi thường xuyên có sĩ quan Pháp làm việc. Các đồng chí lãnh đạo Ủy ban Việt Minh đã nhanh chóng bắt liên lạc với xứ ủy Nam kỳ qua đồng chí Dương Bạch Mai, nhận Chỉ thị chuẩn bị cướp chính quyền. Qua đó trích “Chương trình Việt Minh”, viết truyền đơn rải khắp thị xã kêu gọi nhân dân Vũng Tàu nổi dậy và chuẩn bị lực lượng vũ trang làm bạo lực cách mạng cho cuộc khởi nghĩa. Trong những ngày khởi nghĩa, các đồng chí lãnh đạo cốt cán cùng lực lượng bảo vệ, cảm tử quân hơn 40 người ngày đêm túc trực, làm việc tại trụ sở. Ngày 28/8/1945, tại sân vận động Lam Sơn cách trụ sở Ủy ban Việt Minh 300m, dưới sự lãnh đạo của Ủy ban Việt Minh Thị Xã Vũng Tàu, cuộc mít tinh khởi nghĩa giành chính quyền của nhân dân địa phương giành thắng lợi. Trong những năm tháng đấu tranh gian khổ, ác liệt của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Ủy ban Việt Minh đóng vai trò là lãnh đạo nòng cốt bám trụ Vũng Tàu, Bà Rịa và các tỉnh miền Đông Nam bộ. Cuối năm 1945, Vũng Tàu-Bà Rịa sát nhập thành 1 tỉnh, các đồng chí lãnh đạo trong Ủy ban Việt Minh và chi bộ Đảng được điều về Bà Rịa, trụ sở cũng được di dời. Sau khi đất nước được giải phóng, di tích trụ sở Ủy ban Việt Minh đã có những đóng góp không nhỏ vào công tác du lịch của thành phố biển Vũng Tàu. Năm 1978, di tích đã được xây dựng thêm một số công trình phụ như nhà trệt ở phía sau, lắp đặt máy điều hòa nhiệt độ ở bên trong, xây thêm phòng trên lầu, cải tạo mặt bằng ngoại thất… Tuy nhiên không làm ảnh hưởng nhiều đến cảnh quan xung quanh và thiết kế chính của ngôi nhà. Năm 1991, trụ sở Ủy ban Việt Minh được Bộ Văn Hoá-Thông Tin công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia và đổi tên thành Nhà truyền thống cách mạng TP Vũng Tàu. Hiện nay, để phục vụ nhu cầu tìm hiểu lịch sử, tham quan di tích của người dân địa phương, bên trong hai tầng nhà truyền thống được sử dụng làm thư viện, nơi trưng bày, triển lãm, tổ chức hội họp. Phía tầng lầu là phòng trưng bày hình ảnh, tư liệu lịch sử, hình ảnh lãnh đạo của thành phố qua các thời kỳ và nhiều những hiện vật khác... Nguồn: Báo Bà Rịa - Vũng Tàu điện tử
Bà Rịa - Vũng Tàu 2515 lượt xem
Hầm thủy lôi trên Núi Lớn (thuộc địa bàn phường 5, TP Vũng Tàu ngày nay) do phát xít Nhật xây dựng vào năm 1944. Đây là nơi làm kho chứa vũ khí đánh thủy của quân Nhật. Tuy nhiên, với tinh thần chiến đấu gan dạ, quân ta đã nhiều lần đột nhập vào hầm thủy lôi, lấy vũ khí của địch để chế tạo vũ khí đánh địch. Tháng 7/1941, Nhật buộc Pháp phải ký hiệp ước “Cam kết phòng thủ chung Đông Dương” với Nhật. Với hiệp ước này, Nhật đã chỉ huy Pháp hoàn toàn về mặt quân sự. Đến tháng 10/1941, Nhật đổ bộ vào Vũng Tàu, nhanh chóng chiếm vị trí quan trọng trên Núi Lớn án ngữ cửa biển Vũng Tàu – Cần Giờ. Từ năm 1941-1945, quân phát xít Nhật cho xây dựng nhiều lô cốt, hầm ngầm, hầm chứa đạn, thủy lôi ở lưng chừng Núi Lớn ven theo bờ biển nay thuộc phường 5, TP.Vũng Tàu. Tuy hầm thủy lôi đơn thuần chỉ là kho dùng để cất giữ vũ khí quân sự của quân Nhật, nhưng cũng không kém phần công phu trong quá trình xây dựng. Hầm thủy lôi được xây dựng vào năm 1944, sau 4 tháng thì hoàn tất. Hầm được xây dựng dưới một thung lũng núi kín đáo, xây theo hình vòm, bên trong hầm là vách bê tông cốt thép dày 1m, cao 2,7m. Mặt trước cửa hầm xây đá cao 7m, dài 20m. Các hầm được bố trí thông nhau theo hình chữ U. Hầm chủ yếu tích trữ mìn, thủy lôi để phòng thủ bờ biển, tạo nên một trận địa dưới nước án ngữ cửa biển Vũng Tàu-Cần Giờ. Chiến tranh thế giới lần thứ 2 kết thúc, Nhật đầu hàng quân đồng minh nên đã gỡ những quả thủy lôi dưới biển đưa lên núi cho vào hầm cất giữ và gài chất nổ bên ngoài. Sự thất thế của Nhật trên chiến trường đã tạo điều kiện thuận lợi cho cách mạng Việt Nam từng bước giành thắng lợi. Trong những năm kháng chiến chống Nhật, chống Pháp lâu dài và gian khổ, quân dân Vũng Tàu đã cùng với quân dân Biên Hòa, Bà Rịa không những đánh bại những cuộc càn quét dài ngày của địch vào chiến khu Đ, rừng Sác mà còn tiến sâu vào hậu địch đánh thắng nhiều trận oanh liệt. Trong thời kỳ chiến tranh, những trận đột kích thành công vào hầm thủy lôi Núi Lớn là những chiến công của quân dân Vũng Tàu. Từ vùng Bà Trao (núi Nứa - xã đảo Long Sơn), lực lượng vũ trang và an ninh của ta dựa vào dân đã nhiều lần đột nhập vào hầm đạn và hầm thủy lôi núi Lớn, chiếm lấy khí tài quân sự, vũ khí của địch để trang bị cho quân ta. Việc lấy thủy lôi trở thành một chiến dịch với sự tham gia của hàng trăm người, diễn ra vào buổi tối và hết sức bí mật. Lực lượng ta chia thành các tổ: ám hiệu, canh gác, tháo gỡ lựu đạn, chuyển tải thủy lôi, nuôi quân… Theo kế hoạch, khi có ám hiệu khói lửa, các chuyến ghe của quân dân ta ở Bà Trao từ từ cập sang cảng Bến Đá -Vũng Tàu để tiếp nhận và vận chuyển vũ khí lấy được của địch từ hầm thủy lôi. Tổ canh gác chia làm 2 nhóm cảnh giới từ đầu dốc Bến Đá và gần khu vực tượng Phật Bà Quan Âm bây giờ. Tổ tháo gỡ lựu đạn sẽ cùng với đặc công, du kích, cảm tử quân Thắng Nhì vào hầm thủy lôi, người soi đèn, người gỡ lựu đạn mở cửa, khi lấy xong gài lựu đạn lại như cũ. Nhóm chuyển tải thủy lôi ra ngoài gồng gánh nhau trèo lên sườn núi trong đêm tối mịt mù, khiêng thủy lôi xuống núi, chuyển thẳng ra ghe về bến an toàn. Tổ nuôi quân gồm các bà, các chị lo vận chuyển thức ăn và dầu đốt đèn cho mọi người tham gia các trận đột kích. Cuối tháng 6/1947, sau khi quân địch (quân Pháp tái chiếm lần thứ 2) rút khỏi bốt Bến Đình, các hoạt động đột kích hầm thủy lôi của quân dân ta dễ dàng hơn. Lực lượng của ta đã vận chuyển trung bình một lần 2 trái thủy lôi ra khỏi hầm, mỗi trái nặng hơn 100kg. Trong khoảng thời gian từ năm 1945 - 1954, quân ta đã bí mật lấy khoảng 60 trái thủy lôi để chế tạo bom, mìn làm vũ khí tiêu diệt địch. Ngày 4/8/1992, hầm thủy lôi Núi Lớn được xếp hạng Di tích lịch sử quốc gia. Nguồn: Báo Bà Rịa - Vũng Tàu điện tử.
Bà Rịa - Vũng Tàu 2379 lượt xem
Đình thần Thắng Tam tọa lạc trên đường Hoàng Hoa Thám, Phường Thắng Tam, thành phố Vũng Tàu, đây là một quần thể gồm Đình thần Thắng Tam, miếu Ngũ Hành và lăng Cá Ông. Đình thần Thắng Tam được xây dựng từ đời vua Minh Mạng, ban đầu đình chỉ được làm bằng tre lá, đến năm 1835 nhân dân đã đóng góp tu sửa, lợp mái ngói cho đình và đến năm 1965 đình được trùng tu, xây dựng kiên cố và giữ nguyên bố cục kiến trúc như ngày nay. Đình thờ chung cả ba người đã có công xây dựng nên ba làng ở Vũng Tàu, đó là Phạm Văn Dinh, Lê Văn Lộc và Ngô Văn Huyền. Vào thời vua Gia Long, bọn hải tặc thường hay đột nhập cửa sông Bến Nghé đón đường cướp bóc tiền bạc, hàng hoá. Để bảo vệ thương thuyền của người Việt, vua Gia Long liền phái ba đội quân đi trên ba chiếc thuyền bảo vệ sự thanh bình của bờ biển cửa ngõ, và khai hoang lập ấp, làm ăn sinh sống. Khoảng năm Minh Mạng thứ 3 (1822), tình trạng hải tặc không còn nữa, nhà vua ban chiếu khen thưởng chức tước, phẩm hàm và phần đất mà ba đội quân có công khai phá cho họ. Từ ba vị trí của ba đội quân dần dần hình thành nên ba làng. Làng thứ nhất gọi là làng Thắng Nhất do ông Phạm Văn Dinh cai quản, làng Thắng Nhì do ông Lê Văn Lộc cai quản, làng Thắng Tam do ông Ngô Văn Huyền cai quản. Sau này, ba ông trở thành Tiền Hiền được thờ tại ba ngôi đình của ba làng nói trên. Đình có kiến trúc theo lối nối tiếp gồm bốn ngôi nhà nối liền nhau bằng một lối đi bên hông, đó là Tiền Hiền – Hội Trường – Đình Trung – Sân khấu võ ca. Trong đình bài trí nhiều đồ lễ chạm trổ tinh xảo, sơn son thếp vàng lộng lẫy. Ngôi Tiền hiền được lợp bằng ngói âm dương, trên mái có “lưỡng long chầu nguyệt” đắp nổi. Đầu các đòn tay, xà gồ, cột đều chạm khắc hình rồng. Nội thất nhà Tiền Hiền bày 4 bàn thờ gồm bàn thờ Thổ Công, Tiền Hiền, Hậu Hiền và Tiền Vãng - Hậu Vãng. Hội trường là nơi sinh hoạt của các hội viên. Tiếp sau phần hội trường là ngôi Đình Trung có cấu trúc tương tự ngôi Tiền Hiền, bày 10 bàn thờ gồm bàn thờ Thần Nông, Thiên Y A Na, Ngũ Đức, Thánh Phi, Hậu Hiền, Hội Đồng, Phụ Án - Cao Các, Thiên Sư, Ngũ Thơ và Ngũ Tự - Tiền Hiền. Còn sân khấu võ ca là nơi diễn tuồng, hát bội khi đình có lễ. Miếu Bà Ngũ Hành Phía bên tay trái cổng khu di tích là Miếu Bà Ngũ Hành. Miếu được xây dựng vào cuối thế kỉ 19 thờ năm bà nữ thần: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Ngoài ra miếu còn thờ 2 vị hộ quốc được vua thăng Thượng Đẳng Thần là bà Thiên Y A Na và Thủy Long Thần Nữ. Miếu Bà Ngũ Hành được xây dựng theo lối kiến trúc một gian hai chái, trên mái có lưỡng long chầu nguyệt. Trong Miếu có 8 bàn thờ: giữa chính điện là bàn thờ 5 bà Ngũ Hành và hai vị Thượng Đẳng Thần; hai bên là bàn thờ 5 cô và 5 cậu; bên trái thờ Quan Công, Quan Bình và Châu Xương là những bậc trung nghĩa sẵn sàng cứu hộ những người đi biển khi họ gặp chuyện không may; Bên phải là bàn thờ Ông Địa – Thổ Công; phía sau là bàn thờ Tiền Hiền và những người giàu lòng nhân ái, độ lượng trong làng. Lăng Cá Ông nằm bên phải của khu di tích được xây dựng cùng thời kỳ với Miếu Bà ngũ Hành. Trong lăng hiện nay có một phần bộ xương của Cá Ông khổng lồ do ngư dân Vũng Tàu vớt được từ khoảng 100 năm trước. Lăng có kiến trúc theo lối cổ xưa, bên trong trưng bày tủ kính lớn chứa xương của Cá Ông và tương xứng với ba bàn thờ. Hai bên có thêm hai bàn thờ của Bà Sáu (Thần Rùa) và tổ nhạc. Hiện nay, khu di tích Đình thần Thắng Tam còn lưu giữ 12 sắc phong của vua Thiệu Trị và Tự Đức, trong đó có 6 sắc phong cho Đại Càn Quốc Gia Nam Hải (Cá Ông), 3 sắc phong cho Thiên Y A Na diễn Ngọc Phi và 3 sắc phong cho Thủy Long Thần Nữ. Hàng năm, đình thần Thắng Tam có 3 lễ hội lớn là cầu an (từ 17 đến 20 tháng 2 âm lịch), Nghinh Ông (từ 16 đến 18 tháng 8 âm lịch) và miếu Bà (từ 16 đến 18 tháng 10 âm lịch). Nguồn: Trung tâm xúc tiến đầu tư, thương mại, du lịch tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
Bà Rịa - Vũng Tàu 2321 lượt xem
Khu di tích lịch sử Côn Đảo (Nhà tù Côn Đảo) thuộc huyện Côn Đảo, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, gồm hệ thống nhà tù ở Côn Đảo và các nghĩa trang thuộc hệ thống nhà tù này. Trong lịch sử, chính quyền thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đã cho xây dựng 127 phòng giam, 42 xà lim và 504 phòng giam biệt lập - “chuồng cọp” tại khu vực Côn Đảo. Sau khi đất nước hoàn toàn thống nhất (1975), chức năng của hệ thống nhà tù ở Côn Đảo bị giải thể. Năm 1979, Khu di tích lịch sử Côn Đảo đã được Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt, với 17 di tích thành phần. 1. Nhà Chúa Đảo Khu vực này từng là nơi ở và làm việc của 53 đời Chúa Đảo, trong khoảng thời gian hệ thống nhà tù ở Côn Đảo duy trì hoạt động. Sau ngày giải phóng (1975) đến nay, nhà Chúa Đảo được sử dụng làm nơi trưng bày của Khu di tích lịch sử Côn Đảo. 2. Cầu Tàu Cây cầu được khởi dựng từ năm 1873. Đây cũng là nơi chứng kiến nỗi cực nhục đầu tiên của những người bị đưa ra đảo tù đày. Con số 914 được đặt tên cho cầu cũng là số tù nhân đã bị “ngã xuống” vì lao dịch, tai nạn trong quá trình lao động khổ sai để xây cầu. 3. Trại 1 Trại 1 còn được biết đến qua các tên gọi khác, như Banh 3, Lao 3, Trại Bác Ái, trại Phú Thọ. Trại được xây dựng năm 1928, trên tổng diện tích khoảng 12.700m2. Trong đó, diện tích phòng giam là 1.200m2, bao gồm 3 dãy khám giam, nhà y tế, nhà bếp và nhà ăn, phòng giam tập thể và phòng biệt lập, dãy nhà cầm cố (giam cầm). 4. Trại 2 Trại còn có các tên gọi khác, như Banh 1, Lao 1, Trại Cộng Hòa. Đến tháng 11 năm 1974, trại này được gọi là trại Phú Hải. Trại 2 được xây dựng từ năm 1862 và được chỉnh trang kiên cố vào năm 1896, với diện tích 12.040m2, gồm 02 dãy khám giam, 20 xà lim, bệnh xá, nhà nguyện, giảng đường, khu đập đá, câu lạc bộ, nhà Giám thị... , được bao bọc bởi bốn bức tường cao hơn 4m, xung quanh bố trí nhiều bốt gác. Đây là trại giam lớn và cổ nhất ở Côn Đảo. 5. Trại 3 Trại còn được biết đến qua các tên gọi khác, như Banh 2, Lao 2, Trại Nhân Vị, Trại 3, Trại Phú Sơn. Trại được xây dựng năm 1916, nằm cạnh Banh 1, với diện tích 13.228m2, gồm 13 khám lớn, 14 xà lim, 1 phòng hớt tóc, miếu thờ, phòng y tế, nhà bếp, phòng Giám thị, câu lạc bộ và khuôn viên cây xanh, bao quanh là hệ thống tường đá (cao 4m) và nhiều bốt gác. 6. Trại 4 Có tổng diện tích 5804m2, gồm 8 phòng giam, nhà bếp, nhà kho, bệnh xá, có tường đá dày, cao bao quanh. 7. Trại 5 Có tổng diện tích 3.594m2, với 12 phòng giam tập thể, được chia làm 3 dãy (mỗi dãy 4 phòng), khu nhà bếp, có tường đá dày, cao khoảng 4m bao quanh. 8. Trại 6 Tức Trại Phú An, có diện tích 42.140m2, gồm khu A và khu B. Mỗi khu đều có hai dãy, gồm 10 phòng, 4 xà lim, nhà bếp, bệnh xá, nhà kho. Khu trại này được bao bọc bởi hai lớp rào, có cổng ngoài và cổng trong. 9. Trại 7 Còn có tên gọi khác là Trại Phú Bình, hay Chuồng cọp kiểu Mỹ. Trại có diện tích 25.788m2, với 8 khu trại giam (A, B, C, D, E, F, G , H), mỗi khu đều có 48 chuồng cọp, nhà kho, nhà bếp, văn phòng Giám thị, bệnh xá. Quanh trại được bao bọc bởi hàng rào dây thép gai và tường bê tông. 10. Trại 8 Còn được gọi là Trại Phú Hưng, gồm 10 khám giam, được chia thành 2 dãy, cùng các công trình phụ, như nhà Giám thị, vọng gác. Bao quanh trại là hệ thống hàng rào dây thép gai. 11. Trại 9 Khi Mỹ - Ngụy đang cho đổ bê tông nền, đúc cột dựng trại, thì Hiệp định Paris được ký kết nên trại này đã bị bỏ dở. 12. Phòng điều tra Đây là nơi làm việc và lưu trữ hồ sơ hỏi cung. Mọi tù nhân trước khi được nhập giam, đều bị hỏi cung tại phòng này. 13. Cầu Ma Thiên Lãnh Từ năm 1930 - 1945, thực dân Pháp đã cho mở một nhánh đường đến Sở Ông Câu để tiện cho việc kiểm soát tù vượt ngục. Cầu mới xây dựng được 2 mố, mỗi mố cao khoảng 8m. Tên cầu do tù nhân lấy tên ngọn núi Ma Thiên Lãnh ở Triều Tiên để đặt. 14. Khu biệt lập Chuồng Bò Khu vực này là nơi tù nhân lao động khổ sai, đồng thời là nghĩa địa của tù nhân. “Bãi sọ người” tại đây chính là nghĩa địa đầu tiên ở Nhà tù Côn Đảo, tiếp đến là nghĩa địa Hàng Keo, nghĩa địa Hàng Dương. 15. Lò Vôi Đây là chứng tích điển hình về chính sách bóc lột sức lao động một cách dã man, cùng với chế độ nhà tù hà khắc, thâm độc, nhằm dập tắt ý chí của những người Việt Nam yêu nước bị tù đày tại Côn Đảo. 16. Nhà Công Quán Xây dựng cuối thế kỷ 19, diện tích 850m2, là nơi dừng chân của nhạc sĩ người Pháp: Charles Camille Saint Saens - Danh nhân văn hóa thế giới. Tại đây Ông hoàn tất 3 chương cuối vở nhạc kịch bất hủ Brunchida. 17. Nghĩa trang Hàng Dương Có diện tích khoảng 20 ha. Đây là nơi yên nghỉ của hàng vạn chiến sĩ cách mạng và đồng bào Việt Nam yêu nước đã lần lượt hy sinh dưới ách tù đày, khổ sai tàn bạo của bọn thực dân và đế quốc. Năm 1992, di tích này đã được đầu tư tôn tạo và chia thành 4 khu: - Khu A: gồm 688 ngôi mộ (có 7 mộ tập thể), với 86 mộ có tên và 602 mộ khuyết danh. - Khu B: gồm 695 ngôi mộ (có 17 mộ tập thể), với 275 mộ có tên và 420 mộ khuyết danh. - Khu C: gồm 372 ngôi mộ (có 1 mộ tập thể), với 329 mộ có tên và 43 mộ khuyết danh. - Khu D: gồm 148 ngôi mộ, với 11 mộ có tên và 137 mộ khuyết danh. Nhà tù Côn Đảo là một di tích đặc biệt (di tích nhà tù). Đây là nơi tập trung nhất hệ thống cai trị tù khét tiếng của Pháp và Mỹ, điển hình về chế độ cưỡng bức, giam cầm, hành hạ và tàn sát các chiến sỹ cách mạng, tù nhân lao động khổ sai đến kiệt sức; là nơi mà kẻ thù hung bạo phải run sợ trước khí phách, khí tiết cách mạng và niềm lạc quan của người tù yêu nước. Với những giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học đặc biệt của di tích, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định xếp hạng Di tích lịch sử Nhà tù Côn Đảo là Di tích quốc gia đặc biệt ngày 10/5/2012. Nguồn: Cục Di sản văn hóa
Bà Rịa - Vũng Tàu 2277 lượt xem
Di tích lịch sử cách mạng Đồn nhà máy nước Vũng Tàu tọa lạc trên đường 30 tháng 4, phường 9, TP Vũng Tàu, nằm giữa Trường THPT Trần Nguyên Hãn và Công ty Cổ Phần Cấp nước Bà Rịa – Vũng Tàu. Đồn nhà máy nước tuy chỉ là một di tích có quy mô khiêm tốn, nhưng để lại những giá trị lịch sử đấu tranh cách mạng với nhiều trận đánh ác liệt, nêu cao tinh thần vì độc lập của quân và dân ta. Di tích Đồn nhà máy nước Vũng Tàu nằm cách nút giao đường Nguyễn An Ninh – Phạm Hồng Thái – 30 tháng 4 (ngã tư Giếng nước) khoảng hơn 50m. Di tích này có chiều dài khoảng 5m, rộng 3,7m, cao gần 4m, được xây dựng bằng đá, gạch, vôi, xi măng, sắt thép và gỗ. Đây là một công trình quân sự nhỏ, chia làm hai tầng, ngăn cách bằng một bức sàn gỗ, có các lỗ châu mai hướng về bốn phía. Thời kỳ chiến tranh, địa thế Vũng Tàu (Ô Cấp) có ý nghĩa quan trọng về mặt quân sự, nên quân Pháp chiếm đóng đã bắt tay xây dựng bến cảng và sân bay ngay từ khi đặt chân đến Vũng Tàu. Khi đó, tại vùng đất được biển bao bọc này, nước ngọt là một nguồn tài nguyên vô cùng quý giá, nên người Pháp đã xây dựng hệ thống cấp nước (giếng khoan, nhà máy lọc nước…) ngay tại vị trí gần ngã tư Giếng nước TP Vũng Tàu ngày nay. Để bảo vệ sân bay, bến cảng và hệ thống đầu nguồn cấp nước cho cả Vũng Tàu, quân Pháp lập một đồn lính nằm ngay bên cạnh nhà máy nước, nên gọi là Đồn nhà máy nước. Đồn này do lực lượng bảo an chiếm giữ với quân số khoảng một đại đội, được trang bị hỏa lực mạnh, án ngữ cửa ngõ Vũng Tàu lúc bấy giờ. Thời ấy, địch kiểm soát gắt gao việc đi lại của người dân ở khu vực này, khiến cho hoạt động của quân dân ta gặp khó khăn. Vì vậy, Đồn nhà máy nước trở thành mục tiêu cần phải tiêu diệt của lực lượng vũ trang cách mạng. Năm 1948, Ban hành động Cấp, Công an xung phong, Đội trinh sát 51 và lực lượng của Thị đội Cấp đã 2 lần tấn công vào Đồn nhà máy nước, phá đồn, thu 150 súng các loại. Các trận đánh tiến công Đồn nhà máy nước đều rất ác liệt, góp phần tiêu hao sinh lực và hỏa lực địch, ghi dấu chiến công trong lịch sử đấu tranh cách mạng của quân dân tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu năm xưa. Năm 1985, nhân dịp kỷ niệm 10 năm thành lập Đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo, chính quyền đặc khu đã cho xây dựng bức phù điêu trước Đồn nhà máy nước kỷ niệm chiến thắng 2 trận đánh đồn năm 1948. Đồng thời, gắn biển khắc nội dung giới thiệu giá trị lịch sử tiến công địa điểm quân sự này. Ngày 4/8/1992, Bộ Văn Hoá-Thông Tin đã công nhận Đồn nhà máy nước Vũng Tàu là di tích lịch sử cách mạng cấp Quốc gia. Nguồn: Báo Bà Rịa - Vũng Tàu điện tử
Bà Rịa - Vũng Tàu 2239 lượt xem