Ứng dụng thuyết minh khám phá du lịch Việt Nam

Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch Travelviet

Tải ứng dụng Travelviet

Logo Travelviet

Di tích lịch sử

Đồng Nai

Di tích lịch sử Địa điểm căn cứ Trung ương cục Miền Nam (1961-1962)

Địa điểm căn cứ Trung ương Cục miền Nam (1961-1962) được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng là di tích lịch sử cấp Quốc gia theo Quyết định số 02/2001/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thông Tin ngày 19/01/2001. Hiện nay, Căn cứ Trung ương Cục miền Nam tọa lạc xã Phú Lý, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai. Trước yêu cầu mới của cuộc cách mạng, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III đã đề ra nhiệm vụ chiến lược cho hai miền Nam - Bắc. Đặc biệt với cách mạng miền Nam tăng cường sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Trung ương Đảng về chủ trương, đường lối và tổ chức thực hiện. Ngày 23/01/1961, Bộ Chính trị ra quyết định thành lập Trung ương Cục miền Nam và chỉ định Ban chấp hành gồm 08 đồng chí do đồng chí Nguyễn Văn Linh (Mười Cúc - Bí thư Trung ương Cục. Đồng chí Võ Chí Công (Võ Toàn) - Phó Bí thư; đồng chí Phan Văn Đáng (Hai Văn) - Phó Bí thư. Các đồng chí ủy viên gồm: Phạm Văn Xô (Hai Xô), Phạm Thái Bường, Võ Văn Kiệt, Trần Lương, Trương Công Thuận. Trung ương Cục miền Nam được giao nhiệm vụ lãnh đạo toàn bộ chiến trường miền Nam từ vĩ tuyến 17 trở vào. Hội nghị Trung ương Cục lần thứ nhất đã đề ra nhiệm vụ cấp bách là xây dựng các cơ quan chuyên môn giúp cấp ủy đề ra các chủ trương, đường lối, theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thi hành các chủ trương, chỉ đạo nghiệp vụ cho cấp dưới và đào tạo cán bộ thuộc ngành phụ trách. Các cơ quan chuyên môn gồm: + Văn phòng: do đồng chí chí Lê Vụ (Bảy Thành, Dư Khánh, Bảy Khánh) làm Chánh văn phòng. + Ban Tổ chức - Tuyên huấn: do đồng chí Phan Văn Đáng – Trưởng ban; đồng chí Nguyễn Văn Ngượt (Ba Lâm, Ba Rừng) và đồng chí Lê Tự Nhiên - Phó ban. + Ban cơ yếu: do đồng chí Nguyễn Văn Chín làm Trưởng ban; đồng chí Trần Tiến Liên và Nguyễn Hoàng làm Phó ban. + Ban Hậu cần: Do đồng chí Lý Văn Kỷ làm Trưởng ban; đồng chí Nguyễn Hữu Tân (Năm Mộc) làm Phó ban. + Ban An ninh: đầu tiên gọi là Ban bảo vệ An ninh Trung ương Cục, sau đổi thành Ban An ninh Trung ương Cục; do đồng chí Phạm Thái Bường - Trưởng ban; đồng chí Cao Đăng Chiến (Sáu Hoàng) - Phó ban. + Ban Quân sự Miền: Tư lệnh Trần Quang (Bảy Tiến); Chính ủy Trần Lương. Nhiệm vụ chỉ đạo tác chiến, xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang , xây dựng hình thành ba thứ quân. + Ban Kinh tài: do đồng chí Phạm Văn Xô (Hai Xô, Hai Già) làm Trưởng ban; đồng chí Nguyễn Văn Phi làm Phó ban. Từ căn cứ này, Trung ương Cục đã xây dựng các cơ quan chuyên môn cấp ủy; đề ra các chủ trương, đường lối; chỉ đạo và lãnh đạo nhân dân miền Nam trường kỳ kháng chiến trong suốt thời gian chiến tranh ác liệt tới ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng; bằng những chiến công vang dội như chiến thắng Hiếu Liêm, Phước Thành… góp phần tô đẹp thêm những trang sử oai hùng của quân dân miền Nam. Trải qua thời gian dài tồn tại và phát triển dưới sự tàn phá của chiến tranh, thiên nhiên và con người di tích Căn cứ Trung ương Cục miền Nam bị xuống cấp, hư hỏng. Năm 2004, thực hiện sự chỉ đạo của Ban Bí thư Trung ương Đảng, Tỉnh ủy, UBND tỉnh Đồng Nai đã tiến hành trùng tu, tôn tạo di tích Căn cứ Trung ương Cục miền Nam với các hạng mục: nhà bia, nhà trưng bày, đền tưởng niệm... nhằm bảo tồn, phát huy các giá trị di tích và thể hiện đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc Việt Nam xem như nơi đây là địa chỉ đỏ nhằm giáo dục thế hệ trẻ hôm nay và mai sau. Nguồn Cổng thông tin huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai.

Đồng Nai 269 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Địa đạo Nhơn Trạch

Địa đạo Nhơn Trạch tọa lạc tại ấp 5, xã Long Thọ, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai, còn được gọi là địa đạo Phước An vì khi xưa di tích thuộc xã Phước An, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Biên Hòa. Được biết, trước đây từ giữa năm 1963 cho đến cuối năm 1964, hệ thống địa đạo được đào 1.500m đường địa đạo với nhiều ngõ ngách, hầm bí mật. Hệ thống địa đạo liên hoàn khép kín được thiết kế có dạng gần giống chữ chi (Z). Đường xương sống địa đạo được 200m thì được trổ ngách sang hai bên để tạo thành phòng chức năng cho các đơn vị. Tại điểm chính giữa ở mỗi đoạn xương sống địa đạo (100m) được bố trí hai lỗ thông hơi hình phễu úp. Nhiều đoạn địa đạo thiết kế với nhiều đường thẳng gấp khúc, chiều dài mỗi đoạn khoảng 100m. Kích thước của địa đạo tính từ vòm tới đáy dao động: cao 1,8m đến 2m, ngang 1m đến 1,2m. Nóc địa đạo có cấu trúc hình vòm. Ngăn cách giữa các đoạn với nhau bằng một ngăn bí mật có nắp đậy kín, độ dày của ngăn là 1m được khoét một lỗ tròn có đường kính vừa thân người. Miệng chính của địa đạo được bố trí tại trung tâm căn cứ có kích thước dài 2m ngang 1m50, sâu 7m dẫn vào xương sống địa đạo. Độ sâu 7m tính từ mặt đất tới đáy địa đạo được đào theo hình rích rắc tạo thành những bậc thang. Phía trên địa đạo là căn cứ Huyện ủy được bố trí như một tam giác đều, mỗi cạnh dài 70m với ba mặt là giao thông hào sâu 2m, rộng 1m20 tạo thành hệ thống giao thông khép kín. Cách bố trí này được gọi bố trí theo kiểu “kiềng ba chân”, cả ba mặt giao thông hào được xây dựng 7 ụ chiến đấu, mỗi ụ có kích thước ngang 2m, dài 3m, sâu 1m20; phía trên lắp cây, đắp đất dày 1m, ba mặt bố trí ba lỗ châu mai. Bên ngoài hệ thống giao thông hào được bố trí hai hàng chông sắt lớn nhỏ và tầm vông vạt nhọn xen kẽ. Cuối cùng là ba lớp hàng rào kẽm gia. Dẫn vào căn cứ duy nhất có một con đường mòn nằm về phía tây bắc của rừng Lòng Chảo. Tại căn cứ này, quân dân Nhơn Trạch đã làm nên những chiến thắng vang dội trong những năm 1965 - 1970. Từ năm 1972, địa đạo Nhơn Trạch trở thành nơi bám trụ dài ngày của 500 cán bộ chiến sĩ Đoàn 10 Rừng Sác, là nơi xuất phát đánh địch ở các hướng sông Lòng Tàu, kho bom Thành Tuy Hạ… gây cho địch nhiều tổn thất nặng nề. Với những giá trị to lớn đó, Địa đạo Nhơn Trạch đã được Bộ Văn hóa và Thông tin (Nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia vào ngày 19/01/2001. Ngày nay Địa đạo Nhơn Trạch là địa điểm về nguồn để giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ. Giới trẻ đến để tham quan, tưởng nhớ công lao to lớn của cha ông xưa từ đó tu dưỡng đạo đức, nhân cách, cố gắng phấn đấu, cống hiến để xứng đáng với sự hi sinh to lớn của thế hệ đi trước. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai.

Đồng Nai 445 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Căn cứ Khu ủy miền Đông Nam Bộ (Chiến khu Đ)

Khu ủy miền Đông Nam bộ (1962 - 1967) được Bộ Văn Hóa Thông Tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng di tích cấp Quốc gia theo Quyết định số 3744-Quyết Định/Bộ Văn Hóa Thông Tin, ngày 29/11/1997. Tháng 6/1960, Bộ Chỉ huy lực lượng vũ trang giải phóng miền Đông (quân khu miền Đông) và Khu ủy miền Đông (T1) được chính thức thành lập, đặt cơ quan lãnh đạo, chỉ huy tại ngọn suối Linh (gọi là căn cứ 820) thuộc chiến khu Đ. Khu ủy miền Đông do đồng chí Mai Chí Thọ (Tám Cao) làm Bí thư. Đồng chí Nguyễn Hữu Xuyến được cử làm chỉ huy trưởng, đồng chí Lâm Quốc Đăng làm chỉ huy phó. Các cơ quan Khu đều đóng dọc theo suối Linh. Tại đây, Khu ủy, Bộ Tư lệnh quân khu đã đứng chân trong suốt thời gian dài lãnh đạo chỉ đạo phong trào, mệnh lệnh tác chiến; nơi đứng chân và tổ chức chiến đấu bảo vệ các cơ quan lãnh đạo, chỉ huy. Khu căn cứ tọa lạc trên đỉnh đồi đất sỏi khá bằng phẳng, độ dốc thoai thoải, diện tích trên 28ha, độ cao 20m so với bề mặt suối Linh. Toàn bộ khu đồi được bao phủ bởi rừng cây dày đặc trong hệ thống rừng nguyên sinh miền Đông. Một phần căn cứ được bao bọc bởi suối Linh quanh năm nước trong vắt, các loài hải sản dồi dào là nguồn thực phẩm vô tận cung cấp cho các lực lượng quân giải phóng. Căn cứ Khu ủy được cấu thành bởi: Hệ thống giao thông hào có tổng chiều dài 569m, sâu từ 50 đến 60cm, rộng 60cm phân làm ba tuyến (tuyến phòng thủ vòng trong, vòng ngoài và phục vụ cho việc canh gác và chiến đấu. Hệ thống địa đạo liên hoàn theo hướng Đông - Bắc và Tây - Nam có chiều dài trên 260m. Đường đi trong lòng địa đạo có nhiều đoạn gấp khúc, gãy góc, quanh co, có các ngã ba nối thông các đoạn địa đạo với nhau hoặc dẫn lên các miệng địa đạo tại các cửa hầm. Hệ thống miệng địa đạo độc lập chủ yếu dạng hình tròn và chữ nhật, độ sâu từ 3-4m trong các phân đoạn của hệ thống địa đạo. Hệ thống hầm trú ẩn được bố trí đều khắp trên mặt căn cứ, nơi làm việc của lãnh đạo Khu uỷ và các cơ quan trực thuộc gồm: văn phòng, cơ yếu, phục vụ, vệ binh… Ngoài ra, trong Khu căn cứ còn có hệ thống bếp Hoàng Cầm và giếng nước phục vụ cho sinh hoạt. Nằm ở vị trí thuận lợi cả về phòng thủ và tấn công, cách bố trí khoa học, Khu ủy miền Đông Nam bộ là địa bàn đứng chân của Khu ủy, Bộ tư lệnh quân khu trong suốt thời gian từ 1962 - 1967. Từ đây, Khu ủy, Bộ tư lệnh quân khu lãnh đạo, chỉ huy các lực lượng vũ trang phối hợp với quân chủ lực miền Nam làm nên những chiến thắng vang dội như: Phước Thành, Hiếu Liêm, Bình Giã, Đồng Xoài, Đất Cuốc, Bàu Sắn... Từng bước làm phá sản hoàn toàn chiến lược “Chiến tranh đặc biệt ” và ''Chiến tranh cục bộ '' của Mỹ - ngụy, mở rộng và bảo vệ an toàn căn cứ, chuẩn bị mọi mặt cho Tổng tiến công nổi dậy Xuân 1968. Trải qua thời gian, năm 2001, di tích Khu ủy miền Đông Nam bộ được phục hồi lại toàn bộ diện mạo gồm: Hệ thống địa đạo, hệ thống giao thông hào, hầm trú ẩn, văn phòng… Sau khi trùng tu, tôn tạo di tích thường xuyên đón tiếp nhiều đoàn khách trong và ngoài nước; các đồng chí lãnh đạo Trung ương đến tham quan, ôn lại truyền thống hào hùng của một giai đoạn lịch sử đã qua. Chiến tranh đã lùi xa, nhưng Căn cứ Khu ủy miền Đông còn đó như một minh chứng lịch sử hào hùng cho tinh thần, lý tưởng cách mạng cao cả của dân tộc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ; nỗi ám ảnh cho cho kẻ thù xâm lược và cảm hứng cho văn học thi ca nhân loại. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai.

Đồng Nai 216 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Căn cứ Sở Chỉ huy Đặc khu Quân sự Rừng Sác và Đoàn 10 Đặc công Rừng Sác

Ngày 15-4-1966, một binh chủng đặc biệt được thành lập và trở thành bất tử với tên gọi Trung đoàn Đặc công rừng Sác anh hùng. Chiến khu Rừng Sác trải rộng trên diện tích hơn 2.200ha, thuộc các huyện Nhơn Trạch, Long Thành (Đồng Nai) đến H.Cần Giờ (Thành Phố Hồ Chí Minh). Hoạt động trong một điều kiện hết sức khắc nghiệt, giữa rừng ngập mặn, ngay sát nách quân thù với trang thiết bị, vũ khí tối tân, những người chiến sĩ đặc công thủy của Đoàn 10 Rừng Sác chỉ có “trái tim yêu nước nồng nàn, cộng với trí thông minh và trái bộc phá, con gao găm” (lời của đại tá - Anh hùng lực lượng vũ trang Lê Bá Ước, nguyên Trung đoàn trưởng kiêm Chính ủy Đoàn 10, nguyên Phó chỉ huy kiêm Tham mưu trưởng Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Đồng Nai). Hơn 9 năm bám trụ, Đoàn 10 đã thực hiện hơn 600 trận đánh, hoàn thành mục tiêu khống chế toàn bộ hệ thống vận tải thủy tiếp tế cho Sài Gòn và phía Nam, đồng thời lập những chiến công vang dội ngay ở nội đô. Hơn 900 người đã hy sinh, đến nay còn hơn 500 liệt sĩ chưa tìm thấy... Tuy địa hình, cảnh quan nơi đây vẫn giữ được tương đối với hệ thống động thực vật phong phú nhưng do căn cứ làm chủ yếu bằng các vật liệu thô sơ như: Lá dừa nước, thân cây đước, sau khi chuyển sang địa điểm khác, hệ thống nhà làm việc, các cơ sở binh công xưởng của Sở Chỉ huy Đặc khu quân sự Rừng Sác và Đoàn 10 Đặc công Rừng Sác bị phá hủy hoàn toàn. Trên khu đất của căn cứ xưa hiện có tấm bia đá tưởng niệm do đại tá Lê Bá Ước (đoàn trưởng kiêm Chính ủy Đoàn 10 Đặc công Rừng Sác) lập để tưởng niệm các đồng chí, chiến sỹ đã hy sinh tại Đặc khu quân sự Rừng Sác. Việc đầu tư, tôn tạo di tích góp phần giáo dục truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ và cũng để tỏ lòng tôn kính, tri ân các anh hùng liệt sỹ đã chiến đấu và anh dũng hy sinh tại đây. Căn cứ Sở chỉ huy Đặc khu quân sự Rừng Sác và Đoàn 10 Đặc công Rừng Sác tại xã Phước An, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia tại Quyết định số 2105/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao Du Lịch ngày 08/7/2014. Nguồn Bộ Văn Hóa , Thể thao và Du lịch.

Đồng Nai 251 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Di tích lịch sử Địa điểm vụ thảm sát Giồng Sắn

Ngày 23/9, Bộ Văn Hóa Thể Thao Du Lịch đã ban hành Quyết định số 3068/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao Du Lịch xếp hạng di tích quốc gia cho Di tích lịch sử Địa điểm vụ thảm sát Giồng Sắn, thuộc xã Phù Đổng, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai. Trong thời kỳ chống đế quốc Mỹ xâm lược, địa điểm Giồng Sắn là nơi diễn ra vụ thảm sát của chính quyền Sài Gòn ngày 25/10/1965 làm 536 thường dân chết và rất nhiều người khác bị thương. Sau sự kiện này, huyện uỷ Nhơn Trạch đã tổ chức một cuộc biểu tình với hơn 1.000 người tham gia, phản đối hành động sát hại dân lành của chính quyền Sài Gòn. Cuộc biểu tình gây nên dư luận căm phẫn lớn trong cả nước, lên án sự độc ác, tàn bạo của quân đội Sài Gòn. Cuộc thảm sát này cũng dấy lên dư luận, được báo chí nước ngoài đưa tin, lên án. Để tưởng nhớ những người đã mất trong chiến tranh, năm 2004, huyện Nhơn Trạch khởi công xây dựng công trình Bia - Công viên tưởng niệm Giồng Sắn trên diện tích 15.000m2, đây là di tích ghi dấu, tố cáo tội ác của kẻ thù trong cuộc thảm sát thường dân vô tội diễn ra trên vùng đất Nhơn Trạch của tỉnh Đồng Nai. Địa điểm Giồng Sắn đã được UBND tỉnh Đồng Nai xếp hạng di tích cấp tỉnh năm 2004. Nguồn Bộ Văn Hóa Thể Thao và Du lịch.

Đồng Nai 263 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Khu di tích lịch sử địa điểm thành lập Đoàn 125

Khu di tích Đoàn 125 (ấp Suối Râm, xã Long Giao, huyện Cẩm Mỹ), nơi khai sinh của lực lượng vũ trang cách mạng đoàn kết cứu nước Campuchia và cũng là nơi an nghỉ của 49 chiến sĩ Campuchia được xem là một biểu tượng của tình đoàn kết Việt Nam-Campuchia. Cùng với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam, Thủ đô Phnom Penh của nước bạn Campuchia cũng được giải phóng vào ngày 17/4/1975. Tuy nhiên, ngay sau đó, cách mạng Campuchia lại bước vào thời kỳ đen tối bởi nạn diệt chủng của chế độ Khơ me Đỏ do tập đoàn Pol Pot-Yeng Sari đứng đầu. Trước tình hình đó, được sự giúp đỡ chí nghĩa, chí tình của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam, những chiến sĩ cách mạng chân chính Campuchia, trong đó có đương kim Thủ tướng Vương quốc Campuchia, ngài Samdec Hun Sen, đã sang Việt Nam để xây dựng lực lượng, đấu tranh lật đổ chính quyền diệt chủng Khơ me Đỏ. Ngày 12/5/1978, tại ấp Suối Râm, xã Long Giao, huyện Cẩm Mỹ, đơn vị tiền thân của lực lượng vũ trang cách mạng đoàn kết cứu nước Campuchia - Đoàn 125 được thành lập, do ngài Hun Sen làm Chỉ huy trưởng. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, đã có 49 chiến sĩ của Đoàn 125 hy sinh tại đây. Cùng với các lực lượng yêu nước khác của Campuchia, Đoàn 125 đã phát triển thành quân đội hùng mạnh, lật đổ chính quyền Pol Pot, giải phóng nhân dân và đất nước Campuchia thoát khỏi nạn diệt chủng. Ngày 2/1/2012, dưới sự chủ trì của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng và Thủ tướng Vương quốc Campuchia Hun Sen, Khu di tích lịch sử địa điểm thành lập Đoàn 125 được khánh thành và Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Việt Nam đã cấp bằng công nhận là Khu di tích văn hóa lịch sử cấp Quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Đồng Nai.

Đồng Nai 270 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Mộ, Đền thờ Đoàn Văn Cự & 16 Nghĩa binh Thiên Địa Hội

Mộ Đoàn Văn Cự và 16 nghĩa binh Thiên Địa Hội tọa lạc trên khu bình địa tổng kho Long. Bình, phường Long Bình, thành phố Biên Hòa. Đây là nơi an táng Đoàn Văn Cự, lãnh đạo hội kín Thiên Địa hội ở Biên Hoà cùng 16 nghĩa binh đã đứng lên kháng chiến chống lại quân Pháp. Đền thờ có kiến trúc đẹp, bao gồm nhà võ ca và chánh điện, là nơi tưởng nhớ và cầu nguyện cho Đoàn Văn Cự và các nghĩa binh. Mộ và đền thờ Đoàn Văn Cự được Bộ Văn hóa - thông tin xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia tại Quyết định số 722/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao ngày 25 tháng 4 năm 1998. Di tích gồm hai phần: mộ và đền thờ. Phần mộ là nơi an táng nhà yêu nước Đoàn Văn Cự, thủ lĩnh hội kín “Thiên địa hội” ở Biên Hòa và 16 nghĩa binh tử trận trong trận tấn công của Pháp vào bưng Kiệu năm 1905. Đây là nơi căn cứ kháng chiến của nghĩa binh “Thiên địa hội” Biên Hòa. Ngôi mộ tọa lạc trên khu bình địa, sát bên dòng suối Linh Tuyền, cách trung tâm thành phố Biên Hòa khoảng 8 km. Ban đầu chỉ là ngôi mộ chôn cất đơn sơ; năm 1956 được nhân dân địa phương xây đắp lại nhưng quy mô nhỏ, mãi đến 1990 ngôi mộ mới được xây dựng bề thế như hiện nay. Ngôi mộ hình chữ nhật dài 16,5 m, rộng 2 m cao 0,75 m, phía sau là ngôi miếu nhỏ thờ Đoàn Văn Cự và 16 nghĩa binh. Khu mộ được bảo vệ bởi hai vòng rào bằng gạch, có cổng ra vào, gần như bao quanh khu mộ là dòng suối Linh Tuyền. Ngôi đình cũng được xây dựng từ năm 1956, cách phần mộ khoảng 1km về hướng Đông Bắc. Đền tọa lạc trên khu đất bằng phẳng, rộng gần 3000 m2, thuộc phường Tam Hiệp, trên quốc lộ 15. Ngôi đền được xây dựng theo kiến trúc chữ tam (/) gồm hai phần chính: nhà võ ca và chánh điện. Nhà võ ca có diện tích 303,75 m2 đối diện với đền thờ chính. Bên trong có sân khấu nhỏ dùng để hát bội trong những dịp lễ. Một sân khấu đối diện với chánh điện. Trước khi vào chánh điện phải qua nhà Bái. Đây là nơi khách thập phương ra vào hành lễ. Nối tiếp nhà Bái là chánh điện; phía sau chánh điện là nhà khách và nhà bếp. Đoàn Văn Cự sinh năm 1835 tại làng Bình An, huyện Bình An, tỉnh Biên Hòa (nay là quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh) trong một gia đình nho học yêu nước. Ông lãnh đạo hội kín thiên địa hội ở Biên Hòa, một tổ chức yêu nước chống Pháp. Ông đã quy tụ đông đảo lực lượng nghĩa quân tiến hành cuộc kháng chiến chống Pháp (trước khi Đảng Cộng Sản ra đời). Để ngăn chặn ảnh hưởng và dập tắt phong trào ngay từ trong trứng nước, sáng ngày 12 tháng 4 năm 1905 một tiểu đội lính mã tà do tên Sen Đầm chỉ huy kéo xuống bao vây căn cứ Bưng Kiệu. Tên quan ba cùng tốp lính vượt suối Linh tiến vào. Đúng lúc không có quân canh phòng giặc Pháp ồ ạt tấn công. Đoàn Văn Cự đã bị trúng đạn hy sinh trước bàn thờ tổ cúng 16 nghĩa binh. Sau đó nhân dân địa phương đã an táng Ông và 16 nghĩa binh cùng một ngôi mộ. Mặc dù thời gian đã trôi qua, tấm gương can liệt của Đoàn Văn Cự và 16 nghĩa Binh vẫn mãi là tấm gương sáng về lòng yêu mến sự hy sinh của ông và các nghĩa binh mãi mãi được lịch sử lưu danh và ghi nhớ muôn đời. Nguồn Cục di sản văn hóa.

Đồng Nai 296 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Mộ Nguyễn Đức Ứng và 27 Nghĩa binh chống Pháp

Từ ngã ba Vũng Tàu, theo quốc lộ 51 nối liền thành phố Biên Hoà với tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, ngôi mộ của Lãnh binh Nguyễn Đức Ứng và 27 nghĩa binh chống Pháp nằm về bên trái, cách quốc lộ 51 khoảng 250m, cách trung tâm huyện Long Thành khoảng 7km về hướng Nam. Di tích hiện là kết quả của lần tái thiết vào năm 1936 và các đợt trùng tu, tôn tạo sau này. Sau khi trùng tu tôn tạo năm 2010 khu mộ Nguyễn Đức Ứng và 27 nghĩa binh toạ lạc trên khu đất cao ráo với tổng diện tích là 27.402m2,diện tích trong hàng rào hiện hữu là 3.837m2 (trong đó diện tích xây dựng là 1.262m2), diện tích đất tạo khoảng lùi xây dựng là 4.571m2 và đất chừa đường đi cạnh hông ngoài khu đất là 570m2. Khu mộ có vị trí như sau: Bắc giáp: Khu đất trồng tràm, tre trúc và nhà vườn. Nam: giáp quốc lộ 51. Đông giáp: Vườn tràm và ruộng lúa. Tây giáp: Đường mòn - con đường đi lại trong xã Long Phước. Nhìn tổng thể, toàn khu mộ được bố trí theo một trục chính, lấy theo trục mộ Nguyễn Đức Ứng ra đến quốc lộ 51 hình thành nên khu đất với bề ngang là 65m,được chia đều ra hai bên theo trục chính. Tổng thể khu mộ được bố trí thành năm khu có vị trí như sau: Cổng tam quan, khu nhà đón tiếp khách : diện tích 5.204m2, khu trồng cây lưu niệm: diện tích 2.084m2, khu nhà bia,đền thờ : diện tích 6.438m2, khu mộ chính : diện tích 6.502m2. Lãnh binh Nguyễn Đức Ứng và 27 nghĩa binh hy sinh trong cuộc chiến đấu đánh trả quân Pháp xâm lược ngày 26-27 tháng 12 năm 1861. Sau khi Nguyễn Đức Ứng và các Nghĩa binh anh dũng hy sinh, nhân dân Long Thành tìm cách đưa thi hài Ông và các nghĩa binh về an táng trong ngôi mộ chung trên một khu đất cao của khu rừng nguyên sinh, ngay căn cứ kháng Pháp của Ông thuộc xã Long Thuận (nay là xã Long Phước, huyện Long Thành). Theo quan niệm phong thuỷ truyền thống thì ngôi mộ nằm trên gò đất hình lưng quy, vị thế cát địa, ảnh hưởng tốt cho sự an cư lạc nghiệp của dân chúng cư trú trong khu vực. Cũng từ đây, mảnh đất này trở thành nơi yên nghỉ ngàn đời của Ông và các nghĩa binh hy sinh vì Tổ quốc, có thể coi như là nghĩa trang liệt sĩ đầu tiên của huyện Long Thành. Mộ Nguyễn Đức Ứng và 27 nghĩa binh chống Pháp được trùng tu vào các năm 1936, năm 1996 và năm 2010. Kiến trúc xây dựng trong tổng thể khu đất tuân theo định hướng chung, nêu bật được ý tưởng “con nhà võ”. Mái ngói nhà bia và đền thờ mang dáng mái đặc trưng của cung đình Huế, triều đại nhà Nguyễn. Với giá trị đó , khu di tích Mộ Nguyễn Đức Ứng và 27 Nghĩa binh chống Pháp đã được xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia theo quyết định số 2754-Quyết Định /Bộ Trưởng ngày 15 tháng 10 năm 1994. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai.

Đồng Nai 224 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Di tích Thành cổ Biên Hòa

Tọa lạc tại phường Quang Vinh, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Đây được xem là thành cổ duy nhất ở Nam Bộ còn tồn tại đến ngày nay. Dấu tích còn sót lại của ngôi thành xưa là một vòng thành được xây dựng bằng đá ong bao quanh khuôn viên rộng 10.816,5 m², bên trong có ngôi nhà kiến trúc theo kiểu Pháp. Thành cổ Biên Hòa còn có các tên gọi khác là Thành Cựu, Thành Kèn hay Thành Xăng Đá, xưa thuộc thôn Bàn Lân (Tân Lân), huyện Phước Chánh, tỉnh Biên Hòa. Ban đầu, Thành Biên Hòa được nhân dân và binh lính Lạp Man Chân Lạp đắp bằng đất vào khoảng thế kỷ 14 -15. Sau đó, vào đầu thời Nguyễn, đến năm 1834, vua Minh Mạng cho xây lại bằng đất, gạch và đá ong, theo hình cánh cung, xây dựng mới một số hạng mục, đặt tên là Thành Cựu. Đến năm 1837, vua Minh Mạng tiếp tục cho xây dựng mở rộng Thành Cựu bằng đá ong theo kiểu Vauban, đổi tên là Thành Biên Hòa. Nhận thấy vị trí địa lý thuận lợi về mặt chiến lược của Thành Biên Hòa, thực dân Pháp đã tập trung binh lực hùng hậu nhằm chiếm đóng tòa thành này. Năm 1861, thực dân Pháp đánh chiếm Biên Hòa. Quan quân nhà Nguyễn kháng cự không thành nên rút lui khỏi Thành Biên Hòa. Sau khi chiếm thành, thực dân Pháp đã bắt tay cải tạo, thu hẹp diện tích thành còn lại 1/8 so với trước kia; đồng thời cho xây dựng các cơ sở an ninh, quân sự bên trong và bên ngoài thành, như: doanh trại, nhà thương, sở an ninh quân đội, bãi tập, bãi bắn, phòng giam, phòng làm việc…; bố trí các sĩ quan cấp cao, binh lính để trấn giữ, bảo vệ, làm việc trong suốt thời gian cai trị, khai thác thuộc địa và gọi tên là Thành Xăng - Đá (Solda), nhân dân địa phương thường gọi là Thành Kèn. Năm 1944, thành rơi vào sự kiểm soát của phát xít Nhật. Sau khi quay lại Đông Dương lần 2, Pháp đã trưng dụng nơi đây làm trại gia binh. Đến giai đoạn 1954-1975, thành không có nhiều thay đổi về diện mạo, đế quốc Mỹ sử dụng lại toàn bộ các công trình do thực dân Pháp để lại. Sau năm 1975, thành Biên Hòa do chính quyền mới tiếp quản. Những dấu tích còn lại tại di tích Thành Biên Hòa ngày nay nổi bật là vòng thành được xây dựng bằng đá ong và hai ngôi nhà có kiến trúc theo kiểu Pháp. Cụ thể, các hạng mục còn sót lại bao gồm: phần tường thành được xây dựng chủ yếu từ đá ong đỏ, gạch thẻ với chất kết dính là vôi vữa. Hệ thống lô cốt hiện còn một số lô cốt được xây bằng đá ong và gạch thẻ ở góc Đông thành. Biệt thự phía Tây Bắc, một trong những hạng mục còn sót lại của công trình kiến trúc thành Biên Hòa xưa gồm 1 tầng trệt và 2 tầng lầu được xây dựng theo kiểu kiến trúc Pháp dùng làm nơi ở và làm việc của sĩ quan Pháp. Biệt thự có kết cấu kiến trúc chắc chắn với tường chịu lực, mái lợp ngói móc, dàn mái xà gồ thép kết hợp cầu phong gỗ, sàn lát gạch, lanh tô vòm cuốn gạch, cửa mái thông gió đều được thực hiện với tính thẩm mỹ về nghệ thuật, sự khéo léo về kỹ thuật, đảm bảo tính chịu lực tốt cho công trình. Biệt thự phía Đông Nam với diện tích khoảng 200m2, gồm 1 trệt và 1 lầu, dùng làm nơi ở và làm việc của các sĩ quan Pháp lúc bấy giờ. Ngày nay, sau lần trùng tu gần nhất vào năm 2014, tổng thể di tích đã trở nên khang trang, trở thành địa điểm tham quan thu hút du khách gần xa. Trải qua những thăng trầm của lịch sử, di tích Thành Biên Hòa là chứng nhân cho nhiều sự kiện và biến cố trong lịch sử của vùng đất Biên Hòa - Đồng Nai. Bắt đầu từ các cuộc giao tranh giữa các vương quốc Phù Nam, Chân Lạp, Chăm Pa (thế kỷ1-15) đến cuộc chiến giữa nhà Nguyễn với quân Tây Sơn (thế kỷ XVIII) và sau này là cuộc đấu tranh bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta chống lại thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Đồng thời, đây cũng được xem là công trình thành cổ hiếm hoi còn tồn tại ở khu vực Nam Bộ cho đến ngày nay. Ngoài ra, di tích còn có giá trị trên nhiều mặt khi vừa là công trình kiến trúc quân sự đặc biệt, có vị trí chiến lược ở vùng Đông Nam Bộ của nhà Nguyễn; vừa phản ánh kỹ thuật xây dựng khoa học, đường nét kiến trúc Pháp trong tổng thể các hạng mục hiện tồn. Đồng thời, thể hiện sự am hiểu về phong thủy theo cách nhìn địa chính trị của người xưa. Với những giá trị lịch sử đó , Bộ Văn hóa, thể thao và du lịch ban hành Quyết định số 3995/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao Du Lịch ngày 12-11-2013 công nhận Thành cổ Biên Hòa là di tích lịch sử cấp quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

Đồng Nai 274 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Văn miếu Trấn Biên

Văn Miếu Trấn Biên hiện tọa lạc tại phường Bửu Long, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Lịch sử Văn Miếu Trấn Biên gắn liền với công cuộc mở cõi về phương Nam của các chúa Nguyễn. Năm 1698, chúa Nguyễn Phúc Chu sai Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lý xứ Đồng Nai và sáp nhập vùng đất này vào nước Việt. 17 năm sau, tức năm 1715, chúa Nguyễn Phúc Chu cho xây Văn Miếu Trấn Biên, để thể hiện tư tưởng tôn vinh Nho giáo, phát huy truyền thống tôn sư trọng đạo, kính trọng hiền tài và tiếp nối truyền thống văn hóa của người Việt ở phương Nam. Công trình đã có hai lần trùng tu lớn là năm 1794 dưới thời chúa Nguyễn Phúc Ánh, và năm 1852 thời vua Tự Đức. Năm 1861, thực dân Pháp đánh chiếm Biên Hòa và đã phá bỏ công trình này. Mãi tới năm 1998 – kỷ niệm 300 năm thành lập và phát triển vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai; Văn Miếu Trấn Biên mới được phục dựng trên nền đất cũ có diện tích khoảng 5 ha, trong đó khu thờ chính rộng 2 ha và hoàn thành xây dựng sau 4 năm. Văn Miếu Trấn Biên được phục dựng theo các tư liệu cổ như Đại Nam Nhất Thống Chí, Gia Định Thành Thông Chí. Các hạng mục công trình được xây đối xứng theo một trục thần đạo; lần lượt từ ngoài vào là Văn Miếu Môn, nhà bia, Khuê Văn Các, hồ Tịnh Quang, Đại Thành Môn, tượng Khổng Tử, sân hành lễ, Nhà thờ chính. Hai bên có các nhà tả - hữu là nhà Đề danh - nhà truyền thống, Thư khố - Văn vật khố. Công trình được xây với vật liệu mới nhưng vẫn tuân theo phong cách truyền thống. Ở trên Khuê Văn Các có thể ngắm toàn cảnh quần thể công trình. Ô cửa tròn tượng trưng cho sao Khuê (tương tự Khuê Văn Các trong Văn Miếu - Quốc Tử Giám Hà Nội) đã được tái hiện ở Văn Miếu Trấn Biên. Phía sau Khuê Văn Các là một hồ rộng có tên Tịnh Quang. Các công trình ở đây đều được lợp ngói thanh lưu ly (ngói men màu xanh ngọc). Các công trình có bố cục hài hòa. Xen giữa các công trình là cây xanh lấy bóng mát và nhiều loại cây cảnh, cùng mặt nước tạo nên một không gian thoáng đãng. Tiếp theo, sau hồ Tịnh Quang là Đại Thành Môn. Đây là một hạng mục kiến trúc đặc trưng của các Văn Miếu, dẫn vào khu thờ chính. Đại Thành Môn có kiến trúc kiểu tam quan, mái ngói; hai phía có tường gạch hoa. Sau Đại Thành Môn là tượng Khổng Tử - ông tổ của Nho giáo, đặt dưới một kiến trúc có mái, tiếp theo là sân hành lễ và nhà thờ chính. Tượng Khổng Tử được tạc bằng đá nguyên khối, thực hiện theo mẫu từ Di sản thế giới Khúc Phụ (tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc). Nhà thờ chính là một kiến trúc 7 gian, hai chái với 3 tầng mái; có nhiều chi tiết đậm tính dân tộc, bên trong cột, kèo và các bao lam, hoành phi, câu đối được sơn son thếp vàng. Đây là nơi thờ tự những danh nhân văn hóa Việt Nam. Phía trước là sân rộng để hành lễ và tổ chức các sự kiện văn hóa. Gian chính giữa nhà thờ là nơi thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh. Gian bên trái là nơi đặt bài vị và thờ tự những danh nhân văn hóa gắn liền với vùng đất Biên Hòa - Đồng Nai và Nam Bộ xưa; bên phải là nơi đặt bài vị và thờ tự danh nhân văn hóa tiêu biểu của Việt Nam. Phía trước hai bên nhà thờ chính là: Văn vật khố (nơi trưng bày 4 làng nghề truyền thống của Biên Hòa – Đồng Nai: nghề đồng, nghề mộc, nghề đá, nghề gốm); đăng đối với Văn vật khố là Thư khố - nơi trưng bày các thư tịch cổ, các tài liệu, sách báo... viết về lịch sử, văn hóa, con người vùng đất Biên Hòa - Đồng Nai xưa và nay. Ngày 18/8/2016, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã có quyết định về việc xếp hạng cấp Quốc gia với Di tích lịch sử Văn Miếu Trấn Biên. Văn Miếu Trấn Biên là một địa chỉ văn hóa đặc biệt ở Biên Hòa (Đồng Nai). Với không gian thoáng đãng và kiến trúc đặc sắc, đậm truyền thống văn hóa, hiếu học; nơi đây là điểm tổ chức nhiều sự kiện của địa phương như lễ Tết thầy cho học sinh, lễ hội hoa xuân, lễ hội báo xuân, lễ hội thơ, lễ báo công, lễ viếng tiền nhân… Đây là nơi bảo tồn, gìn giữ và tôn vinh các giá trị truyền thống, là nơi tưởng nhớ tổ tiên của người Việt ở phương Nam. Nguồn Cổng thông tin điện tử thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

Đồng Nai 316 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Di tích Nhà hội Bình Trước

Di tích nhà hội Bình Trước thuộc xã Bình Trước, thành phố Biên Hòa, Đồng Nai. Đây là một công trình kiến trúc đặc biệt của hương chức hội tề làng xã trước năm 1945. Nhà Hội được xây dựng vào khoảng năm 1936 dưới sự chủ trương của tỉnh trưởng Biên Hòa là Bolen. Nhà hội Bình Trước đã trở thành nơi họp và làm việc của hương chức hội tề địa phương. Có vị trí gần trung tâm thành phố, Nhà hội Bình Trước thu hút sự chú ý với kiến trúc dân gian uyển chuyển. Xây dựng bởi nghệ nhân về gốm và xây dựng của Biên Hòa, di tích này nổi bật với các tác phẩm gốm điêu khắc và kiến trúc gỗ tinh xảo, phản ánh nét đẹp của nghệ thuật truyền thống Việt Nam. Mặc dù không phải là đình chùa, nhưng Nhà hội Bình Trước vẫn thể hiện nét trang nghiêm và độc đáo của kiến trúc đình làng, kết hợp nhiều nét đặc trưng của nghệ thuật kiến trúc thời Nguyễn. Với diện tích 187,50m2, kiến trúc của nhà hội có mái ngói âm dương, trang trí gỗ và các bức phù điêu gốm tinh xảo. Đặc biệt hơn, Nhà hội Bình Trước còn ghi dấu sự kiện quan trọng trong lịch sử Biên Hòa. Vào ngày 23-9-1945, Hội nghị cán bộ tỉnh Biên Hòa đã quyết định thành lập Tỉnh ủy đầu tiên sau khi giành được chính quyền vào tháng Tám. Đây là một trong những sự kiện quan trọng chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược. Di tích nhà hội Bình Trước đã được nhà nước ta công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia vào ngày 30/12/1991. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Đồng Nai.

Đồng Nai 305 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Chùa Đại Giác( Đại Giác cổ tự)

Chùa Đại Giác còn gọi là Đại Giác cổ tự, chùa Phật lớn hay chùa Tượng; xưa thuộc thôn Bình Hoành, xã Hiệp Hòa, tổng Trấn Biên; nay là khu phố Nhị Hòa, phường Hiệp Hòa, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Chùa Đại Giác có diện tích khoảng 3.000 m2 với hai cổng xây bằng gạch ra vào, xung quanh có tường rào bao bọc. Sau nhiều lần trùng tu, hiện nay chùa cất theo lối chữ tam (三) với ba dãy nhà ngang nối liền nhau. Mặt tiền chùa quay theo hướng Tây Bắc nhìn ra sông Đồng Nai. Giữa sân trước chùa là một cây bồ đề lớn, do Hòa thượng Đinh Tông trồng vào ngày rằm tháng 11 năm Kỷ Mão (1939) và pho tượng Phật Quan âm Nam Hải đứng trên tòa sen. Bên tả và phía sau là khu vườn rộng trồng cây trái, bên hữu là khu bảo tháp với nhiều mộ tháp của các vị trụ trì viên tịch. Tuy bên ngoài, mái hiên chùa thấp và có lối kiến trúc hiện đại, nhưng bên trong chùa, vẫn còn theo kiểu mẫu của các chùa xưa ở vùng Đồng Nai, với các cột tròn và cao vút, tạo không gian thoáng đãng. Chùa gồm chánh điện, nhà khách, phòng chư tăng, trai đường và nhà bếp. Chánh điện là căn nhà ba gian rộng lớn, dùng để thờ. Gian giữa: ở trên cao là đức tượng Phật A-di-đà bằng gỗ cao 2,25 m, phía dưới là tượng Phật Thích-ca Mâu-ni và Phật Di-lặc. Phía gần cửa ra vào là giàn đèn Phật Dược Sư gồm 49 cây đèn dầu nhỏ với 49 tượng Phật bằng gỗ nhỏ, chân giàn đèn chạm trổ rất mỹ thuật. Gian bên trái là khánh thờ tổ sư Bồ-đề-đạt-ma. Gian bên phải là khánh thờ Quan thánh đế quân. Hai bên vách, mỗi bên thờ năm vị Diêm vương và hai Phán quan. Phía sau chánh điện là bàn thờ các tổ sư từng hoằng hóa ở chùa, gồm nhiều long vị của các Thiền sư phái Lâm Tế, trong đó có long vị của chư tổ xưa nhất các là Thiền sư: Thành Đẳng (phái lâm tế đời 34), Phật Ý-Linh Nhạc, Giác Liễu-Thiệt Truyền (đời 35), Tổ Ấn-Mật Hoằng (đời 36)... Nối liền với chánh điện là nhà khách, có thờ phật Chuẩn Đề, Linh Sơn thánh mẫu... Chùa Đại Giác cùng với chùa Bửu Phong và chùa Long Thiền là ba công trình kiến trúc tôn giáo Việt, được khởi dựng sớm nhất ở Đồng Nai và là chứng tích cho bước đường Nam tiến ở nửa đầu thế kỷ 17 của ba nhà sư thuộc dòng Lâm Tế ở Đàng Trong. Ngoài giá trị này, ở chùa Đại Giác còn có các tượng Phật, hoành phi, liễn đối, phù điêu...mang nhiều đề tài phong phú, được chạm khắc công phu, sơn son thiếp vàng. Tất cả đã thể hiện tài năng nhân chạm khắc của người tạo tác và phản ánh được ít nhiều nền mỹ thuật truyền thống vùng Đông Nam Bộ. Với những giá trị kể trên, chùa Đại Giác đã được xếp hạng là Di tích lịch sử và nghệ thuật cấp quốc gia theo quyết định số 993/Quyết Định, ký ngày 28 tháng 9 năm 1990. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Đồng Nai.

Đồng Nai 252 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Quảng Trường Sông Phố

Di tích Quảng trường Sông Phố được Bộ Văn hóa Thông tin và Thể thao xếp hạng Di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 30 tháng 12 năm 1991. Quảng trường Sông Phố (còn gọi là công trường Sông Phố) là khu vực giao lộ của hai tuyến đường Cách Mạng Tháng Tám và đường 30 tháng 4. Người dân quen gọi Quảng trường Sông Phố với cái tên thân thương là Bùng binh trung tâm vì nó tọa lạc gần các công sở của tỉnh và từ đây có những ngã đường tỏa đến các địa điểm trên địa bàn thành phố Biên Hòa. Sau khi đánh chiếm và bình định Biên Hòa vào đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp đã tiến hành xây dựng nhiều công sở trên vùng đất này để phục vụ cho chính quyền thuộc địa. Quảng trường Sông Phố được xây dựng cùng với kiến trúc của Tòa bố Biên Hòa, Dinh Tỉnh trưởng tạo nên một khung cảnh hài hòa giữa lòng thành phố có quy mô vừa phải bên sông Đồng Nai thơ mộng. Đài phun nước là một tác phẩm gốm do nghệ nhân gốm Biên Hòa sáng tạo. Những con cá trong thế rồng dựng dáng vươn nước trông đẹp mắt qua các tia nước được phun lên. Quảng trường Sông Phố đã đi vào lịch sử xứ Biên Hòa từ những ngày sôi động khi quần chúng nổi dậy cướp chính quyền mùa thu năm 1945. Ngày 27.8.1945 nơi đây đã diễn ra cuộc mít tinh trọng thể chào mừng chính quyền cách mạng lâm thời đầu tiên của tỉnh Biên Hòa. Gần một vạn người từ các nơi kéo về đây tham dự. Trong không khí trào dâng của thắng lợi cách mạng, đồng chí Dương Bạch Mai - Cán bộ Xứ ủy Nam Kỳ đại diện Mặt trận Việt Minh ở Nam Bộ diễn thuyết về đường lối cách mạng của Đảng, được quần chúng nhiệt liệt hoan nghênh. Đồng chí Hoàng Minh Châu, Chủ tịch Ủy ban khởi nghĩa, tuyên bố chính quyền về tay nhân dân và công bố Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh Biên Hòa gồm các đồng chí: - Hoàng Minh Châu - Chủ tịch - Huỳnh Văn Hớn - Phó chủ tịch kiêm Trưởng ban Tuyên truyền - Nguyễn Văn Long - Phụ trách cảnh sát - Ngô Hà Thành - Phụ trách quốc gia tự vệ cuộc (Công an tỉnh) - Nguyễn Văn Tàng - Phụ trách Ban Quản trị tài sản quốc gia tỉnh Kết thúc cuộc mít tinh là lễ tuyên thệ. Hơn một vạn người thay mặt cho 15 vạn đồng bào trong tỉnh Biên Hòa giơ cao nắm tay tuyên thệ, sẵn sàng hy sinh tính mạng, tài sản, kiên quyết bảo vệ nền độc lập tự do cho tổ quốc. Kết thúc cuộc mít tinh, quần chúng hô vang khẩu hiệu “Việt Nam độc lập muôn năm”, “Việt Minh muôn năm”. Cuộc mít tinh kết thúc, hàng vạn đồng bào tuần hành biểu dương lực lượng. Đoàn người cuồn cuộn lẫn trong cờ hoa, biểu ngữ thật hào hùng. Cả thị xã Biên Hòa như bừng tỉnh hồi sinh sau bao năm tháng bị kẻ thù kìm kẹp, thống trị. Quảng trường Sông Phố tồn tại trong lòng người dân Biên Hòa như một biểu tượng của sự chiến thắng, vẫn còn đâu đó khí thế hân hoan của mùa thu Cách Mạng Tháng Tám năm 1945. Một thế kỷ trôi qua với bao sự thay đổi. Đài phun nước (công trường Sông Phố) vẫn còn đó, góp phần tô điểm làm đẹp thành phố, là niềm tự hào của người dân Biên Hòa. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Đồng Nai

Đồng Nai 2288 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di Tích Lịch Sử Nhà Lao Tân Hiệp

Nhà lao Tân Hiệp còn có tên là "Trung tâm cải huấn Tân Hiệp" tọa lạc ở khu phố 6, phường Tân Tiến, TP Biên Hòa. Di tích Nhà lao Tân Hiệp đã được Bộ Văn Hoá Thể Thao xếp hạng là di tích cấp quốc gia ngày 15-1-1994. Nhà lao Tân Hiệp là một trong sáu nhà tù lớn nhất miền Nam Việt Nam và là nhà tù lớn nhất vùng Đông Nam bộ, được xây dựng ở vị trí quân sự quan trọng, án ngữ phía đông bắc thị xã Biên Hòa. Phía trước là quốc lộ 1; phía sau là đường xe lửa Bắc - Nam. Đây là vị trí biệt lập, thuận tiện trong giao thông, dễ dàng cho việc bảo vệ, canh gác, nhận tù từ nơi khác đến và chuyển tù đi Côn Đảo, Phú Quốc... Nhà lao Tân Hiệp có diện tích 46.520m2 với 8 trại giam, trong đó có 5 trại giam những người tù cộng sản, người yêu nước. Xung quanh nhà tù được bao bọc bởi 4 lớp kẽm gai bùng nhùng với 9 lô cốt, 3 tháp canh cùng đội lính bảo vệ và hệ thống báo động tối tân. Mang tên "Trung tâm cải huấn" nhưng thực chất bên trong là kho súng, phòng xét hỏi, tra tấn với những dụng cụ hiện đại bậc nhất. Mỗi trại giam chỉ có diện tích gần 200m2 nhưng giam giữ từ 300-400 người, có lúc lên đến cả ngàn người. Đặc biệt ở đây có các phòng "cải hối", "chuồng cọp" rất nhỏ hẹp và điều kiện sinh hoạt cực kỳ khắc nghiệt, tù nhân sống chẳng khác gì trong lò thiêu xác. Chế độ ăn uống cực kỳ mất vệ sinh, bọn cai ngục mua gạo mục, cá thối dùng để bón ruộng, chiên bằng dầu luyn cho tù nhân ăn dẫn đến nhiều người bị ngộ độc. Với quyết tâm thoát khỏi nhà tù đế quốc, trở về với Đảng, với nhân dân để tiếp tục chiến đấu, giải phóng dân tộc, ngày 2-12-1956, được sự nhất trí của Liên Tỉnh ủy miền Đông, những chiến sĩ cộng sản bị "câu lưu" trong nhà lao Tân Hiệp dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Trọng Tâm (Bảy Tâm) - phụ trách Đảng ủy nhà tù và một số đồng chí khác đã bất thần làm một cuộc phá xiềng tập thể giải thoát gần 500 đồng chí, đồng bào yêu nước. Sự kiện này đã làm xôn xao cả Lầu Năm Góc. Mỹ - Diệm vội vã huy động cả quân chủ lực lẫn bảo an, dân vệ đang trấn thủ 3 tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một và hai biệt đoàn biệt động quân đến bủa lưới bao vây, truy bắt đoàn tù nhưng đều thất bại. Các đồng chí, đồng bào của ta thoát khỏi nhà lao Tân Hiệp đã được sự giúp đỡ, che chở của các cơ sở địa phương, trở về căn cứ an toàn. Trong số tù nhân vượt ngục có các đồng chí: Bảy Tâm, Hai Thông, Lý Văn Sâm... đã trở thành những hạt nhân nòng cốt cho phong trào Đồng Khởi sau này. Năm 2001, để tái hiện phần nào tội ác của Mỹ - Diệm đối với các đồng chí, đồng bào ta bị giam cầm tại nhà lao Tân Hiệp và diễn tả lại toàn bộ cuộc nổi dậy phá khám Tân Hiệp ngày 2-12-1956, Bảo tàng Đồng Nai đã tiến hành sưu tầm hình ảnh, tài liệu, hiện vật trưng bày tại di tích và làm một sa bàn để phục vụ nhu cầu nghiên cứu, tham quan của mọi tầng lớp nhân dân. Hàng ngày, di tích luôn mở cửa đón khách tham quan. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử

Đồng Nai 8007 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh

Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh còn gọi là đình Bình Kính tọa lạc bên tả ngạn sông Đồng Nai, xưa kia thuộc ấp Bình Kính, thôn Bình Hoành, tổng Trấn Biên, nay là ấp Nhị Hòa, xã Hiệp Hòa, TP Biên Hòa, đã được Bộ Văn Hoá – Thông Tin – Thể Thao & Du Lịch xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 25-3-1991. Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ 18, ban đầu ngôi đền có qui mô nhỏ, vách làm bằng ván, mái ngói âm dương, cách ngôi đền hiện tại khoảng 400m về hướng Nam. Các tư liệu cho biết: ngôi đền được xây dựng lại lần đầu tiên vào năm Tự Đức thứ tư (1851); đến năm 1923, đền được tái thiết lại ở địa điểm hiện nay. Nguyễn Hữu Cảnh sinh vào năm 1650 tại Gia Miêu, huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa trong một gia đình có nhiều bậc danh tướng đương triều. Ông là người văn võ song toàn, lập được nhiều chiến công lớn và được chúa Nguyễn tin yêu, trọng vọng. Mùa Xuân năm Mậu Dần (1698), ông vâng lệnh chúa Nguyễn vào kinh lược xứ Đàng Trong khi ấy còn rất hoang vu. Đến đất Đồng Nai, ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố (nay là xã Hiệp Hòa); lấy đất Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn, đất đai mở mang ngàn dặm. Ông chiêu mộ lưu dân đến lập nghiệp, tổ chức bộ máy hành chính từng bước có qui củ, khuyến khích khai hoang, thúc đẩy Cù lao Phố phát triển thành một trong những cảng thị sầm uất, năng động nhất đàng Trong suốt thế kỷ 18 và chính thức sáp nhập vùng đất mới phương Nam vào bản đồ Đại Việt. Sau khi kinh lược phương Nam trở về, năm sau ông lại phụng mệnh chúa Nguyễn Phúc Chu thống lĩnh đại binh dẹp vua Chân Lạp giữ vững miền biên ải phương Nam. Tháng 4 năm Canh Thìn (1700), sau khi hoàn thành sứ mệnh, trên đường trở về đến Rạch Gầm (Tiền Giang) thì ông thọ bệnh qua đời nhằm ngày 16 tháng 5 âm lịch, thọ 51 tuổi. Trên đường di quan ông về quê an táng, quan tài của ông được đình lại khu đất khi xưa ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố để cho nhân dân địa phương có dịp bái biệt ông lần cuối. Nơi đình quan đã được nhân dân địa phương xây một ngôi mộ vọng để ghi nhớ sự kiện này. Khi hay tin Nguyễn Hữu Cảnh mất, Chúa Nguyễn vô cùng thương tiếc đã phong tặng ông là Thượng đẳng công thần đặc Trấn phủ Chưởng cơ với tước: Lễ Thành Hầu và đưa bài vị của ông vào thờ tại Thái miếu. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử

Đồng Nai 5930 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Khu Di Tích Lịch Sử Đình Tân Lân

Đình Tân Lân nằm trên đường Nguyễn Văn Trị, thuộc địa phận phường Hòa Bình, TP Biên Hòa. Từ khi xây dựng, nhân dân lấy tên gọi của thôn là Tân Lân để đặt cho đình. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, tên địa phương nhiều lần thay đổi nhưng tên đình vẫn tồn tại đến ngày nay. Tương truyền, nguyên thủy đình Tân Lân là ngôi miếu nhỏ ở thành Kèn, do dân làng dựng lên từ thời vua Minh Mạng để tỏ lòng ngưỡng vọng Trấn Biên đô đốc tướng quân Trần Thượng Xuyên, người có công lớn trong việc khai phá đất đai và mở mang thương mại vùng Đồng Nai - Gia Định. Sau hai lần dời chuyển (vào năm 1861 và 1906), ngôi đình ở vị trí hiện nay. Mặt tiền đình hướng ra sông Đồng Nai lộng gió. Kiến trúc đình theo kiểu chữ tam gồm ba gian: tiền đình, chánh điện và hậu cung nối tiếp nhau. Chánh điện được bài trí các ban thờ, trang trí các hoành phi, câu đối, bao lam bằng gỗ trên các hàng cột bằng gỗ lim lớn được chạm khắc tinh tế, có giá trị nghệ thuật. Phần mái tiền đình là cả một công trình nghệ thuật đặc sắc với những mảng tranh gốm sứ hàng trăm tượng người và vật thể hiện các điển tích sinh động. Hậu cung được chia thành ba gian, chính giữa thờ Tiên Sư, hai bên thờ Tiền Thứ Việt Nam và Tiền Thứ Trung Hoa. Đối tượng thờ chính trong đình là vị đô đốc tướng quân Trần Thượng Xuyên. Bệ thờ chánh điện trang nghiêm với tượng thần được tạo tác chân phương nhưng uy nghiêm trên ngai sơn son thếp vàng. Chung quanh có bài trí những linh thú bằng đồng đứng chầu. Trước bàn thờ thần là bàn hội đồng và hai bộ bát bửu bằng đồng. Hai gian bên chánh điện bố trí bàn thờ thờ tả và hữu ban. Dọc tường tả hữu có các bệ thờ thái giám, hậu hiền, bạch mã và tiền hiền. Trần Thượng Xuyên nguyên là Tổng lãnh binh ba châu Cao - Lôi - Liêm dưới triều Minh (Trung Hoa). Năm 1679, Tổng binh trấn thủ các địa phương thủy lục ở Long Môn, thuộc tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc) là Dương Ngạn Địch và phó tướng Hoàng Tấn; cùng Tổng Binh trấn thủ các châu Cao, Lôi, Liêm và Trần Thắng Tài (tức Trần Thượng Xuyên) và phó tướng Trần An Bình đem binh biền và gia quyến trên 3.000 người, trên 50 chiến thuyền vào cửa biển Tư Dung và cửa Đà Nẵng xin các chúa Nguyễn cho tị nạn trên đất Việt. Đây là nhóm người Hoa trung thành với nhà Minh, không chịu thần phục nhà Thanh nên đã nổi dậy phất cờ "bài Mãn phục Minh" nhưng bất thành. Thấy họ lâm vào thế cùng lực tận, chúa Nguyễn đã chấp thuận cho phép họ nhập cư... Chúa Nguyễn Phúc Tần "... bèn khiến đặt yến tiệc đãi họ, an ủi, khen ngợi, cho các tướng lãnh y chức cũ, phong thêm quan tước mới, khiến vào ở đất Đông Phố để mở mang đất ấy. Họ được các tướng Vân Trình, Văn Chiêu hướng dẫn, binh thuyền tướng sĩ Long Môn của Dương Ngạn Địch, tiến vào cửa Lôi Lạp, theo cửa Đại, cửa Tiểu, đến định cư ở Mỹ Tho, binh lính tướng sĩ Cao, Lôi, Liêm của Trần Thượng Xuyên, Trần An Bình tiến vào cửa biển Cần Giờ rồi lên định cư ở Bàn Lân, xứ Đồng Nai (Biên Hòa ngày nay)". Cùng nhóm lưu dân người Việt đến trước, Trần Thượng Xuyên chiêu tập thương nhân người Hoa kiến thiết phố xá, tạo lập các cơ sở thương mại mà thương cảng Nông Nai đại phố (Cù lao Phố) một thời được ví như "xứ đô hội" phồn thịnh bậc nhất phương Nam lúc bấy giờ. Trần Thượng Xuyên là một trong những người có công lớn trong việc khai phá và xây dựng vùng đất Đồng Nai - Gia Định. Về hoạt động quân sự, Trần Thượng Xuyên là một dũng tướng thao lược nhiều lần cầm binh, giữ an bờ cõi phía Nam, mở rộng biên cương nước Việt. Trần Thượng Xuyên mất ngày 23-10 âm lịch khoảng năm 1720 (Canh Tý). Ghi nhớ công lao của Trần Thượng Xuyên, nhà Nguyễn ban phong danh hiệu cao quý "Nguyễn vi vương, Trần vi tướng, đại công thần bất tuyệt" (nghĩa: họ Nguyễn làm vua, họ Trần làm tướng, công khanh đời đời không dứt), được vua Minh Mạng, Thiệu Trị sắc phong "Thượng đẳng thần". Nhiều nơi ở Nam bộ, người dân đã lập đền thờ ông, tôn làm bậc thần linh của xứ sở. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử

Đồng Nai 3222 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích Lăng mộ Trịnh Hoài Đức

Lăng mộ Trịnh Hoài Đức tọa lạc tại khu phố 3 phường Trung Dũng thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Được Bộ Văn hóa -Thông tin - Thể thao và Du lịch xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 27 tháng 12 năm 1990. Dưới thời Nguyễn lăng mộ Trịnh Hoài Đức thuộc thôn Bình Trúc, dinh Trấn Biên. Thời Pháp thuộc được đổi thành Bình Trước, thuộc quận Châu Thành, tỉnh Biên Hòa. Năm 1938 lăng mộ Trịnh Hoài Đức được trường viễn Đông Bác Cổ xếp là di tích. Người dân địa phương quen gọi là “lăng ông” có rất nhiều ngôi mộ cổ được xây bằng đá ong tô hợp chất, nhiều người cho rằnng, trước kia đây là khu mộ của họ tộc Trịnh Hoài Đức. Các ngôi mộ đều xây theo lối hình voi phục, mặt bằng dạng khối hình chữ nhật; các bia đá khắc chữ Hán hướng về phía tây Nam, tường phủ rêu xanh. Trong toàn khu mộ họ Trịnh, mộ Trịnh Hoài Đức nổi bật lên bởi quy mô kiến trúc, có lẽ đây là chủ ý của những người lập mộ trong nguyên tắc của người xưa về dòng họ. Trước năm 1975 đáo lệ hàng năm vào lễ thanh minh, con cháu Trịnh Hoài Đức từ các địa phương khác đến cúng viếng với nghi lễ trang trọng. Về sau có lễ do một số con cháu trong thân tộc họ Trịnh đã lớn tuổi hay lưu lạc mà các lễ viếng không còn duy trì như trước. Năm 1998 nhân kỷ niệm 300 năm hình thành và phát triển vùng đất Biên Hòa - Đồng Nai lăng mộ Trịnh Hoài Đức được trùng tu tôn tạo, kiến trúc mộ ban đầu được bảo tồn nguyên thủy, xung quanh có vòng thành kiên cố. Phía sau mộ có bức tường nhô cao, nối dạng thành hình bầu dục lượn sóng. Trên bức tường có khắc dòng chữ Hán tựa như bài thơ ca ngợi tài đức của Trịnh Hoài Đức nhưng lâu ngày đã bị mờ, không còn đọc được, hai bên trang trí hình hai đầu rồng cách điện. Hiện nay bức tường này được trang trí hình long ẩn vân. Phía trước cửa vào mộ có tấm bình phong lớn, ghi khắc tiểu sử và sự nghiệp của Trịnh Hoài Đức. Trên những cột vuông nối các bờ vòng thành trước mộ khắc những câu đối chữ Hán, nội dung chủ yếu nói về sử học về sự uyên bác bình diện nghiên cứu của Trịnh Hoài Đức. Trong vòng thành là thành tố chính của kiến trúc, gồm hai phần: Mộ: một của Trịnh Hoài Đức và một của chánh thất phu nhân, người họ Lê. Cấu trúc mộ giống nhau, hình voi phục, xung quanh có gờ hình móng ngựa, phía trước mỗi phần mộ đều có bia đá, khắc chữ Hán; chung quanh trang trí bởi các đường hồi văn, biểu tượng âm dương, phía dưới đắp nổi dạng chân quỳ. Nội dung các bia ở hai phần mộ Trịnh Hoài Đức nêu vắn tắt các danh, chức, phẩm, hàm mà Trịnh Hoài Đức được ban tặng, cùng người vợ của ông; Bia: còn ghi rõ thời gian là tháng 11 năm Ất Dậu, con là Trịnh Thiên Lễ Nhiên, Trịnh Thiên Nhiên Bảo, Trịnh Thiên Bảo cùng lập bia. Trịnh Hoài Đức một tài năng lớn, một nhân cách lớn đã góp phần đặt nền móng cho một vòng hào khí Đồng Nai - Văn hóa Đồng Nai, là niềm tự hào của người Đồng Nai. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Đồng Nai

Đồng Nai 4116 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích Đình An Hoà Đồng Nai

Di tích Đình An Hòa là một ngôi đình có lịch sử lâu đời khi được xây dựng từ cuối thế kỉ 18, tọa lạc tại xã An Hòa, huyện Long Thành, bên bờ sông Đồng Nai. Đình An Hòa được nhân dân trong làng dựng năm 1792, vốn là ngôi miếu nhỏ nằm bên tả ngạn sông Đồng Nai, thờ Thành Hoàng bổn cảnh. Qua thời gian, đình An Hòa đã có dấu hiệu xuống cấp và được tiến hành trùng tu, tôn tạo nhiều lần vào các năm 1944, 1953, 1994 và 2009. Hiện nay đình tọa lạc trong khuôn viên rộng gần 3 ngàn m2. Ngoài các giá trị phi vật thể và nghệ thuật chạm khắc gỗ, đình còn có giá trị tiêu biểu về quy mô kiến trúc nghệ thuật đặc trưng của đình làng Nam bộ thế kỷ XVIII ở Đồng Nai. Đình bảo tồn khá nguyên vẹn những đặc điểm của nền kiến trúc dân tộc, không chịu ảnh hưởng của kiến trúc Trung Hoa như một số ngôi đình khác trên địa bàn. Theo đó, tiền đình nhìn ra sông Đồng Nai đón gió lành. Mặt bằng kiến trúc đình được bố trí dạng chữ Công, gồm Khu chánh điện, Nhà tiền bối và Nhà khách. Ngoài ra đình còn có Nhà võ ca được dựng biệt lập ở phía trước đối diện với khu Chánh điện. Đây cũng là nơi diễn ra các hoạt động diễn xướng nghệ thuật, múa lân - sư - rồng trong các buổi lễ đình. Các hạng mục kiến trúc đình đều có kiểu nhà tứ trụ (nhà vuông) và nhà xiên chính bằng kỹ thuật ghép mộng truyền thống tạo ra bộ khung sườn vững chắc, có tính chịu lực cao. Mái đình lợp ngói âm dương và vảy cá, nền lát gạch Tàu. Bờ nóc mái trang trí họa tiết rồng chầu mặt trời, cá chép hóa rồng bằng gốm men xanh biểu tượng của mây mưa, sấm chớp, thể hiện ước vọng mưa thuận gió hòa, được mùa, mọi việc hanh thông… Đình An Hòa là ngôi đình hiếm hoi giữ được nét kiến trúc cùng nghệ thuật chạm khắc gỗ tinh xảo các họa tiết, đề tài như: rồng ẩn mây, cá vượt long môn, cúc, mai, dơi ngậm quả, sóng nước…trên hệ thống đầu kèo, xà ngang, cửa võng và các trang thờ. Điều này cũng biểu trưng cho ước mong mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an, cuộc sống yên bình của cư dân nông nghiệp, chài lưới làng Bến Gỗ. Trước năm 1945, đình là trụ sở hành chính của xã, thôn, nơi tổ chức các hoạt động cộng đồng. Sau khi miền Nam giải phóng, đình trở thành nơi hội họp và tổ chức các sinh hoạt văn hóa cộng đồng do Ban Quý tế xã An Hòa quản lý. Theo Ban Quý tế đình, trải qua những thăng trầm thời cuộc, biến động của đời sống, các hiện vật của đình cơ bản vẫn được gìn giữ, bảo vệ nhưng một số cổ vật cũng bị mất, thất lạc. Hàng năm, vào rằm tháng 8 âm lịch lại diễn ra lễ cúng Thần Thành Hoàng bổn cảnh, chư vị thần linh với ước mong quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa, làm ăn phát đạt, cuộc sống ấm no hạnh phúc. Vào ngày 21/1/1989, di tích đình An Hòa đã được nhà nước ta công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử

Đồng Nai 2862 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Toà Hành chánh Long Khánh Đồng Nai

Di tích Tòa Hành chánh tỉnh Long Khánh tọa lạc trên đường Cách mạng tháng Tám, phường Xuân An, thị xã Long Khánh, đã được Bộ Văn hóa xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 16-11-1988. Tòa Hành chánh Long Khánh có tổng diện tích 9.000m2, xây dựng năm 1965 theo lối kiến trúc kiểu Pháp, bao gồm một tầng trệt và một tầng lầu. Đây là trụ sở làm việc cao nhất của Mỹ ngụy ở tỉnh Long Khánh thời bấy giờ. Tháng 3-1975, Mỹ - ngụy cho xây dựng tuyến phòng thủ chiến lược Phan Rang - Xuân Lộc - Tây Ninh nhằm ngăn chặn bước tiến của quân ta theo cửa ngõ Đông - Bắc vào Sài Gòn. Tòa Hành chánh Long Khánh được chọn làm trung tâm điều khiển mọi hoạt động quân sự của tuyến phòng thủ này. Quán triệt tư tưởng của Bộ Chính trị Trung Ương Đảng, Bộ Tư lệnh Miền quyết định mở chiến dịch Xuân Lộc giải phóng thị xã Long Khánh, phá tan tuyến phòng thủ chiến lược của địch, tiến về giải phóng Sài Gòn. Ngày 9-4-1975, chiến dịch bắt đầu được 5 tiếng đồng hồ thì tại Tòa Hành chánh Long Khánh diễn ra trận đánh lớn. Các đồng chí Phạm Lê Cảnh, Nguyễn Văn Trọng, tiểu đoàn 5; Nguyễn Thanh Sơn, Nguyễn Minh Đức, tiểu đoàn 7 của Trung đoàn 266 thuộc mũi xung kích sư đoàn 341 do đồng chí Trần Văn Trân chỉ huy đánh từ hướng Bắc thị xã xuống đã cắm cờ "Quyết chiến quyết thắng" lên đỉnh cột cờ trên lầu 1 Tòa Hành chánh. Đây là chiến thắng có tính chất bước ngoặt lịch sử cho cách mạng Việt Nam và là niềm tự hào của người dân Long Khánh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Sau ngày giải phóng miền Nam 30-4-1975, tỉnh Long Khánh biên chế thành huyện Xuân Lộc. Tòa Hành chánh được sửa chữa lại, trở thành trụ sở làm việc của Uỷ Ban Nhân Dân huyện Xuân Lộc. Năm 1991, huyện Long Khánh được tách ra từ huyện Xuân Lộc, Tòa Hành chánh trở thành trụ sở làm việc của Uỷ Ban Nhân Dân huyện Long Khánh. Năm 2004, Tòa Hành chánh được giao cho Phòng Văn Hoá Thể Thao-Thông Tin thị xã Long Khánh quản lý và sử dụng: Tầng trệt làm thư viện lưu trữ tư liệu phục vụ bạn đọc, tầng lầu làm phòng trưng bày truyền thống với 176 tài liệu, hiện vật. Hàng năm thu hút khoảng 500 khách tham quan, nghiên cứu, học tập. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử

Đồng Nai 3956 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích Đài Kỷ Niệm Đồng Nai

Đài kỷ niệm - còn gọi là Đài chiến sĩ nằm ở vị trí trung tâm các con đường lớn ở nội ô thuộc phường Trung Dũng, TP Biên Hòa. Công trình này được chính quyền thuộc địa Pháp xây dựng năm 1923 với tên gọi "Đài kỷ niệm người Việt trận vong". Đây là công trình kiến trúc được mô phỏng theo kiểu ngọ môn Huế thời nhà Nguyễn, do vợ chồng giáo sư Robert Balick và đội ngũ giáo viên, học sinh Trường bá nghệ Biên Hòa thi công. Dưới bàn tay khéo léo và khối óc thẩm mỹ của những nghệ nhân, Đài chiến sĩ là một công trình đặc sắc thời bấy giờ và hoàn toàn mang màu sắc dân tộc. Những trụ đá được chạm khắc với đường nét tinh tế, những mảng hoa văn gốm được thực hiện công phu với màu sắc hài hòa. Tấm bia đá khắc chữ Hán ghi tên những con người ở Biên Hòa đã bỏ mạng vì nước Pháp - họ là những người dân thuộc địa bị bắt lính và chiến đấu trên những mặt trận xa quê hương mà thực dân Pháp chủ mưu. Trong tác phẩm "Bản án chế độ thực dân Pháp", Nguyễn Ái Quốc đã nhắc đến di tích này khi chính quyền thuộc địa Pháp tổ chức khánh thành vào ngày 21-1-1923. Đây là một sự mỵ dân của chính quyền thực dân. Với bút pháp giản dị nhưng hết sức hùng hồn, Nguyễn Ái Quốc đã dành những lời tâm huyết đứng về phía những con người cùng khổ, lên án chế độ thực dân tàn bạo chà đạp một dân tộc, nghiền nát từng con người của đất nước nô lệ, đánh đi bức thông điệp, bản cáo trạng đến những quốc gia, những dân tộc và cả những số phận bị áp bức chỉ còn một con đường duy nhất là vùng lên tự giải phóng. Diện mạo di tích Đài chiến sĩ được tu sửa, tôn tạo với một khuôn viên khang trang đẹp đẽ, trở thành một công viên văn hóa tô điểm làm đẹp TP Biên Hòa. Mặc dù trải qua hơn ba phần tư thế kỷ kể từ khi xây dựng đến nay, thời gian bao lần làm phai nhạt, hư hoại nhưng di tích Đài chiến sĩ mãi mãi là một bằng chứng không thể chối cãi tố cáo tội ác của thực dân Pháp, nhắc nhở cho người dân xứ Biên Hòa một thời lịch sử đau thương dưới ách thống trị ngoại bang để biết vươn lên xây dựng một cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Di tích Đài Kỷ niệm (Đài chiến sĩ) được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 16 tháng 11 năm 1988. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử

Đồng Nai 3083 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích lịch sử Nhà Xanh Đồng Nai

Di tích Nhà Xanh nằm trong khuôn viên Trường Công nhân kỹ thuật Đồng Nai, thuộc phường Thống Nhất, TP Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Di tích đã được Bộ Văn Hoá Thể Thao xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 12-12-1986. Nhà Xanh được xây dựng vào năm 1912 theo kiến trúc Pháp bằng vật liệu hiện đại, gồm một trệt, một lầu. Khi mới xây dựng, Nhà Xanh được dùng làm Văn phòng của Công ty kỹ nghệ và lâm nghiệp Biên Hòa, gọi tắt là B - I - F, " Bien Hoa Industrelle et Forestiere". Năm 1958, chính quyền Sài Gòn lấy biệt thự này làm cư xá cho Phái đoàn cố vấn quân sự Mỹ ở Biên Hòa. Nơi đây được đánh giá là một vị trí an toàn, lý tưởng, được bao quanh bằng nhiều đồn bót và được bảo vệ bởi các đơn vị lính bảo an. Sau luật 10 - 59 của chế độ Việt Nam Cộng hòa , cuộc chiến giữa ta và địch ngày càng cam go, ác liệt. Mỹ tăng cường can thiệp sâu vào miền Nam nhằm âm mưu nhanh chóng tiêu diệt các lực lượng cách mạng. Trước tình hình đó, Liên Tỉnh ủy miền Đông quyết định tổ chức trận tập kích vào phái đoàn cố vấn Mỹ ở Biên Hòa tại Nhà Xanh. Ngày 7-7-1959, một phân đội đặc công gồm 6 đồng chí là Huề, Phú, Bé, Sắc, Hưng do đồng chí Nguyễn Văn Hoa chỉ huy đã bất ngờ tấn công vào Nhà Xanh. Chỉ trong vòng chưa đầy 15 phút, quân ta đã tiêu diệt 2 cố vấn Mỹ Bui-s và Ovmand. Đây là trận đánh mở màn táo bạo làm rung chuyển chính quyền Mỹ - Diệm. Trận tập kích Nhà Xanh thể hiện được quyết tâm đánh Mỹ của quân và dân Biên Hòa như một hiệu lệnh cổ vũ phong trào cách mạng ở Biên Hòa và toàn miền Nam đang hừng hực khí thế. Với ý nghĩa lịch sử to lớn của trận đánh Mỹ đầu tiên tại Biên Hòa. Nhà Xanh tồn tại như một nhân chứng lịch sử khẳng định quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ của quân và dân ta. Từ năm 1986 đến nay, Nhà Xanh đã trở thành một địa chỉ quen thuộc của các tầng lớp nhân dân, học sinh, sinh viên ở Đồng Nai và cả nước, nhiều đoàn khách quốc tế đến thăm đã biểu thị sự kính phục tinh thần quả cảm, thông minh táo bạo của các chiến sĩ cách mạng đã làm nên trận đánh vang dội, trận đánh phủ đầu làm nhục ý chí của quân đội Mỹ. Di tích Nhà Xanh đã được sửa chữa nhiều lần vào các năm 1991, 1993, 1999. Để đáp ứng nhu cầu tham quan, học tập ngày càng cao của nhân dân và du khách, được sự chấp thuận của Sở Văn Hoá Thể Thao, đầu tháng 12-2006 Ban quản lý di tích - danh thắng đã phối hợp với Trường công nhân kỹ thuật Đồng Nai tiến hành tu bổ, nâng cấp di tích và dự kiến sẽ hoàn thành đưa vào phục vụ khách tham quan trong dịp Tết Nguyên đán. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử

Đồng Nai 3329 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích chiến thắng La Ngà

Di tích chiến thắng La Ngà (tại km số 104-112 trên quốc lộ 20 đi Đà Lạt, thuộc xã Phú Ngọc, huyện Định Quán) được Bộ Văn hóa xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 12-12-1986. Để cổ vũ cho chiến thắng Việt Bắc thu - đông 1947 và cũng để giáng cho kẻ thù một đòn chí mạng, Ban chỉ huy chi đội 10 đã quyết định phải tổ chức một trận đánh lớn, để quân giặc thấy rằng dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam không dễ dàng chịu khuất phục trước bất kì một kẻ thù nào; Bằng tinh thần quả cảm và sự khôn khéo sau gần nửa năm chuẩn bị, nghiên cứu địa hình, chọn địa điểm: vào lúc 15 giờ 12 phút ngày 1/3/1948 trận chiến phục kích La Ngà bắt đầu và kết thúc vào lúc 15 giờ 57 phút cùng ngày, chỉ trong vòng 45 phút. Chiến thắng La Ngà đã làm nức lòng nhân dân Định Quán nói riêng, quân dân Đồng Nai nói chung. Đây là chiến thắng thể hiện sự mưu trí, dũng cảm của quân và dân ta làm cho địch một phen kinh hồn, bạt phía. Từ chiến thắng này lực lượng ta ngày càng thêm lớn mạnh, góp phần đánh bại kế hoạch đánh nhanh, thắng nhanh của địch, buộc chúng phải rơi vào thế bị động. Quần thể danh thắng đá Chồng, Thác Mai, sông La Ngà và Tượng đài chiến thắng La Ngà là một quần thể du lịch kì thú của Định Quán. Vẻ đẹp kỳ thú của Hòn Ba Chồng, Núi Đá Voi, Hòn Dĩa, cùng với ngôi chùa thiên nhiên dưới chân núi đá là những cụm tiêu biểu tạo thành cảnh đẹp hài hòa cho khu danh thắng Đá Chồng. Quần thể Đá Chồng Định Quán còn là nơi lưu lại những dấu tích của cuộc sống người tiền sử. Tại đây dưới các mái đá, ven các khe suối và cả các sườn dốc ven thung lũng đã phát hiện nhiều công cụ sản xuất, sinh hoạt của người xưa bằng đá, đồng, đất nung. Trong suốt cuộc kháng chiến dài 30 năm. Định Quán là một phần quan trọng của Chiến khu Đ. Đá Chồng đã chứng kiến sự hình thành, phát triển, trú quân, triển khai chiến đấu của lực lượng cách mạng. Ngày nay, một phần đất của khu danh thắng Đá Chồng Định Quán đã được sử dụng, xây dựng thành khu Trung tâm văn hóa thể thao huyện Định Quán. Tương lai không xa khu danh thắng Đá Chồng Định Quán sẽ được đầu tư tôn tạo góp phần làm cho cảnh quan thiên nhiên ngày càng tươi đẹp, là địa điểm du lịch sinh thái hấp dẫn. Nguồn: Uỷ Ban Nhân Dân Huyện Định Quán

Đồng Nai 6023 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích Mộ cự thạch Hàng Gòn Đồng Nai.

Mộ Cự thạch Hàng Gòn (còn gọi Di chỉ Hàng Gòn 7, Mộ Đông Dương, Mả Ông Đá), thuộc xã Hàng Gòn, thị xã Long Khánh, tỉnh Đồng Nai, gồm: Khu hầm mộ (phát hiện năm 1927) và Khu chế tác (phát hiện năm 1995). Năm 2011, di tích được tu bổ, tôn tạo với tổng mặt bằng là 37.120m2, với các hạng mục: Khu hầm mộ, khu chế tác, miếu Ông Đá, miếu Thổ thần, các công trình phụ trợ (cổng, hàng rào, sân đường nội bộ, nhà trực ban - bán vé, nhà bao che, nhà đón tiếp - trưng bày, nhà điều hành). 1. Khu hầm mộ: Di tích mộ Cự thạch Hàng Gòn hiện nay so với phát hiện vào năm 1927 vẫn còn giữ nguyên được cấu trúc, hiện trạng hầm mộ. Tuy nhiên, khu di tích dạng hầm mộ được chôn sâu trong lòng đất, so với bình diện của mặt đất hiện nay khoảng 3m. 2. Khu chế tác: Khu chế tác nằm ở phía Tây Nam của cổng chính và phía Đông Nam Khu hầm mộ. Cuộc khai quật năm 1996, đã phát lộ một số tấm đan đá hoa cương và hai trụ đá sa thạch có đầu đấu chéo vào nhau, cùng nhiều phế liệu đá hoa cương và đá cuội. 3. Miếu Ông Đá: mặt bằng dạng chữ Đinh, gồm Chánh điện và Nhà bếp. Chánh điện diện tích 51,84m2 được xây kiểu tứ trụ (nhà vuông, 4 cột), quay về hướng Đông. Hệ thống cột được làm bằng bê tông cốt thép, sơn giả gỗ. Ba vách tường được xây kín, mặt tiền để thông thoáng với cách bố trí ba cửa được làm bằng gỗ gõ đỏ, phần dưới để trơn, phần trên chạm lộng hình hoa mai. 4. Miếu Thổ thần: nằm cách Miếu Ông Đá khoảng 3m về phía Tây Bắc, diện tích 4m2, xây bằng gạch, sơn màu vàng, mái lợp tôn giả ngói màu đỏ, bên trong có một bàn thờ Thổ thần. 5. Các công trình phụ trợ khác: Cổng chính: Cổng phụ. Hệ thống hàng rào. Nhà Trực ban - Bán vé. Nhà bao che. Hệ thống tường khu hầm mộ gồm: Nhà trưng bày và Nhà điều hành. Di tích mộ Cự thạch Hàng Gòn là kiến trúc cổ bằng đá với quy mô kích thước, chất liệu xây dựng và kiểu thức độc đáo ở Việt Nam. Mộ Cự thạch Hàng Gòn đã góp phần làm đa dạng loại hình dolmen (mộ đá lớn) trên toàn thế giới. Trong quá trình khai quật tại di tích, các nhà khoa học đã thu được nhiều hiện vật có giá trị, đa dạng về chủng loại. Di tích mộ Cự thạch Hàng Gòn là công trình kiến trúc liên quan đến hình thức tín ngưỡng của cư dân cổ Đồng Nai, bổ sung cho nhận thức về thế giới quan, nhân sinh quan trong quá trình đấu tranh, tồn tại và sáng tạo văn hóa của nhân loại. Sinh hoạt tín ngưỡng tại di tích mộ Cự thạch Hàng Gòn là tục thờ “Ông Đá”, với ước vọng “Ông Đá” giúp cho người dân được sống cảnh an lành “phong điều vũ thuận”, “quốc thái dân an”... Hằng năm, vào ngày 13 tháng Chín Âm lịch lễ cúng “Ông Đá” được tổ chức, gồm các nghi thức chính: rước Ông Đá từ Khu hầm mộ về miếu Ông Đá, tổ chức lễ cúng tại miếu và hồi Ông Đá về Khu hầm mộ và nhiều hoạt động văn hóa như: Hội thi mâm ngũ quả, biểu diễn múa lân, múa rồng ... Với giá trị tiêu biểu, di tích lịch sử, khảo cổ Mộ Cự thạch Hàng Gòn được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt ngày 23/12/2015. Nguồn: Cục di sản văn hoá

Đồng Nai 3333 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Điểm di tích nổi bật