Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch Travelviet
Tải ứng dụng Travelviet
Chùa Ngọc Hoàng là tên thường gọi của Điện Ngọc Hoàng, tên chữ là Phước Hải Tự (người Pháp thì gọi là chùa Đa Kao); hiện tọa lạc tại số 73 đường Mai Thị Lựu, phường Đa Kao, quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh. Ngôi chùa vốn là điện thờ Ngọc Hoàng Thượng đế do một người tên Lưu Minh (pháp danh là Lưu Đạo Nguyên, người Quảng Đông, Trung Quốc) xây dựng vào khoảng đầu thế kỷ 20. Năm 1982, Hòa thượng Thích Vĩnh Khương đến tiếp quản điện thờ. Kể từ đó điện thờ này thuộc về Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Đến năm 1984, thì điện Ngọc Hoàng được đổi tên là "Phước Hải Tự". Chùa Ngọc Hoàng là một ngôi chùa cổ, làm theo kiểu đền chùa Trung Hoa với mô típ trang trí rực rỡ. Chùa xây gạch, mái lợp ngói âm dương, trang trí bờ nóc, góc mái bằng nhiều tượng gốm màu. Trong chùa có nhiều tác phẩm nghệ thuật: tranh thờ, tượng thờ, bao lam, liễn đối, hương án... bằng các chất liệu: gỗ, gốm, giấy bồi. Khuôn viên chùa rộng khoảng 2.300 m2. Phía trước có ngôi miếu nhỏ đặt tượng Hộ pháp. Cổng tam quan nổi bật với những đường nét uốn lượn hình sóng nước của hai con rồng theo tư thế "tranh châu". Chính điện thờ Ngọc Hoàng Thượng đế, Huyền Thiên Bắc Đế với các thiên binh, thiên tướng. Có phối thờ Quan Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát và một số thần linh quen thuộc trong tín ngưỡng của người Hoa như: thần Thiên Lôi, thần Môn Quan (thần giữ cửa), thần Thổ Địa (thần đất đai), thần Táo Quân (thần lò bếp), thần Hà Bá (thần sông nước), Văn Xương và thần Lã Động Tân (thần văn chương), Thái Tuế (sao giải hạn), Lỗ Ban (thầy dạy nghề), Nữ Oa Thánh Mẫu, 12 bà mụ, 13 đức thầy...Ngoài ra, chùa còn thờ thần Thành hoàng...Nhìn chung, các pho tượng thờ trong điện thờ đều là những tác phẩm điêu khắc gỗ đẹp. Hàng ngày khách trong và ngoài nước đến chiêm bái chùa rất đông. Lễ hội lớn nhất là Vía Ngọc Hoàng diễn ra ngày 9 tháng Giêng (âm lịch) hàng năm, tương truyền là ngày sinh của Ngọc Hoàng Thượng đế. Ngày 15 tháng 10 năm 1994, chùa Ngọc Hoàng được công nhận là một di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận 1, thành phố Hồ Chí Minh.
TP Hồ Chí Minh 95 lượt xem
Chùa Sắc từ Trường Thọ là ngôi chùa cổ thuộc dòng Lâm Tế, được kiến tạo vào năm 1720 với tên gọi Chùa Vĩnh Trường tọa lạc thôn Hòa Mỹ thuộc Tổng Bình Trị - Huyện Bình Dương – Phủ Tân Bình – Thành Gia Định. Trải qua bao năm tháng thăng trầm của lịch sử vẫn trường tồn cùng đất nước, ngôi cổ tự Vĩnh Trường khẳng định vị trí của mình trên đất Gia Định với 2 lần Sắc phong: Năm Canh Tuất (1802), Vua Gia Long Sắc phong “Sắc tứ Pháp Vũ tự”; Năm Canh Ngọ (1870), Vua Tự Đức Sắc phong “Sắc tứ Trường Thọ”. Năm 2000, Chùa được Bộ văn hóa thông tin (nay là Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch ban hành Quyết định công nhận Di tích kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia. Chùa đã trải qua 7 đời Chư vị Tổ sư tiền bối. Hiện nay, Đại đức Thích Huệ Quang đương nhiệm trụ trì (chính thức được bổ nhiệm từ năm 2013), luôn tích cực cùng chư tăng và bổn tự tham gia các hoạt động Phật sự của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, tiếp tăng độ chúng và thường xuyên vận động tổ chức các hoạt động thiện nguyện, sống tốt đời đẹp đạo, cùng góp sức xây dựng địa phương an lạc, phồn vinh. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh.
TP Hồ Chí Minh 98 lượt xem
Đình thần Thông Tây Hội (phường 11, quận Gò Vấp, Tp. Hồ Chí Minh) từ lâu đã nổi tiếng là ngôi đình lâu đời nhất không chỉ ở Sài thành mà cả vùng đất phương Nam. Đình Thông Tây Hội được xây dựng khoảng năm 1698, đến nay có tuổi đời hơn 300 năm. Đình thờ Thành Hoàng theo tục thờ thần của người Việt Nam. Vị thần chính được thờ trong đình là Đông Chinh Vương và Dực Thánh Vương là Hoàng tử con vua Lý Thái Tổ. Đình Thông Tây Hội, trước năm 1944 có tên đình làng Hạnh Thông Tây là một ngôi đình cổ ở quận Gò Vấp. Đình được xây dựng vào khoảng năm 1679, ngày nay được biết tới như là ngôi đình cổ nhất của vùng đất Gia Định xưa và của cả miền đất phương Nam còn tồn tại. Đình Thông Tây Hội là ngôi đình có cấu trúc thuộc dạng đình cổ ở miền Nam thế kỷ 19. Đình hiện vẫn gìn giữ được gần như nguyên vẹn cấu trúc và vật liệu xây dựng của ngôi đình cổ. Toàn bộ khu đình tọa lạc trên một khu đất rộng 5.188m2. Do bị dân lấn chiếm một phần đất để ở nên hiện nay chỉ còn khoảng 1.500m2. Đình quay về hướng Đông. Cổng đình xây theo kiểu tam quan. Sân Đình rộng, có một số cây cao khoảng 10m. Mặt bằng kiến trúc của đình tạo thành hai trục song song với nhau: một trục dài (trục chính) gồm võ ca, chánh điện; một trục ngắn (trục phụ) là nhà hội sở. Kiểu mặt bằng kiến trúc này rất phổ biến đối với công trình kiến trúc tôn giáo ở miền Nam thế kỷ thứ 18 - 19. Võ ca có kích thước: ngang 14m, sâu 17,5m, cao 4m là nơi xây chầu, hát bội gồm 7 nếp nhà và 52 cột gỗ, không có tường bao xung quanh. Chánh điện gồm: 2 nếp nhà ghép trùng nhau theo kiểu "trùng thiềm điệp ốc". Mái của hai nếp nhà cạnh sát nhau. Tất cả có 48 cột, chia thành 8 dãy cột, mỗi dãy có 6 cột. Bốn cột giữa cao nhất là 4,5m; có đường kính là 30 cm (thường được gọi là "tứ tượng") là nơi quan trọng nhất, linh thiêng nhất - nơi đặt bàn thờ các vị thần. Các chân cột ở chánh điện được có khắc hình lăng trụ thắt ở giữa. Trên nóc chánh điện có tượng lưỡng long tranh châu bằng gốm men xanh, quanh chánh điện có tường gạch. Nhà hội sở là văn phòng ban trị sự, nơi tiếp khách và chuẩn bị tế lễ, có kích thước ngang 12m, dài 19m, cao 4,2m; có 56 cột, chân cột kê đá xanh, có 3 nếp nhà "trùng thiềm điệp ốc"; có vách ván ngăn phòng làm việc với nhà kho. Toàn bộ ngôi đình lợp ngói âm dương, bộ vì kèo chịu lực bằng gỗ, nền lót gạch tàu (30 cm x 30 cm). Trang trí của đình Thông Tây Hội, phần đặc sắc nhất tập trung tại chánh điện. Ở đây các đầu kèo, trính đều được chạm khắc đầu rồng và cành mai. Có 3 bao lam: bao lam ở giữa chạm theo đề tài lân - ly - quy - phụng, hai bao lam hai bên chạm theo đề tài mẫu đơn - trĩ. Tác phẩm chạm khắc đặc sắc nhất là trang thờ thần, được chạm khắc tinh xảo theo đề tài lưỡng long triều nguyệt và lân - ly - quy - phụng. Ngoài ra còn có hai trang thờ tả ban, bức hoành "chung linh lưu tú", hai cặp câu đối bằng thân cây dừa ở chánh điện đều là những tác phẩm nghệ thuật có giá trị. Trong di tích đình Thông Tây Hội còn giữ 37 hiện vật quý. Các hiện vật là tác phẩm chạm khắc nghệ thuật như bao lam, hoành phi, câu đối, trang thờ đều giữ được đường nét, màu sắc sơn son thếp vàng của hiện vật cổ, không bị phết lên những lớp son mới như một số ngôi đình khác thường làm. Với giá trị kiến trúc nghệ thuật, lịch sử, xã hội, đình được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật văn hóa lịch sử cấp quốc gia năm 1998. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh.
TP Hồ Chí Minh 120 lượt xem
Tả quân Lê Văn Duyệt sinh ngày 6 tháng 9 năm Giáp Thân (1764), tại thôn Long Hưng, Tổng Kiến Hưng, Định Tường. Tả quân Lê Văn Duyệt quê gốc tại làng Bồ Đề, huyện Chương Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đến đời ông nội là Lê Văn Hiếu vào Nam sinh sống tại làng Hòa Khánh, tỉnh Định Tường. Năm 1765, cha là Lê Văn Toại đưa gia đình đến sống tại Rạch Gầm, tổng Long Hưng, Mỹ Tho (nay là xã Long Hưng, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang). Thuở nhỏ Ông sống cùng cha mẹ, phụ giúp việc nông gia, lúc rảnh rỗi thì tập luyện võ với bạn bè. Ông có tư chất thông minh, lanh lẹ, có sức khỏe hơn người, thích võ nghệ hơn văn chương; rất thích chơi chọi gà và xem hát bội. Năm 15 tuổi, Lê Văn Duyệt đã sớm bộc lộ ý chí “Sinh ở đời loạn, không hay dụng cờ trống Đại Tướng, chép công danh vào sách sử không phải là trượng phu”. Trong cuộc đời làm quan Ông rất mực thanh liêm, cương trực, thưởng, phạt nghiêm minh, lấy đức an dân, lấy dân làm gốc, có ý thức kết hợp kinh tế với quốc phòng, mở rộng giao thông thương mại làm cho nền kinh tế cả miền thịnh vượng, đoàn kết các dân tộc và tôn giáo, tận tình giúp đỡ lương dân khi gặp hoạn nạn nên nhân dân và các nước lân bang rất kính nể. Có công lao lớn trong việc khai phá, mở rộng và phát triển vùng đất Nam bộ. Năm Canh Tý (1780), theo phò Chúa Nguyễn Ánh được tuyển vào làm Thái giám Nội đình, sau đó được phong làm Thuộc Nội Vệ Úy, Ông 2 lần hộ giá Chúa Nguyễn chạy nạn ra Phú Quốc và sang Xiêm. Năm Canh Thân và Tân Dậu (1800 – 1801): Ông lập được nhiều chiến công, đặc biệt là thu phục thành Qui Nhơn (Bình Định) và thắng lớn ở cửa Bể Đầm Thị Nại. Năm 1802, Ông được phong tước Quận Công (hàng chánh nhất phẩm), chức Khâm Sai Chưởng Tả Dinh Bình Tây Đại Tướng Quân. Ông hai lần làm Tổng trấn thành Gia Định (các giai đoạn 1812 - 1816 và 1820 - 1832), Tả quân Lê Văn Duyệt đã có công lớn giúp an định và phát triển vùng đất phương Nam, đặc biệt để lại dấu ấn đậm nét trong lòng người dân Nam bộ, được truyền đời đến nay, là những cải cách khai mở, phát triển kinh tế, chăm lo đời sống người dân và bài trừ tham nhũng. Sau khi ông mất, người dân trong vùng đã lập lăng miếu thờ, nay gọi là Lăng Lê Văn Duyệt hay còn gọi là Lăng Ông Bà Chiểu. Hằng năm ngày 30/7 đến ngày 1/8 âm lịch là Lễ giỗ Đức thượng công Tả quân Lê Văn Duyệt nhằm ghi nhớ công lao vị quan thanh liêm đã chăm lo tốt đời sống nhân dân. Lăng Ông rộng 18.501 m² trên một gò đất cao, nằm giữa bốn con đường: Lê Văn Duyệt, Phan Đăng Lưu, Trịnh Hoài Đức và Vũ Tùng. Chung quanh khu lăng có bức tường bao bọc dài 500m, cao 1,2 m được trổ bốn cổng ra vào theo bốn hướng, được xây dựng vào năm 1948. Năm sau, cổng Tam quan cũng được xây. Cổng có hàng đại tự nổi bằng chữ Hán Thượng Công Miếu, được đặt ở hướng Nam, mở ra đường Vũ Tùng. Trước năm 1975, cổng này đã từng được chọn là biểu tượng của vùng Sài Gòn-Gia Định xưa. Khu lăng được xây dựng trên một trục đường chính. Từ cổng Tam quan ở phía nam vào qua một khu vườn cảnh là: Nhà bia nơi đặt bia đá ghi công đức Tả quân Mộ Tả quân và vợ, có bình phong và tường hoa bao quanh Miếu thờ Với những giá trị đó , ngày 6 tháng 12 năm 1989, toàn bộ khu lăng được Bộ Văn hóa công nhận là di tích Lịch sử Văn hóa cấp quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh.
TP Hồ Chí Minh 107 lượt xem
Địa đạo Phú Thọ Hòa là địa đạo đầu tiên ở phía Tây Sài Gòn (xây dựng vào năm 1947, trước Địa đạo Củ Chi), được đào trong những năm kháng chiến chống Pháp và được duy trì cho đến hơn mười năm đánh Mỹ, nằm lọt giữa nhiều đồn bốt dày đặc của kẻ thù, nhưng là vùng đất quân sự có nhiều chiến lũy phòng thủ chống quân xâm lược (Lũy Ông Dầm, Lũy Bán Bích, Lũy Chí Hòa,…), nơi có nhiều phong trào yêu nước (“Thiên địa hội”, “Hội kín Nguyễn An Ninh”,….) đã góp phần vào những chiến công vang dội trong suốt chặng đường kháng chiến chống giặc ngoại xâm của quân và dân ta như là chặn đánh địch suốt 6 ngày đêm tại cầu Tham Lương (tháng 10/1945), trận chống càn ở Gò Đậu - Bình Long (năm 1948), trận đánh kho bom Bảy Hiền (ngày 29/3/1948), nhiều lần đánh vào sân bay Tân Sơn Nhất (tháng 12/1949), tấn công vào kho bom Phú Thọ (năm 1952 và 1954), làm tiêu hao nhiều lực lượng của địch ở trận tiêu diệt đồn Phú Thọ Hoà, đồn Phạm Văn Tụng (đêm 31/5 rạng sáng ngày 01/6/1954),... hỗ trợ cho chiến trường Điện Biên Phủ, gây được tiếng vang trong nước và trên thế giới. Ngày nay, Địa đạo Phú Thọ Hòa là Khu di tích lịch sử để Nhân dân và bạn bè quốc tế đến tham quan, tìm hiểu, khám phá, học, nghiên cứu lịch sử kháng chiến chống giặc và là một trong những điểm đến du lịch nổi bật của quận Tân Phú. Địa chỉ số 139 đường Phú Thọ Hòa, phường Phú Thọ Hòa, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh. Địa đạo Phú Thọ Hòa đầu tiên chỉ là những chiếc hầm ếch (chỉ vừa một người chui, loại hầm ngõ cụt khó thoát), sau dần cải tiến thành đường hầm xe lửa 2 ngăn và tiếp tục phát triển thành hệ thống địa đạo liên xã kéo dài trên 10 cây số. Địa đạo có 2 tầng được đào sâu dưới lòng đất những 3 đến 4 mét; có 3 hầm đào rộng ra, để có thể ngồi đến 7 người hoặc chứa lương thực, vũ khí; lòng địa đạo cao 1 mét, rộng 0,6 đến 0,8 mét, dài gần 700 mét, hai bên có nhiều ngách đi sang nhiều hướng khác nhau. Gọi hầm xe lửa vì cứ khoảng 20 mét thì có 1 vách ngăn, ở giữa có khoét 1 lỗ đường kính 0,5 mét, vừa một người chui qua (hình thức này tương tự như từng toa xe lửa) và cứ thế nối tiếp nhau đi từ ấp này sang ấp khác, cách bố trí vách ngăn này để phòng ngừa khi địch phát hiện hầm địa đạo thì ta chui qua hầm kế tiếp rồi bít cửa lại, ngụy trang cẩn thận để địch tưởng đây là đường cùng, hết lối. Cách thức đào hầm từ 2 điểm ở đầu, hai tổ đào thẳng về điểm trung tâm. Điều đặc biệt thú vị là từ 2 đầu làm sao mà định hướng cho đúng để đào cho đúng đến điểm trung tâm mà cái thời không hề có công nghệ định hướng hỗ trợ. Đây là câu trả lời về cách vô cùng sáng tạo của cha ông ta để định hướng chính xác như sau: người ngồi sau cầm đèn để ở một khoảng cách nhất định mà rọi bóng người ngồi trước lên vách. Người ngồi trước cầm cuốc, cuốc vào cái bóng của mình, bao giờ bóng ngay thẳng tròn trịa là lòng hầm đúng ni tấc và phương hướng. Ngoài ra, cũng còn phối hợp kiểm tra trên bề mặt đất, người ở trên áp tai vào mặt đất, người ở dưới vỗ mạnh vào trần hầm sao cho trên dưới đều nghe rõ ám hiệu là được. Địa đạo Phú Thọ Hòa nằm trọn vẹn trong đất của dân, đã được phục chế, tôn tạo, đã được Bộ Văn hóa - Thông tin cấp bằng công nhận là “Di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia” tại Quyết định số 1460-Quyết Định /Văn Hóa ngày 28/6/1996 và được xây dựng, chỉnh trang, nâng cấp khang trang, sạch đẹp như lời Đồng chí Nguyễn Văn Linh, Cố Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (khi còn là Bí thư Thành ủy Hồ Chí Minh) đã chỉ đạo khôi phục lại khu di tích này, để giáo dục cho thế hệ trẻ: “Làm lại tất cả các di tích này cốt không chỉ để ca ngợi những cái đã qua, mà chính là để truyền lại tinh thần đoàn kết yêu nước, tinh thần chiến đấu anh dũng cho thế hệ thanh niên ở thành phố chúng ta, đất nước chúng ta. Nguồn Trang thông tin điện tử quận Tân Phú , thành phố Hồ Chí Minh.
TP Hồ Chí Minh 120 lượt xem
Tọa lạc ở địa chỉ số 565 đường Lạc Long Quân, phường 10, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh. “Chùa ở trên gò Cẩm Sơn, cách phía Tây lũy Bán bích ba dặm...Cây cao như rừng, hoa nở tựa gấm, sáng chiều mây khói nổi bay quanh quất, địa thế tua nhỏ mà nhã thú...” (Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí). Chùa Giác Lâm được xem là tổ đình của phái Lâm Tế, thiền sư Viên Quang (đời thứ 36) là vị trụ trì đầu tiên. Chùa được xây dựng từ năm 1744, từ đó đến nay dù đã trải qua 4 lần trùng tu lớn vào các năm 1798 – 1804, 1900 – 1909, 1939 – 1945, 1992 – 1994, tuy nhiên đến nay hệ thống cổ vật vẫn được bảo tồn gần như nguyên vẹn. Bửu Pháp Xá Lợi cao bảy tầng thờ viên ngọc Xá Lợi Phật được đại đức Narada từ Sri-Lanka tặng cho Giáo hội Phật giáo cổ truyền là địa điểm thu hút nhiều du khách. Vườn chùa có 38 tháp thờ các vị tăng sĩ và khu tháp các vị tổ của chùa. Rảo bước vào bên trong, ngôi chánh điện nép mình khiêm tốn dưới hàng cây cổ thụ xanh mát. Mang phong cách kiến trúc chữ tam truyền thống của chùa cổ Nam Bộ, chùa Giác Lâm gồm ba dãy nhà ngang nối liền nhau gồm chính điện, giảng đường và nhà trai, mái chùa dạng bánh ít đặc trưng, trên đỉnh mái là hình ảnh “lưỡng long tranh châu” quen thuộc trong văn hóa Việt Nam. Mái ngói, màu tường nâu vàng trầm ấm cùng các họa tiết sành sứ được trang trí cực kì tỉ mỉ và điêu luyện. Với hơn 7.000 đĩa trang trí, chùa Giác Lâm hiện sở hữu kỷ lục ngôi chùa có số lượng đĩa kiểu trang trí nhiều nhất Việt Nam. Chính điện bài trí 113 pho tượng cổ bằng gỗ mít, 5 pho tượng bằng đồng, 86 câu đối chữ Hán được chạm khắc vô cùng sống động, tinh xảo, thể hiện sự tài hoa đáng ngưỡng mộ của các nghệ nhân xưa. 2 bộ tượng La Hán bằng gỗ thếp vàng, bộ nhỏ có niên đại thế kỷ 18,19 với trang phục nhà Phật giản dị, ánh mắt vô ưu, cử chỉ thân thiện và khuôn miệng như chuẩn bị nở nụ cười, tạo cho du khách cảm giác gần gũi như đang đứng trước những con người Nam Bộ thân quen bình dị mà ta có thể bắt gặp đâu đó trong cuộc sống đời thường. Hệ thống bao lam, hoành phi, phù điêu, câu đối, liễn...được thếp vàng, chạm khắc tinh xảo, trang trí thêm các đường viền hoa lá, kỉ hà với các biểu tượng phong phú tiêu biểu cho văn hóa Nam Bộ và chủ đề quen thuộc trong Phật giáo như “lưỡng long triều nguyệt”, “lưỡng long tranh châu”, các đề tài thực vật, động vật thân thuộc: tùng hạc, trúc tước, mai điểu, cúc điệp, sóc nho, mai, lan cúc, trúc, trái bí, trái bầu, trái mãng cầu… Một số môtip có cẩn ốc xà cừ, ô hộc thể hiện phong cách nghệ thuật triều Nguyễn. Trải qua thời gian của chiều dài lịch sử, với những giá trị văn hóa đặc sắc, Chùa Giác Lâm được Bộ Văn hóa (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng là Di tích Kiến trúc Nghệ thuật Quốc gia theo Quyết định số 1288-Văn Hóa /Quyết Định ngày 16 tháng 11 năm 1988. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh.
TP Hồ Chí Minh 119 lượt xem
Phan Châu Trinh là nhà cách mạng xã hội có tư tưởng dân chủ sớm nhất trong số các nhà nho yêu nước tiến bộ đầu thế kỷ XX. Cuộc đời và sự nghiệp hoạt động cách mạng của Ông đã để lại nhiều bài học lớn cho thế hệ hôm nay. Phan Châu Trinh, hiệu là Phan Tây Hồ, sinh ngày 09/9/1872 tại huyện Tiên Phước, phủ Tam Kỳ nay thuộc huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam, trong một gia đình quan võ triều Nguyễn. Thân sinh ông từng tham gia phong trào Cần Vương trong tỉnh. Năm 1892, ông đi học và nổi tiếng học giỏi. Bạn cùng học với ông là Huỳnh Thúc Kháng. Năm 1900, ông đỗ Cử nhân. Năm 1901, ông đỗ Phó bảng, đồng khoa với tiến sĩ Ngô Đức Kế và Nguyễn Sinh Sắc. Năm 1902, ông vào học Trường Hậu bổ, sau ra làm Thừa biện Bộ Lễ. Ít lâu sau ông từ quan, tham gia hoạt động cứu nước. Ông kết giao với nhiều sĩ phu yêu nước như Huỳnh Thúc Kháng và Phan Bội Châu. Ông cùng các bạn đi khắp Việt Nam cổ vũ đấu tranh và liên kết trí thức, văn sĩ yêu nước. Năm 1905 và 1911, Phan Châu Trinh sang Nhật Bản rồi sang Pháp để học hỏi, tìm con đường thoát khỏi ách cai trị của người Pháp. Nhà yêu nước Phan Châu Trinh hoạt động tích cực, sôi nổi trong phong trào Duy Tân giai đoạn đầu thế kỷ XX, ông chọn con đường dấn thân đấu tranh nhưng ôn hòa, bất bạo động, coi dân chủ cấp bách hơn độc lập và coi việc dùng pháp luật, cai trị quy củ có thể quét sách hủ bại phong kiến. Các năm 1906, 1919 và 1920, Phan Châu Trinh ba lần gửi một bức thư yêu cầu nhà cầm quyền Pháp phải thay đổi chính sách cai trị ở Việt Nam và Đông Dương. Năm 1908, ông bị thực dân Pháp bắt và đày đi Côn Đảo. Giữa năm 1910 ông được thả và về an trí ở Mỹ Tho. Tháng 4 năm 1911, ông xuống tàu sang Pháp, tiếp tục đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ, gióng lên tiếng nói tố cáo chế độ thuộc địa, đánh động dư luận Pháp. Tại đây, ông lại bị Pháp bắt giam lần thứ 2 trong 10 tháng, từ tháng 9 năm 1914 đến tháng 7 năm 1915. Ngày 16/7/1915, Phan Châu Trinh được tuyên bố trắng án và trả tự do. Sau đó, ông chuyển sang tiếp tục hoạt động bí mật trong các nhóm Việt kiều yêu nước, thích nghi với hoàn cảnh mới tại Pháp. Sau 14 năm, ngày 26/6/1925 Phan Châu Trinh về đến Tổ quốc, với mục tiêu và khẩu hiệu “Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”. “Khai dân trí” là: bỏ lối học tầm chương trích cú, mở trường dạy chữ Quốc ngữ, kiến thức khoa học thực dụng, bài trừ hủ tục xa hoa.“Chấn dân khí” là: thức tỉnh tinh thần tự lực tự cường, mọi người giác ngộ được quyền lợi của mình, giải thoát được nọc độc chuyên chế. “Hậu dân sinh” là: phát triển kinh tế, cho dân khai hoang làm vườn, lập hội buôn, sản xuất hàng nội hóa... Ông công bố chủ trương đường lối "Trước tiên cần phát triển giáo dục, nâng cao trình độ nhân dân về ý thức dân chủ tự cường và phát triển xã hội, kinh tế" với mục tiêu cuối cùng là giành lại độc lập dân tộc. Phan Châu Trinh yêu cầu chính quyền thuộc địa sửa đổi chính sách cai trị hiện hành để có thể giúp nhân dân Việt Nam từng bước tiến đến văn minh. Ông đề cao phương châm "Tự lực khai hóa", vận động những người cùng chí hướng thức tỉnh dân chúng, tuyên truyền tư tưởng dân quyền. Ngày 24/3/1926 ông qua đời, trên miệng còn kịp mỉm cười chào người bạn tâm giao Huỳnh Thúc Kháng và lời trăn trối "Độc lập dân tộc sở cậy Nguyễn Ái Quốc". Di tích khu lưu niệm mộ Cụ Phan Châu Trinh mang giá trị văn hóa lịch sử của giai đoạn đầu thời kỳ kháng chiến chống Pháp trước khi có Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo, góp phần tô thắm thêm trang sử vàng truyền thống cách mạng của dân tộc Việt Nam. Là chứng cứ lịch sử giáo dục lòng yêu nước, niềm tự hào về tấm gương cách mạng sáng ngời của bậc tiền nhân cho các thế hệ chúng ta noi theo. Bia mộ của Người là công trình công phu, ghi lại thân thế và sự nghiệp của Người do Huỳnh Thúc Kháng soạn thảo. Ngoài ra, khu lưu niệm còn trưng bày lưu giữ những hiện vật, bút tích trong quá trình hoạt động cách mạng của Nhà yêu nước Phan Châu Trinh. Với những giá trị quý báu trên, ngày 12/12/1994 nơi an nghỉ của Người đã vinh dự được Nhà nước công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Vào ngày 24/3 hằng năm, Quận ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và nhân dân quận Tân Bình tụ họp về đây trang trọng tổ chức Lễ tưởng niệm nhà chí sỹ yêu nước, một đời nặng nợ với mục tiêu “Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”. Lễ dâng hương tưởng niệm ngày mất nhà chí sỹ yêu nước Phan Châu Trinh trở thành hoạt động thường niên của Quận. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh.
TP Hồ Chí Minh 127 lượt xem
Khu vực gò đất cao từ Bà Chiểu tới Phú Nhuận là nơi có nhiều lăng mộ của các công thần thời Trung Hưng nhà Nguyễn, từ Tổng trấn Gia Định Lê Văn Duyệt, Phan Tấn Huỳnh, Phó Tổng trấn Trương Tấn Bửu tới các vị tướng như Võ Tánh, Võ Di Nguy; những người này tuy không sinh ra ở Gia Định nhưng sự nghiệp lại gắn liền với vùng đất này. Lăng Võ Di Nguy với kiểu kiến trúc chỉ dành cho bậc đại công thần được chia làm hai khu: khu đền thờ phía trước và khu mộ phía sau. Ngôi mộ được xây bằng hợp chất cổ và được coi là tiêu biểu cho nghệ thuật xây cất lăng mộ dành cho các công thần ở Nam bộ. Với kiến trúc gồm bình phong trước, bình phong sau, vòng tường bao xung quanh cùng các trụ cột là những thành phần che chắn, bảo vệ cho phần mộ ở giữa. Mộ được xây dựng có dạng hình chữ nhật vuông xung quanh khắc các đường trang trí và hình tượng “dây lá hóa rồng” đang bay lượn. Toàn bộ khu mộ được đắp nổi nhiều hình tượng và trang trí nhiều mô típ hoa văn độc đáo, sống động: búp sen, kỳ lân, rồng, hổ, rái cá; tùng lộc, lộc bình, hoa điểu, hoa cúc dây… cùng nhiều bài thơ ghi công đức của ông và phu nhân. Đền thờ có từ khi xây cất xong khu mộ, kiến trúc hiện nay của khu đền thờ là kiến trúc được xây dựng lại trong đợt trùng tu vào năm 1972; với kiến trúc chính điện là ngôi nhà tứ trụ truyền thống Nam bộ cùng hai dãy nhà phía Đông và phía Tây hai bên. Bên trong, tại Chính điện có bàn thờ Hội đồng ở giữa, phía trong là các án thờ Võ Di Nguy và người cháu ruột là Võ Di Thái được phong tước Bình Giang Bá, riêng án thờ Võ Di Nguy có bài vị khắc chữ Thần thếp vàng. Trong chính điện còn treo các bức hoành phi, liễn đối bằng chữ Nho thể hiện công trang của Võ Di Nguy. Đền thờ và mộ Võ Di Nguy là một công trình kiến trúc nghệ thuật có liên quan tới nhân vật lịch sử thời chúa Nguyễn. Đây là kiến trúc lăng mộ có tính chất uy nghi, độc đáo vào bậc nhất của các công thần thời Nguyễn ở Nam bộ. Công chúng tới đây có thể nhận thấy nhiều điều thú vị về cuộc sống và xã hội của con người trong quá khứ một thời ở đất Gia Định xưa. Lăng Võ Di Nguy được Bộ Văn hóa – Thông tin xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia theo Quyết định số 43-Văn Hóa /Quyết Định ngày 07 tháng 01 năm 1993. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh.
TP Hồ Chí Minh 134 lượt xem
Lăng Trương Tấn Bửu là nơi yên nghỉ của Long Vân Hầu Trương Tấn Bửu, một danh tướng của triều Nguyễn. Lăng được xây dựng tại ấp Phú Thành, xã Phú Nhuận, tỉnh Gia Định nên còn được gọi là lăng Phú Thành, hội quí tế lo việc cúng tế, trông coi lăng mang tên Hội Phú Thành. Trương Tấn Bửu là một trong năm vị tướng nổi danh của thành Gia Định (gồm Nguyễn Văn Trương, Nguyễn Văn Nhân, Lê Văn Duyệt, Nguyễn Huỳnh Đức, Trương Tấn Bửu). Ông theo phò Nguyễn Ánh từ năm 1787, giữ nhiều trọng trách trong quân đội, được phong tước hiệu là Long Vân Hầu. Năm 1808, vua Gia Long phân định lại bờ cõi, đổi “Gia Định trấn” thành “Gia Định thành” bao gồm Bình Thuận, Phiên An, Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Thanh, và Hà Tiên. Tổng trấn đầu tiên của Gia Định thành là Nguyễn Văn Nhân, Phó Tổng trấn là Trương Tấn Bửu. Từ đây đến cuối đời ông giữ nhiều trọng trách: Tổng trấn Gia Định thành; Tổng trấn Bắc thành; Phó Tổng trấn Gia Định thành dưới quyền Tổng trấn Lê Văn Duyệt; Tiền quân Phó tướng; Trung quân kiêm Tả quân Phó tướng; trông coi xây dựng Thái miếu; đắp thành Châu Đốc; đào kênh Vĩnh Tế…Ông mất năm 1827, vua Minh Mạng ban cho hai ngàn quan tiền và năm cây gấm tống cẩm để giúp làm việc tang lễ. Đích thân tả quân Lê Văn Duyệt coi lo việc chôn cất Long Vân Hầu Trương Tấn Bửu và xin cấp tự điền (ruộng đất để thờ tự) và người giữ mộ. Ông mất năm 1827, vua Minh Mạng ban cho hai ngàn quan tiền và năm cây gấm tống cẩm để giúp làm việc tang lễ. Đích thân tả quân Lê Văn Duyệt coi lo việc chôn cất Long Vân Hầu Trương Tấn Bửu và xin cấp tự điền (ruộng đất để thờ tự) và người giữ mộ. Lăng Trương Tấn Bửu gồm ngôi mộ và một đền thờ trong khuôn viên rộng hơn 2300m2 có tường rào bao bọc. Mộ Trương Tấn Bửu dài hơn 3m, chiều ngang khoảng 2m, cao hơn 2m. được xây bằng ô dước (hợp chất gồm vôi, cát giấy do, than hoạt tính, mật đường). Cách xa mộ gần 2m có tường thành bao thành hình chữ nhật (được gọi là khuông thành). Tường được xây bằng ô dước và gạch thức (gạch có đóng dấu). Đầu mộ, cuối mộ có xây bình phong. Trên khuông thành và binh phong trang trí hình kỳ lân, búp sen, phù điêu hình cây tùng và chin hạc, các cặp liễn đối. Bên phải ngôi mộ là đền thờ Trương Tấn Bửu. Đền thờ gồm có tiền điện và chính điện. Tiền điện được xây theo dạng nhà tứ trụ, vì kèo bằng gỗ, mái lợp ngói ống (ngói âm dương tiểu đại). Chính điện cũng có dạng nhà tứ trụ nhưng được xây bằng bê-tông, tường gạch, mái lợp tôn xi măng. Khám thờ Trương Tấn Bửu được đặt ở chính điện, hai bên có bàn thờ Tả Ban và Hữu Ban. Năm 1943, với sự đóng góp của Hội Thượng công quí tế lăng Lê Văn Duyệt, Hội Phú Thành đã trùng tu đền thờ. Năm 1959, Hội Phú Thành xây một hội quán bên phải đền thờ. Lăng Trương Tấn Bửu là công trình tiêu biểu của kiến trúc lăng mộ đầu thế kỉ 19 ở Gia Định, do đích thân Lê Văn Duyệt đốc xuất xây dựng làm nơi yên nghỉ cho một vị tướng tài, có công bình định an dân ở miền Nam, dẹp nạn thổ phỉ ở miền Bắc. Trước Cách mạng tháng Tám và trong những ngày đầu Nam bộ kháng chiến, lăng Trương Tấn Bửu là cơ sở của đội Cảm tử quân Phú Nhuận. Lăng Trương Tấn Bửu đã được Bộ Văn hóa – Thông tin xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia theo Quyết định số 101/2004/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thông Tin ngày 15 tháng 12 năm 2004. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh.
TP Hồ Chí Minh 131 lượt xem
Đình Phú Nhuận được xây dựng khoảng năm 1818 ở xóm Kinh, sát kinh Nhiêu Lộc, đến năm 1852 được xây lại trên địa điểm hiện nay. Ngày 29 tháng 11 năm Nhâm Tý (tức ngày 08 tháng 01 năm 1853), vua Tự Đức đã ban sắc phong cho Thần Thành Hoàng của đình. Đình trải qua nhiều lần trùng tu vào các năm 1930, 1966, 1989 và 1998, nhưng vẫn giữ được nét độc đáo kiến trúc cổ của đình Nam bộ thế kỷ 19. Từ cổng đình bước vào, ta gặp miếu “Nhị Vị Công Tử” thờ hai người con trai của nữ thần Po Nagar của người Chăm ở bên phải; miếu thờ “Ngũ Hành Nương Nương” bên trái. Mặt tiền là bức bình phong đắp nổi hình Bạch Hổ. Phía sau bức bình phong là dấu vết bệ thờ Thần Nông. Nhìn tổng thể, đình có hình L ngược, có hai trục: trục chính nằm ở phía bên phải (tính từ trong ra ngoài), nhà võ ca, võ quy, chính diện. Trục phụ gồm: sân đình, nhà thảo bạt, nhà túc, sân thiên tỉnh, nhà bếp và nhà kho. Mái đình thẳng lợp ngói âm dương, trên đỉnh có trang trí “ lưỡng long tranh châu” bằng gốm. Bên trong đình có bộ cột và vì kèo làm bằng gỗ, cấu trúc theo kiểu kẻ chuyền. Chính diện xây theo kiểu nhà tứ tượng, hình vuông (một gian hai chái) với cột gỗ, kèo gỗ, trạm hình đuôi rồng, được xây dựng năm 1920. Các bàn thờ được xếp thành ba dãy, dãy giữa gồm các bàn thờ Thần, hai bên là bàn thờ Tả Ban và Hữu Ban. Bàn thờ Thần bằng gỗ chạm hoa văn “lưỡng long triều nguyệt”, trên đặt sắc Thần do vua Tự Đức ban cho vị Thần Thành Hoàng của đình Phú Nhuận đựng trong chiếc hộp. Trên bàn thờ Thần ở chính điện có lư hương bằng gốm cổ, men xanh lam và một lư hương bằng đồng. Chính điện có bốn cặp câu đối và ba bức hoành phi được chạm khắc tinh sảo. Đặc biệt có cặp câu đối cổ viết bằng chữ Hán “Hộ quốc tý dân” (dịch là: Giúp nước cứu dân) niên đại 1860, và “Hộ quốc bảo dân” (dịch là: Giúp nước bảo vệ dân) niên đại 1901. Ngoài ra, đình còn lưu giữ 33 hiện vật và sắc phong của vua Tự Đức nói trên. Đình Phú Nhuận thờ Thần Thành Hoàng theo tục thờ Thần của người Việt. Ngày lễ lớn nhất của đình Phú Nhuận là lễ Kỳ Yên, được tổ chức vào ngày 16, 17, 18 tháng Giêng. Lễ vật chính cúng Thần là con heo đen. Ngày 16 tháng Giêng là ngày lễ chính. Đình Phú Nhuận được Bộ Văn hóa – Thông tin xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia theo Quyết định số 3744/Quyết Định -Văn Hóa Thông Tin ngày 29 tháng 01 năm 1997. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh.
TP Hồ Chí Minh 144 lượt xem
Đình Bình Hòa tọa lạc ở phường 12, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh. Năm 1818, thôn Bình Hòa được thành lập và ngôi đình cũng được dựng vào năm ấy. Năm 1853, được vua nhà Nguyễn là Tự Đức sắc phong. Đình được xây dựng trên gò đất cao, quay về hướng đông. Theo trục chính từ ngoài vào là nhà võ ca, tiền điện, trung điện và chính điện. Nhà võ ca mới được xây dựng thêm vào năm 1972, dài 20,7m, rộng 13,49m. Tiền điện hình chữ nhật dài 13,49m, rộng 9,56m, gồm ba gian hai chái, nhà có kiểu như nhà ở thông thường, có bốn hàng cột, đường kính từ 0,35m đến 0,40m, cao 6m. Trung điện hình chữ nhật dài 12,48m, rộng 9,57m. Mái lợp ba lớp ngói, kiến trúc theo kiểu chồng diêm đầu hồi bịt đốc, trên bờ nóc gắn tượng lưỡng long tranh châu (lưỡng long triều nguyệt). Trung điện làm theo kiểu tứ tượng, gồm bốn cột chính rồi phát triển ra chung quanh. Chính điện hình chữ nhật dài 11,03m, rộng 9,57m, cũng được xây theo kiểu tứ tượng, chỉ có một tầng mái, các xà kẻ gỗ ở tường hồi không có thanh kẻ chéo góc. Nhà túc dài 16,48m, rộng 8m, ngoài ra còn có nhà kho và nhà bếp. Tiền điện có ba ban thờ : hồi đồng ngoại, tả ban chư vị, hữu ban chư vị. Các bàn thờ, khám thờ, hoành phi, câu đối đều được chạm trổ tinh vi, ba mặt bàn đều được chạm trổ, bốn góc bàn chạm bốn đầu rồng, bốn chân bàn chạm bốn chân rồng. Đặc biệt, trên đường diềm bàn thờ tiền điện có chạm hình lưỡng long tranh châu, thân rồng được cách điệu bằng cành mai. Đường diềm trên bàn thờ tiền điện với hoa văn mai dơi cũng rất đáng chú ý. Ngoài ra còn các hoa văn nho, sóc, phượng, hoa sen. Đình thờ bốn vị thành hoàng và thần Nam Hải. Lễ kỳ yên hằng năm là lễ lớn nhất từ ngày 11 đến 14 tháng 9 âm lịch. Vị thần được thờ chính tại đình Bình Hòa là Thành hoàng Bổn cảnh, được vua Tự Đức sắc phong vào năm Quý Sửu (1853). Ngoài bộ cột quý, trong đình hiện còn lưu giữ 39 hiện vật có giá trị khác. Đáng chú ý là 5 bàn thờ bằng gỗ được chạm trổ tinh xảo; hai bát nhang gốm Sài Gòn xưa, sắc phong của vua Tự Đức, v.v… Ngày 7 tháng 1 năm 1993, ngôi đình đã được Bộ Văn hóa-Thông tin công nhận là di tích Kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia theo Quyết định số 43 Văn Hóa /Quyết Định. Nguồn Trang thông tin điện tử phường 12, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh.
TP Hồ Chí Minh 120 lượt xem
Chùa Phụng Sơn, tên chữ là Phụng Sơn Tự, còn có tên là chùa Gò, tọa lạc ở số 1408 Đường 3 tháng 2, phường 2, quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. Ngôi cổ tự này đã được xếp hạng là "Di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia" vào ngày 16 tháng 11 năm 1988. Chùa Phụng Sơn được thiền sư Liễu Thông (1754-1840) tạo lập vào đầu thế kỷ 19, dưới triều vua Gia Long trên nền của một ngôi chùa Chân Lạp cổ, giống các chùa Giác Lâm và chùa Cây Mai, nằm trên một đồi nhỏ bao quanh là ao Bàu Chuông có trồng sen. Năm 1904, am lá được xây cất lại. Và kể từ đó cho đến nay, chùa có hai lần trùng tu lớn, đó là vào thời hòa thượng Huệ Minh trụ trì (1904 -1915) và vào năm 1960. Năm 1963, hòa thượng Thích Phước Quang cho xây lại cổng tam quan, do kiến trúc sư Nguyễn Bá Lăng vẽ kiểu. Tuy được trùng tu lại vài lần, nhưng chùa vẫn theo kiến trúc cổ với bộ khung gỗ và mái ngói âm dương. Chùa Phụng Sơn xây theo kiểu chữ "quốc" (chữ Hán), dài trên 40 m, rộng gần 20 m, có hàng hiên chạy quanh bốn phía. Bên trong chùa chia ra hai khu rõ rệt, phía trước là chính điện, cách một sân lộ thiên, phía sau là nhà giảng. Hai bên sân lộ thiên có đông lang và tây lang, nối liền hai nơi. Sân lộ thiên có hòn non bộ, tượng Quan Âm và cây cảnh, nhờ có khoảng sân này nên chùa được thoáng đãng, sáng sủa. Nơi chính điện, các cột đều làm bằng gỗ tốt, lâu ngày đã trở nên đen bóng. Chùa thờ kiểu "tiền Phật, hậu Tổ". Điện Phật có nhiều tượng Phật xưa bằng gỗ, thiếp vàng chạm trổ mỹ thuật. Tổng cộng chùa có khoảng 40 pho tượng thờ. Nhiều tượng thờ do nhóm thợ từ Sa Đéc, do hòa thượng Huệ Minh mời đến chùa để tạo tác vào những năm đầu thế kỷ 20. Có nhiều pho tượng quý như bộ Di Đà Tam Tôn, bộ Ngũ Hiền thượng kỳ thú, pho tượng Phật bằng đá, tượng Tiêu Diện... Chùa Phụng Sơn là một trong những ngôi chùa cổ, còn in đậm nét sự có mặt của tín ngưỡng dân gian, Như bên hành lang chánh điện thờ Linh Sơn Thánh Mẫu, một trong những vị nữ thần được tôn kính và thờ tự phổ biến ở miền Nam. Dấu vết của quá trình sinh sống và cộng cư của nhiều dân tộc tại vùng đất này còn được thể hiện qua hình ảnh ngôi miếu nhỏ thờ Ông Tà (Neak Tà) trong khuôn viên chùa, bên những ngôi tháp Tổ. Đó là dạng tín ngưỡng, là một nét văn hóa phổ biến của cư dân Khmer. Là một trong những ngôi chùa cổ còn lưu lại đậm nét về địa thế, kiến trúc, nghệ thuật tạc tượng, cách bày trí và thờ cúng, chùa Phụng Sơn đã góp phần mang lại một giá trị văn hóa - nghệ thuật phong phú, đa dạng trong dòng phát triển của văn hóa Phật giáo tại Nam Bộ. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận 11, thành phố Hồ Chí Minh.
TP Hồ Chí Minh 135 lượt xem
Hiện tọa lạc trong con hẻm 475 Cách Mạng Tháng Tám, Phường 13, Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh. Không rõ năm lập Đình Chí Hòa, chỉ biết rằng đình có sau khi Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam kinh lược (1698), và thiết lập làng xã cho lưu dân người Việt. Ban đầu, đình Chí Hòa được dựng khá đơn sơ theo kiểu chữ "tam" (三), với vách ván và mái lợp ngói âm dương. Sau khi được vua Tự Đức ban sắc phong (16 tháng 2 Âm lịch năm Nhâm Tý, 1852), ngôi đình mới được xây dựng kiên cố và được tu bổ vài lần về sau. Khi xưa, khuôn viên đình rộng trên một mẫu (hecta), hiện nay đã bị thu hẹp vì bị lấn chiếm. Ngay cả cây đa to trước đình, gốc đến ba người ôm, rễ phụ mọc tua tủa từ thân xuống...cũng bị đốn hạ vào năm 1980, khiến cảnh quan đình bị thay đổi nhiều... Đây là ngôi đình thuộc hàng cổ nhất tại thành phố và đã được Bộ Văn hóa cấp bằng công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia theo quyết định số 1460 - Quyết Định /Văn Hóa ký ngày 28 tháng 6 năm 1996. Nguồn Trang thông tin điện tử phường 13, quận 10, thành phố Hồ Chí Minh.
TP Hồ Chí Minh 146 lượt xem
Đình Bình Đông được xây dựng trên cù lao ngay nhánh rẽ của dòng Kinh Đôi, thuộc phường 7 quận 8 thành phố Hồ Chí Minh. Theo “Gia Định thành thông chí” của Trịnh Hoài Đức, thôn Bình Đông thuộc tổng Tân Phong, huyện Tân Long, phủ Tân Bình (1818). Đình có sắc phong Tự Đức ngũ niên (1853). Như vậy đình Bình Đông phải được xây dựng trước năm 1853, tức trước năm nhận được sắc. Sắc phong cho Thần "Thành hoàng bổn cảnh" của thôn Bình Đông, huyện Tân Long ghi ngày 29 tháng 11 âm lịch năm Nhâm Tý (08/01/1853). Theo các bô lão thì đình Bình Đông có từ xưa. Lúc đầu, kiến trúc của đình chỉ là ngôi nhà lá, dùng làm nhà làng cho dân cư quanh vùng tới hội họp và cúng bái. Đến năm 1922 được trùng tu bằng mái ngói, vách ván, cột kèo gỗ theo dạng đình Nam Bộ với võ ca và chánh điện nằm giữa, hai bên có Đông và Tây lang, bên cạnh lại có nhà Nghĩa Từ. Đến năm 1930, đình xuống cấp nên được sửa chữa lớn, mái ngói được thay bằng ngói đại ống 2 lớp, vách trét ô dước, nền gạch tàu. Năm 1968, trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân, đình bị bom đánh sập một phần võ ca, chánh điện và nghĩa từ. Mãi đến năm 1991, đình được xây dựng lại với kết cấu bằng nguyên vật liệu nặng (bêtông - cốt sắt) nhưng kiến trúc tổng thể vẫn giữ nguyên. Lần xây dựng này có thêm nhà Truyền Thống. Tuy toàn bộ cảnh quan không thay đổi nhưng kết cấu không còn nét xưa. Nổi bật còn lại vẫn là các hiện vật bên trong chánh điện như toàn bộ khám thờ thần, Tả Hữu ban, Hội đồng đều chạm thủng viền quanh với rồng vờn châu, từng lộc, tứ linh rất nghệ thuật. Trên bàn thờ Thần có khánh đựng mão thần, bộ bát bửu bằng đồng, lư hương bình hoa bằng gốm quí. Trước bàn thờ bố trí bộ lỗ bộ đầu bịt đồng rất quí. Cặp liễng treo hai bên bàn thờ Thần. Chung quanh cặp liễn có chạm các hoa văn rất nghệ thuật. Ngoài ra còn có 4 cặp liễn khác cùng kích cỡ, cùng mang tính nghệ thuật chạm trổ với nội dung ca ngợi công đức Thần được treo tuần tự theo cung cách thờ cúng. Trong chánh điện còn phải kể đến bao lam chạm trổ hình dáng: mai, lan, cúc, trúc, mẫu đơn, sóc, giác trên các loại gỗ quí. Các hoành phi đáng kể như Bình Đông Đình có ghi niên đại 1870 treo trên cửa chánh điện và bức "Diệu - Diệu anh linh" niên đại 1850. Trong nhà nghĩa từ bài trí hai bàn Tiền và Hậu hiền với đầy đủ hiện vật thờ cúng. Cạnh có bàn Tiên - Sư cũng được chưng dọn rất nghiêm túc. Riêng nhà Truyền Thống nằm cạnh là nơi trưng bày một số hình ảnh minh họa thời gian cụ Tôn Đức Thắng hoạt động tại Sài Gòn và tại đình Bình Đông. Nhìn tổng thể còn có miếu Ngũ Hành, bàn thờ Thần Nông, miếu Ông Tà bố trí theo tục lệ trước mặt võ ca (gần cổng Tam quan). Sân khấu thiết kế nằm trong võ ca nhằm phục vụ hát xướng ngày đại lễ. Đình Bình Đông không chỉ nổi tiếng là đình cổ, linh thiêng mà nơi đây còn mang ý nghĩa quan trọng của sự kiện lịch sử cách mạng. Năm 1920, Tôn Đức Thắng (nguyên Chủ tịch nước) từ hải ngoại trở về Sài Gòn và bí mật thành lập Công hội đỏ phát triển mạnh trong đội ngũ công nhân nhằm đoàn kết chống tư bản đế quốc. Lúc này ông Ka Hiêm là hội viên đình Bình Đông nên biến đình thành cơ sở của Công hội đỏ. Năm 1925, là lãnh đạo tổ Công hội đỏ thuộc Nhà đèn Chợ Quán, ông Ka Hiêm tổ chức nhiều cuộc họp tại đình và các tài liệu đều được cất giấu dưới khám thờ. Theo ông Dương Quang Đông (Nguyên thường vụ Xứ ủy Nam kỳ) - Chủ tịch câu lạc bộ hưu trí TP. Hồ Chí Minh và ông Ka Hiêm thì Chủ tịch Tôn Đức Thắng đã đến dự nhiều lần những cuộc họp quan trọng tại đình Bình Đông trong khoảng thời gian từ 1925 - 1928. Những lần đó Bác Tôn đã thuyết giảng về chủ nghĩa Mác, lòng yêu nước cho các công nhân nòng cốt của Hội. Thời gian hoạt động của Công hội đỏ diễn ra từ 1925 - 1928, không hề bị lộ bí mật. Chính tại chánh điện, các mật thư của Nguyễn Ái Quốc được chuyển từ nước ngoài về cũng như các sách báo tuyên truyền cho chủ nghĩa Mác đều được cất giấu cẩn thận và an toàn tại đình Bình Đông. Thời kỳ chống Mỹ, đình Bình Đông là nơi liên lạc, chuyển vũ khí vào nội thành và cũng là nơi bộ đội miền Nam đặt súng bắn vào Tòa hành chánh quận 7 của chế độ cũ năm 1968. Đình Bình Đông là một di tích văn hóa và lịch sử, được Bộ Văn hóa cấp bằng công nhận di tích theo quyết định số 2890 - Văn Hóa /Quyết Định ký ngày 27/09/1997. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận 8, thành phố Hồ Chí Minh.
TP Hồ Chí Minh 160 lượt xem
Đình Minh Hương Gia Thạnh hội quán tọa lạc tại 380 đường Trần Hưng Đạo, phường 11, quận 5, thành phố Hồ Chí Minh. Đình là nhà việc của xã Minh Hương, một xã được thành lập vào năm 1698, tập hợp con cháu người Hoa ở dinh Phiên Trấn. Năm 1808, vua Gia Long ban cho tên “Gia Thạnh đường” nên đình còn có tên Minh Hương Gia Thạnh. Năm 1867, chính quyền thuộc địa thay đổi cơ cấu hành chính, đình không còn là nhà việc của xã và trở thành hội quán của hội Minh Hương Gia Thạnh. Đình được xây dựng năm 1797, trùng tu vào các năm 1839, 1901 và 1962. Lần trùng tu cuối sử dụng một số vật liệu hiện đại và xây thêm tầng lầu trên chính diện. Kiến trúc đình theo kiểu nhà năm gian, vì kèo gỗ, mái lợp ngói ống, tường gạch. Nội thất đình bao gồm võ ca, chính điện và hậu điện. Bên phải võ ca có miếu Ngũ Hành. Đứng trước cổng có thể nhìn rõ trên mái đình các trang trí hình lưỡng long tranh châu, cá hóa long, tượng ông Nhật bà Nguyệt, phù điêu trích tuồng tích của Trung Quốc … do lò gốm Đồng Hòa sản xuất năm Tân Sửu 1901. Bộ khung gỗ kết cấu kiểu kẻ chuyền và các cột gỗ kê trên chân đế bằng đá tạo cho đình thêm nét cổ kính. Trên cột và các đà ngang treo nhiều hoành phi, câu đối, phần lớn được làm từ đầu và giữa thế kỷ XIX. Có tất cả 38 hoành phi và 22 câu đối, tập chạm bốn chữ “Thiện tục khả phong” (Tục tốt đáng khen) do vua Tự Đức ban cho năm 1863 và câu đối của Trịnh Hoài Đức làm năm Minh Mạng thứ 2 (1821). Chính điện đình xây trên nền cao, phía trước trang trí ba bao lam chạm lộng các đề tài tùng – hạc, mai – điểu, liên – áp, giỏ cua, giỏ trái cây … Cuối chính điện là ba khám thờ lớn bằng gỗ đặt trên bệ gạch, được chạm viền chung quanh lưỡng long tranh châu, lân, phụng, dây hoa …Khám thờ thần đặt ở giữa với bài vị: Ngũ thổ tôn thần – Ngũ cốc tôn thần, Đông trù tư mệnh -Bốn cảnh thành hoàng. Trước khám thờ có một lư trầm bằng đá và hai tượng Ngô Nhân Tịnh, Trịnh Hoài Đức cũng bằng đá đặt hai bên. Bên trái là khám thờ Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh và Đô đốc tướng quân Trần Thắng Tài, hai vị quan tướng có công lớn, được triều Nguyễn phong là Thượng đẳng thần. Khám bên phải thờ Trịnh Hoài Đức và Ngô Nhân Tịnh, hai người Minh Hương làm quan đến chức Thượng thư, (cùng với Lê Quang Định hợp thành “Gia Định tam gia”, một nhóm nổi tiếng về văn học và sử học). Góc trái chính điện có một chuông đồng. Quai chuông là một con rồng hai đầu, bốn chân. Thân chuông đúc nổi 2 hàng chữ “Gia Định thành Minh Hương xã công tạo“, “Long tập Quí Mùi thu nguyệt” (chuông do xã Minh Hương thành Gia định làm năm Quí Mùi – 1823). Hậu điện cách chính điện một sân thiên tỉnh nhỏ. Ở đây cũng có ba khám thờ trang trí giống nhau. Các vị tiền hiền khai sáng ra làng được thờ ở khám thờ chính giữa. Bên trái là khám thờ các hương chức và phu nhân có công, vợ chồng ông Trương Công Sĩ, người đã tặng đất cho xã. Những viên chức nhỏ có công và vợ được thờ ở khám bên phải. Miếu Ngũ Hành thờ Ngũ Hành Nương Nương và Chúa Sinh Nương Nương (người chuyên lo giúp việc sinh đẻ). Trong khám thờ có tượng Bà mẹ Sinh. Trước tượng Bà là tượng hai hầu và mười hai bà mụ bồng đứa trẻ trên tay. Phúc đức chính thần (Thổ Địa) và Bạch Mã Thái giám cũng được thờ ở miếu. Góc trái miếu có một chuông đồng đúc năm Tự Đức thứ 2 (1849). Ngoài những hiện vật đã kể, trong đình còn nhiều hiện vật quí khác như: bia lập năm 1839 ghi tên những người Minh Hương làm quan có tiếng dưới triều Nguyễn; một số hoành phi câu đối, đặc biệt là đôi câu đối làm cong theo thân cột, chạm nổi long, lân, qui, phụng … với đầu rồng được chạm cao hơn bề mặt câu đối gần một tấc, hai đỉnh gang làm năm 1842; bộ ghế chạm rồng, phượng; bộ thập bát binh khí …Đình Minh Hương là một trong những ngôi đình xưa ở thành phố Hồ Chí Minh. Ngoài ý nghĩa là một di tích của xã Minh Hương, nơi thờ tự hương hỏa của người Minh Hương, đình còn có giá trị về nghệ thuật thư pháp, nghệ thuật chạm khắc gỗ mang phong cách Việt Nam thế kỷ 19. Đình Minh Hương đã được Bộ Văn hóa ra quyết định số 43-Văn Hóa /Quyết Định ngày 07/01/1993 công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận 5, thành phố Hồ Chí Minh.
TP Hồ Chí Minh 154 lượt xem
Đình Nghĩa Nhuận tọa lạc tại 27 đường Phan Văn Khỏe, phường 13, quận 5, thành phố Hồ Chí Minh. Đình Nghĩa Nhuận nguyên là đình thôn Tân Nhuận thuộc tổng Tân Phong, huyện Tân Long, phủ Tân Bình, một thôn đã được Trịnh Hoài Đức nhắc đến trong Gia Định thành thông chí. Từ năm 1836 thôn Tân Nhuận thuộc tổng Tân Phong Trung, huyện Tân Long, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định. Năm 1853, Thần Thành Hoàng bổn cảnh của làng được vua Tự Đức ban tặng sắc phong. Sau, đình trở thành hội quán của Hội Nghĩa Nhuận, thờ Quan Công là vị thần chính nên còn có tên là miếu Quan Đế. Theo Vương Hồng Sến, hội quán Nghĩa Nhuận được thành lập năm 1872 và trùng tu vào các năm 1879, 1894, 1906 và 1911. Đình gồm hai khu nhà riêng biệt trên khuôn viên khoảng hai ngàn mét vuông. Phần trước gồm các điện thờ, thiên tỉnh và hai dãy nhà phụ hai bên. Phía sau là nghĩa từ và các khu nhà phụ. Năm 1993, đình được xây thêm tam quan và hai dãy nhà dọc hai bên sân để thờ Thái Tuế thiên quân, Văn Xương đế quân, Thần Tài đại hắc thiên ở phía bên trái và thờ Di Lặc tôn Phật, Quan Âm Bồ Tát, Địa Tạng vương Bồ Tát ở bên phải. Hai bên cửa đình, ngoài hai sư tử đá chầu hai bên, còn có tượng Di Đà Hộ Pháp và Vương Đại thiên quân. Tiền điện đình có bàn thờ Tả Thần môn và ngựa Xích Thố bài trí đối xứng với bàn thờ Hữu Thần môn và Chiến sĩ trận vong. Từ tiền điện qua sân thiên tỉnh thì vào chính điện. Giữa chính điện có khám thờ Quan Đế với tượng quan Đế bằng gỗ cao khoảng 80cm, ngồi trên ngai. Hầu trước khám thờ là tượng Quan Bình và Châu Xương bằng gỗ cao 180cm đặt trong tủ kính đối mặt nhau. Bên trái khám thờ Quan Đế là gian thờ Thần Thành Hoàng bổn cảnh. Sắc phong của vua Tự Đức đặt trong một tủ kính lớn. Sắc ban cho Thần làng Thanh Bình, huyện Bình Dương, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định cũng được đặt chung ở đây. Khám thờ Bà Thiên Hậu ở góc bên phải. Trong khám thờ có tượng Bà Thiên Hậu bằng gỗ cao khoảng 70cm, ngồi trên ghế chạm. Nghĩa từ thờ các bậc tiền hiền, hậu hiền có công với làng. Nét nổi bật của đình là nghệ thuật chạm gỗ mang phong cách Việt Nam nửa cuối thế kỷ 19 và nửa đầu thế kỷ XX. Hầu như có thể nhìn thấy các tác phẩm chạm gỗ ở khắp nơi trong đình: trên tất cả các vì kèo, bao lam cửa, bao lam khám thờ, hương án, câu đối ... với các mô típ mới lạ như trái đào lộn hột, măng cụt, chim đậu trên chùm mận ... Bên cạnh các đề tài quen thuộc. Được nhắc đến nhiều là tượng ngựa Xích Thố, một trong những tượng ngựa Xích Thố đẹp nhất ở thành phố Hồ Chí Minh; 3 bức phù điêu trước ba hương án ở chính điện chạm nổi "Lục quốc phong tướng", "Trưng Nữ Vương khởi nghĩa" và "Lê Thái Tổ khởi nghĩa" được đánh giá là đỉnh cao về nghệ thuật chạm nổi và đổi mới về đề tài; bức bình phong sơn son thếp vàng, chạm nổi hai mặt các đề tài Bát Tiên quá hải, cầm kỳ thi họa, mai điểu, nho sóc ... viền chung quanh là lưỡng long tranh châu, phụng hoàng, chân đỡ bình phong là 4 kỳ lân ở góc và 2 con rùa ở bên dưới tạo cho bình phong vẻ sinh động. Nghệ thuật chạm khắc đá cũng được thể hiện đặc sắc qua hai cột đá chạm rồng trước cửa đình, cặp sư tử chầu hai bên cửa, các cột đá chạm nổi câu đối, chân kê cột hình bát giác chạm mai, trúc, bầu rượu, túi thơ... Ngoài ra còn có một sô hiện vật giá trị như lư trầm bằng đồng đúc ba con rồng nâng quả cầu, bộ binh khí, cặp hạc đứng trên lưng rùa ...Đình Nghĩa Nhuận không chỉ là di tích của làng Tân Nhuận xưa mà còn thể hiện sự giao lưu văn hóa Hoa - Việt ở vùng đất đông đảo đồng bào Hoa - Việt chung sống. Tuy có vài thay đổi qua những lần trùng tu, đình vẫn giữ được vẽ cổ kính với những tác phẩm chạm gỗ, chạm đá giá trị. Đình đã được công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật theo quyết định số 43-Văn Hóa /Quyết Định ký ngày 07/01/1993. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận 5, thành phố Hồ Chí Minh.
TP Hồ Chí Minh 175 lượt xem
HỘI QUÁN ÔN LĂNG tọa lạc tại số 12 đường Lão Tử, Phường 11, Quận 5 Hội quán Ôn Lăng, còn được gọi là chùa Quan Âm. Hội quán Ôn Lăng, còn được gọi là chùa Quan Âm, là trụ sở của hội đồng hương những di dân người Hoa nguyên quán ở phủ Tuyền Châu, tỉnh Phước Kiến (Trung Hoa). Hội quán được xây dựng vào khoảng nửa cuối thế kỷ thứ 18 và đã được trùng tu vào các năm 1828, 1867, 1897, 1993, 1995. Năm 1809, Ban Quản trị hội quán đã xây thêm một hồ phóng sinh trước hội quán, để “trấn mạch tụ khí” cho miếu thờ được linh thiêng. Ngoài Thiên Hậu Thánh Mẫu là vị thần được thờ ở gian giũa chính điện, hội quán Ôn Lăng còn thờ các vị Ngọc Hoàng Thượng Đế, Bà Chúa Sinh, Phúc Đức Chính Thần (Thần Thổ Địa), Quan Đế, Bao Công, Văn Xương Đế Quân (vị Thần ban phước lộc), Mã Tướng Quân, Thần Thành Hoàng Bổn Cảnh, Phật Thích Ca, Phật Di Đà, Thiên Phụ Địa Mẫu, Tử Vi, Hoa Quang Đại Đế (Thần Tài), Tề Thiên Đại Thánh. Đặc biệt, án thờ Bồ Tát Quan Thế Âm được đặt trong sân phía sau chính điện với tượng thờ Quan Âm cao gần hai mét đứng trên tòa sen, hai bên có Kim Đồng, Ngọc Nữ theo hầu. Mặt bằng tổng thể của hội quán gồm một khoảng sân nhỏ phía trước, một khối nhà hình chữ nhật ở giữa (gồm tiền điện, sân thiên tỉnh, trung điện, chính điện) và ba khối nhà vuông góc nhau tạo thành hình chữ U bao bọc khối nhà này, khoảng giữa các khối nhà là lối đi khá rộng rãi. Hội quán được xây dựng và trang trí theo phong cách đặc trưng của đền miếu Phước Kiến với kiểu kiến trúc “tứ hợp diện”, mái lợp ngói ống, đầu các xà gồ dưới mái hiên được chạm trổ hình bông sen…Giá trị nghệ thuật của hội quán thể hiện qua các phù điêu hình hai con rồng tranh viên ngọc, chim phượng hoàng và các mô hình thành quách, người, thú… bằng gốm được trang trí trên mái ngói; cặp tượng kỳ lân bằng đá chầu hai bên cửa gồm tượng lân giáo tử (lân mẹ đang dạy lân con) và tượng lân hàm châu (lân ngậm ngọc trong miệng); những mảng phù điêu bằng gỗ chạm trổ tinh xảo trang trí ở mặt tiền và trên các vì kèo; các bao lam cửa, bao lam khám thờ chạm trổ tinh tế hình mai – điểu (hoa mai – chim sẻ), trúc – tước (cây trúc – chim tước), ngô đồng – phượng (cây ngô đồng và chim phượng), 16 cặp liễn, 23 hoành phi (có niên đại từ năm 1826 đến năm 1908), chuông đồng đúc năm Ất Dậu (1885) và tượng các vị thần thánh được tạo tác chân phương, gần gũi với đời thường. Thiên Hậu Thánh Mẫu là vị thần được thờ chính nhưng về sau việc thờ Quan Âm được coi trọng hơn nên hàng năm lễ hội Quan Âm được tổ chức rất long trọng trong ba ngày 17 tháng 6 âm lịch. Ngoài việc tế lễ, Ban Quản trị còn phát lộc cho người đến tham dự. Hội quán Ôn Lăng đã được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia theo Quyết định số 39/2002/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thông Tin ngày 30 tháng 12 năm 2002. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận 5, thành phố Hồ Chí Minh.
TP Hồ Chí Minh 175 lượt xem
Miếu Thiên Hậu tọa lạc tại số 710 đường Nguyễn Trãi, phường 11, quận 5, là ngôi miếu thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu của cộng đồng người Hoa – Quảng Đông, gốc ở huyện Tuệ Thành (Trung Quốc). Miếu được xây dựng vào năm 1760. Từ đó đến nay, miếu đã được trùng tu nhiều lần. Miếu có cấu trúc mặt bằng dạng chữ Quốc, chia làm 3 dãy: tiền điện, trung điện và hậu điện. Hội quán Tuệ Thành và truờng học nằm hai bên miếu. Nóc miếu được trang trí hoa văn hoa lá, hình nhân bằng gốm sứ do hai lò Bửu Nguyên và Đồng Hòa sản xuất vào năm Mậu Thân (1908), có cảnh "đả võ đài", "bái tổ vinh quy", mô tuýp "lưỡng long tranh châu", có hình ảnh tiên đồng, tiên nữ với hàng chữ "hòa hợp nhị tiên"... Hai con lân đá, chạm từ khối đá nguyên được đặt trong sân miếu. Tiền điện đặt hai trang thờ hai bên cửa vào. Bên trái thờ Thần Cửa (Môn Quan Vương Tả), bên phải thờ Phúc Đức Chánh Thần. Tại đây cũng có bia đá ghi truyền thuyết về Thiên Hậu Thánh Mẫu và bức tranh lớn vẽ cảnh Bà hiển linh trên sóng nước. Bia công đức ghi lại sự đóng góp trùng tu miếu vào các đời: Đạo Quang thứ 8 (1828) và Đạo Quang thứ 10 (1830) – Tự Đức thập nhất niên (1857); Hàm Phong cửu niên (1859); Quang Tự - Mậu Tuất (1898)...Trung điện đặt bộ lư phát lam niên hiệu Quang Tự thứ 12 (1886) là bộ lư lớn nhất so với những bộ lư ở những miếu khác trong Thành phố. Tại đây cũng có kiệu lớn sơn son thếp vàng bằng gỗ tốt, dành rước Bà trong ngày vía. Bức hoành phi "Hàm Hoằng Quang Đại" treo tại đây, cho biết năm trùng tu xưa nhất của miếu (1800). Hậu điện là gian chính đặt thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu. Trên trang thờ Bà có 3 tượng lớn: tượng cao nhất dùng vào dịp vía bà, cung nghinh ra sân cho bà ngự lãm lễ hội; tượng giữa đặt trên trang thờ và tượng dưới cùng dùng đặt vào kiệu đưa đi diễu hành quanh các khu phố vào ngày lễ hội. Tại gian chính điện còn đặt 2 đại hồng chung bằng gang: một có niên đại 1795 đời vua Càn Long thứ 60 và một được đúc năm Canh Tuất 1850. Trong "Thiên Hậu cung" có đặt một thuyền gỗ ở góc, treo cờ ghi 4 chữ "phổ độ chúng sanh", dùng dâng cúng Bà vào ngày vía hàng năm. Hai bên trang thờ Bà còn đặt trang thờ Kim Huê nương nương bên phải và Long Mẫu nương nương bên trái... Gian phụ cũng đặt thờ Quan Thánh, Địa Tạng, Thần Tài. Tủ kính lớn gian chính điện đặt tượng Bát Tiên và tướng lịnh của Ariès ký tên: cấm các binh sĩ Pháp, Y-Pha-Nho phá phách miếu – được lưu giữ từ năm 1860. Ngoài các hiện vật quý, trong miếu còn có các pháp khí như: đỉnh trầm, lư trầm, lư hương bằng đá sa thạch... do người Hoa thành kính tín ngưỡng Bà đã dâng cúng. Là ngôi miếu quan trọng nhất ở Thành phố đặt thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu cùng một số hiện vật quý trong miếu, ngày 07/01/1993 miếu được công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật theo quyết định số 43-Văn Hóa /Quyết Định của Bộ Văn hóa thông tin. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận 5, thành phố Hồ Chí Minh.
TP Hồ Chí Minh 197 lượt xem
Miếu Nhị Phủ, Nhị Phủ hội quán hay còn được gọi là chùa ông Bổn, tọa lạc tại 264 đường Hải Thượng Lãn Ông, phường 14, quận 5, thành phố Hồ Chí Minh. Có tên là Nhị Phủ vì miếu được thành lập do sự đóng góp của người Hoa gốc ở hai phủ Tuyền Châu và Chương Châu, Phúc Kiến, Trung Quốc. Về sau nhóm Tuyền Châu lập hội quán Ôn Lăng, nhóm Chương Châu lập hội quán Chương Châu (nay là Hà Chương). Không rõ miếu được xây dựng năm nào. Hiện nay trong miếu còn lưu giữ một chuông cổ. Trên chuông chỉ đúc hàng chữ "Nhị phủ Đại Bá Công Ất Dậu trong thu cát đán..." nên khó xác định niên đại. Trong "Cổ Gia Định phong cảnh vịnh", bài phú mô tả phong cảnh Gia Định từ năm 1770 đến năm 1815. Trên một câu đối treo ở chính điện hội quán Hà Chương (được thành lập sau miếu Nhị Phủ) có ghi năm trùng tu là Gia Khánh Kỷ Tỵ tức năm 1809. Như vậy hội quán này được xây dựng muộn nhất là vào cuối thế kỷ XVIII. Từ những dữ liệu trên, có thể nói "Ất Dậu"chạm trên chuông là năm 1765, cũng là năm thành lập miếu. Từ khi thành lập đến nay, miếu đã qua ba lần trùng tu lớn vào những năm 1875, 1901 và 1990. Dù vậy, miếu vẫn giữ được nét cổ kính qua phong cách kiến trúc và trang trí truyền thống của người Hoa - Phúc Kiến. Khuôn viên miếu rộng khoảng hai ngàn năm trăm mét vuông. Phần sân chiếm gần phân nửa diện tích. Không gian còn lại bao gồm các điện thờ, trụ sở hội quán và sân thiên tỉnh. Miếu có dạng nhà khung gỗ, mái ngói, tường gạch. Vách mặt tiền ghép bằng các phiến đá. Bộ khung gỗ được sơn màu đỏ, trang trí đẹp mắt bằng các bông sen chạm ngược ở đầu các thanh chống xà gồ dưới mái hiên, các tượng kỳ lân bằng gỗ đầu xà cột hay những diềm gỗ chạm lộng trên thanh ngang...Mái miếu lợp ngói ống, diềm mái là hàng ngói thanh lưu ly. Hình thức vì kèo "chồng rường - giá chiêng" khiến mái miếu hơi cong cộng với thiết kế tạo hình hai tầng mái và các đầu đỉnh mái, đầu đao uốn cong tạo cho ngôi miếu có dáng một chiếc thuyền rồng... Trên mái trang trí tượng cá hóa long, mai, lan, cúc, trúc, rồng, phượng... bằng gốm sứ nhiều màu sắc. Ơở gờ đỉnh mái có tượng lưỡng long tranh châu. Thân rồng không duỗi dài như thường thấy mà gần như dựng thẳng, đuôi xòe cao. Bên trong miếu bài trí đơn giản nhưng không kém phần trang nghiêm. Trên mỗi cột gỗ cao sơn màu đỏ, được kê bằng các chân đá chạm trổ mỹ thuật, có treo một hoặc hai câu đối. Nhiều câu đối cao hơn 3 mét, được làm cong theo chiều cong của cột. Hoành phi cũng được trang trí nhiều nơi. Có tất cả 14 câu đối và 30 hoành phi, phần lớn được làm từ năm 1864 đến năm 1901. Các hoành phi, câu đối được chạm viền chung quanh, bên trong chạm nổi các chữ Hán trên nền hoa văn rồng mây, sóng nước... ngoài ý nghĩa ca ngợi thần thánh còn có giá trị nghệ thuật thư pháp và nghệ thuật chạm gỗ. Bàn thờ ông Bổn tức Phúc Đức chính thần, vị thần bảo hộ đất đai theo tín ngưỡng của người Hoa đặt giữa chính điện. Hai bên thờ Quảng Trạch tôn vương và Thái Tuế gia gia. Dọc hai bên thiên tỉnh trước chính điện là hai gian thờ Quan Thánh đế quân và Chúa Sinh nương nương. Hậu điện thờ Ngọc Hoàng đại đế, Thích ca Phật tổ và Quan Âm Bồ tát. Các vị thần, thánh được thể hiện bằng tượng gỗ hay thạch cao đặt trang trọng trong các khám thờ. Nổi bật nhất là khám thờ ông Bổn được làm năm 1894. Khám thờ bằng gỗ, sơn nhũ vàng, chạm trổ các đề tài lưỡng long tranh châu, ngô đồng - phượng, lân hàm châu... xen kẻ hoa văn đồng tiền, chữ thọ, các con vật miền sông nước như tôm, cua, cá... là một tác phẩm của nghệ thuật chạm khắc gỗ, một hiện vật quý của miếu. Ngoài ra còn có những hiện vật giá trị khác như chuông cổ bằng hợp kim đúc năm Ất Dậu (1765), chuông bằng gang làm năm 1875, tượng kỳ lân bằng đá, các bao lam, bình phông, hoành phi, câu đối... có niên đại cuối thế kỷ 19. Miếu Nhị Phủ được xem là một trong những đền miếu xưa nhất của người Hoa ở thành phố Hồ Chí Minh. Là một công trình kiến trúc đặc sắc với nghệ thuật chạm đá, chạm gỗ tinh xảo, miếu Nhị Phủ không chỉ thể hiện sự giao lưu văn hóa Hoa - Việt mà còn đánh dấu sự định cư và phát triển của người Hoa Phúc Kiến, gắn liền với sự phát triển của Sài Gòn xưa. Ngày 31/8/1998 miếu Nhị Phủ đã được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật theo quyết định số 1811/1998/Quyết Định-Bộ Văn Hóa Thông Tin. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận 5, thành phố Hồ Chí Minh.
TP Hồ Chí Minh 187 lượt xem
Lệ Châu hội quán, nhà thờ tổ nghề thợ bạc tại Sài Gòn - thành phố Hồ Chí Minh, tọa lạc trên một khu đất rộng 805m2, tại số 586 đường Trần Hưng Đạo B, phường 14, quận 5, thành phố Hồ Chí Minh. Đây là một ngôi nhà đã tồn tại hơn 100 năm, là nhà thờ tổ nghề thợ bạc được xây dựng sớm nhất tại Sài Gòn và cả vùng Nam Bộ. Tác giả Vương Hồng Sển đã viết: "Đường Nguyễn Trãi đi một đoạn khỏi đường Tổng Đốc Phương gặp chùa Lệ Châu. Đây là "chùa tổ" thờ tổ sư của nhóm thợ và chủ lò kim hoàn. Sau những người Hoa kiều đồng nghề cũng nhập với đồng nghiệp Việt Nam nên mỗi năm cúng tổ long trọng và oai nghi lắm". Những năm cuối thế kỷ 19, Sài Gòn đã là một khu công nghiệp khá quan trọng. Thợ thủ công Sài Gòn có tay nghề cao và được tổ chức thành các "ty thợ", "phường thợ". Riêng nghề thợ bạc (nghề kim hoàn ngày nay) rất phát triển. Làm cho nhà nước thì có các ty: ty thợ bạc Nội, ty thợ bạc Tả Trung, ty thợ bạc Hữu Trung... Còn tư nhân thì tập trung lại thành các lò thợ bạc. Xung quanh vùng Chợ Lớn đã có tới hơn 30 lò thợ bạc hành nghề. Làm ăn phát đạt - Nhớ ơn tổ nghiệp. Một số chủ lò thợ bạc có uy tín ở vùng Chợ Lớn đã đứng ra vận động quyên góp từ các lò thợ bạc trong vùng và khắp các tỉnh miền Đông, miền Tây Nam Bộ, kẻ ít, người nhiều, họ đã chung lưng góp sức mua được một vuông đất ở đường Thủy Binh (Rue des Marins tức đường Trần Hưng Đạo B ngày nay). Nhà thờ tổ được xây cất bắt đầu từ năm 1892 đến năm 1896 thì hoàn thành. Nhà thờ tổ đã trải qua nhiều đợt trùng tu lớn vào các năm 1920, 1934, 1946. Lần trùng tu lớn cuối cùng là tháng 8/1968 đã cất lại toàn bộ nghĩa từ và sửa chữa lớn ở chánh điện do bị bắn phá hư hại. Chánh điện được xây theo kết cấu ba gian dọc, có hai hàng cột chạy dài từ ngoài vào trong, tường gạch tô, mái lợp ngói âm dương. Bài trí ở chánh điện đơn giản, không có một pho tượng nào. Mặt trường chính của chánh điện đặt ba khám thờ được trang trí bằng những bao lam chạm trổ rồng, phụng, hoa, điểu... sắc nét công phu. Chính giữa là khám thờ lớn ở trong đặt các đồ thờ tự và bài vị với hai chữ "Tổ Sư" được viết theo lối đại tự đẹp, chân phương và được sơn son thếp vàng. Hai bên là hai khám thờ nhỏ, khám thờ bên phải đề hai chữ "Tiền Hiền", khám thờ bên trái đề hai chữ "Hậu Hiền". Từ ngoài vào trong dọc theo các hàng cột có 6 cặp câu đối và 9 bức hoành phi với nội dung tập trung vào chủ đề nhớ ơn tổ nghiệp, ca ngợi sự phát triển thịnh đạt của nghề thợ bạc. Tất cả các hoành phi, câu đối, bao lam... đều được sơn son thếp vàng với chất lượng giấy qui có độ tuổi vàng cao nên đều láng bóng và rõ nét, dù tất cả đều có niên đại khá lâu. Trong nhà thờ tổ còn tồn giữ được một số hiện vật khá độc đáo: Một cái trống lớn có chiều cao 1,10m, đường kính 0,60m, tang trống không phải bằng các mảnh gỗ ghép mà lại là một cây gỗ tròn lớn khoét rỗng. Đi đôi với trống là một quả chuông cao 1m, đường kính 0,50m, trên chuông để niên đại năm Ất Mùi (1895) do thợ Hà Nội chế tác và ghi rõ họ tên 14 người trong nghề thợ bạc phụng cúng để tỏ lòng thành kính tổ sư. Đặc biệt là 4 tấm bia đá đặt đối nhau ở hai bức vách chánh điện. Có tấm có niên đại 1895, có tấm để năm 1916, 1920. Trên các tấm bia khắc tên họ, tên hiệu, địa phương, số tiền đóng góp để xây dựng nhà thờ tổ. Qua đó ta thấy có mặt đệ tử nghề thợ bạc khắp Nam kỳ lục tỉnh: Tây Cống, Đề Ngạn, Trà Vinh, Bến Tre, Cần Thơ... người Hoa, người Việt. Bên cạnh những tên hiệu chữ Hán Nôm như: Thịnh Đức, Kim Phước, Đức Phát... còn có những tên hiệu rất Nam Bộ như: Năm Sương hiệu, Bảy Trừ hiệu... Theo truyền thuyết nhà thờ tổ sư nghề thợ bạc này, được dựng lên để thờ một vị tổ sư họ Trần (không rõ tên), quê từ miền ngoài vào, nguyên là thợ bạc trong cung nội, học nghề thợ bạc từ hai vị cao tổ của nghề kim hoàn Việt Nam là hai cha con: "Đệ nhất tổ sư"Cao Đình Độ (1743 - 1810, hiệu "Đệ nhất tổ sư" do vua Gia Long phong năm 1810) và "Đệ nhị tổ sư" Cao Đình Hương (1773 - 1821, hiệu "Đệ nhị tổ sư" do vua Minh Mạng phong năm 1821). Lễ giỗ tổ kim hoàn tại Lệ Châu hội quán được tổ chức vào ngày 7 tháng Hai (âm lịch), là ngày giỗ của vị "Đệ nhị tổ sư" Cao Đình Hương. Ngày cúng tổ hàng năm ở đây qui tụ rất đông các đệ tử của nghề thợ bạc từ khắp các vùng Nam Kỳ lục tỉnh. Lễ giỗ được tổ chức trong ba ngày từ ngày 6 đến ngày 8 tháng Hai (âm lịch). Hơn một thế kỷ trôi qua, ngôi nhà thờ tổ vẫn được Ban trị sự và các đệ tử của nghề thợ bạc bảo quản nguyên vẹn. Ngôi nhà không chỉ là nơi thờ cúng bình thường nói lên truyền thống "tôn sư trọng đạo", "uống nước nhớ nguồn" của những người hành nghề kim hoàn mà còn mang đậm những nét văn hóa đặc sắc về lịch sử đấu tranh cũng như quá trình phát triển của vùng Sài Gòn và Nam Bộ xưa. Vì lý do đó "Lệ Châu hội quán" đã được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật theo quyết định số 1811/1998/Quyết Định - Bộ Văn Hóa Thông Tin ngày 31/8/1998. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận 5, thành phố Hồ Chí Minh.
TP Hồ Chí Minh 166 lượt xem
Chùa Bà Hải Nam hay Hội quán Quỳnh Phủ là tên gọi hội quán của người Hoa Hải Nam sinh sống ở khu vực Chợ Lớn, Quận 5. Theo nội dung ghi trên bia đá thì hội quán đã được xây dựng vào năm 1824 tại vùng đất “sơn thanh thủy tú” nơi “thuyền xe tấp nập, hàng hóa lưu thông”. Qua sáu lần trùng tu, hội quán mới có được qui mô như ngày nay. Hội quán được xây dựng theo kiểu nhà “tứ hợp diện”với bốn dãy nhà vuông góc nhau và hướng vào sân thiên tỉnh ở chính giữa. Dãy nhà tiền điện được thiết kế thành hai mặt, một mặt hướng ra sân hội quán và một mặt hướng vào thiên tỉnh. Tiếp sau tiền điện là trung điện và chính điện. Trung điện là nơi làm việc và tiếp khách của Ban Quản trị. Các bàn thờ tập trung ở chính điện. Ngoài án thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu còn có các án thờ Văn Xương Đế Quân, Phúc Đức Chính Thần, Tài Bạch Tinh Quân, Hoa Quang, Ngũ Thổ Long Thần và Tiền Hậu Địa Chủ Tài Thần. Đặc biệt, có các vị thần chỉ riêng thờ ở hội quán Quỳnh Phủ là Thủy Vĩ Nương Nương và Ý Mỹ Nương Nương (hai vị nữ thần bảo hộ người đi biển) và 108 thương nhân Hải Nam, sau khi gặp nạn trên biển đã rất hiển linh, được vua Tự Đức ban sắc phong vào năm 1851 và vua Duy Tân ban sắc phong vào năm 1922. Nét nổi bật ở hội quán Quỳnh Phủ là nghệ thuật đúc đồng, thể hiện qua bộ lư hương được đúc vào năm Quang Tự thứ 19 (1893) và một bộ ngũ sự đúc vào năm Quang Tự thứ 33 (1907). Bộ lư hương gồm một lư hương cao 0,7m, đường kính miệng lư rộng 0,9m và hai tượng hươu cao 1m, miệng ngậm giá nến, hoa mai trên thân hươu và đầu lân trên tay quai được tạo dáng sinh động, sắc sảo. Bộ ngũ sự gồm một đỉnh trầm chân vạc đúc nổi hình “Bát tiên thượng kỳ thú”(tám vị tiên cưỡi trên tám con thú quí), lưỡng long tranh châu (hai con rồng tranh viên ngọc) và hai độc bình, hai chân nến cũng được đúc nổi lưỡng long tranh châu trên nền mây, lửa. Kỹ thuật chạm khắc gỗ ở hội quán cũng đạt giá trị nghệ thuật cao, thể hiện trên các bao lam khám thờ, bao lam cửa, hương án, liễn đối, hoành phi… Bằng kỹ thuật chạm bong, chạm nổi, chạm lộng hoặc kết hợp chạm lộng với chạm nổi, các nghệ nhân đã tạo ra những phù điêu án thờ với hàng chục nhân vật hay những bao lam chạm cả hai mặt công phu, những khám thờ nhiều lớp bao lam…với những mô-tip Thập bát La hán, long lân qui phụng, trích đoạn truyện Phong Thần hay những con vật quen thuộc với đời thường như bầy cá quẫy đuôi, con cua đang kẹp râu con tôm trong bãi cỏ, dây bầu trĩu quả… Những tấm liễn gỗ cao hơn 3 mét, rộng hơn 4 tấc được uốn cong theo thân cột cũng là những tác phẩm nghệ thuật thư pháp và nghệ thuật chạm chìm, chạm nổi. Đáng chú ý là một bộ gồm sáu tấm tranh sơn ta được làm vào năm 1963, tóm tắt truyện thơ Lục Vân Tiên của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu. Cạnh mỗi tranh vẽ là sáu câu thơ thể hiện nội dung bức tranh. Bộ tranh này cùng với bức bình phong bằng đá vân đen do vua Tự Đức ban tặng và sắc phong của vua Duy Tân thể hiện sự giao lưu, hội nhập giữa cộng đồng Hải Nam và cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Quỳnh Phủ Hội Quán – Miếu Bà Hải Nam thành phố Hồ Chí Minh đã được Bộ Văn hoá Thông tin cấp bằng chứng nhận “Di tích lịch sử – văn hoá” cấp quốc gia bằng Quyết định số 52/2001/Quyết Định/Bộ Văn Hóa Thông Tin cấp ngày 28/12/2001. Nguồn Cổng thông tin điện tử thành phố Hồ Chí Minh.
TP Hồ Chí Minh 175 lượt xem
Sau khi Hiệp định Genève 1954 được ký kết, Xứ ủy Nam Bộ đã sử dụng căn nhà số 51/10/14 đường Cao Thắng để làm cơ sở của Ban Tuyên huấn Xứ ủy Nam Bộ và một số đơn vị Khu Sài Gòn - Gia Định trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Căn nhà có nền gạch, mái lợp ngói- nhà chính rộng 3,6m, dài 15m và nhà bếp rộng 3,6m, dài 6m. Tại đây, Ban Tuyên huấn Xứ ủy Nam Bộ đặt máy thu thanh và giao cho đồng chí Đỗ Văn Ba (tức Đỗ Văn Hạng), cán bộ Xứ ủy phụ trách cơ sở, thu tin từ Đài Phát thanh Hà Nội và biên tập thành tài liệu, in ấn, phát hành cho các cơ sở của Xứ ủy nắm tin tức và thực hiện chỉ thị của Trung ương đối với Nam Bộ. Ngoài ra, Ban Tuyên huấn Xứ ủy đã tổ chức nhiều cuộc họp quan trọng có các đồng chí cán bộ lãnh đạo cao cấp của thành phố tham dự như đồng chí Trần Bạch Đằng, Phạm Dân, Tân Đức, Đỗ Văn Ba… cho đến khi Ban Tuyên huấn Xứ ủy chuyển về Chiến khu D năm 1957. Từ năm 1957 đến năm 1961, cơ sở Ban Cán sự thị xã Mỹ Tho và Ban Chấp hành phụ nữ giải phóng thị xã Mỹ Tho tiếp tục sử dụng ngôi nhà này để làm điểm tạm trú đồng thời là nơi móc nối liên lạc, hội họp chỉ đạo phong trào đấu tranh của tỉnh Mỹ Tho. Năm 1964, bà Trần Thị Ngọc Sương đã vận động được gia đình ông Tư Bôn ở nhà sát bên để mở rộng cơ sở cho Ban Trí vận Khu ủy sử dụng: nơi đây Anh hùng Lực lượng vũ trang Lê Thị Riêng (Cô Chín), Trưởng Ban Phụ vận Khu ủy cùng các đồng chí Nguyễn Thị Ngoan (Bí thư Ban Phụ vận nội thành), Nguyễn Thị Chơn, Trần Thị Lan, Ngô Bá Thành… đã từng sống và làm việc. Dưới sự chỉ đạo của đồng chí Lê Thị Riêng, cơ sở Ban Trí vận Khu ủy đã viết, in và phát hành một số tờ báo như: “Phụ nữ”, “Sài Gòn vùng lên”, “Trung lập” và tổ chức đưa một số phụ nữ vào hoạt động trong các phong trào: “Hội bảo vệ nhân phẩm và quyền lợi phụ nữ”, “Phụ nữ đòi quyền sống”, “Đòi cải thiện chế độ lao tù”…Đặc biệt, trong Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, lực lượng Vũ trang Ban Phụ vận cũng đã sử dụng nơi đây để cất dấu vũ khí chuẩn bị cho chiến dịch. Đồng chí Đoàn Lê Phong, Đỗ Ngọc Trinh (Bảy Hà), cán bộ Thành Đoàn sử dụng làm điểm tập kết lực lượng đi phá kềm ở Chợ Bàn Cờ, tổ chức may cờ đi treo và viết truyền đơn rải ở chợ kêu gọi đồng bào đấu tranh chống địch. Năm 1969, tại ngôi nhà này bà Trần Thị Ngọc Sương đã lưu trữ nhiều báo chí, tài liệu để chuyển đến cho phái đoàn Việt Nam tham dự Hội nghị Paris để nắm tin tức đấu tranh tại Hội nghị. Ngày cuối cùng của cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ (30 tháng 4 năm 1975), Đoàn cán bộ tiếp quản thành phố của Thành ủy do đồng chí Phạm Khải (Ba Ka) dẫn đầu xuất phát từ ngôi nhà này đi tiếp quản Bưu điện và Tòa Đô chính Sài Gòn. Với những giá trị lịch sử đó , Cơ sở Ban Tuyên huấn xứ ủy Nam Bộ được Bộ Văn hóa xếp hạng là di tích lịch sử quốc gia theo Quyết định số 1288-Văn Hóa /Quyết Định ngày 16 tháng 11 năm 1998. Nguồn Trang thông tin điện tử quận 3, thành phố Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 172 lượt xem
Sở chỉ huy Tiền phương - Phân khu 6 (Đặc khu Sài Gòn - Gia Định) quyết định dùng tiệm phở Bình làm trụ sở tập kết các chiến sĩ, cán bộ để truyền đạt mệnh lệnh trong cuộc Tổng tiến công và Nổi dậy xuân Mậu Thân 1968. Ông Nguyễn Văn Tri, người được phân công phụ trách Sở chỉ huy Tiền phương đã báo cáo tình hình, động viên, bố trí công việc cho anh chị em tại đây, trao đổi với các cụm, rà soát lại các hầm ém vũ khí và các hợp đồng nhận vũ khí. Di tích là tiệm phở Bình, số 7 đường Yên Đỗ (nay là đường Lý Chính Thắng), phường 8, quận 3, thành phố Hồ Chí Minh. Đó là căn nhà phố: 1 trệt, 3 lầu và 1 sân thượng. Mặt bằng tầng trệt có diện tích: 4m x 19m nở hậu, giữa có cầu thang bằng đá rửa. Phần trệt dùng làm tiệm phở, theo thiết kế bếp nấu chiếm nửa hành lang mặt tiền. Bên trong bố trí bàn ăn thực khách, chừa lối đi ở giữa. Cách ly nhà bếp, nhà vệ sinh, hồ nước với phòng thực khách có thang lầu dẫn lên tầng 1,2,3. Mỗi tầng được chia làm 2 phòng: phòng phía trước (có diện tích 3m x 3,5m) và phòng phía sau (có diện tích 3m x 4m). Một thang sắt bắc lên sân thượng. Mỗi lầu đều có hàng ba phía trước có kích thước 1,2m x 4m che chắn bên ngoài bằng tấm sáo trúc. Tiệm phở nằm trong trung tâm dân cư, rộng thoáng, khách ăn tương đối đông nên đơn vị biệt động dùng làm cơ sở liên lạc, tiếp nhận tài liệu. Ba chiến sĩ trong đội biệt động cũng được bố trí trong vai người giúp việc tại tiệm phở. Từ năm 1967, đã có nhiều cán bộ, chiến sĩ đến trú tại tiệm phở Bình công tác hoặc hội họp vài ngày. Khoảng một tháng trước Tết Mậu Thân, ông Hai Trí đến tiệm phở chỉ thị cho ông Ngô Toại gấp rút dự trữ lương thực cho khoảng 100 người dùng trong 1 tháng. Chấp hành mệnh lệnh, ông Ngô Toại tích trữ một số lương thực, thực phẩm (lương khô, đồ hộp, gà, vịt sống ...) Đêm ba mươi Tết Mậu Thân (năm 1968), chỉ huy các đơn vị biệt động thuộc Phân khu 6 đã tập kết tại nhà số 7 Đường Yên Đỗ chuẩn bị nhận nhiệm vụ: Đồng chí Tư Chu (Nguyễn Đức Hùng) được cử giữ chức Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Phân khu 6; Hai Trí (Nguyễn Văn Trí) - Chính trị viên cụm J9 (A30, đơn vị bảo đảm chiến đấu); Ba Đen (Ngô Thành Vân) - Đội trưởng A30, Đội trưởng đội biệt động 11 trong đợt 1 chiến dịch (đơn vị đánh tòa Đại sứ quán Mỹ); Ba Phong (Đỗ Tấn Phong) - Chỉ huy trưởng Cụm Biệt động 679 (trong đợt 1 chiến dịch);… cùng các cán bộ, chiến sĩ làm nhiệm vụ chuyên chở vũ khí, thông tin - cơ yếu và quân y. Mùng một Tết Mậu Thân (ngày 30 tháng 01 năm 1968), đồng chí Ba Thắng (Võ Văn Thành) - Chính ủy Phân khu 6 đến Sở Chỉ huy để chỉ đạo các đơn vị. Đêm mùng một Tết, trên tầng ba ngôi nhà, cán bộ, chiến sĩ, cơ sở, Ban Chỉ huy các cụm, các đội biệt động, các đơn vị phục vụ đã tập hợp đông đủ, chờ mệnh lệnh tiến công. Lúc 23 giờ 30 phút, thay mặt Bộ Chỉ huy Phân khu 6, đồng chí Ba Thắng đã đọc lời hiệu triệu của Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam, phổ biến giờ và phát lệnh cho các cụm biệt động làm nhiệm vụ xung kích, tiến công các mục tiêu đầu não của đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai tại Sài Gòn. Sáng mùng hai Tết Mậu Thân, nhận thấy có dấu hiệu cơ sở đã bị lộ, đồng chí Ba Thắng ra lệnh phân tán lực lượng tại đây, riêng các đồng chí hoạt động hợp pháp tiếp tục ở lại. Sáng mùng ba Tết Mậu Thân, khi các đồng chí chỉ huy đã rời khỏi, quân đội Sài Gòn bao vây tiệm Phở Bình, bắt hai vợ chồng đồng chí Ngô Toại, con gái, con rể và 13 cán bộ, chiến sĩ liên lạc còn ở lại theo yêu cầu nhiệm vụ. Đồng chí Ngô Toại bị địch tra tấn hết sức dã man trong 20 ngày vẫn không khai nhận điều gì. Đồng chí bị đày ra Côn Đảo và giữ lòng trung kiên với cách mạng cho đến lúc được trao trả tù binh sau Hiệp định Pa-ri 1973. Di tích cơ sở bí mật này của lực lượng Biệt động Thành là nơi phát lệnh tổng tiến công cho các đơn vị biệt động và lực lượng nổi dậy nội thành, ghi lại dấu mốc lịch sử quan trọng của Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 tại Sài Gòn – Gia Định. Di tích còn là sự thể hiện tấm lòng yêu nước của nhân dân nội thành và tinh thần dũng cảm, bất khuất của các cán bộ, chiến sĩ cách mạng, đặc biệt là của lực lượng Biệt động Thành trong xây dựng lực lượng và chiến đấu. Di tích đã được Bộ Văn hóa công nhận là di tích lịch sử qua quyết định số 1288 - Văn Hóa /Quyết Định ngày 16/11/1988. Nguồn Trang thông tin điện tử quận 3, thành phố Hồ Chí Minh.
TP Hồ Chí Minh 192 lượt xem
Năm 1910, Nguyễn Tất Thành rời trường Dục Thanh - Phan Thiết vào Sài Gòn (ngày 19 tháng 9 năm 1910). Người được cán bộ của Liên Thành thương quán là ông Trương Gia Mô (bạn thân của ông Nguyễn Sinh Huy, thân sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh) và ông Hồ Tá Bang giúp đỡ đưa về ở tại căn nhà số 5 đường Châu Văn Liêm. Đây là một trong những cơ sở của Liên Thành thương quán, một tổ chức hoạt động cách mạng rất có uy tín tại Sài Gòn để sinh sống và chuẩn bị cho việc ra đi tìm đường cứu nước. Từ căn nhà này, Nguyễn Tất Thành vừa đi dạy học vừa đi làm và học nghề ở trường thợ máy École des Mécaniciens, có lúc đi bán báo ở khu vực thương cảng Sài Gòn để kiếm sống và tìm hiểu đời sống công nhân, nhân dân lao động cũng như các tàu ra vào cảng Sài Gòn. Trong thời gian này, Nguyễn Tất Thành quen một số người Việt làm ở hãng Năm Sao (hãng tàu Năm Sao thường chạy tuyến hàng hải Sài Gòn - Đà Nẵng, Colombo và một số cảng của Pháp) như Nguyễn Văn Hùm, Bùi Văn Viên… Được biết hãng này đang tuyển “bồi”, Nguyễn Tất Thành và một số người Việt Nam đã đến xin việc và được hãng thu nhận. Ngày 4 tháng 6 năm 1911, Nguyễn Tất Thành với tên gọi Văn Ba (do các ông Trương Gia Mô, Hồ Tá Bang và Trần Lê Chất giúp đỡ và đổi tên là Văn Ba trước khi vào Sài Gòn) đã rời cơ sở Liên Thành thương quán xuống con tàu của Pháp mang tên Amiral Latouche Treville. Ngày 5 tháng 6 năm 1911, con tàu rời bến cảng Nhà Rồng - Sài Gòn đưa theo Văn Ba (Nguyễn Tất Thành) bắt đầu xa quê hương Việt Nam ra đi tìm đường cứu nước. Sau nhiều năm bôn ba ở nước ngoài, Người đến với chủ nghĩa Mác - Lê nin và đã tìm ra con đường cứu nước giải phóng dân tộc. Người đã thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, lãnh đạo nhân dân Việt Nam làm Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, lập nên Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Suốt cả cuộc đời, Người đã vì nước, vì dân. Tư tưởng và đạo đức của Người luôn tỏa sáng soi đường cho dân tộc Việt Nam vững bước trên con đường đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng Chủ nghĩa xã hội - Chủ nghĩa cộng sản. Căn nhà số 5 đường Châu Văn Liêm có giá trị lịch sử - là nơi ghi dấu một giai đoạn rất quan trọng trong bước đường đi tìm đường cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tại đây, có một khu trưng bày những hình ảnh về Công ty Liên Thành và hình ảnh Sài Gòn thời kỳ 1910 - 1911. Với ý nghĩa lịch sử ấy, căn nhà này được Bộ Văn hóa xếp hạng là di tích lịch sử Quốc gia theo Quyết định số 1288-Văn Hóa/Quyết Định ngày 16 tháng 11 năm 1988. Nguồn Cổng thông tin điện tử thành phố Hồ Chí Minh.
TP Hồ Chí Minh 212 lượt xem
Lịch sử hình thành Chợ Bến Thành gắn liền với thăng trầm của đô thị Sài Gòn – Chợ Lớn. Chợ được khởi công xây dựng từ năm 1912, trải qua nhiều lần trùng tu, di dời mới có được diện mạo và vị thế hôm nay. Ban đầu, chợ nằm bên bờ sông Bến Nghé, nơi có một bến sông để quân lính và người dân ra vào thành Gia Định (Quy Thành, thành Bát Quái), vì thế nên gọi là Chợ Bến Thành. Sau cuộc nổi dậy Lê Văn Khôi (1833-1835), thành Gia Định bị phá bỏ, Chợ Bến Thành cũng hoang vắng. Sau khi người Pháp tấn công Sài Gòn (tháng 2-1859), chợ bị thiêu rụi hoàn toàn. Năm 1860, người Pháp cho xây lại Chợ Bến Thành ở địa điểm cũ. Sau nhiều lần trùng tu, ngôi chợ dần khang trang hơn với hệ thống cột gạch, sườn sắt, mái ngói, .. Đến đầu thế kỷ XX, người Pháp cho xây lại Chợ Bến Thành mới tại vị trí ngày nay trong khoảng thời gian 1912-1914, cửa nam có gắn chiếc đồng hồ mang tính biểu tượng. Phía trước cửa chính (cửa nam) là Bùng binh Chợ Bến Thành, còn gọi là Công trường Diên Hồng, Quảng trường Quách Thị Trang... Đến năm 1952, khi tu sửa chợ người ta cho gắn 12 bức phù điêu của xưởng mỹ nghệ Biên Hòa ở bốn cửa chợ. Từ đó đến nay hình ảnh Chợ Bến Thành trở nên quen thuộc, gần gũi, trở thành một miền ký ức văn hóa đô thị của thành phố. Nguồn: Báo điện tử Pháp Luật thành phố Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 1782 lượt xem
Khu di tích Láng Le Bàu Cò tọa lạc tại xã Tân Nhựt, huyện Bình Chánh, Tp HCM. Láng Le Bàu Cò gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược vào năm 1948 với những trận đánh lớn đi vào lịch sử. Di tích Láng Le Bàu Cò được công nhận là di tích lịch sử cấp thành phố vào năm 2003. Sở dĩ được gọi tên là khu di tích Láng Le Bàu Cò vì Tên gọi của khu di tích Láng Le Bàu Cò là do người dân địa phương đặt ra. Xóm làng được thành lập cạnh những con kênh rạch chằng chịt và dòng sông. Láng Le Bàu Cò có vị trí nằm ở bên trong cánh đồng có diện tích rộng lớn và có rất nhiều tôm, cua, cá. Cùng với nhiều loài chim như vịt trời, cò, con le le, cúm núm, cồng cộc, đa đa, diệc, đỏ nách tới kiếm ăn tại đây. Vì vậy, người dân Tân Nhựt gọi với cái tên thân thuộc và mộc mạc đó là Láng Le Bàu Cò. Di tích Láng Le Bàu Cò được xem là cửa ngõ để di chuyển tới trung tâm căn cứ Vườn Thơm và tấn công cơ quan đầu não của quân địch tại Sài Gòn. Trước đây khu di tích Láng Le Bàu Cò vốn là cánh đồng lau sậy mọc um tùm. Vào ngày 15/4/1948 thực dân Pháp đưa 3 nghìn quân lính cùng nhiều vũ khí hiện đại đồng loạt tấn công khu vực Láng Le Bàu Cò nhằm tiêu diệt căn cứ Vườn Thơm. Khi đó lực lượng vũ trang cách mạng ở Láng Le - Bàu vì lực lượng nhỏ và vũ khí thô sơ tuy nhiên được sự giúp đỡ của người dân địa phương cùng với lợi thế về địa hình. Chỉ sau hơn nửa ngày đấu tranh đã chuyển sang tấn công khiến quân Pháp bị thương vong với số lượng lớn. Chiến thắng Láng Le Bàu Cò đã tiêu diệt 300 tên địch và bắt sống 30 lính đánh thuê cùng phá hủy nhiều máy móc, xe nhà binh, súng các loại của quân giặc. Tuy nhiên, về phía ta có nhiều cán bộ chiến sĩ đã anh dũng hy sinh với tuổi đời còn rất trẻ. Ngày 14/10/1966 tại Láng Le tiểu đoàn biệt động quân Việt Nam Cộng Hòa bị dân quân du khách tiêu diệt. Khu di tích Láng Le Bàu Cò có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với người dân Sài Gòn nói riêng và cả nước nói chung. Trước lòng căm thù thực dân Pháp, quân dân Láng Le Bàu Cò đã có cuộc chiến vang lừng lịch sử và có ý nghĩa to lớn mở đầu cho phía ta và phía địch. Đối với phía ta trận đánh mở đầu cho sự anh dũng trong tư thế kháng chiến vững mạnh. Còn với quân địch đã phải lùi vào thế bỏ chiến lược và bị tiêu diệt. Thực dân Pháp không còn định hình được chiến lược đánh bại Việt Minh. Hơn thế, tại căn cứ Vườn Thơm, Láng Le Bàu Cò còn diễn ra trận chiến quyết tâm bảo vệ căn cứ của ta và đập tan mọi kế hoạch phá hoại của quân giặc. Khu di tích Láng Le Bàu Cò sau phong trào Đồng Khởi vào năm 1960 còn là hậu cần, bàn đạp của lực lượng vũ trang để giải phóng Long An - Sài Gòn - Gia Định. Để tưởng nhớ sự hy sinh của đồng bào và các chiến sĩ của ta, vào năm 1988 huyện Bình Chánh đã xây dựng công trình lịch sử tại vùng đất Láng Le Bàu Cò với diện tích rộng 1000m2. Nguồn: Báo thông tin điện tử TP Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 8602 lượt xem
Nhà lao Tân Hiệp còn có tên là "Trung tâm cải huấn Tân Hiệp" tọa lạc ở khu phố 6, phường Tân Tiến, TP Biên Hòa. Di tích Nhà lao Tân Hiệp đã được Bộ Văn Hoá Thể Thao xếp hạng là di tích cấp quốc gia ngày 15-1-1994. Nhà lao Tân Hiệp là một trong sáu nhà tù lớn nhất miền Nam Việt Nam và là nhà tù lớn nhất vùng Đông Nam bộ, được xây dựng ở vị trí quân sự quan trọng, án ngữ phía đông bắc thị xã Biên Hòa. Phía trước là quốc lộ 1; phía sau là đường xe lửa Bắc - Nam. Đây là vị trí biệt lập, thuận tiện trong giao thông, dễ dàng cho việc bảo vệ, canh gác, nhận tù từ nơi khác đến và chuyển tù đi Côn Đảo, Phú Quốc... Nhà lao Tân Hiệp có diện tích 46.520m2 với 8 trại giam, trong đó có 5 trại giam những người tù cộng sản, người yêu nước. Xung quanh nhà tù được bao bọc bởi 4 lớp kẽm gai bùng nhùng với 9 lô cốt, 3 tháp canh cùng đội lính bảo vệ và hệ thống báo động tối tân. Mang tên "Trung tâm cải huấn" nhưng thực chất bên trong là kho súng, phòng xét hỏi, tra tấn với những dụng cụ hiện đại bậc nhất. Mỗi trại giam chỉ có diện tích gần 200m2 nhưng giam giữ từ 300-400 người, có lúc lên đến cả ngàn người. Đặc biệt ở đây có các phòng "cải hối", "chuồng cọp" rất nhỏ hẹp và điều kiện sinh hoạt cực kỳ khắc nghiệt, tù nhân sống chẳng khác gì trong lò thiêu xác. Chế độ ăn uống cực kỳ mất vệ sinh, bọn cai ngục mua gạo mục, cá thối dùng để bón ruộng, chiên bằng dầu luyn cho tù nhân ăn dẫn đến nhiều người bị ngộ độc. Với quyết tâm thoát khỏi nhà tù đế quốc, trở về với Đảng, với nhân dân để tiếp tục chiến đấu, giải phóng dân tộc, ngày 2-12-1956, được sự nhất trí của Liên Tỉnh ủy miền Đông, những chiến sĩ cộng sản bị "câu lưu" trong nhà lao Tân Hiệp dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Trọng Tâm (Bảy Tâm) - phụ trách Đảng ủy nhà tù và một số đồng chí khác đã bất thần làm một cuộc phá xiềng tập thể giải thoát gần 500 đồng chí, đồng bào yêu nước. Sự kiện này đã làm xôn xao cả Lầu Năm Góc. Mỹ - Diệm vội vã huy động cả quân chủ lực lẫn bảo an, dân vệ đang trấn thủ 3 tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một và hai biệt đoàn biệt động quân đến bủa lưới bao vây, truy bắt đoàn tù nhưng đều thất bại. Các đồng chí, đồng bào của ta thoát khỏi nhà lao Tân Hiệp đã được sự giúp đỡ, che chở của các cơ sở địa phương, trở về căn cứ an toàn. Trong số tù nhân vượt ngục có các đồng chí: Bảy Tâm, Hai Thông, Lý Văn Sâm... đã trở thành những hạt nhân nòng cốt cho phong trào Đồng Khởi sau này. Năm 2001, để tái hiện phần nào tội ác của Mỹ - Diệm đối với các đồng chí, đồng bào ta bị giam cầm tại nhà lao Tân Hiệp và diễn tả lại toàn bộ cuộc nổi dậy phá khám Tân Hiệp ngày 2-12-1956, Bảo tàng Đồng Nai đã tiến hành sưu tầm hình ảnh, tài liệu, hiện vật trưng bày tại di tích và làm một sa bàn để phục vụ nhu cầu nghiên cứu, tham quan của mọi tầng lớp nhân dân. Hàng ngày, di tích luôn mở cửa đón khách tham quan. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 8007 lượt xem
Di tích chiến thắng La Ngà (tại km số 104-112 trên quốc lộ 20 đi Đà Lạt, thuộc xã Phú Ngọc, huyện Định Quán) được Bộ Văn hóa xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 12-12-1986. Để cổ vũ cho chiến thắng Việt Bắc thu - đông 1947 và cũng để giáng cho kẻ thù một đòn chí mạng, Ban chỉ huy chi đội 10 đã quyết định phải tổ chức một trận đánh lớn, để quân giặc thấy rằng dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam không dễ dàng chịu khuất phục trước bất kì một kẻ thù nào; Bằng tinh thần quả cảm và sự khôn khéo sau gần nửa năm chuẩn bị, nghiên cứu địa hình, chọn địa điểm: vào lúc 15 giờ 12 phút ngày 1/3/1948 trận chiến phục kích La Ngà bắt đầu và kết thúc vào lúc 15 giờ 57 phút cùng ngày, chỉ trong vòng 45 phút. Chiến thắng La Ngà đã làm nức lòng nhân dân Định Quán nói riêng, quân dân Đồng Nai nói chung. Đây là chiến thắng thể hiện sự mưu trí, dũng cảm của quân và dân ta làm cho địch một phen kinh hồn, bạt phía. Từ chiến thắng này lực lượng ta ngày càng thêm lớn mạnh, góp phần đánh bại kế hoạch đánh nhanh, thắng nhanh của địch, buộc chúng phải rơi vào thế bị động. Quần thể danh thắng đá Chồng, Thác Mai, sông La Ngà và Tượng đài chiến thắng La Ngà là một quần thể du lịch kì thú của Định Quán. Vẻ đẹp kỳ thú của Hòn Ba Chồng, Núi Đá Voi, Hòn Dĩa, cùng với ngôi chùa thiên nhiên dưới chân núi đá là những cụm tiêu biểu tạo thành cảnh đẹp hài hòa cho khu danh thắng Đá Chồng. Quần thể Đá Chồng Định Quán còn là nơi lưu lại những dấu tích của cuộc sống người tiền sử. Tại đây dưới các mái đá, ven các khe suối và cả các sườn dốc ven thung lũng đã phát hiện nhiều công cụ sản xuất, sinh hoạt của người xưa bằng đá, đồng, đất nung. Trong suốt cuộc kháng chiến dài 30 năm. Định Quán là một phần quan trọng của Chiến khu Đ. Đá Chồng đã chứng kiến sự hình thành, phát triển, trú quân, triển khai chiến đấu của lực lượng cách mạng. Ngày nay, một phần đất của khu danh thắng Đá Chồng Định Quán đã được sử dụng, xây dựng thành khu Trung tâm văn hóa thể thao huyện Định Quán. Tương lai không xa khu danh thắng Đá Chồng Định Quán sẽ được đầu tư tôn tạo góp phần làm cho cảnh quan thiên nhiên ngày càng tươi đẹp, là địa điểm du lịch sinh thái hấp dẫn. Nguồn: Uỷ Ban Nhân Dân Huyện Định Quán
Đồng Nai 6023 lượt xem
Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh còn gọi là đình Bình Kính tọa lạc bên tả ngạn sông Đồng Nai, xưa kia thuộc ấp Bình Kính, thôn Bình Hoành, tổng Trấn Biên, nay là ấp Nhị Hòa, xã Hiệp Hòa, TP Biên Hòa, đã được Bộ Văn Hoá – Thông Tin – Thể Thao & Du Lịch xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 25-3-1991. Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ 18, ban đầu ngôi đền có qui mô nhỏ, vách làm bằng ván, mái ngói âm dương, cách ngôi đền hiện tại khoảng 400m về hướng Nam. Các tư liệu cho biết: ngôi đền được xây dựng lại lần đầu tiên vào năm Tự Đức thứ tư (1851); đến năm 1923, đền được tái thiết lại ở địa điểm hiện nay. Nguyễn Hữu Cảnh sinh vào năm 1650 tại Gia Miêu, huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa trong một gia đình có nhiều bậc danh tướng đương triều. Ông là người văn võ song toàn, lập được nhiều chiến công lớn và được chúa Nguyễn tin yêu, trọng vọng. Mùa Xuân năm Mậu Dần (1698), ông vâng lệnh chúa Nguyễn vào kinh lược xứ Đàng Trong khi ấy còn rất hoang vu. Đến đất Đồng Nai, ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố (nay là xã Hiệp Hòa); lấy đất Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn, đất đai mở mang ngàn dặm. Ông chiêu mộ lưu dân đến lập nghiệp, tổ chức bộ máy hành chính từng bước có qui củ, khuyến khích khai hoang, thúc đẩy Cù lao Phố phát triển thành một trong những cảng thị sầm uất, năng động nhất đàng Trong suốt thế kỷ 18 và chính thức sáp nhập vùng đất mới phương Nam vào bản đồ Đại Việt. Sau khi kinh lược phương Nam trở về, năm sau ông lại phụng mệnh chúa Nguyễn Phúc Chu thống lĩnh đại binh dẹp vua Chân Lạp giữ vững miền biên ải phương Nam. Tháng 4 năm Canh Thìn (1700), sau khi hoàn thành sứ mệnh, trên đường trở về đến Rạch Gầm (Tiền Giang) thì ông thọ bệnh qua đời nhằm ngày 16 tháng 5 âm lịch, thọ 51 tuổi. Trên đường di quan ông về quê an táng, quan tài của ông được đình lại khu đất khi xưa ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố để cho nhân dân địa phương có dịp bái biệt ông lần cuối. Nơi đình quan đã được nhân dân địa phương xây một ngôi mộ vọng để ghi nhớ sự kiện này. Khi hay tin Nguyễn Hữu Cảnh mất, Chúa Nguyễn vô cùng thương tiếc đã phong tặng ông là Thượng đẳng công thần đặc Trấn phủ Chưởng cơ với tước: Lễ Thành Hầu và đưa bài vị của ông vào thờ tại Thái miếu. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 5931 lượt xem
Di tích tòa Đại sứ Mỹ còn được gọi "Nhà trắng phương Đông" là nơi xuất phát các âm mưu thâm độc về quân sự lẫn chính trị nhằm thôn tính lâu dài đất nước Việt Nam, địa điểm di tích là tòa nhà 5 tầng xây dựng theo kiến trúc hiện đại, tọa lạc tại góc đường Mạc Đĩnh Chi - Lê Duẩn, Phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, trên một mảnh đất rộng gần 5.000m2. Trước đó, tòa đại sứ Mỹ nằm tại số 39 đường Hàm Nghi. Khoảng 10 giờ sáng ngày 30/3/1963, tòa đại sứ Mỹ trên đường Hàm Nghi đã bị đội Biệt động F21 đánh chất nổ làm sập 3 tầng lầu: 1, 2, 3 do đó Mỹ đã quyết định xây lại. Tòa nhà được khởi công xây dựng vào năm 1965, hầu hết vật liệu cũng như máy móc xây dựng đều được chở từ Mỹ sang, dưới sự điều khiển của kỹ sư người Mỹ. Theo thiết kế, tòa nhà bao bọc bởi 7.800 viên đá Taredo có khả năng chống đỡ mìn, đạn pháo. Cửa chính trang bị bằng thép dầy, những cửa khác chắn bởi lớp kín dầy đặc biệt chống đạn. Tất cả cửa sử dụng hệ thống tự động kể cả cửa sắt chắn lối lên các tầng lầu. Bên trong tòa nhà gồm 140 phòng với 200 nhân viên phục vụ ngày đêm ngoài ra bên cạnh tòa nhà còn được xây thêm một dãy nhà phụ gọi là khu "Norodom" dành riêng cho nhân viên C.I.A. Khi khánh thành, tòa nhà chỉ có 3 tầng. Cuối năm 1966 xây thêm 2 tầng và 1 sân thượng dùng làm nơi hạ cánh cho máy bay lên thẳng. Bao quanh tòa nhà là bức tường cao 3m, hai đầu tường sát đường Lê Duẩn xây 2 lô - cốt cao, canh gác ngày đêm. Tòa Đại sứ hoàn thành tháng 9/1967 với một hệ thống phòng thủ như là một pháo đài có 60 lính gác, một hầm tránh bom, một hệ thống màn hình ra-đa nhằm kiểm soát mặt tiền. Ngay sau khi tòa nhà hoàn tất, ngày 24/9/1967, hàng ngàn sinh viên, học sinh kéo đến trước cổng Đại sứ quán Mỹ đấu tranh đòi "Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc", "Mỹ cút về nước" và ra thông báo tố cáo Mỹ "chà đạp và vi phạm nghiêm trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam". Nhưng sự kiện nổi bật xảy ra tại Tòa Đại sứ Mỹ là trận đánh của Biệt động thành trong Tổng Tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968. Mục tiêu đánh Đại sứ quán Mỹ được bổ sung ngày 24/ 1/1968 do Ngô Thành Vân phụ trách chung. Đội Biệt động 11 nhận lãnh nhiệm vụ quan trọng này gồm đội trưởng Út Nhỏ (đội trưởng trinh sát quân khu) và các chiến sĩ: Bảy Truyền, Tước, Thanh, Chức, Trần Thế Ninh, Chính, Tài, Văn, Đực, Cao Hoài Vinh, Mang, Sáu và 2 lái xe: Trần Sĩ Hùng và Ngô Văn Thuận. Một sự kiện khác cũng không kém phần tủi nhục cho Toà Đại sứ Mỹ là cảnh hỗn loạn tháo chạy xảy ra trong 2 ngày 29 và 30/04/1975 của Mỹ và đồng bọn. Trước sức tấn công thần tốc của quân và dân Việt Nam trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, trên 1.000 người Mỹ và hơn 5.000 người Việt thân Mỹ đã chen lấn, xô đẩy, đạp nhau để tranh giành một chỗ trên sân thượng của toà nhà hòng được trực thăng cứu thoát. Di tích này đã được cấp bằng công nhận của Bộ Văn hoá ngày 25/6/1976. Hiện nay, toà nhà Đại Sứ Mỹ đã bị phá bỏ, xây mới thành lãnh sự quán tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng cạnh đó một bia tưởng niệm ghi nhớ mãi chiến công của các chiến sĩ biệt động đã hy sinh trong trận đánh. Nguồn: Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 4802 lượt xem
Thời kỳ nhà Mạc đóng đô ở Cao Bằng, để phòng bị quân nhà Lê tiến đánh, nhà Mạc đã tu bổ, sửa chữa thành Na Lữ (nay thuộc xã Hoàng Tung, Hòa An) và thành Bản Phủ (nay thuộc xã Hưng Đạo), thành Phục Hòa, ngoài ra còn xây dựng nhiều thành lũy khác ở Cao Bằng, làm cho Cao Bằng trở thành một trung tâm chính trị và quân sự ở vùng biên viễn Đông Bắc thời bấy giờ. Thành Na Lữ và thành Phục Hoà là hai thành được xây dựng từ trước. Theo ghi chép của Bế Hựu Cung trong Cao Bằng thực lục, thành Na Lữ và thành Phục Hòa mở đầu từ đời Đường Ý Tông năm Giáp Thân, niên hiệu Hàm Thông thứ 5 (874). Căn cứ vào sự hiện diện của nhiều ngôi mộ cổ có đá khắc ghi bia mộ tên, địa chỉ, quê quán những người phu dịch xây thành chết ở đây từ thời Hàm Thông có thể khẳng định hai thành này xây từ đời Đường. Thành Na Lữ được xây qua nhiều triều đại khác nhau. Khi nhà Mạc lên Cao Bằng đã cho xây lại bằng gạch. Thành Na Lữ có hình gần chữ nhật, có tổng diện tích khoảng 37,5 ha, chiều dài khoảng 800 m, chiều rộng khoảng 600 m, thành có 4 cửa. Thành Bản Phủ tại kinh đô Nam Bình, nước Nam Cương của Thục Phán khi xưa ở Cao Bình (Cao Bằng), nhà Mạc đã tu bổ thành Vương phủ tại vòng trong của kinh đô cũ Nam Bình và được gọi là thành Bản Phủ hay Vương phủ. Tại kinh đô Nam Bình xưa của nước Nam Cương và của nhà Mạc, thành Bản Phủ vẫn còn dấu tích khá rõ nét. Kinh đô Nam Bình gồm có hai vòng thành, để bảo vệ kinh thành, vòng ngoài có chu vi khoảng 5 km, gồm cả một vùng gò đồi thấp, quanh chân đồi được bạt dựng đứng như một bức tường thành, thuận lợi cho việc xây dựng phòng tuyến bảo vệ. Bờ thành phía Tây chạy song song với bờ sông Bằng đến đầu làng Bó Mạ, nối bờ thành Đông Nam chảy qua trước mặt Bản Phủ theo chân đồi ra gặp quốc lộ 4, phía Đông Bắc chạy theo chân đồi sát phía ngoài quốc lộ 4, lên đến Đầu gò là phía Tây Bắc tiếp tục chạy theo chân đồi, ra đến bờ sông gặp bờ thành phía Tây tạo thành một vòng thành khép kín. Khi nhà Mạc lên đóng đô đã tu sửa lại và xây dựng thêm một số công trình, trong đó thành Bản Phủ (thành nội - nơi của vua làm việc) được xây lên cao hơn trên các tường thành cũ từ thời kỳ Thục Phán, thành nằm trên một khu đất bằng phẳng. Cùng với việc xây dựng lại kinh thành, nhà Mạc còn xây dựng một hệ thống đồn bốt, thành lũy khá dày xung quanh kinh đô và một số điểm biên giới quan trọng, tạo thành một hệ thống bảo vệ kinh thành và bảo vệ biên giới. Thành Phục Hòa (huyện Phục Hoà) được xây theo kiểu hình vuông, mỗi chiều khoảng 400 m, gồm hai vòng thành, khoảng cách giữa hai vòng là 80 m. Hiện nay, tường thành phía Nam đã bị phá huỷ hoàn toàn. Thành Phục Hòa có 2 cổng chính: Cổng phía Bắc được mở thông ra quốc lộ đi Cửa khẩu Tà Lùng ngày nay, nhân dân thường gọi là Pác Cổng, cổng này được xây theo kiểu hình chữ nhật, rộng 8 m, cao 5 m, gồm hai cánh cổng làm bằng gỗ nghiến dày rất chắc chắn; cổng thứ hai ở phía Nam, mở thông ra bờ sông. Cả hai cổng đều bị san phẳng từ lâu, hiện nay không còn vết tích. Gần thành, tại phía Tây Bắc ngoại thành dọc bờ sông còn có nhiều vết tích lò nung gạch, nhân dân cho biết trong quá trình lao động, khai phá đã tìm thấy ở khu vực này nhiều lò gạch còn nguyên vẹn. Qua nghiên cứu, khảo sát cho thấy, tại Cao Bằng, nhà Mạc đã tu bổ, tôn tạo và xây dựng thêm nhiều thành, đồn luỹ, trong đó tu bổ, tôn tạo xây lại thành Bản Phủ, thành Na Lữ, thành Phục Hoà. Các đồn luỹ này đã tạo thành một hệ thống liên hoàn bảo vệ kinh thành khá vững chắc. Đến nay, những thành cổ nhà Mạc xây dựng thời kỳ đóng đô ở Cao Bằng, một số thành xây dựng bằng đất chỉ còn vết tích, nhưng các thành được xây bằng đá vẫn còn rất rõ. Nguồn: Báo Cao Bằng điện tử
Cao Bằng 4724 lượt xem
Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt, tọa lạc ấp Xóm Tháp, xã Tân Phong, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử - văn hóa ngày 23 tháng 7 năm 1993. Đồng thời là một trong ba công trình tháp cổ cuối cùng còn lại ở miền Nam nước ta. Trải qua nhiều lần trùng tu vào các năm 1938, 2003 và gần đây nhất là vào năm 2013. Mặc dù trải qua các đợt trùng tu tôn tạo, nhưng khu di tích tháp cổ Chót Mạt đã mang cho mình một diện mạo mới nhưng vẫn giữ nguyên được tinh thần kiến trúc cổ. Toàn bộ tòa Tháp được xây dựng bằng gạch và đá phiến với phần đỉnh tháp nhọn dần lên, từ mặt đất lên nơi cao nhất của đỉnh tháp được ước tính là 10m. Ngoài ra, ngọn tháp cổ này nằm trên gò đất cao giữa cánh đồng nên nhìn từ xa nó tựa như ngọn bút đang vươn lên cao dần. Năm 2003 Uỷ ban nhân dân tỉnh Tây Ninh quyết định phê duyệt dự án đầu tư trùng tu tôn tạo bảo tồn di tích tháp Chót Mạt và được tiến hành triển khai trùng tu tôn tạo phục hồi, trưng bày mở hố khai quật năm 2003 đưa vào sử dụng. Ngày 27/11/2019 UBND tỉnh ban hành Quyết định Quy định về phân cấp quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. Quyết định giao UBND huyện Tân Biên trực tiếp quản lý 4 di tích, trong đó có di tích cấp Quốc gia di tích Lịch sử- văn Hóa Tháp Chót Mạt. Đặc biệt Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt trên địa bàn xã Tân Phong, huyện Tân Biên được chọn nằm trong chũi liên kết phát triển du lịch của Tỉnh Tây Ninh. Đây là một địa điểm tham quan rất đáng để khám phá, góp phần phát triển du lịch trên địa bàn xã Tân Phong nói riêng và huyện Tân Biên nói chung. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Tây Ninh
Tây Ninh 4425 lượt xem
Di tích Ngã Ba Giồng là di tích lịch sử cách mạng thuộc Ấp 5, xã Xuân Thới Thượng, huyện Hóc Môn. Được bao quanh bởi ba con đường: Phan Văn Hớn, Nguyễn Văn Bứa và tỉnh lộ 19. Khu di tích Ngã Ba Giồng là khu tưởng niệm về những sự kiện lịch sử trong hai cuộc khácg chiến chống ngoại xâm. Được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia vào năm 2002. Ngã ba Giòng (còn có tên gọi đầy đủ là Ngã ba Giòng Bằng Lăng) nằm trên địa phận thôn Xuân Thới Tây thuộc 18 thôn vườn trầu xưa được hình thành từ những năm 1698 đến năm 1731. Từ lâu đời, Ngã ba Giồng là 1 địa danh có tên gọi dân gian đã đi vào lịch sử của quê hương 18 thôn vườn trầu Hóc Môn – Bà Điểm. Tục truyền rằng xưa kia nơi đây là 1 vùng đất giồng tương đối cao ráo và là nơi mọc nhiều cây bằng lăng nên địa danh này có tên gọi từ đó. Sau khi cuộc khởi nghĩa Nam kỳ (23/11/1940) bị thất bại, thực dân Pháp đã tăng cường đàn áp, khủng bố khốc liệt phong trào cách mạng vùng Hóc Môn – Bà Điểm. Chúng đã lập ra ở Hóc Môn 3 trường bắn để giết hại các đồng chí lãnh đạo Đảng, các đồng chí đồng bào yêu nước của quê hương Hóc Môn và các vùng lân cận. Ngã ba Giồng là trường bắn thứ ba ghi lại tội ác tày trời của giặc pháp và bọn tay sai đối với nhân dân Hóc Môn. Rút kinh nghiệm từ 2 trường bắn trước (1 tại rạp hát cũ trung tâm Quận lỵ Hóc Môn, 1 cạnh giếng nước sau Bệnh viện Hóc Môn ngày nay), chúng xử bắn công khai, bắt nhân dân đến xem nhằm mục đích uy hiếp tinh thần cách mạng của nhân dân Hóc Môn. Nhưng cách xử bắn đó đã phản tác dụng, nhân dân Hóc Môn đã tận mắt chứng kiến sự tàn ác của thực dân Pháp, sự hy sinh cao cả của các chiến sĩ cộng sản nên ngọn lửa yêu nước của họ càng bùng lên mãnh liệt. Trường bắn thứ 3 này, chúng không dám xây dựng gần trung tâm Quận lỵ nữa mà đưa ra khu vực Ngã ba Giồng là vùng hoang vắng, thưa dân để tránh sự phản kháng của nhân dân. Tại đây, chúng xây dựng thành 1 trường bắn có mô đất kiên cố dài 12m, cao 2,2m, phía trước có trồng 6 cột bắn, mỗi cột cao 1.7m, hướng bắn quay về phía đồng ruộng (bưng Tràm Lạc). Vào năm 1941, tại đây chúng lén lúc xử bắn rất nhiều lần, không cho nhân dân xem, hàng trăm chiến sĩ cộng sản và đồng bào yêu nước bị chúng giết hại. Với ý nghĩa lịch sử vô cùng thiêng liêng của Ngã ba Giồng, nơi ghi dấu tội ác dã man của giặc Pháp, nơi thể hiện ý chí chiến đấu bất khuất kiên cường và sự hy sinh cao cả của đồng chí và đồng bào ta sau cuộc khởi nghĩa Nam kỳ (23/11/1940); sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (30/4/1975), huyện Hóc Môn đã nhanh chóng khôi phục và tôn tạo khu di tích lịch sử cách mạng Ngã ba Giồng nhằm giáo dục truyền thống cho các thế hệ thanh thiếu niên. Nơi đây đã trở thành điểm tham quan, nơi tổ chức lễ hội truyền thống trong những ngày lễ lớn hàng năm của huyện Hóc Môn và thành phố đặc biệt là lễ kỷ niệm ngày Nam kỳ Khởi nghĩa (23/11). Hiện nay được sự nhất trí của thành phố, huyện đang tiến hành tôn tạo xây dựng Ngã ba Giồng thành “Khu tưởng niệm liệt sĩ Ngã ba Giồng”. Nguồn: Cổng thông tin điện tử Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 4406 lượt xem
Dinh Quận Hóc Môn tọa lạc tại số 1, đường Lý Nam Đế, thị trấn Hóc Môn, (cạnh trụ sở UBND huyện) là nơi để lại nhiều sự kiện đấu tranh nổi bật suốt chặng đường dài lịch sử từ 1885 đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng của Nhân dân 18 Thôn vườn trầu. Sau khi hạ được Đại đồn Chí Hòa, thực dân Pháp xây dựng tại nơi đây một ngôi nhà gỗ cao 3 tầng dùng làm Đồn binh. Khi tên Trần Tử Ca về nhậm chức Đốc Phủ, dùng Đồn làm Dinh huyện Bình Long. Vốn là một tay say quỷ quyệt của thực dân Pháp, Trần Tử Ca bị nhóm do các ông Phan Văn Hớn (Quản Hớn) và Nguyễn Văn Quá (Chánh Lãnh Binh) cầm đầu gần 1.000 nghĩa quân tiến về đốt Dinh Quận, bắt và cắt đầu bêu giữa chợ. Đó là ngày 8/2/1885 Tết Ất Dậu. Sau đó, Dinh Quận Hóc Môn được xây dựng lại với nền móng đá xanh, tường gạch, có hệ thống phòng thủ từ lầu cao đến tận vòng rào. Lối kiến trúc y như Đồn binh nên người địa phương gọi là Đồn Hóc Môn. Trấn nhậm thay Trần Tử Ca là Đốc phủ Ngôn, đến Quận Trà rồi Quận Thọ. Đây là khoảng thời gian dài người dân vùng Hóc Môn hứng chịu bao cảnh tham tàn, bỉ ổi của thực dân Pháp và bọn tay sai đầu sỏ kể trên. Với truyền thống kiên cường bất khuất của Nhân dân Hóc Môn. Ngày 4/6/1930, khoảng 6 giờ sáng trước Dinh Quận, hàng trăm bà con Hóc Môn kéo biểu tình đòi “bãi bỏ thuế thân, giảm các thuế môn bài và thuế chợ, cấp đất cho dân cày nghèo”. Quận Trà cho mời những người cầm đầu vào Dinh thương lượng, nhưng chúng xảo quyệt bắt giữ họ trong đó có ông Lê Văn Uôi (Bí thư xã Tân Thới Nhì), là người cầm đầu cuộc biểu tình. Mọi người không nao núng, quyết liệt đòi hỏi Quận Trà phải thả những người bị cầm giữ. Đoàn biểu tình càng lúc càng đông, khí thế đấu tranh có phần lan rộng, khiến Quận Trà nhượng bộ. Một mặt chúng thả những người bị giữ, mặc khác chúng gọi điện cho quan thầy ở Sài Gòn cứu viện. 2 giờ sau, cuộc đấu tranh bị 2 tên Blachôlê và Nobbot chỉ huy bắn xối xả vào đoàn biểu tình, gây thương vong nhiều người. Nhưng sự kiện lịch sử gây ấn tượng nhất tại Dinh Quận Hóc Môn là cuộc khởi nghĩa Nam kỳ ngày 23/11/1940. Đồn Hóc Môn rất kiên cố, xây bằng đá xanh như là một pháo đài, cao khoảng 15 thước, có ụ súng và hệ thống phòng thủ lỗ châu mai do một trung đội lính khố xanh trấn giữ. Ngày 22/11/1940, Pháp tăng cường thêm 1 trung đội để đối phó với tình hình. Chiều 22/11/1940, cánh quân của ông Đỗ Văn Cội đột nhập vào thị trấn, giả dạng thường dân, phục kích sau lưng Đồn chờ lệnh cướp Đồn. Một cánh quân khác có nhiệm vụ phá cầu, đốn cây ngăn lộ, đánh chiếm các công sở, nhà việc... Cánh quân từ Phước Vĩnh An, Tân Thông, Tân An Hội, Tân Phú Trung do ông Phạm Văn Sáng và Đặng Công Bỉnh chỉ huy, xuất phát từ ấp Bến Đò, đánh chiếm nhà việc, diệt 1 tên, thu 4 súng, làm chủ tình hình tại đây (Tân Phú trung). Liền đó cánh quân này được lệnh kéo về Hóc Môn. Cánh quân Long Tuy Thượng do ông Bùi Văn Hoạt chỉ huy. Cánh quân thuộc Tổng Long Tuy Trung do ông Đỗ Văn Dậy và Lê Bình Đẳng chỉ huy. Khoảng 24 giờ đêm ngày 22/11/1940, vẫn chưa nghe thấy tiếng pháo lệnh ở Sài Gòn. Sau khi hội ý, các vị chỉ huy những cánh quân thống nhất tấn công Đồn giặc. Lập tức các cánh quân tiến thẳng về Đồn Hóc Môn, nơi trú ngụ của tên Quận trưởng Bùi Ngọc Thọ. 2 nghĩa quân tên Nghé và Kinh xung phong vào cổng trước, hy sinh. Nghĩa quân bốn phía xông vào Đồn như nước vỡ bờ. Trước sức mạnh của nghĩa quân và quần chúng, bọn lính trong Đồn không còn tinh thần kháng cự, bỏ chạy tán loạn. Nghĩa quân chiếm lĩnh hoàn toàn bên trong Đồn nhưng trên lầu, địch vẫn ngoan cố dùng súng bắn tẻ, cùng lúc gọi điện về Sài Gòn, Thủ Dầu Một cấp cứu. Vì nóng lòng bắt cho được tên Quận Thọ nên đồng chí Đỗ Văn Dậy bám ống máng nước để leo lên tầng trên Đồn. Đến lưng chừng bị trúng đạn, đồng chí bị rơi xuống và hy sinh sau đó. Cuộc chiến đấu đang thế giằng co thì viện binh địch đến. Không thể cầm cự, nghĩa quân rút khỏi thị trấn, phân tán về các làng, lực lượng vũ trang rút về ấp Bến Đò (Tân Phú Trung) rồi di chuyển sang ấp Mỹ Hạnh (Đức Hòa). Cuộc tiến công Đồn Hóc Môn (sau gọi là Dinh Quận Hóc Môn) tuy thất bại nhưng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng mọi người dân sự khâm phục lòng dũng cảm của các chiến sĩ cách mạng trong cuộc chiến đấu chống thực dân cướp nước. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, 7 giờ sáng ngày 30/4/1975, thị trấn Hóc Môn hoàn toàn được giải phóng, lá cờ Tổ quốc phất phới bay trên Dinh Quận, nơi tên Quận trưởng Nguyễn Như Sang và bọn tay sai đã chạy trốn từ tối đêm trước. Ngày nay Dinh Quận Hóc Môn được chọn làm Bảo tàng huyện, nơi đây tập trung nhiều tư liệu trưng bày, minh họa các giai đoạn lịch sử thăng trầm cũng như khí thế đấu tranh cách mạng của quân và dân trong huyện Hóc Môn qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Một Tượng đài đặt trước di tích Dinh Quận Hóc Môn thể hiện gương hy sinh bất khuất của quân và dân 18 Thôn Vườn trầu, được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn: Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 4371 lượt xem
Mai Xuân Thưởng là người lãnh đạo phong trào Cần Vương chống Pháp cuối thế kỷ XIX ở Bình Định. Mai Xuân Thưởng sinh năm Canh Thân 1860, mất năm Đinh Hợi 1887 người thôn Phú Lạc, tổng Phú phong, huyện Tuy Viễn, tỉnh Bình Định (nay là thôn Phú Lạc, xã Bình Thành, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Cha là Mai Xuân Tín làm Bố chánh ở Cao Bằng, mẹ là Huỳnh Thị Nguyệt con của một nhà quyền quý trong làng. Mai Xuân Thưởng vốn là người thông minh, ham học. Năm 18 tuổi (1878) ông đỗ Tú tài tại Trường thi Bình Định. năm 25 tuổi (1885) thi đỗ cử nhân. Hưởng ứng chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi, Mai Xuân Thưởng về quê Phú Lạc, chiêu mộ nghĩa binh, lập căn cứ ở hòn Sưng dựng cờ cần vương chống Pháp, sau đó Mai Xuân Thưởng đã đem lực lượng của mình gia nhập vào nghĩa quân do Đào Doãn Địch lãnh đạo và được Đào Doãn Địch phong giữ chức Tán lương quân vụ (phụ trách về lương thực của nghĩa quân). Kể từ đó cho đến năm 1887, phong trào cần vương ở Bình Định phát triển mạnh mẽ và lan ra đến Quảng Ngãi, Phú Yên...thu hút hàng chục ngàn người thuộc mọi tầng lớp tham gia. Ngày 20/9/1885 Đào Doãn Địch mất, giao toàn bộ lực lượng cho Mai Xuân Thưởng. Ông chọn vùng núi Lộc Đổng (nay thuộc xã Bình Tường, huyện Tây Sơn) làm đại bản doanh và tổ chức lễ tế cờ , truyền hịch kêu gọi sỹ phu, văn thân, nhân dân tham gia phong trào cần Vương chống Pháp. Trong buổi lễ ấy, nghĩa quân nhiều vùng trong tỉnh Bình Định đã nhất trí suy tôn ông làm Nguyên soái lãnh đạo cuộc khởi nghĩa và nêu cao khẩu hiệu: “Tiền sát tả, hậu đả Tây”. Đầu năm 1887, quân Pháp dưới sự chỉ huy của Trung tá Cherrean và quân triều đình do Trần Bá Lộc chỉ huy cùng với Công sứ Trira đã mở cuộc tấn công lớn lên căn cứ đại bản doanh của phong trào Cần Vương Bình Định, trận giao chiến giữa lực lượng nghĩa quân với giặc Pháp diễn ra vô cùng ác liệt, cuộc chiến đấu không cân sức, cuối cùng lực lượng khởi nghĩa bị đẩy lùi. Tháng 3 năm 1887, sau trận ác chiến ở Bàu Sấu (thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định), Mai Xuân Thưởng bị thương nặng, nghĩa quân rút về Mật khu Linh Ðổng. Ngày 21 tháng 4 năm 1887, Trần Bá Lộc bao vây đánh chiếm căn cứ mật khu Linh Đổng và bắt được một số nghĩa quân, trong đó có thân mẫu Mai Nguyên Soái. Đêm 30 tháng 4 năm 1887, Mai Xuân Thưởng đã cử một đội quân cảm tử đột nhập doanh trại Trần Bá Lộc, giải vây cho những người bị bắt, ông cùng đoàn thuộc hạ gồm 50 người vượt núi vào Phú Yên, tiếp tục kháng chiến, nhưng khi đến đèo Phú Quý (ranh giới giữa Bình Định và Phú Yên) thị bị phục binh Trần Bá Lộc bắt và đưa ra xử trảm tại Gò Chàm (Phía đông Thành Bình Định). Di tích Lăng mộ nhà yêu nước Mai Xuân Thưởng tọa lạc trên ngọn đồi cao của dãy núi Ngang (thuộc thôn Hòa Sơn, xã Bình Tường, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định) cách thành phố Quy Nhơn khoảng 50km về hướng Tây Bắc; Lăng mộ được xây dựng trên khu đất rộng 1988m2, khánh thành ngày 22 tháng 1 năm 1961.Về tổng thể, Lăng được thiết kế theo kiểu lăng mộ cổ, xung quanh có thành thấp bao bọc. Cổng Lăng (tam quan) là 4 trụ vuông, phía trên thắt lại theo kiểu bầu lọ mang dáng dấp kiến trúc cổng đình, miếu cuối thế kỷ XIX. Giữa nhà Lăng là mộ phần Mai Xuân Thưởng hình khối chữ nhật theo hướng Đông - Tây; Phía đầu mộ dựng tấm Bia đá khắc bài ký ghi tiểu sử và sự nghiệp của Mai Xuân Thưởng: Di tích được Bộ Văn hóa Thông tin quyết định xếp hạng cấp Quốc Gia ngày 20 tháng 4 năm 1995. Nguồn: UBND Huyện Tây Sơn tỉnh Bình Định
Bình Định 4337 lượt xem