Ứng dụng thuyết minh khám phá du lịch Việt Nam

Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch Travelviet

Tải ứng dụng Travelviet

Logo Travelviet

Di tích lịch sử

Việt nam

Chùa Thầy

Trong lịch sử hình thành, chùa Thầy gắn liền với tên tuổi và cuộc đời của Thiền sư Từ Đạo Hạnh (1072 - 1117) - vị tổ sư thứ 24 của dòng thiền Tì Ni Đa Lưu Chi, với nhiều tên gọi, như “Hương Hải Am”, “Bồ Đề Viện”, “Phật Tích”... Chùa Thầy và khu vực núi đá Sài Sơn, Hoàng Xá, Phượng Cách, thuộc các xã Sài Sơn, xã Phượng Cách và thị trấn Quốc Oai, huyện Quốc Oai, Hà Nội. Đây là một quần thể di tích kết hợp với cảnh quan của những ngọn núi thấp ở giữa vùng đồng bằng trù phú, tạo nên một diện mạo linh thiêng mà kỳ vĩ, gồm 03 cụm điểm: Khu vực núi đá Sài Sơn, Hoàng Xá, Phượng Cách; Quần thể di tích chùa Thầy; các di tích trên núi động Hoàng Xá. Theo thuyết phong thuỷ, núi Sài được xem như là con rồng lẻ đàn (quái long), xung quanh có 18 ngọn núi nhỏ - “Thập bát tú sơn” chầu về, án ngữ cho tổ sơn Tản Viên. Tuy nhiên, hiện nay chỉ còn lại 11 ngọn núi, là: Sài Sơn, Long Đẩu, Hoa Sơn, Hương Sơn (Hổ Sơn), Phượng Hoàng, Kỳ Lân, Sơn Tượng, Âm Giang, Ông Minh, Đồng Hè và Hoàng Xá. Trong số đó, nổi tiếng nhất là núi Sài Sơn (núi Thầy), hình vòng cung cao khoảng 100m từ Sài Sơn kéo xuống tận Hoàng Xá với bán kính trên 3km. Trên núi có nhiều loại cây cổ thụ trăm năm tuổi, nhiều loại thuốc quý được thiên nhiên ban tặng. Núi Sài với nhiều hang động nổi tiếng như hang Cắc Cớ, hang Thánh Hoá, hang Gió, trên đỉnh lại có Bàn cờ tiên, Chợ Trời. Đặc biệt, Hang Cắc Cớ ở lưng chừng núi, rất sâu, cửa hang nhỏ hẹp, tối và trơn, muốn vào hang phải có đèn đuốc. Trong hang có vòm rộng, hiện còn lưu giữ một bể xương người - tương truyền là nơi tuẫn tiết của nghĩa quân Lữ Gia thời Triệu chống lại nhà Tây Hán thất bại. Đây là tổ hợp công trình kiến trúc nằm ở chân, sườn núi Sài Sơn và một số ngọn núi nhỏ xung quanh, gồm: chùa Thầy (chùa Cả, Thiên Phúc Tự), chùa Bối Am, chùa Cao, đền Thượng, chùa Long Đẩu, chùa Sài Khê, đền Quán Thánh. Quần thể di tích chùa Thầy còn lưu giữ được hệ thống các di vật, cổ vật rất phong phú đa dạng, thuộc nhiều chủng loại, chất liệu, như: đá, gỗ, giấy, hệ thống tượng thờ, nhang án, hoành phi câu đối,… tiêu biểu như bộ tượng Di đà tam tôn (đã được công nhận là Bảo vật quốc gia), tượng thánh Từ ở ba kiếp, tượng Lữ Gia, Tam thế Phật, Bệ đá hoa sen Phật có sư tử đội thời Lý, bệ hoa sen hai tầng (Bách hoa đài) thời Trần, khám thờ thời Mạc … Với giá trị đặc biệt tiêu biểu, di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Chùa Thầy và khu vực núi đá Sài Sơn, Hoàng Xá, Phượng Cách (huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội) đã được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt theo Quyết định số 2408/QĐ-TTg ngày 31/12/2014./. Nguồn Cục di sản Văn hóa .

Hà Nội 1505 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Chùa Tây Phương

Chùa Tây Phương (Sùng Phúc tự, chùa Tây) tọa lạc trên núi Câu Lậu, thuộc xã Thạch Xá, huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội. Theo một số nhà nghiên cứu, năm Giáp Dần (1554) đời Mạc Phúc Nguyên (1547 - 1561) niên hiệu Quang Bảo năm thứ nhất, chùa Tây Phương đã được làm quy mô như ngày nay. Năm Canh Tý (1660), chúa Trịnh Tạc (1657 - 1682) cho tu sửa chùa và làm Tam quan. Vào thời vua Lê Huy Tông, Uy vương Trịnh Giang cũng tu sửa chùa và tạc thêm tượng Phật tại chùa. Chùa quay hướng Đông, trông ra gò Đồng Sộng và gò Kim Quy (núi Nủ Rùa), hướng Tây có dòng Tích Giang, hướng Nam có núi Con Voi, phía Đông Nam có núi Lý Ngư, phía Tây Bắc có đỉnh Ba Vì, bao gồm các hạng mục: Tam quan hạ, Tam quan Chùa Tây Phương là di sản văn hóa mang giá trị đặc biệt thể hiện qua nghệ thuật kiến trúc đỉnh cao (về tỷ lệ hình học, mỹ thuật, khoa học), chạm khắc, tạc tượng... từ đầu bẩy, các bức cốn, xà nách, ván long... đều chạm trổ đề tài trang trí truyền thống, như: hình lá dâu, lá đề, hoa sen, hoa cúc, rồng, phượng, hổ phù... rất tinh xảo. Hệ thống tượng Phật là điểm đặc sắc nhất, có thể coi đây như là một Bảo tàng tượng Phật của Việt Nam. Các pho tượng Phật được làm bằng gỗ mít, được tạo tác công phu, tinh xảo, giá trị nghệ thuật điêu khắc vào bậc nhất nước ta. Phần lớn các tượng này có niên đại khoảng cuối thế kỷ XVIII, một số tượng khác được tạc vào giữa XIX. Trong đó, tiêu biểu là các pho tượng Tuyết Sơn, Thập bát vị La Hán, Bát Bộ Kim Cương... hội tụ đầy đủ và tạo ấn tượng thẩm mỹ sâu đậm về nền điêu khắc cổ truyền. Với giá trị đặc biệt của di tích, di tích kiến trúc nghệ thuật Chùa Tây Phương (huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội) đã được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt (theo Quyết định số 2408/QĐ-TTg ngày 31/12/2014)./. Nguồn Cục di sản văn hóa .

Hà Nội 1605 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Đền Sóc

Đền Sóc phụng thờ người anh hùng văn hóa làng Gióng có công đánh đuổi giặc ngoại xâm, bảo vệ đất nước từ buổi bình minh trong lịch sử dân tộc. Theo truyền thuyết, Vua Hùng đã cho lập đền thờ Thánh Gióng ngay sau khi dẹp xong giặc. Qua các nguồn tư liệu, đặc biệt là văn bia niên hiệu Dương Đức (1672) đã đoán định đền được dựng khoảng thời Lê trước năm 1672. Trải qua các thời kỳ lịch sử, đền Sóc luôn được chính quyền và nhân dân gìn giữ, tu bổ, tôn tạo. Hiện nay, Khu di tích Đền Sóc (Đền Quốc tế) thuộc xã Phù Linh, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội, bao các hạng mục: Nghi môn, đền Hạ, đền Thượng, chùa Đại Bi, đền Mẫu, nhà khách, khu phụ, chùa Non. Đền Sóc hiện còn lưu giữ được 145 hiện vật có giá trị, niên đại trải dài từ thời Lê, tập trung vào triều Nguyễn, tiêu biểu như: hoành phi, câu đối, bia đá, lư hương, tượng thờ, hương án, ngai thờ, bát bửu, chân đèn, ngựa gỗ, chuông đồng... Đặc biệt là tấm bia bát giác thời Lê dựng trên núi, phía sau đền Thượng, là tác phẩm nghệ thuật có giá trị cao, cung cấp nhiều thông tin về Thánh Gióng và phong tục tập quán, địa phương qua các thời kỳ. Hội đền Sóc là sự tồn tại của nhiều lớp văn hoá - tín ngưỡng được gìn giữ và lưu truyền đến ngày nay. Đó là tín ngưỡng thờ các hiện tượng tự nhiên - dấu chân ông Đổng - vị thần sấm sét, mưa dông, tín ngưỡng thờ thần mặt trời, tín ngưỡng phồn thực, tín ngưỡng thờ cây đá - một tín ngưỡng cổ xưa của người Việt... Hội đền Sóc được tổ chức từ ngày mùng 6 - 7 tháng Giêng (kỷ niệm ngày hoá của Thánh Gióng) ẩn chứa nhiều giá trị văn hóa đa diện, độc đáo, tiêu biểu của dân tộc. Năm 2010, UNESCO đã vinh danh Hội Gióng là Di sản văn hoá phi vật thể đại diện của nhân loại. Với giá trị đặc biệt của di tích, di tích kiến trúc nghệ thuật Đền Sóc (huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội) được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt (tại Quyết định số 2408/QĐ-TTg ngày 31/12/2014)./ Nguồn Cục di sản văn hóa .

Hà Nội 1514 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Đình Tây Đằng

Di tích đình Tây Đằng nằm trên địa bàn thôn Đông, thị trấn Tây Đằng, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội. Đình Tây Đằng thờ Tam vị Tản Viên Sơn Thánh, là vị thần đứng đầu hàng Tứ bất tử trong thần điện Việt, là anh hùng văn hóa, anh hùng dân tộc, anh hùng trị thủy được nhân dân tôn là Nam Thiên Thánh Tổ, được các triều vua sắc phong là Thượng đẳng tối linh thần. Đình Tây Đằng, một di tích tiêu biểu vào bậc nhất trong các ngôi đình cổ nổi danh toàn quốc với câu ca “Cầu Nam, chùa Bắc, đình Đoài”. Đình nằm trên một khu đất đẹp, cao ráo giữa trung tâm của làng Tây Đằng, tựa lưng phía sau là khu cư trú của thôn Đông, phía trước hướng về núi Ba Vì (Tản Viên) hùng vĩ. Đình Tây Đằng bao gồm các hạng mục chính: Cổng đình, hồ bán nguyệt, cổng nghi môn, tả hữu mạc, tòa đại đình và giếng đình. Các hạng mục kiến trúc này được hòa quyện với nhau trong khuôn viên di tích đã có tường bao xung quanh, với các nếp nhà cao thấp, mái đao cong cổ kính xen nhau tạo nên. Đình Tây Đằng với kết cấu mặt bằng theo hình chữ nhất, phía trước nhìn thẳng ra núi Tản Viên. Đình quay hướng Nam. Đình Tây Đằng có độ lớn vừa phải, mang hình chữ nhất, ba gian hai chái lớn, lợp bằng loại ngói dạng ngói mũi hài. Qua khảo sát tổng thể khung vì kiến trúc đình Tây Đằng được làm bằng loại gỗ mít. Chất liệu này có lẽ ảnh hưởng từ chùa, để như muốn nhắc tới một miền đất tâm linh thánh thiện, trong sáng, giác ngộ… Về kết cấu mặt bằng, tòa đại đình được kết cấu mặt bằng với 6 hàng chân cột gỗ, tổng số 48 cột lớn nhỏ đỡ khung vì kiến trúc. Tương ứng với các gian là 4 bộ vì chính đỡ mái được thiết kế thống nhất theo kiểu “giá chiêng”. Hậu cung là Gian thờ gác lửng sau hai cột cái, ở gian chính giữa. Di tích đình Tây Đằng được Bộ VH,TT&DL xếp hạng di tích Quốc gia đặc biệt theo quyết định số 2383/QĐ – UBND ngày 29/03/2013. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Ba Vì , thành phố Hà Nội.

Hà Nội 1557 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Đền Phù Đổng

Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật đền Phù Đổng (Khu di tích lịch sử đền Phù Đổng, Khu di tích lịch sử đền Gióng) nằm trên địa bàn xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội, đã được Thủ tướng Chính phủ quyết định xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt năm 2013. Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật đền Phù Đổng gồm 8 điểm di tích thành phần, phân bố trên địa bàn 3 thôn của xã Phù Đổng, với tổng diện tích 60.343,7m2. 1. Đền Thượng (đền Phù Đổng Thiên Vương), là ngôi đền chính, quay hướng Nam, trông ra đê sông Đuống. Đền gồm các hạnh mục: thủy đình, cổng ngũ môn (năm cửa), phương đình, tiền đường, trung đường, hậu cung, tả hữu mạc, nhà giám, nhà ba gian, nhà khách, nhà hiệu. Thủy đình nằm ở giữa ao đình, phía trước đền, có mặt bằng hình vuông, với hai tầng, 8 mái, lợp ngói mũi hài. Các bộ vì có kết cấu chồng rường giá chiêng, hoành mái được phân khoảng theo kiểu thượng tam, hạ tam. Hệ mái tì lực trên 4 hàng chân cột. Cổng ngũ môn (năm cửa) với 3 cửa chính và 2 cửa phụ, mang dáng dấp đồ sộ như một cổng thành, được xây bằng gạch, các khuôn cửa đều có cấu tạo dạng vòm cuốn, cánh cửa kiểu thượng song, hạ bản. Trên cổng là tòa nhà kiểu 2 tầng 8 mái. Phương đình là tòa nhà 2 tầng 8 mái, lợp ngói mũi hài, có mặt bằng nền hình vuông, bờ nóc, bờ dải đắp hình hoa chanh, hoa văn hình học, 8 góc đao gắn hình lá lật. Hệ khung mái được đỡ bởi 4 hàng cột, kết cấu vì dạng thượng rường, hạ cốn. Tiền tế gồm 5 gian, 2 dĩ, tường hồi bít đốc, mái kiểu chồng diêm hai tầng, hệ mái tì lực trên 6 bộ vì gỗ, trong đó, 4 bộ vì giữa được kết cấu theo dạng thượng đinh, hạ kẻ, 2 vì hồi kiểu thượng giá chiêng, hạ cốn, bẩy hiên. Trung tế gồm 5 gian, 2 dĩ, mái lợp ngói mũi hài, bờ nóc, bờ dải đắp kiểu bờ đinh, hai đầu hồi xây tường bao, mặt trước và mặt sau để trống, bộ khung gồm 6 bộ vì gỗ, tì lực trên 6 hàng chân cột, 4 vì giữa kiểu thượng đinh, hạ kẻ, 2 bộ vì bên kiểu thượng giá chiêng, hạ cốn, bẩy hiên. Hậu cung có mặt bằng kiến trúc dạng chữ Công, gồm ngoại cung, ống muống và hậu cung. Tả mạc, hữu mạc là 2 dãy nhà, mỗi bên 9 gian, tường hồi bít đốc, mái lợp ngói mũi hài, bộ khung mỗi tòa gồm 10 bộ vì kiểu thượng giá chiêng, hạ cốn, bẩy hiên. Nhà khách có mặt bằng hình chữ Nhất, tường hồi bít đốc, hệ thống cửa bức bàn, hai đầu bờ nóc đắp rồng lá cách điệu. Bộ khung gồm 4 bộ vì, được kết cấu theo kiểu chồng rường giá chiêng, mái phân khoảng hoành kiểu thượng tam, hạ ngũ. Hệ khung mái tì lực trên 3 hàng chân cột. Nhà giám có mặt bằng dạng chữ U, gồm cung chính và 2 dãy nhà ngang hai bên. Cung chính gồm 5 gian, 2 dĩ, mái lợp ngói mũi hài, 6 bộ vì gỗ được kết cấu theo kiểu thượng giá chiêng, hạ kẻ ngồi, bẩy hiên, tì lực trên 6 hàng chân cột. 2. Đền Hạ, còn gọi là đền Mẫu, quay hướng Tây, tọa lạc ở vị trí ngoài đê sông Đuống, bao gồm các hạng mục: nghi môn, tả - hữu mạc và kiến trúc chính dạng chữ Tam, gồm tiền tế, trung tế và hậu cung. Nghi môn gồm 3 cửa dạng vòm cuốn. Trên cửa chính (giữa) xây tòa nhà 8 mái. Tả - hữu mạc, mỗi bên 5 gian, 2 dĩ, tường hồi bít đốc, mái lợp ngói mũi hài, bộ khung mỗi tòa gồm 6 bộ vì gỗ, được kết cấu kiểu thượng giá chiêng, hạ cốn, tì lực trên 6 hàng chân cột. Tiền tế gồm 5 gian, 2 chái, bốn mái với 4 đao cong hình lá lật, các bờ guột được gắn những đầu kìm cách điệu, hai đốc mái đắp hai đấu hình chữ Nhật, bên cạnh gắn các đầu rồng chầu vào bờ nóc, mái lợp ngói mũi hài. Trung tế gồm 5 gian, 2 chái, có hình thức kết cấu kiến trúc giống tòa tiền tế. Hậu cung gồm 5 gian, 2 dĩ, tường hồi bít đốc, mái lợp ngói mũi hài, bộ khung gồm 6 bộ vì gỗ, được kết cấu theo kiểu thượng chồng rường, hạ kẻ, tì lực trên 6 hàng chân cột, hoành mái được phân khoảng kiểu thượng tam, hạ tứ. 3. Miếu Ban, nằm cách đền Thượng khoảng 200m, ở phía bên trong đê sông Đuống, gồm nghi môn, tả - hữu vu, sân, kiến trúc chính dạng chữ Đinh. Nghi môn gồm 2 tầng, với 4 mái kiểu chồng diêm, lợp ngói mũi hài. Chính giữa nóc mái đắp hình mặt trời, bờ nóc, bờ dải trang trí hình hoa chanh, 4 góc đao đều gắn đầu rồng cách điệu. Tầng dưới có tường hồi bít đốc dạng tay ngai, mái lợp ngói ta. Nhà giải vũ mỗi bên 2 gian, với 3 bộ vì, được kết cấu kiểu thượng giá chiêng, hạ bẩy, hoành mái được phân khoảng kiểu thượng nhị, hạ tam. Tòa tiền tế gồm 7 gian, tường hồi bít đốc dạng tay ngai, mái lợp ngói mũi hài, bờ nóc đắp trang trí hình hoa chanh, chính giữa đắp bức cuốn thư có hình hổ phù, hai đầu hồi đắp hai đấu hình chữ Nhật, ở vị trí đầu kìm gắn hai đầu rồng quay về phía giữa bờ nóc. Bộ khung gồm 8 bộ vì, được kết cấu kiểu thượng rường, hạ kẻ suốt hoặc thượng rường, hạ cốn, tì lực trên trên 8 hàng cột. Miếu là một nếp nhà 1 gian, 2 chái, ở phía sau tiền tế, hợp với tiền tế thành một kiến trúc có mặt bằng hình chữ Đinh. Toà này được xây theo kiểu tường hồi bít đốc, hệ khung có 2 bộ vì, được kết cấu kết dạng thượng ván mê, hạ cốn, tì lực trên 2 hàng chân cột. 4. Đình Hạ mã, nằm phía trái đền Thượng, có diện tích khoảng 200m2. Hiện nay, kiến trúc này chỉ còn phần móng, đình đã bị huỷ hoại do không được tu sửa. 5. Cố viên, còn gọi là vườn rau, hay vườn cà, nằm trên thềm đất bãi sông, cách đền Hạ khoảng 500m. Tương truyền, mẹ Gióng ra vườn này hái rau, rồi ướm vào vết chân người khổng lồ, về nhà mang thai, sinh ra Gióng. Tại đây có 1 ngôi miếu nhỏ, với kết cấu 2 tầng, 8 mái, 4 mặt để thông. Bên cạnh có hòn đá hình thù đặc biệt, với nhiều vết lồi, lõm, được coi là vết chân người khổng lồ và một tấm bia mang dòng chữ “Đổng Thiên Vương Thánh Mẫu Cố trạch”. 6. Giá ngự, mới được phục dựng vào đầu thế kỷ XX, nằm ở phía bên kia đê, thuộc khoảng giữa đền Thượng và đền Hạ. Cổng vào Giá ngự có 2 trụ biểu cao khoảng 6m, đỉnh trụ đắp tượng nghê, phía dưới đắp đấu hình vuông, các ô lồng đèn đắp tứ linh, tứ quý, thân trụ bổ khung đắp câu đối. 7. Khu đánh cờ Đống đàm, là một bãi đất rộng, nằm cách đền Thượng khoảng 3 km, thuộc thôn Phù Đổng. Đây là nơi diễn ra trận đánh giặc Ân lần thứ nhất của Gióng trong hội. 8. Bãi đánh cờ - Soi bia, thuộc địa phận thôn Phù Đổng, là nơi diễn ra trận đánh giặc Ân lần thứ hai của Gióng trong hội. Nguồn Cục di sản văn hóa.

Hà Nội 1485 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Đền Hai Bà Trưng

Đền Hai Bà Trưng còn gọi là đền Hạ Lôi, thuộc thôn Hạ Lôi, xã Mê Linh, huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội. Đền thờ hai vị liệt nữ - anh hùng dân tộc là Trưng Trắc và Trưng Nhị - những người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa đánh đổ ách thống trị của nhà Đông Hán vào năm 40 - 43 (sau Công nguyên), giành lại nền độc lập, tự chủ dân tộc. Nằm trên một khu đất cao, rộng, nhìn ra đê sông Hồng, với diện tích 129.824.0m2, đền gồm các hạng mục: cổng đền, nhà khách, nghi môn ngoại, nghi môn nội, gác trống, gác chuông, nhà tả - hữu mạc, đền thờ Hai Bà Trưng, đền thờ thân phụ - thân mẫu Hai Bà, đền thờ thân phụ, thân mẫu ông Thi Sách, đền thờ các nữ tướng triều Hai Bà Trưng, đền thờ các nam tướng triều Hai Bà Trưng, nhà bia lưu niệm Hộp thư bí mật của đồng chí Trường Chinh, hồ bán nguyệt, hồ mắt voi, suối vòi voi, hồ tắm voi, thành cổ Mê Linh... - Cổng đền: được xây 2 tầng, tầng dưới tạo 3 cửa vòm cuốn, tầng trên xây kiểu chồng diêm, với 2 tầng 8 mái. Bờ nóc đắp hình đôi rồng chầu mặt trời, phần cổ diêm trang trí hình hoa 4 cánh, các góc đao đắp hình lá hỏa, góc cột đắp hình hoa cúc dây, thân cột hình hoa lá. - Nhà khách: gồm 7 gian, xây kiểu tường hồi bít đốc. - Nghi môn ngoại: xây kiểu cột đồng trụ hay còn gọi là tứ trụ. Đỉnh trụ trang trí tứ phượng theo kiểu lá lật, các ô lồng đèn phía dưới trang trí tứ linh. Hệ thống tứ trụ phân cách thành một cổng chính và hai cổng phụ. - Nghi môn nội: gồm một gian, hai dĩ, với bờ nóc, bờ dải đắp hình hoa chanh, hai bên đầu hồi đắp hai đầu rồng, phần khúc nguỷnh đắp hai con nghê gắn sứ trong tư thế chầu vào nhau, bốn góc đao uốn cong, bộ vì đỡ mái làm kiểu “thượng chồng rường, hạ kẻ chuyền”. - Gác chuông, gác trống: gác trống - gác chiêng đều được làm theo kiểu bốn mái uốn cong, bờ dải đắp hình hoa chanh, hai bên đầu hồi đắp hình hổ phù, tầng trên mở bốn cánh cửa quay về bốn hướng... - Đền thờ Hai Bà Trưng: + Tòa tiền tế gồm 7 gian, 2 dĩ, xây theo kiểu tường hồi bít đốc, bờ nóc đắp kiểu bờ đinh, hai đầu đắp hình con đấu, đầu hai bờ dải đắp hình phượng vũ. Phía trước tiền tế có đôi voi đá trong tư thế quỳ chầu vào nhau. Hai cổng nhỏ với mái làm theo kiểu “chồng diêm”, mái uốn cong. Nối hai cổng nhỏ là hai bức “cánh phong”, phía trước có cột trụ biểu, đỉnh trụ hình trái giành, các ô lồng đèn đắp nổi tứ linh. + Nhà trung tế gồm 5 gian, 2 dĩ, xây kiểu tường hồi bít đốc, bờ nóc đắp hình hoa chanh, chính giữa đắp hổ phù, hai mái kiểu chồng diêm… phía trước trung tế có lư hương đá... + Nối với gian giữa trung tế là hậu cung - một nếp nhà ba gian, một dĩ, được xây dọc, hợp với trung tế tạo thành một kiến trúc tổng thể dạng chữ Đinh. Bộ khung đỡ mái hậu cung gồm bốn bộ vì mang kết cấu “thượng giá chiêng hạ chồng rường, và “thượng giá chiêng hạ cốn”. Các hàng cột có đường kính 35cm, trên cốn nách chạm hình chữ Thọ, hoa lá. - Đền thờ thân phụ, thân mẫu Hai Bà Trưng: có mặt bằng dạng chữ Đinh, gồm tiền tế và hậu cung. Tiền tế gồm nhà 5 gian, xây theo kiểu tường hồi bít đốc, bờ nóc đắp lưỡng long chầu nguyệt, bờ dải kiểu bờ đinh. Hậu cung gồm 1 gian, 2 dĩ. - Đền thờ thân phụ, thân mẫu ông Thi Sách: tọa lạc về phía bên trái đền thờ Hai Bà Trưng. Đền quay hướng Tây Nam, có mặt bằng kiến trúc dạng chữ Đinh, gồm tiền tế và hậu cung. - Đền thờ các Nữ tướng thời Hai Bà Trưng: có mặt bằng dạng chữ nhất, gồm 5 gian, xây kiểu tường hồi bít đốc. Hai gian bên trổ cửa hình chữ Thọ để lấy ánh sáng cho di tích. Hệ khung đỡ mái gồm 6 bộ vì được kết cấu theo dạng “thượng giá chiêng, trung kẻ truyền, hạ bẩy hiên, hậu gối tường”. Chính giữa ban thờ xây bệ cao bài trí ngai và bài vị, phía trước bài trí hương án. - Đền thờ các tướng Nam thời Hai Bà Trưng: quay hướng Đông Bắc, có mặt bằng kiến trúc dạng chữ Nhất, gồm 5 gian, tường hồi bít đốc, với 6 bộ vì được kết cấu theo dạng “thượng giá chiêng, trung kẻ truyền, hạ bẩy hiên, hậu gối tường”. Chính giữa ban thờ xây bệ cao bài trí khám thờ và bài vị. - Nhà tả/ hữu mạc: là nếp nhà 7 gian, xây kiểu tường hồi bít đốc, bờ nóc, bờ dải đắp hình hoa chanh, hệ vì đỡ mái được kết cấu theo dạng “thượng giá chiêng chồng rường, trung kẻ, hạ bẩy”. Phía trước hiên dãy nhà bên phải đền bài trí 8 con voi, ngựa, sư tử, bên trong trưng bày một số di vật khai quật tại thành cổ Mê Linh. - Thành cổ Mê Linh: hiện vẫn còn dấu vết thành cổ đắp đất, hình “con rắn uốn mình”, dài 1.750m, với chỗ rộng nhất là 500m, chỗ hẹp nhất là 200m, đắp bằng đất luyện, dày khoảng 1 ngũ (khoảng 2m), cao 1 trượng (khoảng 4m). Bao ngoài bờ thành là quách dày 2 ngũ (khoảng 4m), cao 1 trượng (khoảng 4m). Khoảng cách giữa thành và quách là đường “thông cù” rộng 2 ngũ (khoảng 4m). Do có con đường “thông cù” này mà thành có tên là “thành Ống”. Vòng ngoài cùng là hào cắm chông tre. Tương truyền, xưa kia trong thành có cung điện của Trưng Vương, ngoài thành có các trại quân bộ, quân thủy. Hiện nay còn di tích các đồn quân của nữ tướng Lự Nương và nam tướng Bạch Trạch ở phía trước đền Hạ Lôi, thuộc xã Tráng Việt. Đây chính là đất Phấn Lộ, huyện Chu Diên, nơi Hai Bà Trưng cho đắp đô thành. Thành cổ đã được khai quật khảo cổ và thu được nhiều hiện vật có giá trị. - Nhà bia lưu niệm Hộp thư bí mật của đồng chí Trường Chinh: được xây kiểu bốn mái, các góc mái uốn cong, chính giữa gắn tấm bia lưu niệm có nội dung: ‘‘Nơi đây có cây lụa già thân rỗng là hộp thư bí mật của đồng chí Trường Chinh - Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam những năm 1943 - 1945, đồng chí Trường Chinh đã lấy đền thờ Hai Bà Trưng là một trong những nơi hội họp bí mật để chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa giành chính quyền Thủ đô Hà Nội ngày 19/8/1945’’. - Mắt voi, vòi voi, hồ tắm voi, hồ bán nguyệt: Tương truyền khu đền này được xây trên mảnh đất có thế (hình) đầu con voi nên có các tên gọi trên. Khu vực này hiện nay được kè đá, gạch, xung quanh trang trí hoa sen bằng đá xanh tạo cảnh quan cho khu di tích. Đền Hai Bà Trưng còn là nơi lưu giữ nhiều di vật quý, đa dạng, phong phú về cả chủng loại và chất liệu như: gỗ, đá, đồng, sứ, giấy,… trong đó di vật gỗ chiếm đa số. Các di vật có niên đại tập trung vào triều Nguyễn như hoành phi, hương án, đại tự, câu đối, khám, kiệu, tượng thờ…được chạm khắc công phu, tinh xảo, với các đề tài trang trí: rồng mây, hoa lá, văn triện, hổ phù… Đây là những tác phẩm nghệ thuật thể hiện bàn tay tài hoa, khéo léo và tinh tế của ông cha ta trong nghệ thuật tạo tác, phản ánh nhiều mặt của đời sống xã hội và những ước vọng về cuộc sống tốt đẹp hơn. Di tích đã được Thủ tướng Chính phủ đã quyết định xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt (Quyết định số 2383/QĐ -TTg, ngày 09 tháng 12 năm 2013). Nguồn Cục di sản Văn hóa .

Hà Nội 1757 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Đền Hát Môn (thờ Hai Bà Trưng)

Đền Hát Môn, còn gọi là đền Quốc tế, đền Hai Bà Trưng, thuộc địa bàn xã Hát Môn, huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội. Theo một số tài liệu ghi lại, vùng Hát Môn là nơi Hai Bà Trưng tổ chức hội quân sĩ sau khi hội tại thành Phong Châu. Đây cũng là nơi tuẫn tiết của Hai Bà Trưng khi cuộc khởi nghĩa thất bại. Tương truyền, đền Hát Môn được khởi dựng sau khi Hai Bà Trưng hoá sinh vào cõi bất diệt. Đền quay hướng Tây Nam gồm các công trình kiến trúc chính: quán Tiên, miếu Tạm ngự, nghi môn, nhà phương đình, đàn Thề, tam quan, tiền tế, trung đường, hậu cung, tả hữu mạc, gò Giấu ấn, nhà tưởng niệm bà Nguyễn Thị Định, nhà khách, khu phụ… Quán Tiên: là một kiến trúc nhỏ, xây bằng gạch, cửa mở về hướng đền kiểu vòm cuốn, có mái đao cong, nền cao hơn mặt đường 45cm, tạo ba bậc lên nền quán. Theo cuốn thần tích của làng chép lại, thì nơi đây vốn là quán hàng bán bánh trôi nước. Khi nghĩa quân của Hai Bà Trưng hội tại đàn Thề, bà hàng bánh trôi đã dâng cả gánh bánh để Hai Bà ăn trước khi ra trận dẹp giặc. Ngôi quán nhỏ này được dân làng dựng lên để tưởng nhớ công ơn đối với bà hàng bánh trôi. Miếu Tạm ngự: nằm phía trước bên phải đền chính, có mặt bằng dạng chữ Đinh, gồm tiền tế và hậu cung. Nhà tiền tế ba gian, kiểu tường hồi bít đốc, mái lợp ngói mũi, bờ nóc đắp kiểu bờ đinh. Các bộ vì kết cấu kiểu vì “giá chiêng, hạ kẻ bẩy hiên”. Toà hậu cung ba gian, xây nối liền với tiền tế, hệ vì đỡ mái có kết cấu tương tự nhà tiền tế. Phía trước mở hệ thống cửa kiểu bức bàn. Công trình kiến trúc này là nơi tạm ngự của Thánh Bà. Khi mùa nước lũ hàng năm, khu đền chính bị ngập, dân làng rước tượng, ngai thờ và toàn bộ đồ thờ tự của đền về đền Tạm ngự, hết mùa nước lũ lại rước Thánh hoàn cung. Nghi môn ngoại: có niên đại khởi dựng vào thời Nguyễn, được làm theo kiểu tứ trụ xây gạch, đỉnh trụ đắp nổi hình tứ phượng, lân. Phần lồng đèn đắp nổi hình tứ linh (long, ly, quy, phượng). Thân trụ có câu đối chữ Hán. Từ nghi môn theo triền đê xuống là khu đền chính, bên phải có hồ nước, giữa hồ có nhà thủy đình (phương đình) mới xây dựng gần đây. Bên trái đường trên mặt đê là nhà tưởng niệm nữ tướng - nữ anh hùng Nguyễn Thị Định. Đàn Thề: được xây dựng mới ở phía trước cổng tam quan, cột đá thề được tạo kiểu trụ hình tháp, bốn mặt có khắc chữ Hán, đặt trên nền cao hơn mặt sân 65cm, trổ năm bậc lên, mặt hướng vào đền khắc nội dung lời thề của Hai Bà Trưng. Bao quanh đàn thề là tường bao lửng, phía ngoài đặt các tượng voi và ngựa bằng đá. Nghi môn: gồm ba gian kiểu chồng diêm, hai tầng mái. Ba cửa vào đền làm kiểu ván bưng. Các bộ vì đỡ mái được kết cấu theo dạng “giá chiêng, hạ kẻ, bẩy hiên”, mái lợp ngói mũi, nền lát gạch Bát. Nhà bia: hai nhà bia được xây ở vị trí phía ngoài dãy nhà tả/ hữu mạc, trên nền cao hơn mặt sân 30cm, kiểu phương đình, mái lợp ngói ta, bốn đầu đao tạo cong vút. Tả/ hữu mạc: mỗi dãy năm gian chạy dọc theo sân đền, kiểu tường hồi bít đốc, mái lợp ngói mũi, các bộ vì đỡ mái kết cấu dạng “giá chiêng, hạ kẻ”, được đặt lên tường bổ trụ trốn một hàng cột. Nhà đại bái: gồm năm gian, xây gạch kiểu tường hồi bít đốc, các bộ vì đỡ mái kết cấu kiểu “thượng giá chiêng, chồng rường, cốn mê, bẩy hiên”, hoành mái phân “thượng tam - hạ tứ”, mái lợp ngói ri, nền lát gạch Bát. Trang trí trên kiến trúc tập trung dày đặc ở đầu dư, cốn, xà nách, bẩy, ván gió dưới dạng chạm nổi, chạm lộng …, với các đề tài rồng, tứ linh. Đây là sản phẩm nghệ thuật từ thời Lê Trung hưng đến thời Nguyễn. Gian giữa treo hoành phi, các cột cái đều treo câu đối ca ngợi công đức Hai Bà. Tiền tế: gồm năm gian, xây gạch kiểu tường hồi bít đốc, nền nhà cao hơn mặt sân 30 cm, xung quanh bó gạch vỉa, các bộ vì kết cấu“thượng rường giá chiêng, hạ bẩy hiên”. Hậu cung: gồm ba gian, xây trên nền cao hơn mặt sân, kiểu tường hồi bít đốc, mái lợp ngói mũi. Phần mái của tòa này được nối với tòa trung đường qua phần mái của nhà cầu. Bộ khung gỗ đỡ mái gồm bốn bộ vì kèo dạng “chồng rường”. Trang trí trên kiến trúc này chủ yếu là phượng. Gian giữa cung cấm được tạo một khám gỗ bưng kín bằng các ván gỗ, là nơi thờ Hai Bà. Nhà khách: gồm năm gian, kiểu tường hồi bít đốc. Các bộ vì đỡ mái tạo kiểu “thượng giá chiêng, hạ kẻ, bẩy hiên” cột trốn. Gò Giấu Ấn: ở phía sau hậu cung đền. Tương truyền, đây là dấu tích nơi Hai Bà Trưng cất giấu ấn tín trước lúc rút quân hoá thân về cõi vĩnh hằng ở cửa sông Hát. Hiện nay, gò Giấu Ấn được bó vỉa, xây tường gạch bao quanh. Đền Hát Môn còn bảo lưu được nhiều di vật, cổ vật có giá trị về văn hoá, lịch sử, gồm: 293 di vật, cổ vật với nhiều chủng loại và phong phú chất liệu, như: gỗ, đá, đồng, sứ, giấy, kim loại... có niên đại trải dài từ thời Lê, Tây Sơn, Nguyễn đến nay. Hội đền Hát Môn được tổ chức hằng năm vào ngày 6 tháng 3 (Âm lịch), với các nghi lễ và trò diễn dân gian thu hút đông đảo nhân dân địa phương và khách thập phương. Đặc biệt, tục làm bánh trôi và lễ rước bánh trôi dâng Hai Bà đã trở thành một sinh hoạt văn hóa độc đáo của vùng đất này. Trong thời kỳ chống Pháp và chống Mỹ, Đền Hát Môn được chọn làm nơi sinh hoạt, luyện tập của dân quân du kích địa phương. Những sự kiện lịch sử và hệ thống di tích quanh vùng sông Hát góp phần làm giàu thêm nội dung và tôn cao giá trị của đền thờ Hai Bà Trưng. Với những giá trị đặc biệt, di tích Đền Hát Môn (huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội) đã được Thủ tướng Chính phủ quyết định xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt (tại Quyết định số 2383/QĐ-TTg ngày 09/12/2013). Nguồn Cục di sản văn hóa .

Hà Nội 1864 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Đền Ngọc Sơn

Đền Ngọc Sơn là một ngôi đền thờ nằm trên đảo Ngọc của hồ Hoàn Kiếm ở Hà Nội, Việt Nam. Đây cũng là một di tích quốc gia đặc biệt của Việt Nam được xếp hạng đợt 4. Đền hiện nay được xây dựng từ thế kỷ 19. Lúc đầu được gọi là chùa Ngọc Sơn, sau đổi gọi là đền Ngọc Sơn vì trong đền chỉ thờ thần Văn Xương Đế Quân là ngôi sao chủ việc văn chương khoa cử và thờ Trần Hưng Đạo, vị anh hùng có công đánh thắng quân Nguyên thế kỷ 13. Khởi đầu, khi vua Lý Thái Tổ dời đô ra Thăng Long đặt tên ngôi đền đã có tại đây là Ngọc Tượng, đến đời nhà Trần đổi tên là Ngọc Sơn. Thời Trần, ngôi đền được dùng để thờ những người anh hùng liệt sĩ đã hy sinh trong kháng chiến chống Nguyên-Mông. Về sau lâu ngày đền ấy sụp đổ. Đến thời Vĩnh Hựu nhà Lê (1735 - 1739), chúa Trịnh Giang đã dựng cung Khánh Thuỵ và đắp hai quả núi đất ở trên bờ phía Đông đối diện với Ngọc Sơn gọi là núi Đào Tai và Ngọc Bội. Cuối đời nhà Lê, khi họ Trịnh bị đánh đổ, cung Khánh Thuỵ bị Lê Chiêu Thống cho người phá hủy một phần. Ngày nay sau nhiều năm lịch sử diện tích Hồ Hoàn Kiếm bị đô thị hoá thu nhỏ lại gấp nhiều lần. Chỉ còn lại chứng tích cũ như Phố Cầu Gỗ khi xưa là có một cây Cầu Gỗ nằm trên con Phố Cầu Gỗ ngày nay để người dân đi lại. Cung Khánh Thụy sau khi bị đổ nát một phần nhân dân trong Làng Tả Khánh lại cùng nhau dựng lên thờ tự lại trên nền đất lịch sử đó và có tên mới là Đền Khánh Thuỵ cho đến ngày nay sâu trong ngõ Hàng Hành thuộc phường Hàng Trống, quận Hoàn Kiếm. Trong Đền Khánh Thuỵ vẫn còn lưu giữ lại một bia đá có các thông tin kết nối với di tích Ngọc Sơn khi xưa trên nền đất cũ. Cung Khánh Thuỵ và đền Khánh Thuỵ ngày nay đều thuộc quần thể di tích Ngọc Sơn lịch sử do vậy mà vị trí Đền Khánh Thuỵ luôn quay cửa Cung về phía Đền Ngọc Sơn còn lưng thì quay ra phố Hàng Hành nên nhiều người đã không được biết đến và chưa có phương án bảo tồn cùng quần thể Ngọc Sơn. Một nhà từ thiện tên là Tín Trai, nhân một phần nền cung cũ đã lập ra một ngôi chùa gọi là chùa Ngọc Sơn. Bài ký "Đền Ngọc Sơn đế quân" được soạn năm 1843 vào lúc nhân dịp sửa đền Quan đế thành chùa Ngọc Sơn có viết: "...Hồ Tả Vọng tên cũ gọi hồ Hoàn Kiếm là một danh thắng đất Kinh kỳ xưa. Phía bắc mặt hồ, một gò đất nổi lên rộng khoảng ba bốn sào, tương truyền là chỗ đài câu cá thời cuối Lê. Trước đây, ông Tín Trai làng Nhị Khê nhân có đền Quan Đế tại đấy bèn mở rộng sửa sang thêm gọi là chùa Ngọc Sơn...". Ít năm sau chùa lại nhường cho một hội từ thiện đổi làm đền thờ Tam Thánh. Hội này đã bỏ gác chuông, xây lại các gian điện chính, các dãy phòng hai bên, đặt tượng Văn Xương đế quân vào thờ và đổi tên là đền Ngọc Sơn. Theo bài ký "Sửa lại miếu Văn Xương", thì "...Hiện nay đền thờ mới đã hoàn thành, phía trước kề bờ nước, làm đình Trấn Ba, ngụ ý là cột trụ đứng vững giữa làn sóng văn hóa. Bên tả, phía đông cầu Thê Húc, dựng Đài Nghiên. Lại về phía đông trên núi Độc Tôn, xây Tháp Bút, tượng trưng cho nền văn vật..." Năm Tự Đức thứ mười tám (1865), nhà nho Nguyễn Văn Siêu đứng ra tu sửa lại đền. Đền mới sửa đắp thêm đất và xây kè đá xung quanh, xây đình Trấn Ba, bắc một cầu từ bờ Đông đi vào gọi là cầu Thê Húc. Nguồn Sở Văn hóa và thể thao thành phố Hà Nội

Hà Nội 1935 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Gò Đống Đa

Gò Đống Đa (còn gọi là Công viên Văn hóa Đống Đa) thuộc phường Quang Trung, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội. Sử sách cũ ghi lại và theo hồi cố của các cụ cao niên ở làng Thịnh Quang, Gò Đống Đa xưa kia nằm tại khu vực gần phía ngoài Kinh đô Thăng Long, thuộc đất làng Khương Thượng, huyện Quảng Đức, phủ Thuận Thiên. Đây cũng là một trong các bãi chiến trường diễn ra trận đại phá quân Thanh của Hoàng đế Quang Trung mùa xuân năm Kỷ Dậu (1789). Hoàng đế Quang Trung - Nguyễn Huệ Quang Trung Hoàng đế (1753 - 1792) hay Bắc Bình Vương, tên thật là Nguyễn Huệ, sau đổi tên thành Nguyễn Quang Bình - là vị Hoàng đế thứ hai của Nhà Tây Sơn, sau khi Thái Đức Hoàng đế Nguyễn Nhạc thoái vị và nhường ngôi cho Ông. Quang Trung không những là một vị tướng lĩnh quân sự xuất sắc, mà còn là nhà chính trị tài giỏi, đưa ra nhiều cải cách kinh tế, xã hội nổi bật trong lịch sử Việt Nam. Ông và hai người anh em được biết đến với tên gọi “Tây Sơn tam kiệt”, là những lãnh đạo của cuộc khởi nghĩa Tây Sơn, chấm dứt cuộc nội chiến phân tranh giữa nhà Trịnh (phía Bắc) và nhà Nguyễn (phía Nam), lật đổ hai tập đoàn phong kiến này cùng nhà Hậu Lê, chấm dứt tình trạng phân biệt Đàng Trong - Đàng Ngoài kéo dài suốt 2 thế kỷ. Ngoài ra, Quang Trung còn là người đánh bại các cuộc xâm lược Đại Việt của Xiêm La từ phía Nam, của Đại Thanh từ phía Bắc. Trong 20 năm liền đã trải qua hàng chục trận đánh lớn và chưa hề thua một trận. Đồng thời, khi ở cương vị Hoàng đế, Ông cũng tỏ rõ tài cai trị khi đề ra nhiều kế hoạch cải cách tiến bộ trong kinh tế, văn hóa, giáo dục, quân sự,... nhằm xây dựng đất nước và tiếp thu khoa học kỹ thuật hiện đại từ phương Tây. Cuộc đời và sự nghiệp của Hoàng đế Quang Trung - Nguyễn Huệ được các sử gia đánh giá là đã đóng góp quyết định vào sự nghiệp thống nhất đất nước của triều đại Tây Sơn. Công lao trị nước bình thiên hạ của ông được các bộ sử của nhà Hậu Lê và nhà Nguyễn, các sử gia cận đại, hiện đại đánh giá rất cao. Khi Ông mất, nhân dân nhiều nơi đã xây lăng, lập đền thờ, dựng tượng đài và bảo tàng để tưởng nhớ công lao của Ông. Chiến dịch Ngọc Hồi - Đống Đa, giải phóng Kinh thành Thăng Long: Về di tích lịch sử Gò Đống Đa, hiện có rất nhiều tài liệu và các công trình nghiên cứu của các chuyên gia và các nhà khoa học về những sự kiện đã từng diễn ra tại đây và các chiến trường phụ cận. Chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa nói chung và chiến thắng Đống Đa nói riêng mùa xuân năm Kỷ Dậu (1789) là một trong những trận chiến chống ngoại xâm nổi tiếng nhất trong lịch sử Việt Nam và được các nhà nghiên cứu Việt Nam đánh giá là chiến công oanh liệt nhất của Hoàng đế bách chiến bách thắng Quang Trung - Nguyễn Huệ. Chiến thắng này đã chặn đứng ý định xâm chiếm Đại Việt của nhà Thanh dưới thời Càn Long thịnh trị. Vì vậy, nói về giá trị đặc biệt của di tích này là nói đến giá trị lịch sử, về nghệ thuật quân sự đặc sắc với những bước tiến quân thần tốc, bất ngờ, táo bạo tạo lên chiến thắng vang dội, làm cho quân địch không kịp trở tay. Di tích Gò Đống Đa nguyên xưa là một trong những quả gò thuộc xứ Đống Đa. Trải qua năm tháng, trên các gò đống đó, cây cối mọc um tùm, nhiều nhất là cây đa nên nhân dân thường gọi những gò đống đó là gò Đống Đa. Địa danh có những gò đống đó gọi là xứ Đống Đa. Đến giữa thế kỷ XIX, các gò đống này vẫn còn y nguyên. Theo tấm bản đồ Hà Nội vẽ năm Tự Đức 26 (1873) thì chỉ còn 6 gò trong khu vực ghi là Đống Đa xứ. Trong khoảng đời Nguyễn và Pháp thuộc, những chiến tích lịch sử đó không được bảo vệ nên đã bị phá hoại dần, nhiều gò bị san bằng. Hiện nay chỉ còn lại hai gò được gọi là gò Đống Đa, tức gò thứ 13 lập thêm năm 1851 (trên gò có đền Trung Liệt nên gọi là gò Trung Liệt) và gò đống Thiêng (trong khu Thái Hà ấp, trên gò trước đây có chùa của làng Thịnh Quang, gọi là chùa Thiêng). Phía sau chùa Bộc, giáp chùa Đồng Quang còn gò Đầu Lâu nhưng đã bị phá từ lâu, nhân dân chỉ còn ghi nhớ vị trí và tên gò. Năm 2010, nhân Đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, di tích Gò Đống Đa đã được tu bổ, tôn tạo và xây mới một số hạng mục công trình với tổng diện tích hơn 22.120,8m2. Hiện tại, Gò Đống Đa bao gồm các hạng mục: Cổng, Gò Đống Đa, nghi môn, tượng đài Quang Trung, đền thờ Hoàng đế Quang Trung và các công trình phụ trợ. Một số di tích liên quan tới di tích Gò Đống Đa: * Chùa Bộc: Trong trận Đống Đa, chùa bị thiêu trụi (1789), năm 1792 được trùng tu lại trên nền cũ, làm nơi quy y cho vong hồn quân Thanh và được đổi tên là chùa Thiên Phúc. Tuy nhiên, nhân dân vẫn quen gọi là Chùa Bộc để chỉ xác giặc bị phơi ra khắp nơi (Bộc có nghĩa "phơi bày", ngôi chùa được xây dựng ngay nơi chiến địa mà quân thù chết phơi thây). Chùa có liên hệ mật thiết với chiến thắng Kỷ Dậu (1789) của quân Tây Sơn. Ngay phía trước chùa Bộc vẫn còn một cái hồ, được gọi là hồ Tắm Tượng, nơi đội hình voi của nghĩa quân Tây Sơn tắm sau khi hạ được đồn Khương Thượng. Sau lưng chùa có di tích Loa sơn, nơi tướng giặc Sầm Nghi Đống sau khi thất trận đã thắt cổ tự tử. Trong chùa còn có Thanh miếu - tức miếu thờ Sầm Nghi Đống cũng như quân lính nhà Thanh đã chết trong chiến trận. * Chùa Kim Sơn: Khu vực này trước kia là bãi tha ma, thi hài các chiến sĩ tử trận trong trận Đống Đa (1789) được đưa vào an táng tại nghĩa địa này. Đây cũng là nơi cầu siêu cho những linh hồn binh sĩ tử nạn trong chiến dịch Ngọc Hồi - Đống Đa, giải phóng Kinh thành Thăng Long vào mùa xuân năm Kỷ Dậu (1789). * Chùa Nam Đồng: Chùa Nam Đồng (có tên là Càn An tự), nằm đối diện với di tích Gò Đống Đa. Đây là một ngôi chùa cổ, hiện còn lưu giữ hai tấm bia có các niên đại 1621 (có nhắc đến xứ Đống Đa) và 1697, một quả chuông đúc năm 1812. Như vậy, địa danh này có trước khi xảy ra cuộc chiến năm 1789. Sau khi kết thúc chiến tranh, ngôi chùa này là một trong những chốn tâm linh hương khói cho những binh lính tử trận trong chiến dịch Ngọc Hồi - Đống Đa. Với giá trị đặc biệt nêu trên, Di tích lịch sử Gò Đống Đa đã được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là Di tích quốc gia đặc biệt tại Quyết định số 1820/QĐ-TTg ngày 24/12/2018./. Nguồn Cục di sản Văn hóa .

Hà Nội 1686 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch

Khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch thuộc địa phận phường Ngọc Hà, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội. Đây là nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh sống và làm việc lâu nhất trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Người (từ ngày 19 tháng 12 năm 1954 đến ngày 02 tháng 9 năm 1969), đồng thời là trụ sở làm việc của Trung ương Đảng và Nhà nước Việt Nam sau khi Cách mạng tháng Tám thành công (1945). Tổng diện tích Khu lưu niệm rộng hơn 10ha, gồm hệ thống nhà cửa, sân, vườn, thảm cỏ, ao cá, đường đi, trong đó nổi bật là 3 điểm di tích thành phần: Nhà 54, Nhà sàn của Bác và Nhà 67. Nhà 54 Chủ tịch Hồ Chí Minh từng ở và làm việc tại ngôi nhà này trong khoảng thời gian gần 4 năm (từ tháng 12 năm 1954 đến giữa tháng 5 năm 1958). Sau đó, Người chuyển sang ở ngôi nhà sàn, được xây dựng trong khu vườn Phủ Chủ tịch, nhưng Người vẫn trở về nơi đây để dùng cơm hàng ngày và khám sức khoẻ định kỳ. Bởi vậy, Nhà 54 vẫn là nơi gắn bó với cuộc sống thường nhật của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong suốt 15 năm cuối cùng của cuộc đời. Nhà 54 có ba phòng, phía giáp ao là phòng làm việc và cũng là nơi Người tiếp khách, ở giữa là phòng ăn, kế tiếp là phòng ngủ. Tại phòng ăn của Chủ tịch Hồ Chí Minh hiện đang trưng bày một bộ đồ ăn Người thường sử dụng hàng ngày. Trong phòng ngủ, đồ dùng sinh hoạt của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng thật đơn giản, như mọi người dân bình thường: một bộ bàn ghế để Người đọc sách ban đêm, một chiếc giường nhỏ đơn giản không kiểu cách, cầu kỳ, một chiếc tủ đựng quần áo - trong tủ chỉ có vài ba bộ quần áo Người mặc hàng ngày và bộ quần áo kaki Người dùng khi tiếp khách hoặc đi công tác... Tổng số tài liệu hiện vật ở trong Nhà 54 gần 400 đơn vị, riêng hiện vật thuộc chất liệu giấy đã có hơn 300 đơn vị. Có thể coi đây là những bằng chứng xác thực nhất, gây ấn tượng mạnh mẽ, xúc động nhất về một cuộc sống thường nhật hết sức thanh bạch, giản dị, nhưng ngăn nắp, khoa học của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nhà sàn của Bác Đây là nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh ở và làm việc về mùa hè, cũng là nơi Người họp, trao đổi công việc với các đồng chí trong Bộ Chính trị, cán bộ phụ trách các Bộ, ngành hoặc các địa phương, đặc biệt là cán bộ, chiến sĩ miền Nam ra miền Bắc chữa bệnh và công tác. Tầng trên của Nhà sàn có một phòng làm việc và một phòng ngủ của Người. Phòng làm việc có đặt một bàn, một ghế, một giá sách. Ngăn dưới cùng của giá sách là chiếc máy chữ, được Chủ tịch Hồ Chí Minh sử dụng hàng ngày như một cây bút. Tại phòng ngủ, tiện nghi sinh hoạt của Người thật đơn giản: chiếc giường gỗ trải chiếu cói, mùa đông có thêm tấm đệm, chăn bông và một lò sưởi điện nhỏ. Trên bàn làm việc ở phòng ngủ của Người vẫn còn một số sách, tạp chí, chiếc mũ cát và chiếc đài bán dẫn của bà con Việt kiều Thái Lan kính biếu Người. Trên chiếc tủ nhỏ đặt ở đầu giường vẫn còn chiếc đồng hồ và cuốn sách Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên Mông thế kỷ XIII mà Người đang đọc dở. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng ở và làm việc tại ngôi nhà này trong khoảng 11 năm cuối đời (1958 - 1969). Hiện nay, gần 250 tài liệu của Bác và toàn bộ kiến trúc, khuôn viên của Nhà sàn vẫn được bảo quản, giữ gìn như những ngày cuối cùng Chủ tịch Hồ Chí Minh sống và làm việc ở đây. Nhà 67 Ngôi nhà này nằm phía sau Nhà sàn (cách khoảng 30m), được khởi công xây dựng ngày 1/5/1967, khánh thành ngày 20/7/1967. Đây là nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh thường họp với Bộ Chính trị, cũng là nơi Người làm việc trong thời gian đế quốc Mỹ leo thang đánh phá miền Bắc (1967 - 1969), nơi Người chữa bệnh và qua đời, nên thường được gọi là Nhà 67 hoặc DK2. Vào năm 1967, cuộc phiêu lưu mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân, hải quân của đế quốc Mỹ ngày càng trở nên ác liệt; Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố khác cùng nhiều khu công nghiệp bị bắn phá ngày đêm. Trước tình hình đó, Bộ Chính trị đã quyết định xây dựng ở phía sau Nhà sàn một ngôi nhà kiên cố, phía bên phải có hầm phòng không, để đảm bảo an toàn tuyệt đối cho Người khi máy bay Mỹ bắn phá bất ngờ. Các đồng chí cán bộ, chiến sĩ ở Cục Công trình, thuộc Bộ Tư lệnh Công binh được giao nhiệm vụ thiết kế và xây dựng công trình này. Tường nhà dầy hơn 60cm, trần nhà dày hơn 1 mét, đều được làm bằng bê tông, cốt thép… Chủ tịch Hồ Chí Minh không nhận ngôi nhà này cho riêng mình. Người đề nghị sử dụng làm nơi họp Bộ Chính trị, làm việc với các đồng chí Trung ương để bàn những vấn đề quan trọng của đất nước. Từ ngày 25/8/1969 trở đi, Chủ tịch Hồ Chí Minh lâm bệnh nặng, diễn biến bệnh tình mỗi ngày một xấu và phức tạp. Theo quyết định của Bộ Chính trị, Nhà 67 trở thành nơi điều trị bệnh cho Người. Các đồng chí trong Bộ Chính trị, các giáo sư, bác sĩ đầu ngành đều tập trung về đây để chăm lo sức khỏe cho Bác. Vì tuổi cao, sức yếu, Chủ tịch Hồ Chí Minh không vượt qua được cơn bệnh hiểm nghèo. Chiếc đồng hồ trên tủ nhỏ ở cạnh giường và cuốn lịch treo tường dừng lại thời khắc Người đi xa: 9 giờ 47 phút, ngày 02/9/1969. Bốn mươi năm qua, trong ngôi nhà này, gần 100 tài liệu, hiện vật vẫn được gìn giữ, xếp đặt vẹn nguyên như xưa, luôn gợi lại những hoạt động và những vấn đề của Chủ tịch Hồ Chí Minh đang quan tâm trong những ngày cuối đời của Người. Có thể khẳng định rằng, Khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch là một trong những di tích có giá trị đặc biệt trên nhiều phương diện. Trong 15 năm sống tại đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cùng Bộ Chính trị Trung ương Đảng, Chính phủ đề ra đường lối chiến lược, sách lược đúng đắn cho cách mạng Việt Nam và lãnh đạo nhân dân vượt qua những thử thách cam go ác liệt để thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, giải phóng miền Nam tiến tới thống nhất đất nước; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc, dân chủ, vì hòa bình và tiến bộ xã hội của thế giới. Với tất cả những ý nghĩa đó, sau ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh đi xa, nơi Người ở và làm việc cùng với các di tích, kỷ vật ở đây đã trở thành những vật chứng quý giá, biểu tượng thiêng liêng về cuộc sống, hoạt động của Người trong 15 năm cuối đời, phản ánh những giá trị cao đẹp nhất của tư tưởng và đạo đức Hồ Chí Minh. Với những giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học đặc biệt của Khu lưu niệm, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định xếp hạng Di tích lịch sử Khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch (quận Ba Đình, thành phố Hà Nội) là di tích quốc gia đặc biệt (Quyết định số 1272/QĐ-TTg, ngày 12/8/2009). Nguồn Cục di sản văn hóa

Hà Nội 1706 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Chùa Hương (Hương Sơn )

Chùa Hương (cách gọi dân gian) hay Hương Sơn là một quần thể văn hóa - tôn giáo của Việt Nam, gồm hàng chục ngôi chùa thờ Phật, các ngôi đền thờ Thần và các ngôi đình thờ tín ngưỡng nông nghiệp. Trung tâm của cụm đình đền chùa này là chùa Hương (tức chùa Trong) nằm trong động Hương Tích ở hữu ngạn sông Đáy, thuộc xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, Hà Nội. Quần thể Hương Sơn là một trong 21 Khu du lịch Quốc gia của Việt Nam và là Di tích Quốc gia Đặc biệt theo quyết định 2082/QĐ-TTg năm 2017 Chùa Hương có lịch sử từ thế kỷ 15, được xây dựng với quy mô chính vào khoảng cuối thế kỷ 17, sau đó bị hủy hoại trong chiến tranh Đông Dương năm 1947 rồi được phục dựng lại từ năm 1989 bởi Hòa thượng Thích Viên Thành dưới sự chỉ dạy của cố Hòa thượng Thích Thanh Chân. Khi xưa vua Lê Thánh Tông đi tuần thú qua đây lần thứ 2 vào tháng giêng năm Đinh hợi, niên hiệu Quang thuận thứ 8 (1467) đã đóng quân nghỉ lại ở thung lũng này và cho quân lính thổi cơm ăn, vua xem thiên văn thấy vùng này lâm vào địa phận của sao Thiên Trù, (một sao chủ về sự ăn uống và biến động) nên nhân đấy đặt tên là chùa Thiên Trù. Ba vị Hòa thượng đời vua Lê Thánh Tông 1442 – 1497 đã tìm thấy động Hương Tích và dựng lên thảo am Thiên Trù. Kể từ đó động Hương Tích được gọi là chùa trong, Thiên Trù gọi là chùa ngoài, rồi người ta lấy tên chung cho hai nơi và cả khu vực là chùa Hương hay “Hương Thiên Bảo Sái”. Sau thời kỳ ba vị Hòa thượng khai sáng, chùa Thiên Trù chùa Hương gián đoạn trụ trì, mãi tới niên hiệu Chính Hòa năm thứ bẩy 1686 của thời vua Lê Trung Hưng. Hòa thượng Trần Đạo Viên Quang, (tương truyền cũng là một quan chức trong triều đình đã treo ấn từ quan để đi tu) mới lại tiếp tục công việc tạo dựng. Trải qua nhiều đời chư Tổ gây dựng, đến nửa đầu thế kỷ 20, nơi đây được khách thập phương ngợi ca ví như tòa lâu đài tráng lệ “Biệt chiếm nhất Nam thiên”. Nhưng đáng tiếc ngày 11 tháng 2 năm Đinh Hợi 1947, thực dân Pháp đưa quân vào đây đốt phá, biến Thiên Trù thành đống gạch vụn tro tàn. Năm 1948, giặc lại vào đốt phá lần nữa, rồi năm 1950 quân Pháp lại cho máy bay thả bom khiến cho cao chất ngất mấy tòa cổ sái của Thiên Trù bị san phẳng . Dấu vết xưa của Thiên Trù hiện nay chỉ còn lại vườn Tháp, trong đó có Bảo Tháp Viên Công, một công trình nghệ thuật đất nung của thế kỷ thứ 17 và cây Thiên Thủy Tháp. Năm 1951, Hòa thượng Thanh Chân đã cho dựng lên từ đồng tro tàn đô nát 6 gian nhà tranh đề có nơi tu hành và nhang khói. Vào năm 1989, dưới sự trụ trì của cố Thượng tọa Thích Viên Thành, Ban xây dựng Chùa Hương đã khởi công tái thiết lại chùa Thiên Trù đến năm 1991 thì khánh thành. Năm 1994, cổng Nam Thiên Môn cũng được hoàn thành, đứng sừng sững giữa núi rừng Hương Sơn. Những năm sau này, tiếp nối Tông phong Hương Tích, Thượng tọa Thích Minh Hiền - trụ trì đời thứ 12- mở mang xây dựng thêm nhiều công trình mới, để đến ngày nay, chúng ta đến đây được chiêm ngưỡng quần thể kiến trúc nguy nga, hoành tráng, rất đẹp. Nguồn Cổng thông tin điện tử thành phố Hà Nội.

Hà Nội 1681 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Đình Triều Khê

Đình Triều Khê được xây dựng từ năm 1901 (Tân Sửu), thờ hai vị Thành Hoàng làng là Trần Triều Khâm Minh Thánh Vũ Hiển Đạo An Sinh Vương Trần Liễu và Trần Triều Anh Tông hoàng đế. Hằng năm vào ngày 11-12 tháng Giêng, người dân làng Triều Khê tổ chức lễ hội truyền thống đình - chùa Triều Khê để kính trình với hai vị Thành Hoàng làng về thành quả dân làng gặt hái được trong năm và tôn vinh công trạng to lớn của nhà Trần đã lãnh đạo nhân dân đánh thắng quân xâm lược Mông Nguyên giữ yên bờ cõi lãnh thổ thế kỷ XIII. Đồng thời, gửi gắm những nguyện cầu của nhân dân mong sức khỏe dồi dào, bình an, hạnh phúc, thành đạt để tiếp tục góp sức bảo vệ và xây dựng quê hương, đất nước. Cụm Di tích lịch sử - văn hóa đình - chùa Triều Khê được xếp hạng di tích cấp tỉnh năm 2006. Trải qua 122 năm tồn tại, đến nay ngôi đình đã xuống cấp nghiêm trọng. Để gìn giữ truyền thống văn hóa, sự tôn kính nơi thờ cúng Thành Hoàng làng, phát huy giá trị di tích gắn với quần thể Khu di tích Quốc gia đặc biệt nhà Trần tại Đông Triều, được sự cho phép của UBND tỉnh, tháng 6/2023, lễ khởi công tôn tạo Di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh đình Triều Khê được thực hiện. Sau 6 tháng thi công, dự án tôn tạo đình Triều Khê đã hoàn thiện giai đoạn 1 với tổng kinh phí trên 6,2 tỷ đồng từ nguồn xã hội hóa. Đình Triều khê được khánh thành và đi vào sử dụng sẽ tiếp tục đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hóa tâm linh, tín ngưỡng, bày tỏ lòng thành kính, tri ân công đức to lớn của nhân dân đối với hai vị Thành Hoàng làng trong công cuộc bảo vệ, xây dựng quê hương, đất nước, đồng thời tạo dấu ấn văn hóa lịch sử đặc sắc của địa phương. Qua đó, góp phần tăng cường giáo dục truyền thống văn hóa lịch sử cho thế hệ trẻ, thúc đẩy phát triển du lịch văn hóa tâm linh tại địa phương. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Ninh.

Quảng Ninh 1963 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

CHÙA LA

Chùa La, tên chữ là Tam Thánh Tự, nằm ở xóm Thầu Đâu, thôn Cẩm Liên xã Cẩm La. Chùa được xây dựng vào Thế kỷ XVI, dưới thời nhà Nguyễn và là nơi sinh hoạt văn hóa của các tín đồ Phật tử. Chùa La còn lưu giữ nhiều hiện vật là các tác phẩm điêu khắc nghệ thuật tiêu biểu mang phong cách thời Nguyễn. Ngoài các giá trị văn hóa được lưu giữ qua các tác phẩm điêu khắc nghệ thuật và các đồ thờ tự, Chùa La là trung tâm sinh hoạt tín ngưỡng của dân làng, vừa là trung tâm sinh hoạt cộng đồng văn hóa làng xã. Với những chức năng đó, Chùa La vừa là nơi phục vụ tín ngưỡng tâm linh của dân làng vừa đóng vai trò gắn kết, quy tụ các giá trị văn hóa truyền thống, là nơi diễn ra các giá trị văn hóa cộng đồng với lễ hội mang tính dân gian. Hội Chùa La hằng năm diễn ra từ mùng 5 đến mùng 6 tháng Giêng âm lịch. Ngoài lễ bái, vãn cảnh chùa, nhân dân còn được dự các trò chơi như đánh đu, hát đúm, đánh cờ. Với những giá trị văn hóa trên, ngày 28/12/2006 UBND tỉnh quyết định xếp hạng Chùa La là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh theo Quyết định số 4225-QĐ/UBND. Đây là một sinh hoạt văn hóa của làng quê góp phần làm giàu bản sắc văn hóa dân tộc. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Ninh.

Quảng Ninh 1938 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Chùa Lái (còn gọi là Linh Ngai Tự)

Chùa Lái (còn gọi là Linh Ngai Tự) là một ngôi chùa nằm trên địa bàn thôn Vị Khê - xã Liên Vị, thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh, địa dư hành chính thuộc phường Phong Cốc. Chùa Lái tên chữ là Linh Ngai tự (chùa Linh Ngai), Ngai là thế tay ngai. Hai chữ Linh Ngai được giải thích là do sông Ván tỏa ra thành hai nhánh sông Cái Đỗng và sông Vị Khê tạo thành thế tay ngai ôm trọn vùng đất này, còn gọi là xứ Linh Ngai. Tên của chùa xuất phát từ tên gọi của làng. Làng Lái xưa là bãi bồi ở cửa sông Bạch Đằng. Dân ở đây quanh năm sống bằng nghề chài lưới, tối đến nghỉ ngay trên thuyền của họ. Khoảng thời vua Lê - niên hiệu Hồng Đức, Tiên công Phạm Thanh Lảnh quê ở Quang Lang chiêu tập những người dân vạn chài trong khu vực lại để quai đê, lấn biển, làm nhà, dựng cửa trên bờ, lập thành làng gọi là làng Lái. Khi cuộc sống đông vui, họ đã xây dựng chùa để đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng và lấy tên làng làm tên thường gọi cho chùa. Hai chữ "chùa Lái" cho đến nay vẫn không thay đổi và đã ăn sâu vào tâm thức của người dân nơi đây. Chùa Lái được xây dựng khá sớm, từ giữa thế kỷ XVI. Ban đầu làm bằng tranh tre, vách đất để thờ Phật. Đến năm Hưng Trị thứ 2 (1589), chùa được các hội chủ sĩ ni và tín thí hai xã Vị Dương, Vị Khê góp quả phúc trùng tu, tạo tác tượng Phật, xây dựng lại khang trang hơn. Chùa nằm trong khu đất có tổng diện tích 5.767 m², xung quanh là cánh đồng lúa phì nhiêu, màu mỡ, tấm bia "Linh Ngai tự bi ký" khắc năm 1589 có đoạn viết: "Chùa Linh Ngai được tọa lạc trên khu đất Linh Ngai, thôn Vị Khê, xã Vị Dương, huyện Yên Hưng, bốn phía xung quanh là ruộng Phật. Xưa kia cổ nhân đã dựng chùa, cấy ruộng, nhìn thấy một khu lâu đài trúc mọc tốt tươi như đường dẫn tới bát nhã, là vẻ giàu có vững vàng của đất nước, là thắng cảnh đệ nhất của xứ Hải Đông... Sau khi xây dựng lại, chùa Linh Ngai tráng lệ, tượng Phật tôn nghiêm, nhân dân kính thờ. Đây là bờ cõi rộng lớn ở trấn Tây, là thắng cảnh của nước Nam...". Tiếng lành đồn xa, sau khi chùa Lái hoàn thành thì nơi đây càng trở nên đông đúc, nhộn nhịp, linh thiêng, phật tử quy y, tăng ni trụ trì, tất cả đều hướng lòng thiện vào cõi Phật, góp công, góp của mong quả phúc đời đời cho con cháu. Chùa đã qua nhiều lần trùng tu, sửa chữa vào các năm: Vĩnh Hựu thứ 2 (1716), Thành Thái thứ 19 (1907), Khải Định thứ 3 (1918), Khải Định thứ 10 (1925), Bảo Đại thứ 3 (1928). Chùa Lái đã trải qua bảy lần sư trụ trì, các sư đều có lòng mộ đạo. Có những nhà sư còn tham gia hoạt động cách mạng, được Nhà nước tặng thưởng Huân, Huy chương trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Đến nay, mặc dù thời gian đã làm cho cảnh cũ chùa xưa thay đổi nhiều, nhưng nhìn tổng thể chùa Lái vẫn giữ được nét cổ kính của ngôi chùa cổ: năm gian chùa chính, năm gian nhà tổ, vườn, tháp được bố cục theo kiểu tiền Phật hậu Tổ. Chùa quay hướng tây bắc, tuy không theo hướng của các ngôi chùa Việt thường thấy, nhưng lại là một thế rất đẹp, có dòng sông Ván chia hai nhánh Cái Đỗng, Vị Khê ôm trọn vùng đất như thể tay ngai vững chãi. Hai nhánh sông này uốn lượn mềm mại như thể hai con rồng đang vờn nước quanh chùa (lưỡng long vờn Thủy). Mặt khác, khi triều lên, nước ở biển qua hai dòng sông Cái Đỗng và Vị Khê hội tụ và gặp nhau ở sông Ván (trước cửa chùa). Khi triều xuống, nước ở dòng sông Ván lại tỏa ra hai sông Cái Đỗng, Vị Khê để chảy ra biển. Cứ ngày lại ngày, tỏa ra rồi lại tụ vào cửa dòng nước theo sự vận hành của trái đất như thể bánh xe luân hồi của đạo Phật. Chùa Lái hiện còn lưu giữ được 125 hiện vật nguyên vẹn, trong đó có 6 pho tượng gỗ được tạc vào thời Mạc (3 pho Tam Thế, 1 pho A di dà, 1 pho Quan Âm chuẩn đề, 1 pho Thích Ca Mâu Ni), 1 tấm bia đá thời Mạc được làm vào năm Hưng Trị thứ 2 (1589), 1 cây hương đá năm Vĩnh Thịnh thứ 12 (1716), 28 pho tượng được tạc vào thời Nguyễn (2 pho Quan Thế Âm, 4 pho Thiên Vương, 1 pho Di Lặc, 2 pho Tuyết Sơn, 1 pho Thích Ca sơ sinh, 1 pho Đức Ông, 2 pho trợ thủ của Đức Ông, 1 pho tượng Mẫu, 7 pho tượng Cô, Cậu..., 6 tấm bia đá, 1 tòa Cửu long bằng đồng) và một chuông đồng to thời Nguyễn đúc năm Thành Thái thứ 19 (1907) cùng nhiều đồ thờ tự thời Lê, Nguyễn có giá trị. Tương truyền, bên trong khuôn viên chùa có một đường hầm ngầm dưới lòng đất để cất giấu nhiều thư từ, vũ khí và nơi ẩn náu của cán bộ cách mạng những năm kháng chiến chống Pháp. Với những giá trị lịch sử, văn hoá, chùa Lái đã được Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh công nhận là Di tích kiến trúc nghệ thuật theo Quyết định số 1870/QĐ-UBND, ngày 27-7-2000. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Ninh.

Quảng Ninh 2037 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Chùa Yên Mỹ - Phúc Khánh Tự

Chùa Yên Mỹ hay còn được gọi là chùa Phúc Khánh nằm sâu trong làng Từ Xá, nay là thôn Tân Tiến (xã Lê Lợi, thành phố Hạ Long). Đây được đánh giá là một trong những ngôi chùa cổ còn giữ được nhiều nét độc đáo cho đến ngày hôm nay. Theo hồ sơ di tích thì chùa được xây dựng khoảng cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX. Đến năm Tự Đức thứ 8 (1854), cai phó tổng hương lý dịch cùng với nhà sư trụ trì chùa đã cho sửa lại hậu cung. Bà Đồng Thị Diều, một người dân trong thôn đã ứng xuất 30 quan tiền cộng với 3 sào ruộng của gia đình để làm kinh phí chi dùng cho việc sửa chữa chùa. Từ đó về sau, chùa còn trải qua nhiều lần tu sửa nữa, một lần vào thời Thành Thái thứ 16, một lần vào thời Bảo Đại thứ 6... Chùa Yên Mỹ tọa lạc trên một khu đất cao với địa thế vô cùng đắc địa, hội tụ linh khí của đất trời. Chùa quay hướng Nam, hướng Phật pháp “Thánh nhân nam diện trị thiên hạ” nghĩa là thánh nhân quay mặt hướng nam mà nghe lời tâu bày của thiên hạ. Phía trước là hai ngọn núi chầu và một con sông ở giữa đổ ra sông Cửa Lục. Phía Bắc, phía Đông giáp khu nhà dân, phía Tây giáp ruộng. Địa thế này theo phong thuỷ có thuỷ tụ ở trước mặt, phía sau có hậu chẩm, bên phải có tả phù, bên trái có hữu bật, là thế đất lý tưởng mà không phải ngôi chùa nào cũng có. Chùa được thiết kế theo kiểu chữ đinh (giống chữ T), toà tiền đường gồm 3 gian, phía sau là hậu cung gồm 2 gian chạy dọc. Trước kia, chùa có một hệ thống nhà hậu Phật, nhà Tăng và các công trình kiến trúc khác tương đối bề thế và quy mô. Trải qua thời gian và chiến tranh, đến nay chùa chỉ còn có nhà tiền đường và hậu cung. Chùa hiện đã được xây dựng lại nhưng vẫn giữ được kiến trúc truyền thống trên nền kết cấu cũ. Trải qua gần 2 thế kỷ, đến nay chùa Yên Mỹ vẫn còn giữ được một hệ thống tượng Phật, đồ thờ tương đối đầy đủ, trong đó có 23 pho tượng gỗ, 1 pho tượng thạch cao và 1 pho bằng đá. Các pho tượng được chạm khắc tinh vi mang đậm phong cách chạm nông thời Nguyễn. Các bộ tượng Tam Thế, Thích Ca sơ sinh, bộ tượng Ngọc Hoàng, Nam Tào, Bắc Đẩu, tượng Ananđa, Ca Diếp, Thái Thượng Lão Quân, Quan Âm Bồ Tát ... mỗi pho tượng đều mang một dáng dấp, phong cách riêng. Ngoài tòa chính thờ Phật, hiện nay chùa Yên Mỹ còn được xây dựng thêm nơi thờ Mẫu với kiến trúc cũng gần tương tự với nơi thờ Tam bảo. Khuôn viên chùa cũng được mở rộng với tổng diện tích khoảng 1000m² bao gồm sân vườn và các công trình phụ trợ khác. Chùa Yên Mỹ đã được UBND tỉnh công nhận là di tích lịch sử văn hoá cấp tỉnh vào năm 1999 và là một điểm đến tâm linh được nhiều du khách lựa chọn khi đến với xã Lê Lợi, thành phố Hạ Long. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Ninh.

Quảng Ninh 2344 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Đình chùa Hoàng Xá

Đình chùa Hoàng Xá hay còn gọi là đình Nhị. Trước đây xã Hoàng Xá có hai ngôi đình, đình ở xóm dưới được gọi là đình Hạ hay đình Nhị, bên trái đình có chùa tên chữ là Hoàng Hoa tự. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đình chùa Hoàng Xá là căn cứ cách mạng, nơi đã diễn ra các trận giao tranh quyết liệt giữa ta và địch. Năm 1954, đơn vị cuối cùng của giặc đã rút khỏi đất Đông Triều. Để tưởng nhớ các anh hùng liệt sỹ trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, chính quyền đã xây dựng đại tưởng niệm tại nơi đây. Hiện nay đình Hoàng Xá thờ Ngũ vị Cao sơn Đại vương qua các triều vua được sắc phong làm thành hoàng của làng là: Đương cảnh Ngũ lôi nội đình đại vương; Đương cảnh Thượng đình đại vương; Đương cảnh thần hoàng đại vương; Hồng cư sỹ đại vương; Lương Hồng Châu Ngọc Thị Nương. Cụm di tích đình chùa Hoàng Xá gồm các công trình: tam quan; đình; chùa và đài tưởng niệm liệt sỹ. Hiện nay, đình chùa Hoàng Xá đang trong quá trình bảo tồn, tôn tạo. Sau nhiều lần trùng tu, năm 2001 đình được xây dựng lại trên nền móng cũ, kiến trúc chữ đinh (J) gồm ba gian tiền đường và một gian hậu cung, lợp ngói tây. Chùa tôn tạo năm 1997, cũng có kiến trúc chữ đinh (J), ba gian tiền đường và một gian hậu cung. Đài tưởng niệm liệt sỹ xây dựng năm 1997 giữa đình và chùa. Trải qua thời gian và chiến tranh, tượng phật và đồ thờ tự trong đình, chùa hỏng và bị thất lạc nhiều. Hiện nay, còn tổng số 15 tấm bia đá, trong đó có 4 bia mang niên hiệu Cảnh Hưng, triều vua Lê Hiển Tông (1740-1786), 11 bia mang niên hiệu các vua triều Nguyễn. Do để lau ngày ngoài trời nên các bia trên đã mòn, chữ mờ, khó đọc và còn rất nhiều tảng đá kê chân cột còn nguyên vẹn hoặc nhiều tảng đá đã bị vỡ. Đây là những bằng chứng khẳng định dấu ấn văn hóa của ngôi đình chùa cổ ở Hoàng Xá. Lễ hội đình chùa làng Hoàng Xá được tổ chức trong 2 ngày 9-10 tháng Giêng hàng năm. Ngoài ra còn có ngày Thượng điền, Hạ điền, các tuần rằm, mùng một, các ngày lễ Phật… đều được dân làng dâng lễ cúng. Tại lễ hội còn diễn ra các trò chơi dân gian và hoạt động thể thao như kéo co, thi đấu bóng đá thu hút đông đảo nhân dân và du khách tham dự. Với giá trị của cụm di tích đình chùa Hoàng Xá, ngày 28/12/2016, Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh đã ban hành Quyết định số 4423/QĐ-UBND, xếp hạng Đình, Chùa Hoàng Xá là di tích lịch sử cấp Tỉnh. Hiện nay đình chùa Hoàng Xá đang trong quá trình bảo tồn tôn tạo, rất cần sự quan tâm công đức của Phật tử gần xa và các nhà hảo tâm để cụm di tích này được khang trang, tố hảo. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Ninh.

Quảng Ninh 2324 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Chùa Nhuệ Hổ ( Chùa Quảng Phúc)

Chùa Nhuệ Hổ có lịch sử tồn tại khoảng 400 năm. Như hệ thống bia đá trùng tu của chùa còn lưu giữ được cho thấy, ngày 20 tháng 2 năm Chính Hoà thứ 17 (1696) chùa đã được trùng tu sửa chữa. Như vậy chí ít chùa phải có từ trước thời điểm này. Theo những người già kể lại, tuy là chùa làng song chùa Nhuệ Hổ luôn được quan viên bản thôn quan tâm công đức, tu sửa. Bia công đức còn ghi lại cuối thế kỷ 17 nhiều người dân dâng tiền, đất cúng tiến công đức vào chùa. Năm 1786, quan viên Nhuệ Hổ đóng góp thay cũ đổi mới, trồng nhiều cây cối cho cảnh chùa thêm thoáng mát. Sư thầy Hải Nha, người Quỳnh Côi, Thái Bình đã cúng tiến 7 sào ruộng để làm ruộng hương hoả. Ngày 15 tháng 12 năm Minh Mệnh thứ 14 (1833), hương lão, nhân dân Nhuệ Hổ cùng sư trụ trì bỏ vào 15 chuỗi tiền xanh tô thếp tượng phật... Bởi vậy trong lịch sử chùa Nhuệ Hổ đã từng có quy mô to rộng, khang trang, bao gồm nhà bái đường, nhà tổ, nhà mẫu, nhà tăng, nhà sắp lễ, nhà bếp, vườn tháp, vườn bia, tam quan, sân chùa, ruộng chùa, vườn cây ăn quả của nhà chùa... Chùa được toạ lạc trên khu đất rộng, xung quanh là cánh đồng lúa toả hương lúa ngan ngát quanh năm. Ngày ngày chùa không lúc nào vắng tiếng chuông ngân, làm cho cảnh chùa trang nghiêm, ấm cúng. Tuy nhiên, trải qua bao thăng trầm của lịch sử, một thời gian chùa đã bị hư hỏng nhiều. Với lòng tín tâm, coi trọng ngôi chùa thiêng của làng, đến năm 1995 phật tử gần xa công đức, xây dựng lại chùa theo mô hình chùa cũ. Đến nay chùa vẫn giữ được nét cổ kính, trầm mặc của một ngôi chùa cổ với kiến trúc gồm bái đường theo kiểu chữ đinh (T), 5 gian tiền đường, gian hậu cung, nhà bếp, vườn bia, tháp và đình thờ thành hoàng làng mới xây theo kiểu tiền phật, hậu thần. Hiện chùa Nhuệ Hổ còn lưu giữ được 98 hiện vật cổ xưa. Trong đó quý nhất là hệ thống tượng phật rất độc đáo, gồm 15 pho tượng được làm bằng chất liệu đất nung từ thời Lê. Theo sư thầy trụ trì chùa, Thích Thanh Hải, đây là bộ tượng đất nung còn nguyên vẹn hiếm hoi trong hệ thống tượng phật bằng đất nung tại các chùa Quảng Ninh. Các pho tượng đều được chạm khắc tỉ mỉ với đủ các tư thế, hình dáng, nét mặt, thể hiện nội tâm khác nhau. 3 pho tượng Tam Thế, 1 pho Adiđà cao 145cm, vai rộng 60cm. Tuy đã bị hỏng phần đầu và vai bên phải, song đây vẫn được coi là pho tượng có kích thước lớn nhất trong các pho tượng Adiđà ở Quảng Ninh. 4 pho tượng Tứ Thiên Vương, 1 pho Quan Âm, 1 pho Tuyết Sơn, 2 pho Quan Âm Bồ Tát, 1 pho Thích Ca sơ sinh, 1 pho tượng Hộ Pháp. 4 pho tượng khác được làm vào thời Tây Sơn, 2 pho tượng được làm vào đầu thời Nguyễn. Ngoài ra chùa Nhuệ Hổ có còn hệ thống bia đá giá trị được sắp xếp đúng ngôi vị cùng nhiều đồ thờ tự cổ, khiến ngôi chùa càng tăng thêm vẻ cổ kính. Trong đó bia đá có niên đại lâu nhất làm năm Minh Mệnh thứ 14 (1833) và 1 bia đá làm năm Minh Mệnh thứ 20 (1839). Chùa Nhuệ Hổ mở hội từ ngày 20 đến 23 tháng giêng hằng năm. Vào ngày hội tại đây diễn ra nhiều trò chơi dân gian, nhiều đoàn tế từ khắp nơi đến cúng tế, dâng hương. Những năm gần đây chùa Nhuệ Hổ thu hút đông đảo du khách thập phương đến dâng hương, thăm thú cảnh quan chùa và tham gia các hoạt động hội. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Ninh.

Quảng Ninh 2099 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Đình Mỹ Cụ

Di tích lịch sử đình Mỹ Cụ toạ lạc tại Khu Mỹ Cụ 1, phường Hưng Đạo, thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh. Theo Thần tích-Thần sắc làng Mỹ Cụ, tổng Mễ Sơn, huyện Đông Triều, đình làng Mỹ Cụ thờ tám vị Thành Hoàng làng là: (1).Tam Giang Khước Địch (tên húy là Trương Hát), (2). Kiêm Tri Tôn Đạo, (3).Cao Sơn Cây Mét, (4). Cư Sĩ Tôn thần, (5). Cao Sơn Đống Giác, (6). Minh Mẫn chi thần, (7). Cao Sơn Cây Vy, (8). Ngọc Trinh công chúa. Cũng theo thần tích thần sắc thì đình Mỹ Cụ có 14 đạo sắc phong của các đời vua phong cho các vị Thành hoàng được thờ phụng ở đình, riêng ba vị Thần làng là Cao Sơn Cây Mét, Cao Sơn Đống Giác, Cao Sơn Cây Vy là những vị Nhiên thần (các vị thần tự nhiên) mang tính chất địa phương, được thờ với quan niệm "Vạn vật hữu linh đa thần giáo", không được ban cấp sắc phong. Việc tôn vinh, thờ phụng các vị thành hoàng vừa là nhân thần, vừa là Nhiên thần tại đình Mỹ Cụ đã tạo nên nét riêng khác biệt giữa làng Mỹ Cụ với các địa phương khác trong tỉnh. Đình Mỹ Cụ quay hướng Tây, kiến trúc chữ Đinh và được xây dựng theo kiến trúc truyền thống của đình làng Việt gồm Bái đường và Hậu cung. Sân đình được lát gạch đỏ. Từ sân bước lên Chính điện phải qua hai bậc thềm bằng đá xanh (cũng là bậc thềm của đình trước đây) và một khoảng hiên rộng cũng được lát gạch đỏ. Đình hiện còn các di vật Thần tích - Thần sắc làng Mỹ Cụ, kiệu bát cống, kiệu long đình, các bài vị, hòm đựng sắc phong… là những căn cứ khoa học quan trọng cho thấy sự xuất hiện, tồn tại của đình Mỹ Cụ trong lịch sử. Những di vật ấy không chỉ cho thấy được quy mô, tầm quan trọng của di tích, sự quan tâm của các triều đại phong kiến Việt Nam đối với vị Thần Thành hoàng được thờ ở di tích mà còn chứa đựng những thông tin về quá trình hình thành, phát triển của di vật và di tích cũng như về điều kiện kinh tế, xã hội trong một giai đoạn phát triển nhất định của địa phương. Các bài vị hiện còn ở đình Mỹ Cụ là những di vật quý, mang tính đặc sắc, riêng biệt, đặc trưng của nghệ thuật tạo hình thời Nguyễn, các đường nét chạm trổ có tính thẩm mỹ cao mà ít các di tích khác trên địa bàn toàn tỉnh có được. Theo Thần tích - Thần sắc làng Mỹ Cụ: Hàng năm, đình Mỹ Cụ tổ chức tế lễ vào các ngày mùng 10 tháng Giêng và mùng một tháng tư (âm lịch). Hiện nay, nhân dân làng Mỹ Cụ chỉ còn duy trì lễ hội đình Mỹ Cụ vào ngày mùng 9 tháng Giêng (âm lịch) hàng năm. Lễ hội đình được tổ chức gồm phần lễ và phần hội. Lễ hội đình Mỹ Cụ là một nét đẹp văn hóa với nhiều nghi lễ, trò chơi sống động của người dân. Mỗi dịp lễ hội là cơ hội để nhân dân tham gia sáng tạo và hưởng thụ văn hóa, ôn lại và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống trong cuộc sống đương đại. Với những giá trị đó, di tích lịch sử đình Mỹ Cụ, xã Hưng Đạo, thị xã Đông Triều đã được xếp hạng di tích cấp tỉnh tại Quyết định số 606/QĐ-UBND ngày 09/3/2023 của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh. Việc xếp hạng di tích cấp tỉnh đối với di tích đình Mỹ Cụ tạo thêm cơ sở pháp lý cho việc quản lý, bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị di tích góp phần bảo tồn những giá trị văn hóa phong tục tập quán của nhân dân, bảo vệ những giá trị lịch sử trong quá trình hình thành và phát triển của di tích, góp phần giáo dục truyền thống “uống nước nhớ nguồn”. Nguồn Sở Văn hóa và thể thao tỉnh Quảng Ninh.

Quảng Ninh 1902 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Đình Bình Lục

Đình Bình Lục nằm ở khu Bình Lục Hạ, phường Hồng Phong, thờ Khâm Minh Thánh Vũ Hiển Đạo An Sinh vương Trần Liễu, thân phụ của Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn. Các văn bia trong khuôn viên di tích đều là bia hậu thần, trong đó bia có niên đại sớm nhất là năm Chính Hòa thứ 17 triều Lê (1696), cho thấy đình được xây dựng trước năm này. Đình Bình Lục là một trong những ngôi đình được xây dựng sớm nhất tại vùng Đông Bắc, mang đậm phong cách kiến trúc đình làng thời Lê Trung Hưng. Các dấu vết kiến trúc và di vật cho thấy đình từng được trùng tu dưới thời Nguyễn. Theo lời kể của các cụ cao tuổi, đến giữa thế kỷ XX, đình xuống cấp nghiêm trọng nhưng do điều kiện kinh tế khó khăn, không thể trùng tu. Vào những năm 70 - 80 của thế kỷ XX, đình bị cháy và sụp đổ hoàn toàn. Năm 1995, nhân dân đã xây dựng một ngôi đình nhỏ, kiến trúc đơn sơ trên nền hậu cung đình cổ để thờ cúng và phục vụ nhu cầu tín ngưỡng tâm linh của cộng đồng. Ngôi đình nhỏ này tồn tại đến nay. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Ninh .

Quảng Ninh 1967 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Đền thờ Đức Thánh Hang Son

Đền thờ Đức Thánh Hang Son thuộc quần thể di tích lịch sử văn hóa danh thắng, cách mạng có giá trị nổi bật trên địa bàn xã Yên Đức như núi Đống Thóc, núi Con Chuột, núi Con Mèo, núi Canh, Hang 73, chùa Cảnh Huống, Thiên Long Uyển... Các di tích trên đã được đưa vào quản lý và xếp hạng di tích các cấp. Theo truyền thuyết và lịch sử ghi chép sự hình thành Đền thờ Đức Thánh Hang Son cho thấy, tương truyền có một chàng trai tên là Phạm Chấu, khôi ngô tuấn tú, hết mực thông minh, làm mưa cứu giúp dân, sau đó hóa thành cá chép trôi theo dòng sông Ma về động Hang Son, báo mộng cho chức sắc làng Yên Khánh và Quì Khê (Quảng Yên) đến Hang Son tìm. Để tưởng nhớ công ơn, nhân dân hai làng đã thờ Thánh ở trong Hang Son và gọi là Đức Thánh Hang Son. Đền thờ nằm trong mối liên hệ tương quan với Cụm di tích lịch sử, văn hóa và danh thắng Hang Son thuộc phường Phương Nam, thành phố Uông Bí. Đền được khởi dựng từ thời Trần, tại đây còn được thờ Phật và thờ Mẫu, đây là sự kết hợp giữa Phật giáo với sự thiêng liêng trong tín ngưỡng thờ Thần, thờ Mẫu của người Việt. Đền được xây trên gò đất cao hơn so với các công trình xung quanh. Phía Tây là núi Thung, phía Đông là núi Canh, phía trước Đền là cánh đồng lúa rộng lớn. Hiện vật gốc của đền hiện nay có bát hương đá đời vua Lê Hiển Tông niên hiệu Cảnh Hưng năm 1772; 5 bản sắc phong được phục chế của các triều vua Nguyễn gồm Tự Đức, Đồng Khánh và Duy Tân sắc cho bốn vị Thành Hoàng làng trong đó có vị thứ ba là Đức Thánh Hang Son. Ngoài ra tại đây còn có các bản ghi chép Thần tích, Hương ước của làng và các cấu kiện đá trong khuôn viên sân, thềm bậc và bó nền... Những hiện vật, di vật và tư liệu đó đã minh chứng cho quá trình tồn tại của đền, cho thấy quy mô và sự quan tâm của các triều đại phong kiến trước kia. Trải qua thời gian, sự khắc nghiệt của thiên nhiên, chiến tranh tàn phá…ngôi đền chỉ còn lại phế tích. Năm 1992, nhân dân trong xã đã cùng nhau quyên góp, dựng lại ngôi đền trên nền cũ, sau này ngôi đền tiếp tục được tu bổ, chỉnh trang và giữ nguyên hiện trạng cho đến ngày nay. Với những giá trị nổi bật của di tích, ngày 09/3/2023, UBND tỉnh Quảng Ninh đã ban hành Quyết định xếp hạng di tích cấp tỉnh đối với Đền thờ Đức thánh Hang Son. Việc Đền thờ Đức thánh Hang Son được xếp hạng di tích cấp tỉnh là niềm vinh dự, tự hào của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân xã Yên Đức đồng thời qua đó góp phần vào việc tuyên truyền, vận động nhân dân địa phương nâng cao ý thức bảo vệ và tham gia bảo tồn, phát huy giá trị Đền thờ nói riêng và các cụm di tích danh thắng khác trên địa bàn nói chung, làm cho quần thể di tích xứng tầm với vị thế của vùng đất di sản văn hóa. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Ninh.

Quảng Ninh 2208 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Cụm di tích lịch sử danh thắng Vũng Đục

Khu di tích và danh thắng Vũng Đục thuộc phường Cẩm Đông (TP Cẩm Phả), rộng khoảng 10.000m2, là một quần thể gồm đền, đài, hang động, quy tụ tại núi Bàn Cờ, nằm bên bờ vịnh Bái Tử Long thơ mộng. Đây là nơi ghi nhớ công ơn của những chiến sĩ cách mạng đã ngã xuống cho sự nghiệp giải phóng Vùng mỏ, nơi giáo dục lòng yêu nước, tinh thần đấu tranh anh dũng quật cường của cha ông. Người dân nơi đây kể lại rằng, sở dĩ khu di tích, danh lam thắng cảnh này có tên gọi là Vũng Đục là bởi trước kia, đây là một khu vực có nhiều vũng sâu, nước xoáy, là nơi quần tụ của hàng ngàn loài sinh vật biển và một điều đặc biệt là ở đây có rất nhiều cá đục. Có lẽ vì thế người dân vạn chài xưa đã đặt tên cho khu vực này là Vũng Đục. Trong những năm 1948-1949, thực dân Pháp đã bắt hàng trăm anh chị em là đoàn viên công đoàn, thanh niên cứu quốc và những người dân khu mỏ yêu nước, chúng cho vào bao tải, dùng thuyền chở ra Vũng Đục và dìm sống họ xuống biển. Trong số họ có người là lãnh đạo cốt cán, có người là quần chúng yêu nước, một số người tuổi đời còn rất trẻ, có người còn đang tuổi đôi mươi tràn đầy sức sống. Để tưởng nhớ và ghi nhận sự dũng cảm của những công nhân mỏ ưu tú, đã chịu đựng những đòn tra tấn dã man và chấp nhận cái chết để bảo vệ tổ chức Đảng, bảo vệ phong trào cách mạng, Đảng bộ và nhân dân TP Cẩm Phả đã xây dựng đài tưởng niệm ngay dưới chân núi Bàn Cờ, bên cạnh nơi mà thực dân Pháp đã dìm các chiến sĩ xuống biển. Đài tưởng niệm được xây dựng khá cao, ốp đá granit, mặt gắn những bức phù điêu. Đứng trên đài tưởng niệm Vũng Đục, du khách có thể phóng tầm mắt quan sát Vịnh Bái Tử Long xinh đẹp, tàu bè ra vào bến Vũng Đục tấp nập. Ngay cạnh đài tưởng niệm, du khách sẽ được tham quan ngôi đền Vũng Đục được quy hoạch trong khu vực sát Tượng đài Vũng Đục. Ngôi đền được xây dựng khá khang trang, quy mô, với diện tích rộng khoảng 3.000m2 trên khuôn viên 11,5ha, gồm 3 gian 2 chái với thiết kế hình chữ đinh, khung bằng gỗ tường gạch, cổng tam quan, có 2 nhà đối xứng hai bên là Tả vu và Hữu vu dành làm nơi sắp lễ, 2 nhà bia để ghi sự kiện và công lao đóng góp của các cá nhân và tổ chức có công xây dựng đền. Công trình đền thờ các liệt sĩ Vũng Đục là nơi quy tụ linh hồn các liệt sĩ đã ngã xuống cho sự nghiệp giải phóng Vùng mỏ, nơi ghi nhớ công ơn của những chiến sĩ cách mạng và là nơi giáo dục lòng yêu nước của các thế hệ công dân TP Cẩm Phả về tinh thần đấu tranh anh dũng quật cường của cha ông. Đồng thời, ngôi đền cũng gợi nhớ một thời kháng chiến hào hùng mà oanh liệt của lớp lớp thế hệ quân và dân Vùng mỏ kiên cường. Cùng với ý nghĩa về lịch sử, khu Vũng Đục còn được thiên nhiên ưu ái ban tặng một vẻ đẹp tự nhiên hiếm nơi nào có được. Đến đây, du khách còn được chiêm ngưỡng những cảnh đẹp thiên nhiên độc đáo. Đó là hệ thống khu hang động Vũng Đục nằm ngay cạnh khu đền và đài tưởng niệm Vũng Đục. Hệ thống hang động Vũng Đục được liên kết bởi 5 hang động hoành tráng và kỳ vĩ với các tên gọi như: Động Thiên Đăng - Long Vân - Ngỡ Ngàng - Hang Kim Quy - Hang Dơi. Để lên được các hang động du khách có thể đi men theo sườn núi. Đi sâu vào trong các hang động này là các rèm đá rủ xuống, uốn lượn mềm mại, đặc biệt là lớp nhũ đá ánh bạc khá dày, tạo ra những hình thù khá thú vị theo trí tưởng tượng phong phú của con người như: Con thiên nga, con voi, đài sen... Khi các luồng ánh sáng chiếu từ phía bên ngoài vào càng tôn thêm vẻ đẹp lung linh của động. Trong hành trình khám phá, một trong những hang động mà du khách không nên bỏ qua, đó là động Thiên Đăng, nằm ở độ cao trên 46m so với mực nước biển, động có diện tích khoảng 300m2. Từ động Thiên Đăng, du khách có thể phóng tầm mắt chiêm ngưỡng vẻ đẹp của Vịnh Bái Tử Long, xa xa là những đảo đá nhấp nhô trên mặt nước, những con tàu ra vào bến Vũng Đục. Một điều khá thuận tiện cho du khách khi đến với khu di tích Vũng Đục, đó là ngay cạnh khu di tích là bến tàu Vũng Đục. Từ đây du khách có thể lên tàu tham quan một số tuyến đảo du lịch trên Vịnh Bái Tử Long... Khu di tích và danh thắng Vũng Đục được xếp hạng Di tích lịch sử cấp tỉnh năm 1999. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Ninh.

Quảng Ninh 2408 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Đình Hưng Học

Đình Hưng Học là di tích lịch sử lưu niệm danh nhân Quận công Vũ Hoàng Đào là người có công với bản xã, vị thần trừ ôn dịch giúp dân. Ông là một trong những Tiên công đỗ Giám sinh vào thời Hậu Lê, có công quai đê lấn biển, khai canh lập ấp hình thành lên thị xã Quảng Yên nói riêng và tỉnh Quảng Ninh nói chung. Ngoài ra, ông còn có công bảo vệ làng xã chống giặc cướp và có tài trị thủy. Theo truyền miệng của dân làng Hưng Học: cụ Vũ Hoàng Đào (武 皇 燾)là thế tổ đời thứ năm của dòng họ Vũ ở Hưng Học. Theo gia phả, dòng họ Vũ có truyền thống khoa bảng, Cụ học cao thi đỗ Quận Công. Ngày vinh quy bái tổ, đã thác ở sông Rút và hiển linh thành Thần Đông Hải - một vị thần biển phù hộ cho dân làng Hưng Học đi sông, đi biển được an lành. Ngài còn có khả năng trừ ôn dịch cứu dân. Dân làng Hưng Học đã tạc tượng và lập miếu thờ ở gần nơi Ngài thác (vẫn còn đến ngày nay, gọi là Miếu Chính Phủ). Thần được vua Khải Định phong làm Thần Đông Hải, là Bản Thổ Thành hoàng Trung đẳng thần, là Thông minh Hình tướng, là thần trừ ôn dịch cứu dân. Người dân Hưng Học tôn thần là Thành Hoàng. Mỗi lần đi sông, đi biển đánh cá hay đi thuyền vận tải, dân làng đều vào miếu Chính Phủ thắp hương cầu khấn. Khi dân làng bị dịch bệnh đều có lễ cầu Đức Đông Hải đệ tam Thành Hoàng đều tai qua, nạn khỏi, rất linh nghiệm. Khi dân làng Hưng Học tổ chức lễ hội Đại Kỳ phúc hàng năm ở đình Hưng Học đều cúng phối hưởng Thần Vũ Hoàng Đào. Hiện ở đình Hưng Học còn thờ một đạo sắc phong của vua Khải Định năm thứ 2 phong Đức Đông Hải Vũ Hoàng Đào làm Thành hoàng bản cảnh của làng Hưng Học. Với lịch sử xây dựng và các di sản văn hóa đang được bảo tồn, đình giúp các nhà nghiên cứu tìm hiểu được lịch sử hình thành và phát triển của làng Hưng Học và phường Nam Hòa thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh vào thế kỷ XV. Đình còn thờ danh nhân Huyền Quang tổ sư, Tổ thứ ba của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Ông là người tài năng đức độ, đỗ đạt cao (năm 20 tuổi đỗ Hương cử, năm 21 tuổi đỗ đầu khoa Đại tỷ thủ sỹ). Ông vừa là một nhà thơ lớn với nhiều bài thơ còn được lưu lại, vừa là một nhà tu hành lỗi lạc, một thi sĩ lớn của dân tộc thời đại nhà Trần, một danh nhân của đất nước. Đình Hưng Học với tín ngưỡng thờ Thành hoàng là Tổ sư Huyền quang, Bản thổ Thành hoàng Vũ Hoàng Đào (nhân thần địa phương), đồng thời qua các hiện vật thờ tự, tượng thờ, sắc phong và nghi lễ cúng tế, hội hè đình đám ở di tích Đình Hưng Học giúp chúng ta tìm hiểu được tín ngưỡng dân gian tục thờ Thành hoàng của làng Hưng Học nói riêng và làng xã Việt Nam nói chung. Đặc biệt, tục thờ và rước thần Phạm Nhan - một tướng giặc bại trận về đình làng Hưng Học cúng tế vào dịp lễ Đại kỳ phước là một nét văn hóa độc đáo của nhân dân làng Hưng Học đã được nhiều nhà nghiên cứu văn hóa và khoa học đánh giá cao tính nhân văn của người Việt Nam: dù là kẻ thù, khi đã thất bại vẫn được cho ăn, uống và cho về nước; đó là tính dân chủ trong tục thờ cúng của người Việt Nam (thờ cúng thần thì thần phải phù hộ cho người thờ). Tục thờ trên một trướng giặc bại trận trong Chiến thắng Bạch Đằng 1288 oanh liệt diễn ra ngay trên quê hương Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh. Tục rước và cúng phối hưởng Thần ở đình Hưng Học còn biểu hiện nhân sinh quan tâm linh người Việt: cách thức để Tam tổ Huyền Quang dùng Phật pháp giáo hóa cho thần Phạm Nhan phù hộ chúng sinh; tục thờ thần Phạm Bá Linh và Vũ Hoàng Đào: một thần gây ôn dịch, một thần trừ ôn dịch là một nét văn hóa hết sức độc đáo của cư dân vùng sông nước Bạch Đằng. Qua kiến trúc các vì kèo và điêu khắc trên các cấu kiện của đình cho thấy: đình làng Hưng Học được xây dựng vào khoảng thế kỷ XVIII - đầu thế kỷ XIX, gồm có ba gian, hai chái, bốn vì kèo. Kết cấu vì kèo bằng làm bằng gỗ lim theo kiểu thượng thu hạ thách với các cấu kiện cột cái, cột quân, câu đầu, giá chiêng bụng lợn, đầu dư, kẻ chuyền, đầu bẩy đỡ mái, đây là lối kiến trúc đặc trưng của đình làng Việt Nam thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX. Các cấu kiện của đình Hưng Học như các bức cốn, đầu dư, đầu bẩy, con chồng, bát đấu đỡ hoành đều được chạm kênh bong rất nghệ thuật, chạm nổi tinh xảo với các đề tài tứ linh truyền thống làm phong phú nghệ thuật điêu khắc đình làng thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX của Việt Nam. Trong đình hiện còn bảo lưu nhiều hiện vật, đặc biệt 31 cổ vật là đồ thờ tự có giá trị giúp ích các nhà nghiên cứu mỹ thuật cổ Việt Nam. Với những giá trị nêu trên, đình Hưng Học, phường Nam Hòa, thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh được Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng là Di tích lịch sử quốc gia tại Quyết định số 1985/QĐ-BVHTTDL ngày 29/6/2021./. Nguồn Cục Di Sản Văn Hóa .

Quảng Ninh 1987 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Lưu Khê

Tên đình Lưu Khê xuất phát từ tên làng Lưu Khê. Đình được dựng lên để thờ hai vị Tiên Công là ông Đỗ Độ và ông Đào Bá Lệ. Hai ông có công chiêu tập người tới bãi bồi cửa sông Bạch Đằng quai đê lấn biển vào năm 1434 lập nên làng Lưu Khê ngày nay. Thời Lê gọi là xã Lương Qui, đến thời Nguyễn đổi thành Lưu Khê. Căn cứ tư liệu hiện còn của đình ở đảo Hà Nam, qua lời kể của các cụ cao niên trong làng và hoa văn điêu khắc ở đình có thể thấy đình Lưu Khê được xây dựng vào năm Nhâm Ngọ, tức tháng tư năm 1822. Cho tới nay, đình Lưu Khê đã trải qua nhiều lần trùng tu, tu bổ, tôn tạo. Lần tu bổ lớn vào năm 1942 đã lợp lại đình bằng ngói tây, xây tường đá bao quanh, đắp phù điêu rồng ở trái hồi và làm hai trụ đèn lồng phía trước đình. Ngần đây nhất, năm 2006 đình Lưu Khê lại được trùng tu, tu bổ tôn tạo một số hạng mục của nhà Đại Bái như nối và gia cố các mộng, xử lý tiêu tâm một số cột gỗ bị mối mọt, thay hoành mái bằng gỗ tròn, lợp lại ngói mới (ngói màn và ngói mũi); xây lại tường hồi nhà Đại Bái, lát lại nền bằng gạch Bát (theo hình chữ công), bổ sung các viên đá tảng bị mất; phục hồi hai chái nhà Đại Bái... đình hiện nay khang trang, to đẹp hơn khi khởi dựng rất nhiều! Đình vừa là nơi thờ hai vị Tiên Công là Đỗ Độ và Đào Bá Lệ có công khai phá đồng điền, vừa là nơi thờ tự có liên quan đến ngôi đền thờ Trần Hưng Đạo của làng cách đình Lưu Khê khoảng 800 mét. Đình tuy đã trải qua nhiều lần trùng tu, sửa chữa nhưng phần cấu trúc các vì kèo và điêu khắc còn giữ nguyên được trạng thái ban đầu. Phong cách điêu khắc của đình mang đậm nét của điêu khắc dân gian đình làng cuối thế kỷ 17 và thế kỷ 18. Trên bức cốn của hai vì gian giữa và trên các đầu bẩy đều được chạm nổi bong kênh tinh vi, sắc sảo hình rồng, mây, tôm, cá, ly, phượng. Hai bên thân kẻ các vì kèo đều được chạm nổi bong kênh hình rồng, mây. Trên câu đầu là con chồng ghép khít nhau được chạm bong kênh tinh vi hình long đảo vũ. Đặc biệt trên xà nách nối cột cái với cột quân của hai vì kèo gian giữa của bái đường là hai bức cốn được chạm nổi bong kênh tinh vi hình long quần vũ hình tôm, cá, hoa sen... Các bức chạm trổ công phu, tỉ mỉ, mang giá trị nghệ thuật cao. Đình được Bộ Văn hóa - Thông tin ra quyết định xếp hạng cấp Quốc gia số 65/QĐ-BT, ngày 16/01/1995 bởi giá trị tiêu biểu về lịch sử và nghệ thuật. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Ninh.

Quảng Ninh 1960 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Phong Cốc

Đình Phong Cốc hay còn gọi là đình Cốc, đình có tên gọi như vậy bởi đình nằm trên một vùng đất có thế tựa hình con chim Cốc, ở nơi giáp gianh giữa xã Phong Cốc và xã Phong Hải huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Ninh trước kia là thôn Phong Cốc, thuộc xã Phong Lưu huyện Yên Hưng. Đình Phong Cốc và miếu Phong Cốc là một quần thể di tích thuộc xã Phong Cốc, huyện Yên Hưng. Hàng năm dân làng tổ chức lễ cầu mưa và rước tứ vị Thánh Nương từ miếu Phong Cốc về đình để cầu tế và sau đó lại đưa về miếu. Đến cải cách ruộng đất, miếu bị sụp đổ nhân dân địa phương đã đưa tứ vị về đình để thờ. Đến nay miếu Phong Cốc đã được đầu tư tu bổ, phục hồi lại và đã được xếp hạng cấp Quốc gia theo quyết định số 25/2007/QĐ-BVHTT, ngày 03/8/2007. Đình Cốc là nơi thờ thần Hoàng làng Phong Cốc và thờ thần Nông, theo truyền thuyết thần Hoàng làng Phong Cốc hiện nay vốn là người Việt ở Châu Hoàn (tức Nghệ Tĩnh) thuộc cửa biển Đại Kiên, xã Hương Cát, vốn là người yêu nước dưới đời nhà Lý, sau khi ngài mất dân địa phương lập đền thờ ở cửa biển Hương Cát. Đình Cốc hiện nay kiến trúc gồm 3 ngôi nhà: Tiền đường, Bái đường và Hậu cung. Tiền đường được dựng vào năm 1805 (tức thời Gia Long tứ niên). Bái đường được dựng vào năm 1801 (tức Cảnh Thịnh bát niên). Thời vua Trần Anh Tôn sau trận chiến thắng ở Chiêm Thành vua ban cho 300 quan kinh phí tu sửa đình. Đến thời Lê đình tiếp tục được trùng tu miếu mộ. Tuy đã trải qua nhiều lần trùng tu, sửa chữa, chống xuống cấp nhưng đình vẫn giữ được nguyên vẹn những yếu tố nguyên gốc cấu thành di tích. Đình Cốc có giá trị tiêu biểu về kiến trúc - nghệ thuật. Kết cấu chủ yếu bằng gỗ có nhiều mảng chạm khắc đường nét tinh tế, hình tượng phong phú, bố cục phóng khoáng mang phong cách thời Lê với nhiều đề tài sinh hoạt như tứ linh, chọi gà, đánh vật, bơi thuyền, đi hội... . Các bức chạm của đình Phong Cốc có chiều sâu cả về không gian, màu sắc lẫn nội dung được thể hiện bằng kỹ thuật chạm bong kênh, chạm lộng, chạm nông... Với giá trị tiêu biểu về kiến trúc - nghệ thuật đình Phong Cốc đã được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng cấp Quốc gia theo Quyết định số 191/VH-QĐ, ngày 22/03/1988. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Ninh.

Quảng Ninh 2170 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Quan Đại

Đền Quan Đại nằm ở thôn La Khê, xã Tiền An thị xã Quảng Yên, thờ hai vị đại thần của triều đình nhà Nguyễn là Trương Quốc Dụng và Văn Đức Giai đã chỉ huy quân sỹ cùng nhân dân Quảng Yên đánh đuổi bọn giặc cướp nước và bè lũ tay sai của thực dân Pháp để bảo vệ biên cương, vùng hải đảo thuộc miền Đông bắc của Tổ quốc. Đền Quan Đại nằm ở thôn La Khê, xã Tiền An thị xã Quảng Yên, thờ hai vị đại thần của triều đình nhà Nguyễn là Trương Quốc Dụng và Văn Đức Giai đã chỉ huy quân sỹ cùng nhân dân Quảng Yên đánh đuổi bọn giặc cướp nước và bè lũ tay sai của thực dân Pháp để bảo vệ biên cương, vùng hải đảo thuộc miền Đông bắc của Tổ quốc. Truyền thuyết kể lại, sau khi hai ông tử trận, hai con voi của họ đã đưa chủ vào rừng trúc (nơi người dân dựng đền thờ ngày nay), dẫm quang một khoảng rừng trúc để đặt thi thể hai chủ soái rồi nằm phục bên cạnh. Khi nhân dân biết tin ra chôn cất, đã thấy mối đùn lên thành 2 ngôi mộ lớn. Hai con voi cũng nhịn ăn mà chết theo chủ. Để tỏ lòng biết ơn hai vị công thần đã hy sinh vì dân, vì nước, người dân trong làng đã lập đền thờ hai ông, quanh năm hương khói, phụng thờ (đền thờ 2 vị trung thần, nên người dân trong vùng còn gọi là Song Trung từ). Nhân dân trong vùng đã lấy ngày mất của hai ông làm ngày mở hội đền, còn gọi là ngày “giỗ trận” - lễ hội lớn của làng La Khê. Theo các tài liệu khảo cổ, đền Quan Đại vốn có kiến trúc kiểu chữ Nhị. Trải qua thời gian, đền bị phá hủy, chỉ còn lại nền móng và bia mộ. Ngôi đền ngày nay được người dân Tiền An góp công góp của xây dựng vào năm 1993 với ba gian bái đường và 3 gian hậu cung. Hiện nay trong đền vẫn còn lưu giữ nhiều hiện vật có giá trị lịch sử, văn hóa của hai danh nhân, như bia ký, sắc phong, ảnh, đồ thờ tự… của 2 vị công thần anh hùng Trương Quốc Dụng và Văn Đức Giai... Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Ninh .

Quảng Ninh 2033 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Hải Yến

Đình Hải Yến có tên chữ là “Hải Yến đình” thuộc xóm Tây (xóm Hai) thôn Hải Yến, xã Yên Hải, huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Ninh. Làng Hải Yến trước đây có tên là Hải Triền. Làng Hải Triền được lập vào thời Lê do một số cư dân ở Tuần Châu và Hải Dương đến quai đê lấn biển lập nên. Đầu thế kỷ XIX, Hải Triền được đổi thành Hải Yến. Theo tài liệu Hán Nôm còn lại đình Hải Yến được xây dựng thời Hậu Lê, do nhân dân trong làng cùng nhau đóng góp tiền của và công sức xây dựng. Đình đã qua nhiều lần trùng tu, sửa chữa đặc biệt năm 1815 niên hiệu Gia Long và năm 1963 đã tổ chức trùng tu với quy mô lớn. Căn cứ vào sắc phong của các vua triều Nguyễn phong tặng cho đình Hải Yến thì thành hoàng của đình là 3 vị thần: Diệu cảm mặc phu, chương hiển đôn ngưng, dực bảo trung hưng, linh phù đương cảnh thành hoàng Linh Ứng chi thần; Dực bảo trung hưng linh phù đương cảnh thành hoàng Uy Minh chi thần; Dực bảo trung hưng linh phù bản thổ thành hoàng Đại Hải Phạm chi thần. Nhưng hiện nay chỉ còn lại thần tích của một vị thần là “Đại Hải Phạm chi thần”. Đại Hải Phạm chi thần chính là Phạm Tử Nghi. Ông là một võ tướng thời Mạc, tên húy là Phạm Thành, tên chữ là Tử Nghi. Ông là một vị tướng tài. Sau khi ông qua đời các triều đại phong kiến đều phong ông làm thần. Nhân dân làng Hải Triền (Hải Yến ngày nay) thì tôn ông làm Thành hoàng và thờ ở đình làng. Đình Hải Yến là một ngôi đình làng bề thế, tọa lạc giữa làng mạc trù phú, dân cư đông đúc. Đình có kiến trúc độc đáo, kết cấu bằng gỗ, mái lợp ngói vẩy, bốn mái đao cong vút như những mũi thuyền đang rẽ sóng lướt tới, các vì kèo liên kết với nhau chắc chắn, những bức chạm trổ công phu, khéo léo với các hình rồng, tản mây, hoa lá, tứ linh... tạo thành bức tranh sinh động, hấp dẫn. Đây là một công trình kiến trúc nghệ thuật đặc sắc mang nét đặc trưng của thời Hậu Lê giai đoạn đầu thế kỉ XVIII. Tuy đã trải qua 300 năm kể từ khi khởi dựng, nhưng được sự đầu tư trùng tu, tôn tạo qua các thời, ngôi đình vẫn giữ được tương đối nguyên vẹn nét kiến trúc cổ truyền. Với giá trị tiêu biểu về kiến trúc nghệ thuật đình Hải Yến đã được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng cấp Quốc gia theo Quyết định số 59/2003/QĐ-BVHTT, ngày 29/10/2003. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Ninh.

Quảng Ninh 2221 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Chưa mở cửa

MIẾU TIÊN CÔNG

Miếu Tiên Công (còn gọi là Đền Thập cửu Tiên Công) nằm ở Thôn Cẩm Thành, xã Cẩm La, cách trung tâm thị xã khoảng 5km, thờ 17 vị tiên Công “Thập thất Tiên Công”, quê ở Phường Kim Hoa, phủ Hoài Đức, thành Thăng Long. Đây là những người có công đầu trong sự nghiệp quai đê lấn biển, lấn sông thành lập nên khu đảo hà Nam, trong đó có xã Cẩm La. Miếu tiên công xưa kia là ngôi đền thờ 19 vụ Tiên Công có công đầu tiên quai đê lấn biển lập nên khu đảo Hào Nam – Yên Hưng vào năm 1434. Các vị Tiên Công được thờ tại Miếu gồm: Vũ Song, Vũ Hồng Tiệm, Bùi Huy Ngoạn, Ngô Bách Đoan, Nguyễn Phúc Cốc, Nguyễn Phúc Thắng, Nguyễn phúc Vinh, Lê Khép, Lê Mở, Vũ Tam Tỉnh, Vũ Giai, Nguyễn Nghệ, Nguyễn Thực, Bùi Bách Niên, Phạm Việt, Dương Quang Tín, Dương Quang Tấn, Hoàng Nông, Hoàng Nênh. Tuy nhiên hiện nay còn 17 vị có quê gốc ở phường Kim Hoa, phủ Hoài Đức, Hà Nôi được thờ tại Miếu, vì nhân dân thôn Trung Bản đưa 2 bài vị của 2 vị Tiên Công là Hoàng Nông, Hoàng Nênh là tổ họ của xã mình về thờ tại “Tiên Công cổ Miếu” thuộc thôn Trung Bản. Miếu Tiên Công thờ Thập thất Tiên Công có từ thời Hậu Lê trên vị trí hiện nay, nhưng ban đầu bằng ngôi nhà vách đất lợp tranh tre. Đến triều vua Gia Long năm thứ III (1804) mới xây dựng bằng gạch ngói khang trang. Miếu được xây dựng trên một khu đất cao, quay về hướng Đông, có diện tích 2.912m2, kiến trúc kiểu chữ nhị (=), kết cấu 3 gian, 2 trái, mái lợp ngói mũi hài. Phía trước là bái đường, tiếp là sân, sau là nhà thờ tổ. Kiến trúc trong miếu thể hiễn rõ phong cách nghệ thuật kiến trúc thời Nguyễn. Miếu Tiên Công đã trải qua nhiều lần trùng tu, gần đây nhất là các năm 1804, 1920, 1931, 1946, 1994. Tại bái đường, trên ban thờ còn lưu giữ được bức đại tự khắc 4 chữ sắc phong của vua Tự Đức năm thứ 28 “Phong Lưu nghĩa dân” và một sắc phong bằng gỗ của vua Khải Định năm thứ 9 sắc phong 17 vị Tiên Công là “Dực bảo Trung hưng chi thần” Trong Miếu có đôi câu đối đáng chú ý: Thiên cổ khai canh công vĩnh tại Ức niên phụng trị phúc du đồng Nghĩa là: Muôn thuở khai canh công còn mãi Ngàn năm thờ phụng phúc vô cùng Miếu Tiên Công không chỉ có giá trị về lịch sử - văn hoá, mà còn là một “Bảo tàng” mỹ thuật trưng bày các hiện vật rất có giá trị về điêu khắc gỗ. Ngoài các bức chạm truyền thống được thể hiện ở các vì kèo, đầu bẩy, đầu dư, con rường… các đồ thờ tự ở đây đều thể hiện được sự điêu luyện của nghề mộc mỹ nghệ của nhân dân địa phương. Các khán thờ, sắc phong, hương án, bát bửu đều được sơn son thếp vàng. Những đường nét chạm trổ trên các hiện vật thờ tự, từ bài vị cho đến các khám thờ, các bức cửa võng, đại tự, câu đối, đều mang đậm nét riêng biệt của bản sắc văn hoá dân tộc với nhiều đề tài phong phú, đa dạng như tứ linh, hổ phù, rồng chầu, hoa lá cách điệu, mây mác, cá chép hoá rồng… tất cả đều tạo nên một vẻ linh thiêng, tôn kính. Miếu Tiên Công được Nhà nước công nhận Di tích Lịch sử & Văn hóa năm 1989. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Ninh .

Quảng Ninh 2164 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Khu di tích lịch sử Pò Hèn

Khu di tích lịch sử Pò Hèn là nơi ghi lại những giây phút chiến đấu anh dũng, hào hùng của quân và dân ta, trận chiến bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc. Ngày 17/2/1979 đã đi vào lịch sử Việt Nam như một khúc ca bi tráng về tinh thần anh dũng, bất khuất, kiên trung của những người con nơi địa đầu đã không tiếc máu xương, sẵn sàng hi sinh để bảo vệ chủ quyền biên giới của dân tộc. Trong cuộc chiến đó, 73 chiến sỹ đã anh dũng hy sinh để bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ, biên giới thiêng liêng của Tổ quốc. Tiêu biểu phải kể đến đó là: Trung Úy đồn phó Đỗ Sỹ Họa, tuy bị thương vẫn không rời trận địa, chiến đấu đến hơi thở cuối cùng; Chiến sỹ Nông Văn Điều - Người đã phát hiện ra địch sớm nhất và tiên phong chiến đấu với quân địch khi chúng mới bắt đầu tấn công vào cổng đồn; Chiến sỹ Hoàng Văn Túc đã kiên cường chiến đấu đến khi hết đạn lại đến chốt khác của đơn vị để chiến đấu và hi sinh trong tư thế đang chiến đấu; Hoàng Thị Hồng Chiêm – Người con gái dũng cảm của Móng Cái - Cô nhân viên thương nghiệp Hải Ninh đã anh dũng hi sinh để bảo vệ mảnh đất quê hương, bảo vệ biên cương Tổ quốc Việt Nam… Với những thành tích xuất sắc trong cuộc đấu tranh bảo vệ Tổ Quốc, ngày 19/12/1979, cán bộ, chiến sĩ Đồn biên phòng 209 Pò Hèn đã được Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.. Sau sự kiện tháng 2/1979, Đồn 209 Pò Hèn chuyển đi xây dựng ở địa điểm mới. Khu tưởng niệm liệt sỹ Pò Hèn, được khởi công tôn tạo vào ngày 19/5/2010, nhân kỷ niệm 110 năm ngày sinh nhật của Bác và được khánh thành vào ngày 10/1/2011; Là công trình được huy động XHH 100%, do Bộ chỉ huy BP Tỉnh Quảng Ninh làm chủ đầu tư, với sự hiến tặng kinh phí, cơ sở vật chất của các tập thể, đơn vị, cá nhân ở khắp mọi miền đất nước với tầm lòng tri ân sâu sắc. Đài tưởng niệm quay mặt về hướng Bắc, với tổng diện tích khuôn viên là 86.304m2, gồm các hạng mục công trình chính là: đài tưởng niệm, đỉnh hương, nhà bia, sân khu tưởng niệm và vườn cây ; cao 16 mét được xây dựng bằng chất liệu bê tông cốt thép, ốp đá trắng. Hai bên là hai nhà bia, bên trong có đặt một tấm bia làm bằng đá xanh nguyên khối khắc tên 86 liệt sỹ là bộ đội biên phòng Đồn 209 Pò Hèn, nhân viên thương nghiệp và công nhân lâm trường Hải Sơn. Hàng năm, vào các dịp Lễ, Tết, ngày kỷ niệm, ngày truyền thống và nhân dịp tổ chức các sự kiện chính trị của địa phương, các hoạt động “Tri ân các anh hùng liệt sỹ” được tổ chức tại đây. Khu di tích lịch sử Pò Hèn không chỉ là bằng chứng lịch sử về tinh thần, ý chỉ quyết tâm, sự chiến đấu dũng cảm, ngoan cường quyết tâm bảo vệ chủ quyền từng tấc đất thiêng liêng nơi biên giới của Tổ quốc, của tập thể cán bộ, chiến sĩ Đồn Biên Phòng 209 Pò Hèn, của tập thể cán bộ, nhân viên Lâm Trường và nhân dân nơi đây. Đây còn là một địa chỉ đỏ để giáo dục truyền thống yêu nước nơi biên giới. Di tích được xếp hạng cấp tỉnh theo Quyết định số 178/QĐ-UBND ngày 23/01/2014 và xếp hạng cấp Quốc gia theo Quyết định số 2288/QĐ-BVHTTDL ngày 20/9/2022 và được giao cho Đồn biên phòng Pò Hèn trực tiếp quản lý. Nguồn Cổng thông tin điện tử thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh.

Quảng Ninh 2544 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Xã Tắc.

Đền Xã Tắc tọa lạc tại một vị trí đặc biệt, cạnh bờ sông Ka Long (Ranh giới biên giới Việt – Trung), thuộc khu 3 phường Ka Long, thành phố Móng Cái. Năm 2005 , di tích đền Xã Tắc đã được công nhận là di tích cấp Tỉnh - theo quyết định số: 2332/QĐ-UBND tỉnh Quảng Ninh ngày18/7/2005. Theo Hồ sơ xếp hạng di tích, Đền được xây dựng vào khoảng cuối thế kỉ XIII, đầu thế kỷ thứ XIV dưới thời nhà Trần để thờ thần Xã Tắc – Bản cảnh thành hoàng của châu Móng Cái xưa. Tại đây thờ Xã Tắc Đại Vương, Hưng Nhượng Đại Vương Trần Quốc Tảng, Cao Sơn Đại Vương, Long thần thổ địa của bản thôn và các vị tiên công của những dòng họ đã có công đến khai khẩn vùng đất này. Năm 2005, đền đã được UBND tỉnh Quảng Ninh xếp hạng là di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh. Theo lời kể của các cụ cao niên sống quanh khu vực này, trước kia, Đền Xã Tắc được xây dựng tại mép sông Thác Mang với quy mô khá lớn gồm ba gian nhà, mặt quay về hướng Nam, mái lợp ngói âm dương. Đầu thế kỷ XX, trong một lần bão lớn, Đền bị sạt lở và được nhân dân di chuyển vào trong khu vực Xoáy nguồn với quy mô nhỏ hơn trước. Trải qua những biến đổi thăng trầm của thời gian, đến nay, đền được trùng tu nhiều lần, lần trùng tu lớn nhất là vào năm Kỷ Mão 1879. Trong cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc năm 1979, đền bị phá hủy, chỉ còn lại một vài tấm bia và nền móng cũ. Sau năm 1989, đền được phục hồi lại với quy mô nhỏ. Để đáp ứng mong mỏi của quần chúng nhân dân dân muốn có một cơ sở thờ tự khang trang, quy mô, năm 2009, đền Xã Tắc đã được UBND tỉnh Quảng Ninh ra Quyết định cho phép phục hồi và giao cho UBND thành phố Móng Cái làm chủ đầu tư giai đoạn I và BTS Giáo hội phật giáo tỉnh Quảng Ninh làm chủ đầu tư giai đoạn II, triển khai dự án bằng nguồn vốn xã hội hóa. Đền Xã Tắc ngày nay được xây dựng theo hướng Nam, trên một khu đất cao, thoáng mát với diện tích khuôn viên khoảng 20.000m2 , phía Đông giáp sông Ka Long, ba mặt còn lại giáp với khu vực đất thuê của công ty liên doanh khách sạn Hồng Vận. Ngôi đền chính có diện tích 308 m2, được xây dựng theo kiểu chữ “công”. Trong đó: tòa tiền đường gồm ba gian hai chái, hai gian chung đường và ba gian hậu cung. Đền được xây dựng chủ yếu bằng gỗ lim, mái lợp ngói vảy rồng, tường xây gạch. Đền được xây hai tầng tám mái với những họa tiết hoa văn chạm trổ truyền thống, tinh xảo, mái lợp ngói mũi hài. Hiện nay, Đền Xã Tắc vẫn còn lưu giữ được ba tấm bia cổ có niên đại từ những năm 1879, trên đó có ghi danh những người đã góp công, góp của để trùng tu, xây dựng lại đền. Đền Xã Tắc là một di tích lịch sử văn hóa có quy mô lớn và lịch sử lâu đời. Đây từng là địa điểm sinh hoạt tín ngưỡng, tâm linh linh thiêng của cư dân Móng Cái và các vùng lân cận, ngoài những ngày cúng rằm và mồng một hàng tháng. Hàng năm, tại đền còn diễn ra 5 ngày lễ chính là ngày 16/1, 2/5, 16/8, 16/12, 18/12 (ÂL). Trong những ngày này, người dân trong khu vực được chia thành 5 tổ. Trong một năm, mỗi tổ được phân công lo một lễ chính. Ngày 16/1 là ngày lễ cầu an. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch vừa ban hành Quyết định số 3238/QĐ-BVHTTDL ngày 4/11/2020 về việc xếp hạng Di tích cấp Quốc gia đối với Di tích lịch sử đền Xã Tắc (phường Ka Long, TP Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh). Nguồn Cổng thông tin điện tử thành phố Móng Cái , tỉnh Quảng Ninh.

Quảng Ninh 2176 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Điểm di tích nổi bật