Di tích lịch sử

Việt nam

Lăng Hoàng Gia

Lăng Hoàng gia được xây dựng năm 1826, gồm lăng mộ và đền thờ ông Phạm Đăng Hưng, là ông ngoại Vua Tự Đức, thân sinh bà Thái hậu Từ Dũ, vợ vua Thiệu Trị. Vào cuối thế kỷ thứ 16, ông Phạm Đăng Long theo cha vào vùng Gò Công. Lúc ông đến Gò Rùa (Sơn Quy), thấy thế đất rất đẹp nhưng toàn vùng Gò Công lúc bấy giờ không có chỗ nào đào được giếng có nước ngọt. Sau đó ông phát hiện ra mạch nước ngầm ở Gò Sơn Quy, nên quy tập mồ mả 3 đời về đây và xây nhà ở gò đất này. Ông Phạm Đăng Hưng là con thứ 3 của ông Phạm Đăng Long, sinh ra tại Gò Sơn Quy, vào năm 1764 (nay là ấp Lăng Hoàng Gia, xã Long Hưng, Thị Xã Gò Công – tỉnh Tiền Giang). Ông là người thông minh, văn võ song toàn. Năm 1784, lúc 20 tuổi, ông thi đỗ Tam trường, được triều đình bổ làm Lễ sinh ở Phủ, sau đó được thăng Lại bộ Tham tri. Đến năm 1824 được sắc phong Lễ bộ Thượng thư, năm 1825 ông được giao phó giữ kinh thành Huế. Mùa hạ năm 1825, Phạm Đăng Hưng thọ bệnh và mất, linh cữu được đưa về quê hương, an táng tại Gò Sơn Quy. Năm 1849, ông được vua Tự Đức truy phong Tước Đức Quốc công. Ông có 4 người con làm quan to trong triều Nguyễn. Vua Minh Mạng kết thông gia gả công chúa cho con trai ông là Phạm Đăng Thuật và phong chức Phò mã Đô úy. Vua Minh Mạng cũng cưới con gái của ông là Phạm Thị Hằng (tức bà Từ Dũ) cho Hoàng tử Miên Tông, sau này là vua Thiệu Trị. Lăng được xây dựng do ông Phạm Đăng Tá, con trai trưởng của Phạm Đăng Hưng xây dựng trên phần đất rộng 3.000 m2, ngay trên nền nhà cũ của dòng họ Phạm Đăng. Các nghệ nhân tài hoa bậc nhất chuyên xây dựng lăng tẩm, cung đình từ Huế được đưa vào cùng với nghệ nhân địa phương xây dựng nên công trình kiến trúc độc đáo, mang đậm phong cách cung đình. Năm 1849, khi vua Tự Đức truy phong Phạm Đăng Hưng lên tước Đức Quốc công đã cho trùng tu, mở rộng nhà thờ, xây thêm tam cấp, cổng tam quan, ban thần vị theo nghi thức cung đình. Vào từ đường, chúng ta thấy nơi chính vị thờ Đức Quốc công Phạm Đăng Hưng; bên trái thờ Phước An hầu Phạm Đăng Long, là cha của Phạm Đăng Hưng; bên phải thờ Bình Thạnh bá Phạm Đăng Dinh; căn chót bên trái thờ Mỵ Khánh tử Phạm Đăng Tiên, ông cố Phạm Đăng Hưng và bên phải thờ Thiềm sự phủ Phạm Đăng Khoa, là ông sơ Phạm Đăng Hưng. Mộ Phạm Đăng Hưng táng trên gò cao có hình dáng mai rùa. Mộ xây theo kiểu dáng đỉnh trụ hình bát giác, trông vừa như chiếc nón lá vừa như búp sen. Mặt sau mộ, xây bình phong hình bán nguyệt, trên có chạm 4 con rồng, dưới có 5 con kỳ lân. Ngũ đại thành xương - Tường lân ống hiện, (Năm đời danh giá tốt đẹp - Điềm lành kỳ lân hiện ra ). Vòng quanh mộ ông có một số phù điêu trang trí như búp sen, cá hóa long… Vào năm 1888, vua Thành Thái lên ngôi, chuẩn bị vào viếng lăng nên cho trùng tu. Năm Khải Định 1921 lăng được trùng tu một lần nữa và đến năm 1998 ngôi nhà thờ được đại trùng tu, phần nào trả lại những nét kiến trúc đặc biệt dành cho Hoàng tộc tại xứ Gò nổi tiếng. Ngày 2/12/1992, Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận Khu lăng mộ Hoàng gia là Di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia. Nguồn: Sở Văn Hóa, Thể Thao Và Du Lịch Tỉnh Tiền Giang

Đồng Tháp 3699 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền thờ Trương Định

Trương Định (Trương Công Định) sinh năm 1820, người xã Tư Cung, huyện Bình Sơn, nay thuộc huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi. Trương Định là con của quan Thuỷ Vệ Uý Trương Cầm, tỉnh Gia Định. Năm 1844 Trương Định theo cha vào Nam và cưới vợ là bà Lê Thị Thưởng con một nhà hào phú ở làng Tân Phước, huyện Tân Hoà, khi cha mất Trương Định ở luôn quê vợ Tân Hoà. Năm 1854, hưởng ứng chính sách khẩn hoang của triều đình Huế do Nguyễn Tri Phương thi hành, ông đem hết tài sản đi chiêu mộ dân nghèo vùng Quảng Nam - Quảng Ngãi vào khai hoang lập đồn điền ở Gia Thuận, thuộc huyện Gò Công Đông ngày nay và được bổ chức Phó Quản Cơ của đồn điền. Trong thời gian khẩn hoang Trương Định đã gặp và cưới bà Trần Thị Sanh là anh em con cô con cậu với bà Từ Dũ Thái Hậu (mẹ vua Tự Đức). Tháng 4/1861, thực dân Pháp chiếm thành Định Tường, Tháng 11/1861 chiếm thành Biên Hòa và đến tháng 3/1862, giặc Pháp tấn công chiếm thành Vĩnh Long. Triều đình ký hòa ước "Nhâm tuất" vào ngày 5/6/1862 cắt 3 tỉnh miền Đông là Biên Hòa, Gia Định và Định Tường cho Pháp. Tiếp đó, triều đình ra lệnh cho Trương Định bãi binh, phong làm Lãnh binh An Hà, buộc phải bãi binh ở Tân Hoà và gấp rút nhận chức mới ở An Giang. Nhưng lòng dân và nghĩa quân không chịu, trong lúc đang lưỡng lự giữa ý dân và lệnh vua chưa biết ngã về đâu thì Ông nhận được thư của nghĩa hào huyện Tân Long (Chợ Lớn), tỏ ý muốn cử Ông làm chủ soái 3 tỉnh để giết giặc. Cảm kích sự tính nhiệm của những người yêu nước và nhân dân, Ông đã khước từ lệnh của triều đình và nhận danh hiệu "Bình Tây Đại Nguyên Soái" do nhân dân phong, tiếp tục cuộc chiến đấu chống giặc Pháp. Ngày 20/8/1864, giặc Pháp bất ngờ bao vây đánh úp nghĩa quân tại Đám lá tối trời, truy kích Ông và nghĩa quân. Ông rút toàn bộ lực lượng ra khỏi Gò Công và chọn Lý Nhơn, một vị trí nằm giữa vùng đất phù sa có rừng dừa nước che kín giáp ranh Biên Hoà (nay là TP Hồ Chí Minh) làm phòng tuyến mới . Cuối tháng 9/1863 giặc mở cuộc bao vây đánh úp căn cứ nầy. Thoát được cuộc bố ráp truy kích của giặc ở Lý Nhơn, Trương Định trở về Đám lá tối trời, một mặt Ông xây dựng lại lực lượng và kêu gọi các sĩ phu yêu nước hãy đứng lên góp công góp sức, hiến kế đánh giặc, đó là hịch tháng 8/1864. Hưởng ứng lời hiệu triệu của Ông khắp nơi một làn sóng kháng chiến lại nổi lên ở Mỹ Tho, Tân An, Gò Công, Cần Giuộc, Chợ lớn và vùng giáp ranh Biên Hoà làm cho giặc Pháp hoang mang và càng ra sức truy tìm để diệt Ông. Đêm 19/8/1864, dò biết nơi ở của Trương Định, tên phản bội Huỳnh Công Tấn cho quân bao vây đột nhập vào nhà. Trương Định và những nghĩa quân của ông chiến đấu chống trả quyết liệt, diệt được một số quân địch, nhưng lại bị thương nặng, biết mình không sống được và quyết không để rơi vào tay giặc, Ông đã rút gươm tự sát để bảo toàn khí tiết người anh hùng, năm ấy ông tròn 44 tuổi. Sau khi Trương Định mất vào ngày 20/8/1864, bà Trần Thị Sanh là người vợ thứ của Trương Định và nhân dân mang Ông về an táng rất trọng thể, tại một địa điểm nay thuộc thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang. Năm 1964, ngôi mộ và đền thờ Ông được tu bổ khang trang và giữ nguyên dáng dấp đến ngày nay. Ngoài mộ và đền thờ tại thị xã Gò Công, nhân dân còn lập một đền thờ tại xã Gia Thuận huyện Gò Công Đông, nơi được gọi là "Đám lá tối trời" mà Trương Định và nghĩa quân từng làm căn cứ chống Pháp để thờ Ông. Di tích mộ và đền thờ Trương Định ở thị xã Gò Công được Bộ Văn hóa-Thông tin công nhận là di tích cấp quốc gia ngày 30/8/1987. Còn đền thờ Trương Định ở xã Gia Thuận huyện Gò Công Đông được công nhận là di tích cấp quốc gia năm 2004. Nguồn: Sở Văn Hóa, Thể Thao Và Du Lịch Tỉnh Tiền Giang

Đồng Tháp 3920 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chiến lũy Pháo Đài của Trương Định

Di tích Lũy Pháo Đài thuộc ấp Pháo Đài (xã Phú Tân, huyện Tân Phú Đông), đây là di tích lịch sử dân tộc được xếp hạng cấp quốc gia năm 1987. Theo tư liệu của Tiến sĩ Nguyễn Phúc Nghiệp (Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Tiền Giang), Di tích Lũy Pháo Đài có lịch sử như sau: Để bảo vệ Cửa Tiểu, năm Minh Mạng thứ 15 (năm 1834), Triều đình nhà Nguyễn cho xây dựng tại đây Đồn Từ Linh, chu vi 60 trượng (378m), cao 5 thước 5 tấc (2,57 m), mở hai cửa. Năm Thiệu Trị thứ 3 và thứ 7 (1834 - 1847) được sửa chữa lại. Sau khi thành Định Tường thất thủ, tháng 4/1861, Trương Định về Tân Hòa xây dựng căn cứ kháng Pháp. Đồn Từ Linh được sử dụng làm chiến lũy, gọi là chiến lũy Pháo Đài, có trang bị súng thần công loại lớn (vị trí đặt khẩu thần công trước kia nằm tận ngoài giữa hai hướng cửa thành Tây và Tây Bắc cạnh đầu bờ sông Cửa Tiểu và rạch Đồn chừng 60m). Lũy Pháo Đài xung quanh là thành đất đắp cao, dày có 6 cạnh cân đối khá đều nhau, thành hình lục lăng (lục giác), trên thành đất trồng me, chính giữa có cây trôm to và giếng nước. Theo hướng Đông-Nam, Pháo Đài có một gò tròn cao 21m tên Thổ Sơn, được xem là đài quan sát của nghĩa quân. Bên ngoài thành lũy có rừng kè, đước, dừa nước, bần bao bọc; dưới lòng sông, để bảo vệ cửa sông và ngăn chặn tàu chiến của địch có ủi bãi xung phong lên bờ. Ngoài ra, để làm tàu địch giảm tốc độ và làm bia cho những khẩu thần công để đẩy địch dạt sang bờ Trại Cá cho nghĩa quân tiêu diệt, Trương Định đã đổ đá hàn một đoạn theo chiều rộng của sông Cửa Tiểu trước chiến lũy về hướng Tây gọi là Đập Đá Hàn. Đập này ngày nay vẫn còn và đã được đánh dấu để tàu bè ra vào không vướng. Chiến lũy Pháo Đài đã cùng nghĩa quân trấn giữ một cửa biển quan trọng của Đồng bằng sông Cửu Long. Năm 1987, Lũy Pháo Đài được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia. Năm 2000, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã tiến hành xây dựng nhà bia Di tích Lũy Pháo đài. Nhà bia có kiến trúc đẹp, thoáng mát và trang nghiêm, với chiều cao 9,4 m, rộng 8,4 m, mái ngói, cột bê tông, nền tôn cao 2m so với mặt đất và đã tiến hành phục chế 2 súng thần công. Trong quá trình thi công làm đường vào Khu di tích Lũy Pháo Đài, xe Kobe đã đào lên 2 viên gạch lạ ở độ sâu khoảng 1,4 m, hướng Đông (quay ra biển), dưới chân đồn lũy và tặng cho Bảo tàng Tiền Giang. Qua khảo sát trực tiếp tại thực địa, Bảo tàng Tiền Giang phát hiện thêm 4 viên gạch thẻ khá to nằm lẫn trong đất, đều bị gãy, hình dạng khác nhau, nhưng đặc biệt trên đầu mỗi viên gạch đều có chữ khắc chìm: Giáp tam, giáp ngũ, giáp bát, giáp cửu. Theo Phòng Văn hóa - Thông tin huyện Tân Phú Đông cho biết: Di tích Lũy Pháo Đài được đưa vào tuyến tham quan truyền thống với các cụm di tích quốc gia khác ở khu vực Gò Công như: Đền thờ Anh hùng dân tộc Trương Định, Nhà Đốc Phủ Hải, Đám lá tối trời... Di tích này không chỉ là điểm tham quan mà còn trở thành một trong những “địa chỉ đỏ” cho thế hệ trẻ về quá trình dựng nước và giữ nước hào hùng của cha ông. Hiện nay, Lũy Pháo Đài đang được trùng tu, xây mới các hạng mục như: Hệ thống hàng rào bảo vệ, lối đi và đường đi vào khu di tích. Nguồn: Cổng Thông tin điện tử tỉnh Tiền Giang

Đồng Tháp 5385 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích chiến thắng lịch sử Rạch Gầm - Xoài Mút

Di tích lịch sử Rạch Gầm - Xoài Mút gắn liền với chiến công hiển hách của dân tộc ta chống quân Xiêm (1785), diễn ra trên đoạn sông Tiền từ Rạch Gầm đến Xoài Mút (nay thuộc xã Kim Sơn, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang). Trận đánh Rạch Gầm - Xoài Mút là bằng chứng khẳng định cho tài thao lược của người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ và sức mạnh của phong trào Tây Sơn - phong trào nông dân đảm nhận sứ mạng bảo vệ đất nước, chống giặc ngoại xâm. Nửa sau thế kỷ 18, trong bối cảnh Trịnh – Nguyễn phân tranh, nhiều cuộc khởi nghĩa của nông dân đã nổ ra ở cả Đàng Trong và Đàng Ngoài. Năm 1771, vua Xiêm (Thái Lan) Chakki 1 cử 5 vạn quân, gồm 3 vạn bộ binh và 2 vạn thủy binh sang xâm lược nước ta. Đêm ngày 19 rạng sáng ngày 20/01/1785, từ Trà Tân - cách Rạch Gầm khoảng 15km về phía thượng nguồn, quân Xiêm dưới sự chỉ huy của Chiêu Tăng với 300 chiến thuyền, xuôi dòng tấn công vào Mỹ Tho. Vừa qua khỏi Rạch Gầm, toàn bộ chiến thuyền Xiêm bị lọt vào trận địa mai phục của quân Tây Sơn. Nguyễn Huệ trực tiếp đốc chiến… Mọi cố gắng chống cự của giặc đều bị đập tan, các chiến thuyền bị đánh chìm hoặc bốc cháy. Kết quả, gần 5 vạn quân Xiêm - Nguyễn bị tiêu diệt, hơn 300 chiến thuyền Xiêm bị nhấn chìm, tàn quân giặc phải liều chết mở đường máu mới thoát được thân, chạy bộ qua Chân Lạp. Di tích chiến thắng Rạch Gầm - Xoài Mút hiện nay là các công trình được xây dựng trên địa điểm diễn ra sự kiện lịch sử năm xưa, gồm các hạng mục: cổng, tường rào, tượng đài (phòng trưng bày số 1), phòng trưng bày số 2 và nhà cổ Nam bộ (phòng trưng bày số 3). Cổng: rộng 4,1m, cao 6,61m, trên trụ cổng và tường rào bao bọc chung quanh di tích được làm theo dạng hình thuyền. Tượng đài Chiến thắng Rạch Gầm - Xoài Mút: bằng đồng, nặng 20 tấn cao 8m, đứng trên bệ tượng bê tông cao 10m. Phòng trưng bày số 1: nằm ngay phía dưới tượng đồng, xây dựng theo hình thuyền chiến, có diện tích 135m2. Mặt tường ngoài trang trí dãy phù điêu bằng đồng có chiều rộng 0,8m, nặng 6 tấn, với hoa văn, họa tiết chim lạc, hình người cầm khiên chiến đấu (được lấy nguyên mẫu từ Trống đồng Đông Sơn)... Trong phòng trưng bày các hiện vật, vũ khí của nghĩa quân Tây Sơn và quân Xiêm. Phòng trưng bày số 2: tổng diện tích 132m2, diện tích trưng bày 93,5m2. Nội dung trưng bày diễn biến trận đánh Rạch Gầm – Xoài Mút. Nhà cổ Nam bộ (phòng trưng bày số 3): Đây là ngôi nhà cổ 3 gian, xây dựng từ năm 1927, tái hiện hình ảnh ngôi nhà vườn cổ Nam Bộ. Trong nhà cổ có trưng bày một số hiện vật liên quan đến chiến thắng Rạch Gầm - Xoài Mút. Chiến thắng Rạch Gầm - Xoài Mút lấy mốc thời gian là ngày 20/01/1785 để làm lễ kỷ niệm. Với những giá trị đặc biệt, Di tích lịch sử Địa điểm chiến thắng Rạch Gầm- Xoài Mút (huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang) đã được xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt ngày 31/12/2014. Nguồn: Cục di sản văn hoá

Đồng Tháp 5487 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Di tích lịch sử Ngã Tư Rạch Kiến

Di tích lịch sử, văn hóa “ Ngã Tư Rạch Kiến”, tọa lạc tại ấp 1, xã Long Hòa, huyện Cần Đước. Đây là nơi ghi dấu sự hình thành và phát triển của Vành đai diệt Mỹ Rạch Kiến nổi tiếng ở Long An trong kháng chiến chống Mỹ. Ngày 20/12/1966, đế quốc Mỹ đổ quân xuống tái chiếm Rạch Kiến với âm mưu khống chế, đánh phá vùng giải phóng Cần Đước, Cần Giuộc hòng tiêu diệt lực lượng cách mạng và cứu vãn tình thế đang ngày càng rệu rã suy sụp ngụy quân, ngụy quyền ở vùng này. Từ căn cứ này địch liên tục bắn pháo đi các nơi bất kể ngày đêm. Ngày nào chúng cũng tung lực lượng đi càn để tìm cách tiêu diệt lực lượng của ta. Được sự chỉ đạo của Thường trực Tỉnh ủy, một vành đai diệt Mỹ ở Rạch Kiến được thiết lập, vành đai diệt Mỹ bao gồm 12 xã. Lực lượng vũ trang của huyện lúc này có 7 Trung đội địa phương với quân số trên 200 người, ngoài ra còn 5 Trung đội du kích liên xã quân số trên 100. Mỗi xã đều có 1 trung đội du kích, mỗi ấp có từ 1 đến 3 tổ du kích mật. Lực lượng địch mạnh cả về quân sĩ và cả về phương tiện vũ khí chiến đấu. Trên vành đai diệt Mỹ, ta tổ chức đào khắp các đoạn đê làm chướng ngại vật cản xe của địch. Đoạn đường từ ngã tư Xoài Đôi đi ngã tư An Thuận và đoạn đường từ căn cứ Rạch Kiến đi Tân Trạch, Long Sơn là những đoạn đường ta thường gài mìn diệt nhiều xe tăng dọc hai bên sông Đôi Ma đều có giao thông hào địa hình do ta tác chiến, có bố trí các bãi chông mìn diệt địch. Hầm chông còn được ta bố trí ở khắp nơi, trên đường hành quân, ngoài gò mả, đồng ruộng… Trong thôn ấp, nhiều công sự cá nhân và đào các giao thông hào bọc theo lộ đất trong xã và liên xã. Mỗi con đường đi vào thôn đều có bố trí cửa chiến đấu “trên các ngã đường ta dựng lên các phòng thông tin, các hình nộm, đặt các bảng khẩu hiệu”… Năm 1966, tại ngã ba Long Sơn, lực lượng C315 chống càn với địch. Ta tiêu diệt 1 trung đội Mỹ. Năm 1967, lực lượng tiểu đoàn 1 của ta phối hợp với du kích xã chống càn với 1 tiểu đoàn lính Mỹ có phi cơ yểm trợ, tại ấp 4 xã Phước Tuy trận này ta diệt khoảng 50 tên và bắn rơi 1 máy bay Mỹ. Cũng vào năm 1967 lực lượng bộ đội tỉnh kết hợp với bộ đội huyện, C315 diệt gọn 1 đại đội lính Mỹ ở đồn Long Khê làm cho địch phải bỏ luôn căn cứ này. Bằng thế trận chiến tranh nhân dân trên Vành đai diệt Mỹ Rạch Kiến, dựa trên 3 mũi cơ bản là quân sự, chính trị, binh vận được phối hợp một cách nhuần nhuyễn, liên hoàn với nhau, ta đã cô lập căn cứ Mỹ và làm cho lực lượng địch ở nơi đây tổn thất nặng nề. Vùng giải phóng phía Nam lộ 4 được giữ vững và mở rộng, trở thành hậu phương trực tiếp và là bàn đạp tấn công vào Sài Gòn vào Tết Mậu thân –1968 của các binh đoàn chủ lực và lực lượng vũ trang Long An. Vành đai diệt Mỹ Rạch Kiến là một hình thái chiến tranh nhân dân phát triển đến đỉnh cao ở Long An, góp phần đánh bại chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Mỹ - ngụy (1966-1967). Năm 1996 ''Ngã Tư Rạch Kiến'' được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia ngày 28-6-1996. Nguồn: Ban Tuyên Giáo Tỉnh Ủy Long An

Tây Ninh 4859 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích lịch sử Ngã tư Đức Hòa

Di tích lịch sử Ngã tư Đức Hòa tọa lạc tại trung tâm thị trấn Đức Hòa. Tại đây, vào ngày 4/6/1930, dưới sự lãnh đạo của đồng chí Châu Văn Liêm- Bí thư Liên Tỉnh ủy Gia Định-Chợ Lớn và đồng chí Võ Văn Tần - Bí thư Huyện ủy Đức Hòa, khoảng 5000 đồng bào các xã trong huyện đã tham gia cuộc biểu tình hô vang khẩu hiệu đòi quyền dân sinh dân chủ, chống sưu cao thuế nặng, chống lính vào làng đàn áp nhân dân. Xuất phát trên những ngả đường khác nhau, các đoàn người biểu tình đã gặp nhau tại khu vực ngã tư Đức Hòa vào lúc 17 giờ, và cùng tiến về phía Dinh Quận, đòi gặp quận trưởng Huỳnh Văn Đẩu (còn gọi quận Sành) để giải quyết các yêu sách của ta. Trước khí thế đấu tranh mạnh mẽ của quần chúng, quận Sành rất khiếp sợ không dám trực diện với nhân dân. Để đối phó với tình hình trên, địch phải xin điều binh tiếp viện. Đến 20 giờ được sự tiếp viện của địch từ hướng Chợ Lớn kéo đến- trong đó có cả cảnh sát Hóc Môn, Chợ Lớn và 20 lính mã tà của Sở cảnh sát Sài Gòn do tên cò Dreuil chỉ huy - quận Sành ra lệnh giải tán đoàn biểu tình, đe dọa quần chúng. Chúng tìm cách truy xét để tìm người cầm đầu cuộc biểu tình. Tất cả bọn lính đều được vũ trang, sẵn sàng dùng bạo lực để đàn áp đoàn người. Trước sự hung hăng của kẻ định, tinh thần của quần chúng không hề nao núng, đồng bào vẫn tiếp tục xiết chặt tay nhau tiến lên. Tên cò Dreuil ra lệnh bắn xả vào đoàn người, vài người đi đầu đã ngã xuống trước tầm súng địch trong tiếng la thét phẫn nộ của quần chúng. Trong tình thế căng thẳng trên, đồng chí Châu Văn Liêm nhanh chóng tiến lên phía trước gặp tên cò Dreuil để đưa bản yêu sách, đồng thời trực tiếp tranh luận vạch trần những hành động dã man và biết bao tội ác của địch bằng vốn tiếng Pháp thông thạo. Cuộc tranh luận kéo dài khoảng 15 phút, thì bất ngờ tên cò Dreuil rút súng lục bắn trúng vào giữa ngực đồng chí Châu Văn Liêm. Bọn lính vẫn ngoan cố tiếp tục nã súng vào đoàn biểu tình, làm thêm nhiều người chết và bị thương, cách dinh quận không đầy 100m. Đoàn biểu tình chựng lại, tản ra nhưng chưa hẳn giải tán. Mãi đến khi địch điều thêm lực lượng, bắt đi khoảng 100 người với sự thị thực của Thống đốc Nam Kỳ và Chủ tỉnh Chợ Lớn Renault thì cuộc biểu tình mới chấm dứt. Cuộc biểu tình bị dìm trong biển máu, nhưng nó đã gây chấn động lớn thời bấy giờ: Lần đầu tiên trong một vùng thôn quê yên tĩnh, đã nổ ra cuộc chạm trán quyết tử với kẻ thù vì quyền lợi sống còn của hàng vạn người dân bị áp bức bóc lột từ bao đời nay. Cuộc biểu tình ngày 4/6/1930 ở Đức Hòa được xem là đỉnh cao của phong trào cách mạng tỉnh Tân An- Chợ Lớn năm 1930. Nó chứng minh cho khả năng lãnh đạo, vận động quần chúng đấu tranh của Đảng, và niềm tin một lòng theo Đảng của người dân Đức Hòa. Sang những năm 1940-1941, người dân Đức Hòa tiếp tục hưởng ứng và tham gia cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ do Đảng lãnh đạo ngay chính trên quê hương mình. Sau Nam Kỳ khởi nghĩa, thực dân Pháp thẳng tay đàn áp phong trào cách mạng của quần chúng. Cũng trong thời điểm này, ở thị trấn Đức Hòa một đài xử bắn được lập nên để hành hình những chiến sĩ tham gia cuộc khởi nghĩa. Tại đây, trong 3 ngày mồng 7, mồng 8, mồng 9 tháng 7 năm 1941, bọn chúng đã liên tiếp xử bắn các đồng chí, chiến sĩ yêu nước. Súng nổ, máu đỏ cả trường bắn. Các chiến sĩ ta hy sinh trong sự tiếc thương của bà con khắp thị trấn Đức Hòa hôm đó. Khu vực Ngã tư Đức Hòa với những địa điểm như: Dinh Quận gắn với cuộc biểu tình ngày 4/6/1930 của hơn 5000 nhân dân Đức Hòa; Đài xử bắn các chiến sĩ tham gia cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ 1940-1941…là những chứng tích lịch sử tố cáo tội ác của bọn thực dân xâm lược, và là niềm tự hào của người dân Đức Hòa nói riêng và dân tộc Việt Nam nói chung về tinh thần đấu tranh không mệt mỏi để giành lấy nền độc lập tự do. Ngày 5/9/1989, Bộ Văn hóa Thông tin đã công nhận Khu vực Ngã tư Đức Hòa là di tích lịch sử cấp Quốc gia. Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Tỉnh Long An

Tây Ninh 6429 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích lịch sử căn cứ Xứ ủy và Ủy ban hành chính kháng chiến Nam Bộ

Di tích lịch sử Căn cứ Xứ ủy và Ủy ban Hành chính - Kháng chiến Nam Bộ tọa lạc tại xã Nhơn Hòa Lập, huyện Tân Thạnh, tỉnh Long An - là di tích quốc gia mang nhiều dấu ấn lịch sử. Căn cứ Xứ ủy và Ủy ban Hành chính - Kháng chiến Nam Bộ là 1 trong 3 căn cứ địa quan trọng nhất của cách mạng miền Nam trong kháng chiến chống Pháp. Nơi đây ghi dấu quá trình hoạt động cách mạng của các đồng chí lãnh đạo của Đảng, những nhà chính trị và những nhà quân sự nổi tiếng trong lịch sử cách mạng Việt Nam: Lê Duẩn, Tôn Đức Thắng, Ung Văn Khiêm, Phạm Hùng, Phạm Văn Bạch, Phạm Ngọc Thuần, Nguyễn Bình, Huỳnh Tấn Phát, Trần Văn Trà,...Đồng thời là nơi diễn ra những sự kiện lịch sử trọng đại của cách mạng miền Nam trong những năm đầu kháng chiến chống thực dân Pháp - nơi ghi dấu những chiến công oanh liệt của quân và dân Nam bộ. Từ những năm 1946 – 1949, Xứ ủy Nam Bộ, Ủy ban kháng chiến hành chánh Nam Bộ, Bộ Tư lệnh Nam Bộ và các cơ quan trực thuộc đã chọn địa bàn xã Nhơn Hòa Lập, huyện Tân Thạnh làm căn cứ để lãnh đạo chống thực dân Pháp tái xâm lược trên phạm vi toàn Nam Bộ. Đây chính là địa điểm ghi dấu nhiều sự kiện trọng đại của dân tộc, là nơi lưu niệm quá trình hoạt động của các đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng, những nhà hoạt động chính trị, những nhà lãnh đạo quân đội. Di tích lịch sử Căn cứ Xứ ủy và Ủy ban hành chính kháng chiến Nam bộ (1946-1949) xã Nhơn Hòa Lập, huyện Tân Thạnh, tỉnh Long An đã được Bộ Văn hóa - Thông tin nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 03/08/2007. Nguồn: Trang Thông Tin Huyện Ủy Tân Thạnh

Tây Ninh 4237 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Phước Lâm

Chùa Phước Lâm hay còn gọi là Chùa Ông Miêng, là một ngôi chùa cổ, tọa lạc tại ấp Xóm Chùa, Xã Tân Lân, huyện Cần Đước, tỉnh Long An. Chùa Phước Lâm được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng là di tích cấp quốc gia năm 2002. Theo Sách Di tích Quốc gia trên địa bàn tỉnh Long An do Sở Văn hóa-Thể thao và Du lịch xuất bản năm 2021, vào năm 1880, một người khá giả ở làng Tân Lân, ông Bùi Văn Minh đã cải gia vi tự, lấy ngôi nhà mình lập chùa có tên gọi là Phước Lâm Tự, vừa thờ Phật vừa làm từ đường cho dòng họ Bùi. Vì có công khai cơ lập làng nên sau khi qua đời, ông Bùi Văn Minh được dân chúng tôn làm hậu hiền và đưa vào phối tự trong đình Tân Lân. Ngôi chùa do ông lập ra ngoài tên chữ Hán là Phước Lâm Tự, ngoài ra còn có tên là chùa ông Miêng (do lệ cữ tên húy ông Minh). Nhìn về tổng thể, ngôi chùa gồm 3 phần: chánh điện - hậu tổ, khu mộ tháp và nhà trù. Chánh điện là một ngôi nhà lớn được xây dựng theo kiểu bánh ít, có móng đá xanh, tường gạch, lợp ngói vảy cá. Toàn bộ cột chùa đều bằng danh mộc hình trụ tròn, được kê trên các chân tán đá xanh, liên kết với nhau bởi hệ thống xiên, vì kèo, sườn mái, tạo cho không gian bên trong sự rộng rãi thoáng mát. Nội thất chánh điện chùa Phước Lâm còn giữ được những nét cổ kính dù trải qua nhiều lần trùng tu với hơn 40 tượng Phật, Bồ Tát, Ngọc Hoàng, Thị Giả, Thập Điện Diêm Vương, Thiện, Hộ Pháp, Kim Cương… nhiều bộ bao lam, hoành phi, liễn đối được sơn son thếp vàng rực rỡ. Đa số tượng Phật có chất liệu gỗ, đồng được chế tác từ thế kỷ 19 với phong cách nghệ thuật mang đậm nét văn hóa Phật giáo Nam Bộ. Có một pho tượng rất đặc biệt tạc một vị Bồ Tát mình mặc cà sa, tay cầm phất trần, ngồi trên long mã bằng gỗ. Những bộ bao lam, hoành phi, liễn đối đều được chạm trổ rất công phu. Đặc biệt nhất là bức hoành Pháp luân thường chuyển chạm lộng nhiều lớp có dạng cuốn thư với chủ đề cúc trĩ. Chữ Thọ được chạm nổi tách làm đôi ở hai đầu cuốn thư và 4 chữ pháp luân thường chuyển sơn đỏ trên nền vàng góp phần làm tăng đường nét tinh xảo, sinh động cho hoành phi. Đây là một trong những bức hoành đẹp nhất ở Long An chứng minh trình độ nghệ thuật điêu luyện của nghề chạm khắc gỗ ở Cần Đước đã phát triển mạnh vào thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Cũng như những ngôi chùa làng khác ở Nam Bộ, phía sau chánh điện chùa Phước Lâm là tổ đường theo đúng công thức Tiền Phật - Hậu Tổ. Tổ đường có bàn thờ và di ảnh của các vị trụ trì đã quá vãng, di ảnh và bàn thờ Bùi Công- người khai sơn chùa và bàn thờ của họ Bùi. Bên hông chánh điện là 4 ngôi mộ tháp khá cổ kính trong đó có tháp bảo đồng của tổ khai sơn Hồng Hiếu và ngôi mộ của ông Bùi Văn Minh. Phía sau chùa là hồ sen rộng nở đầy hoa. Không chỉ có giá trị về mặt nghệ thuật, chùa Phước Lâm còn có ý nghĩa về mặt lịch sử khi nơi đây từng che giấu các chiến sĩ cách mạng trong suốt những năm chống Pháp và Mỹ. Mái già lam ở Xóm Chùa từng là nơi lui tới hoạt động cách mạng của lãnh đạo địa phương thời kháng chiến. Sở chỉ huy trận đánh Xóm Chùa nổi tiếng ở Tân Lân năm 1962 cũng được đặt tại chùa Phước Lâm. Vì là cơ sở cách mạng nên chùa Phước Lâm thường xuyên trở thành mục tiêu bắn phá của kẻ thù. Trên chánh điện của chùa vẫn còn những vết tích chiến tranh in hằn trên cột gỗ. Chùa Phước Lâm là tổ đình của hệ phái Lục Hòa ở Cần Đước. Vào những ngày rằm, khá đông thiện nam, tín nữ đến chùa lễ Phật, cầu kinh như để xua đi bao nỗi ưu phiền của cuộc sống đời thường và hòa đồng với nhau trong tình thương bao la của Phật. Nguồn: Ban Tuyên Giáo Tỉnh Ủy Long An

Tây Ninh 4571 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Khu di tích Lịch sử Cách mạng tỉnh Long An

Khu di tích lịch sử cách mạng tỉnh Long An (còn gọi là di tích Bình Thành) tọa lạc tại xã Bình Thành, nay thuộc xã Bình Hòa Hưng, huyện Đức Huệ, tỉnh Long An. Khu di tích đã được công nhận Di tích lịch sử cấp quốc gia vào năm 1998. Cùng với sự ra đời và phát triển của những phong trào đấu tranh chống xâm lược, căn cứ khu vực Bình Thành đã trở thành một địa danh lịch sử. Nơi đây, sau khởi nghĩa Nam Kỳ, các chiến sĩ cách mạng đã xây dựng căn cứ địa đầu tiên ở Nam bộ để tiếp tục chiến đấu. Trong kháng chiến chống Pháp (1945-1954), đây là quân khu Đông Thành, có một thời gian đây cũng là căn cứ của Bộ Tư Lệnh khu 7 và Tỉnh ủy Chợ Lớn. Trong 21 năm chống Mỹ, khu vực Bình Thành với bề dày truyền thống đã được Tỉnh ủy Long An chọn làm căn cứ để tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc đến ngày thắng lợi hoàn toàn. Căn cứ cách mạng Bình Thành trong kháng chiến chống Mỹ rộng lớn, cơ động, linh hoạt bởi lẽ cuộc chiến rất ác liệt, địch dùng mọi thủ đoạn để tiêu diệt, nên tỉnh ủy Long An phải linh đông dời đổi địa điểm và phạm vi hoạt động nhiều lần, tuy vẫn bám trụ căn cứ. Di tích khu vực Bình Thành là trung tâm của căn cứ, là nơi Tỉnh ủy và các ban ngành của tỉnh đóng trụ sở lâu nhất, các phế tích còn lại rõ nhất. Năm 1920, huyện Cửu An được đổi tên thành huyện Thủ Thừa, lúc này di tích thuộc xã Bình Thành, tổng Cửu Cư Thượng, thuộc huyện Thủ Thừa, tỉnh Tân An. Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, huyện Đức Huệ, Đức Hòa được sát nhập vào địa giới tỉnh Long An. Di tích lúc bấy giờ thuộc xã Bình Thành, huyện Đức Huệ. Khu di tích lịch sử cách mạng tỉnh Long An là nơi ghi dấu những sự kiện lịch sử trọng đại trong quá trình kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Đặc biệt, di tích là nơi ghi dấu ấn đậm nét quá trình ra đời và hoạt động của Tỉnh ủy, Tỉnh đội Long An trong 21 năm kháng chiến chống Mỹ. Tại đây, Tỉnh ủy Long An đã kiên cường bám trụ, trước mọi thủ đoạn nhằm hủy diệt khu căn cứ của giặc, để lãnh đạo phong trào đấu tranh, góp phần quyết định vào thành tích cao quý, Long An trung dũng, kiên cường. Di tích cũng là nơi ghi dấu sự có mặt và hoạt động của Xứ ủy Nam bộ, các cơ quan cao cấp Xứ ủy, cấp Khu, nhiều đơn vị vũ trang của Miền, nhiều nhà lãnh đạo Đảng và quân đội trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước; là bằng chứng cụ thể của quá trình đấu tranh gian khổ và hy sinh cao cả từ buổi đầu kháng Pháp đến chống Mỹ, cứu nước của đồng bào, chiến sĩ không riêng ở Long An mà từ khắp mọi miền đất nước. Nguồn: Cổng Thông Tin Tỉnh Ủy Long An

Tây Ninh 4744 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Nhà trăm cột

Nhà trăm cột còn được gọi là Nhà ông Hội Đồng hay nhà ông Cả nằm ở tả ngạn sông Vàm Cỏ Đông, thuộc xã Long Hựu Đông, huyện Cần Đước, tỉnh Long An. Ngôi nhà này do ông Trần Văn Hoa lúc ấy là Hương Sư làng Long Hựu, tổng Lộc Thành Hạ ,tỉnh Chợ Lớn xây dựng. Ông làm việc trong Hội đồng Thuộc địa Nam Kỳ của chính quyền Pháp, ông là người có uy tín trong xã hội. Dù gọi là nhà trăm cột nhưng sự thực, ngôi nhà có đến 120 cột, trong đó 68 cột chính và 52 cột vuông nhỏ phụ trợ. Nhà trăm cột có kiểu chữ Quốc, 3 gian, 2 chái đôi với diện tích 822m2 trong một khu vườn rộng 4.886m2. Ngôi nhà này được khởi công vào năm 1901, đến năm 1903 thì hoàn thành và năm 1904 thì xong phần chạm khắc trang trí do nhóm 15 thợ từ làng Mỹ Xuyên – làng chạm khắc mộc nổi tiếng của Thừa Thiên – Huế thực hiện bằng chất liệu chủ yếu là các loại gỗ quý như cẩm lai, mun… mái lợp ngói âm dương, nền nhà bằng đá tảng cao 0,9m, mặt nền lát gạch Tàu lục giác. Nhà gồm có hai phần: phần trước là phần nội tự – ngoại khách, phần sau là phần để ở và sinh hoạt. Lẫm lúa ở sau cùng đã tháo dở (1952), nay chỉ còn nền móng. Mặt chính nhà quay về hướng Tây Bắc, quanh nhà có sân rộng dùng để phơi lúa, bột. Hành lang, hiên và nền nhà được lát gạch Tàu, không gian rộng rãi hướng ra khu vườn rộng nên luôn mát mẻ. Cửa chính và các cửa sổ có song hình con tiện, bản gỗ. Kết cấu chính của Nhà Trăm Cột kiểu xuyên trính ( còn gọi là nhà đâm trính, nhà rường), khung sườn kiểu bát trụ, định vị theo hướng Tây – Đông, Tiền – Hậu. Các bộ phận của kết cấu chính như trính, trổng đều chạy chỉ , uốn cong kiểu nhà rường ở miền Trung. Tiếp giáp giữa bộ phận trính và trổng để đỡ đòn dông nóc nhà được cách điệu hình chày cối, tượng trưng cho âm dương hòa hợp (nên còn gọi là kiểu nhà chày cối). Đây là kiểu nhà truyền thống có nhiều ưu điểm bởi bộ khung rất chắc chắn. Đặc biệt, trang trí trong kiến trúc ở Nhà Trăm Cột cho thấy nghệ thuật điêu khắc của các nghệ nhân ngày trước ở vào trình độ bậc cao qua cách bố cục, thể hiện đề tài cũng như xử lý kỹ thuật. Toàn bộ hệ thống vì kèo, xuyên được chạm nổi, chạm lọng rất công phu các đề tài vân hóa long, tứ thời kiểu dây lá hóa đặc trưng của Huế rất sắc sảo. Các gian nội tự và ngoại khách là nơi tập trung cao nhất giá trị thẩm mỹ của công trình mà người xưa đã gửi gấm trên từng nét chạm. Đó là một tập hợp đa dạng, phong phú các đề tài cổ điển như tứ linh, tứ thời, bát quả; các mô típ thể hiện Phúc – Lộc -Thọ bên cạnh các đề tài phương Tây như hoa hồng, sóc – nho, cùng các yếu tố Nam bộ như mãng cầu, bình bát,khế,măng cụt, đã được các nghệ nhân thể hiện công phu trên các bao lam, các khung ô hộc, vách ngăn, vách lá gió, bàn thờ , ghế nghi, bàn tròn , bàn dài, bằng kỹ thuật chạm lọng, chạm nổi, chạm bong kênh, chạm nổi trên nền chạm lọng, hết sức điêu luyện và tài tình. Với giá trị ấy, năm 1997 Nhà Trăm Cột đã được Bộ Văn Hóa – Thông Tin xếp hạng là Di tích lịch sử – văn hóa Quốc Gia. Nguồn: Du lịch Long An

Tây Ninh 4324 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Lăng Mộ và đền thờ ông Nguyễn Huỳnh Đức

Di tích lăng mộ và đền thờ Nguyễn Huỳnh Đức tọa lạc tại phường Khánh Hậu, thành phố Tân An, tỉnh Long An. Quần thể di tích gồm đền thờ, lăng mộ và nhà trưng bày tư liệu với diện tích khoảng 1.300 m2. Nguyễn Huỳnh Đức tên thật là Huỳnh Tường Đức, sinh năm 1748 tại Giồng Cái Én, làng Tường Khánh, tổng Hưng Thượng, huyện Kiến Hưng, trấn Định Tường nay là phường Khánh Hậu, thành phố Tân An, tỉnh Long An. Ông sinh ra trong một gia đình có truyền thống 3 đời võ nghiệp, nên có cốt cách làm tướng từ nhỏ, sức khỏe, thần thái cũng hơn người. Năm 1780, ông theo phò chúa Nguyễn Ánh lập nhiều công lớn nên được ban họ vua. Khi Nguyễn Ánh lên ngôi, lấy hiệu vua Gia Long, Nguyễn Huỳnh Đức được phong Quận công, rồi làm Tổng trấn Bắc thành. Sáu năm sau, ông làm Tổng trấn Gia Định cùng cai quản toàn miền Nam. Tương truyền dân gian và sử sách ghi lại, ông là người trung cang, nghĩa khí, võ nghệ cao cường, mọi người đều gọi ông là “Hổ tướng”. Ngày mồng 9 tháng chín năm Kỷ Mão (1819), ông mất và an táng tại quê nhà. Lăng mộ Tiền quân Nguyễn Huỳnh Đức được xây dựng năm 1817 (trước khi ông mất) và vẫn còn tồn tại gần như nguyên vẹn cho đến ngày nay. Với chất liệu đá ong và vữa tam hợp, di tích chịu ảnh hưởng bởi phong cách, kiểu dáng kiến trúc thời Nguyễn nhưng vẫn mang bản sắc địa phương và đã trở thành điển hình cho lối kiến trúc lăng mộ của tầng lớp quan lại đầu thế kỷ 19. Lăng nhìn chính hướng nam, mặt bằng kiến trúc hình chữ nhật, thuộc loại hình đơn táng. Án ngữ ở lối vào mộ phía bắc là bình phong từ đá ong cao 3m, có đắp nổi hoa văn mai – lộc. Đường thần đạo dài 17 m dẫn từ bình phong đến phần chính của mộ. Kết cấu kiến trúc từ ngoài vào trong gồm: cửa lăng, bình phong tiền, sân tế, bia mộ, nấm mộ và bình phong hậu. Bao quanh là lớp tường thành kết hợp các trụ biểu búp sen. Bia mộ tạc bằng đá Non Nước Ngũ Hành Sơn, chạm nổi hoa văn tinh xảo hình mặt trời, hoa lá hóa rồng ở hai bên trán bia; diềm bia trang trí chạm nổi hình hoa cúc dây, hoa mai; trung tâm bia mộ đề quốc hiệu Việt Cố, mộ của Khâm sai Gia Định thành Tổng trấn, Chưởng Tiền quân, tặng thời Trung Dực vận công thần, Phụ quốc thượng tướng quân, Thượng trụ quốc, Thái phó Nguyễn Huỳnh tước Quận công, bia được lập vào tháng 11 năm Kỷ Mão (1819). Phía sau bia là nơi chôn cất thi hài Nguyễn Huỳnh Đức với một nấm mộ phẳng dài. Sau nấm mộ là Bình phong hậu khép lại kiến trúc lăng mộ. Đáng chú ý là trên bức bình phong hậu có bài minh văn tương truyền nội dung minh văn do chính vua Gia Long ngự phê để ghi nhớ công lao của một đại thần đã cùng mình vào sinh ra tử, từng là người bảo toàn tính mạng cho vua và sự trung hưng của triều Nguyễn. Cách mộ 20m về phía Nam là đền thờ Nguyễn Huỳnh Đức. Từ năm 1819 đến 1959, gia tộc thờ ông trong ngôi nhà xưa do Vua Gia Long sai người dựng cách ngôi mộ khoảng 500m. Vào năm 1959, để tiện cho việc thờ cúng, gia tộc đã xây dựng ngôi đền thờ mới này theo kiểu tứ trụ, 2 tầng mái, cửa gỗ trông ra hướng Đông. Ngay sau cửa chính đền thờ có đặt hương án chạm rồng, phụng, hoa lá sơn son thếp vàng, phía trên có bức họa truyền thần Tiền quân Nguyễn Huỳnh Đức được vẽ năm 1802. Trong đền có nhiều cổ vật và tư liệu rất giá trị. Di tích Lăng mộ và Đền thờ Nguyễn Huỳnh Đức đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng là di tích quốc gia ngày 11/05/1993. Nguồn: Du lịch Long An

Tây Ninh 6114 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Khu di tích lịch sử Vàm Nhựt Tảo

Vàm Nhựt Tảo là nơi ghi dấu chiến công vang dội đốt tàu Pháp của anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực. Vàm Nhựt Tảo đã được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng là di tích Quốc gia năm 1996. Toàn bộ khu di tích tọa lạc tại địa phận xã An Nhựt Tân (nay là xã Tân Bình), huyện Tân Trụ, tỉnh Long An. Nguyễn Trung Trực có tên khai sinh là Nguyễn Văn Lịch, còn gọi là Chơn, sinh năm 1838 tại xóm Nghề, làng Bình Nhựt, tổng Cửu Cư Hạ, huyện Cửu An, phủ Tân An (nay thuộc xã Thạnh Đức, huyện Bến Lức, tỉnh Long An). Ngay từ khi thực dân Pháp nổ súng tấn công thành Gia Định, ông đã tham gia vào đội nghĩa binh kháng chiến dưới quyền chỉ huy của Trương Định và được cử về hoạt động chống Pháp trên địa bàn phủ Tân An. Được sự giúp đỡ của hương chức làng Nhựt Tảo ông đã bố trí một kế hoạch táo bạo, thông minh để đánh tàu L' Espérance, một tiểu hạm của Pháp đang hoành hành trên vùng sông nước huyện Cửu An. Sáng ngày 10/12/1861, sau khi bố trí lực lượng phục kích trên bờ và dụ cho một bộ phận địch rời khỏi tàu, Nguyễn Trung Trực đã cùng 59 nghĩa quân lên 5 chiếc ghe giả làm ghe buôn lúa tiến sát tàu địch. Trong lúc trình giấy thông hành, ông đã bất ngờ giết tên lính Pháp rồi cùng nghĩa quân tấn công lính Pháp trên tàu L' Espérance. Không kịp trở tay, toàn bộ địch trên tàu bị tiêu diệt ( chỉ có 5 tên chạy thoát). Nghĩa quân dùng dầu và đồ dẫn hỏa đốt cháy tàu L' Espérance. Ngọn lửa bốc cao từ từ nhấn chìm tàu xuống đáy sông sâu. Tin chiến thắng Nhựt Tảo bay đi làm nức lòng quân dân cả nước. Triều đình Huế đã thăng Nguyễn Trung Trực lên chức Quản Cơ, hậu thưởng cho nghĩa quân, cấp tử tuất và hỗ trợ tiền cho làng Nhựt Tảo (bị quân Pháp triệt hạ). Thực dân Pháp cũng hết sức bàng hoàng vì chúng không thể ngờ rằng nghĩa quân có thể gây cho chúng tổn thất lớn như thế. Nối tiếp khí thế hào hùng đó, ngay sau trận Nhựt Tảo, nghĩa quân đồng loạt nổi dậy công phá hệ thống đồn lũy của Pháp ở 3 tỉnh miền Đông, trong đó có trận Cần Giuộc (16/12/1861) đã đi vào lịch sử cùng với bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc bất hủ.Thời gian lặng lẽ trôi, vàm Nhựt Tảo vẫn còn đó như gợi lại trong lòng khách vãng lai một niềm hoài cổ. Tàu L' Espérance sau gần 120 năm nằm yên dưới đáy sông sâu đã được khai quật. Tổng số hiện vật thu được là 89, trong đó có 78 hiện vật gỗ, 8 hiện vật sắt, 2 hiện vật đồng và 1 hiện vật thủy tinh. Qua nghiên cứu các hiện vật gỗ ta còn thấy đầy đủ các bộ phận để hợp thành bộ khung của tàu như cong đà, be, lườn, cột buồm. Tuy đã bị đục để lấy đi phế liệu nhưng tàu L' Espérance vẩn còn một số mảnh gỗ bọc đồng hiện rõ vết cháy loang lổ. Tất cả những hiện vật nêu trên đã được bảo quản và trưng bày tại Bảo Tàng Long An nhằm giới thiệu khách tham quan trong và ngoài nước những bằng chứng cụ thể về chiến công oanh liệt của người anh hùng dân chài Nguyễn Trung Trực cách nay hơn một thế kỷ. Nguồn: Du lịch Long An

Tây Ninh 6124 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Tôn Thạnh

Nằm cạnh tỉnh lộ 835 thuộc địa phận xã Mỹ Lộc, huyện Cần Giuộc là một ngôi chùa đã nổi tiếng từ lâu trong lịch sử và văn học: Chùa Tôn Thạnh - một di tích lịch sử đã được Bộ Văn Hoá Thông Tin xếp hạng cấp Quốc gia ngày 27/11/1997. Chùa Tôn Thạnh ban đầu có tên là chùa Lan Nhã được Thiền sư Viên Ngộ sáng lập năm 1808. Thiền sư có thế danh là Nguyễn Ngọc Dót, con của ông Nguyễn Ngọc Bình và bà Trà Thị Huệ ở làng Thanh Ba tổng Phước Điền Trung huyện Phước Lộc. Ban đầu thiền sư tu học ở chùa Vĩnh Quang, gần chợ Trường Bình, được sư phụ đặt cho pháp danh là Viên Ngộ. Thuở ấy đường vào chợ Trường Bình cỏ cây rậm rạp, lầy lội khó đi, hùm beo, thú dữ thường ra làm hại người. Thấy vậy thiền sư Viên Ngộ phát nguyện một mình chặt cây, đắp đường từ chợ Trường Bình xuống thôn Tích Đức và phường Hòa Thuận dài 250 trượng. Năm Gia Long thứ 7 (1808) sư Viên Ngộ đến làng Thanh Ba (nay thuộc xã Mỹ Lộc) cất chùa Lan Nhã - đó chính là chùa Tôn Thạnh hiện nay. Theo Đại Nam Nhất Thống Chí, đây là ngôi chùa ''rường cột tráng lệ, vàng son huy hoàng'' nổi tiếng ở đất Gia Định xưa. Thiền sư còn cho đúc tượng Địa Tạng Bồ Tát bằng đồng để thờ trong chùa. Tương truyền, khi đúc lần đầu, tượng Bồ Tát bị khuyết, thiền sư Viên Ngộ đã chặt một ngón tay của mình cho vào nồi nước đồng để tượng đúc lần sau được viên mãn. Ông không những là một người con chí hiếu mà còn là một người đầy lòng từ bi bác ái. Khi cha bị bệnh, thiền sư đã thề trước Phật đài là sẽ ''trường tọa'' 10 năm để kéo dài tuổi thọ cho cha. Năm Minh Mạng nguyên niên (1820) trong vùng có dịch đậu mùa, sư Viên Ngộ đã nguyện ''trì kinh niệm Phật, chung thân tịch cốc'' để cầu cho nhân dân thoát khỏi cơn tai ách. Năm Thiệu Trị thứ 5 (1845), ông thấy mình đã xuất gia 40 năm mà chưa đắc đạo nên tịch thủy 49 ngày rồi viên tịch. Pháp thân của ông được tăng chúng an táng ở bảo tháp phía tây chùa Tôn Thạnh. Tưởng nhớ đến một thiền sư suốt đời hy sinh thân mình để đem lại điều lành cho chúng sinh, nhân dân đã gọi chùa Tôn Thạnh là chùa Tăng Ngộ hay chùa Ông Ngộ. Mười sáu năm sau khi thiền sư Viên Ngộ viên tịch, chùa Tôn Thạnh đã đi vào lịch sử nước nhà với bài văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của nhà thơ mù Nguyễn Đình Chiểu. Trong ba năm 1859-1861 nhà chí sĩ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu đã về đất Thanh Ba, lấy chùa Tôn Thạnh làm nơi dạy học, làm thơ và làm thuốc. Trong trận tập kích đồn Tây Dương tại chợ Trường Bình đêm rằm tháng 11 năm Tân Du, một trong ba cánh nghĩa quân đã xuất phát từ chùa Tôn Thạnh đốt nhà dạy đạo, chém rơi đầu quan hai Phú Lang Sa. Cảm khái trước tấm lòng vị nghĩa của những người ''dân ấp dân lân'', nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã sáng tác nên bài văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc nổi tiếng tại chùa Tôn Thạnh. Lịch sử đã lưu danh ngôi chùa này của đất Long An qua những câu văn bất hủ: ''Chùa Tôn Thạnh năm canh ưng đóng lạnh, tấm lòng son để lại ánh trăng rằm. Đồn Lang sa một khắc đặng trả hờn, tủi phận bạc trôi theo dòng nước đổ''. Trải qua bao cuộc thăng trầm của lịch sử, chùa Tôn Thạnh ngày nay không còn nguyên vẹn cảnh ''rường cột tráng lệ, vàng son huy hoàng'' như xưa. Thay vào đó là một tổng thể kiến trúc bao gồm tiền điện, chánh điện, nhà giảng, đông lang, tây lang mái lợp ngói, tường gạch. Tuy nhiên chùa Tôn Thạnh vẫn giữ được nét cổ xưa qua hệ thống cột kiểu tứ tượng ở chánh điện, những tượng Phật có từ đầu thế kỷ 19, và các hoành phi câu đối chữ hán sơn son thếp vàng. Bên phải chùa Tôn Thạnh hiện còn hai bia kỷ niệm được xây dựng vào năm 1973 và 1997 để lưu lại dấu tích của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu. Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Tỉnh Long An

Tây Ninh 3937 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Khu lưu niệm Nguyễn Thông

Khu lưu niệm Nguyễn Thông thuộc ấp Bình Trị 2, xã Phú Ngãi Trị, huyện Châu Thành, tỉnh Long An. Đây là nơi lưu niệm danh nhân Nguyễn Thông: một trí thức yêu nước, nhà hoạt động văn hóa lớn của Nam kỳ lục tỉnh nửa cuối thế kỷ 19. Nguyễn Thông tên thật là Nguyễn Thới Thông, tên chữ là Hy Phần, hiệu là Kỳ Xuyên, biệt hiệu Độn Am, sinh năm 1827 trong một gia đình nhà nho nghèo ở thôn Bình Thanh - tổng Thạnh Hội Hạ, huyện Tân Thạnh, phủ Tân An, Gia Định (nay là xã Phú Ngãi Trị, huyện Châu Thành, tỉnh Long An). Thuở nhỏ, Nguyễn Thông nổi tiếng thông minh, hiếu học. Năm 18 tuổi, ông được gia đình gửi ra Huế để có điều kiện học tập tốt hơn. Năm 1849, ông đỗ Cử nhân trong kỳ thi Hương tại trường thi Gia Định, nhưng khi thi Hội bài vấy mực nên bị đánh hỏng. Nguyễn Thông bắt đầu cuộc đời quan trường năm 1851 với chức Huấn đạo huyện Phú Phong, tỉnh An Giang. Tháng 2/1859, khi thực dân Pháp đánh chiếm thành Gia Định, ông tòng quân vào Nam chiến đấu và trở thành trợ thủ đắc lực của Thống đốc quân vụ đại thần Tôn Thất Hiệp. Sau khi đại đồn Kỳ Hòa thất thủ (tháng 2 năm 1861), ông về Tân An hoạt động chống Pháp cùng với các thủ lĩnh nghĩa quân địa phương. Năm 1862, Nguyễn Thông được Kinh lược sứ Phan Thanh Giản đề cử giữ chức Đốc học Vĩnh Long và giữ chức vụ này từ năm 1863 đến tháng 7/1864. Năm 1865, ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ bị Pháp xâm chiếm, ông cùng với nhiều sĩ phu Nam Kỳ không chịu hợp tác với giặc, nên đã bị bắt ra tỉnh Bình Thuận. Năm 1867, Nguyễn Thông được cử làm án sát Khánh Hòa rồi án sát Quảng Ngãi. Năm 1870, ông tham gia chấm thi Hương ở trường Thừa Thiên rồi làm Biện lý bộ Hình, Bố chánh Quảng Ngãi. Ở đây, Nguyễn Thông đã tích cực thi hành những biện pháp để bài trừ nạn tham ô, hà hiếp dân chúng của bọn cường hào ác bá địa phương. Việc làm này đã đụng chạm tới quyền lợi của một số đại thần trong triều, vì vậy, không lâu sau ông bị cách chức, tống giam và bị xử trượng, sau nhờ dân chúng kêu oan tới vua, mới được giải tội. Năm 1873, ông xin về dưỡng bệnh tại Bình Thuận. Năm 1874, Triều đình cho phục chức, bổ nhiệm ông làm việc tại bộ Lễ nhưng khi đến Huế, ông bị bệnh nên phải cáo quan trở về. Năm 1876, ông lại được triệu về kinh, giữ chức Tư nghiệp Quốc Tử Giám. Năm 1877, triều đình chấp thuận kế hoạch khai hoang vùng La Ngư, Ba Dầu nên cử ông về làm doanh điền sứ Bình Thuận. Năm 1878, bệnh cũ tái phát, ông xin nghỉ dài hạn. Năm 1880, Nguyễn Thông được mật chỉ cùng với các quan địa phương xử vụ nổi dậy của người thiểu số, xử vụ lưu dân từ trong Nam ra. Cũng năm này, ông thành lập Đồng Châu xã và xây dựng Ngọa Du Sào để có nơi làm thơ, đọc sách. Năm 1881, Nguyễn Thông được bổ nhiệm làm Phó sứ điển nông kiêm Đốc học tỉnh Bình Thuận. Năm sau ông được thăng làm Hồng lô tự khanh. Ngày 27/8/1884, Nguyễn Thông mất tại Ngọa Du Sào - Phan Thiết (Bình Thuận). Khu lưu niệm Nguyễn Thông đã được Bộ văn hóa - Thông tin xếp hạng Di tích quốc gia ngày 19/1/2001. Nguồn: Cổng thông tin điện tử Tỉnh ủy Long An

Tây Ninh 3801 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

TRẬN ĐỊA PHÁO VÀ HẦM THỦY LÔI NÚI LỚN

Hầm thủy lôi trên Núi Lớn (thuộc địa bàn phường 5, TP Vũng Tàu ngày nay) do phát xít Nhật xây dựng vào năm 1944. Đây là nơi làm kho chứa vũ khí đánh thủy của quân Nhật. Tuy nhiên, với tinh thần chiến đấu gan dạ, quân ta đã nhiều lần đột nhập vào hầm thủy lôi, lấy vũ khí của địch để chế tạo vũ khí đánh địch. Tháng 7/1941, Nhật buộc Pháp phải ký hiệp ước “Cam kết phòng thủ chung Đông Dương” với Nhật. Với hiệp ước này, Nhật đã chỉ huy Pháp hoàn toàn về mặt quân sự. Đến tháng 10/1941, Nhật đổ bộ vào Vũng Tàu, nhanh chóng chiếm vị trí quan trọng trên Núi Lớn án ngữ cửa biển Vũng Tàu – Cần Giờ. Từ năm 1941-1945, quân phát xít Nhật cho xây dựng nhiều lô cốt, hầm ngầm, hầm chứa đạn, thủy lôi ở lưng chừng Núi Lớn ven theo bờ biển nay thuộc phường 5, TP.Vũng Tàu. Tuy hầm thủy lôi đơn thuần chỉ là kho dùng để cất giữ vũ khí quân sự của quân Nhật, nhưng cũng không kém phần công phu trong quá trình xây dựng. Hầm thủy lôi được xây dựng vào năm 1944, sau 4 tháng thì hoàn tất. Hầm được xây dựng dưới một thung lũng núi kín đáo, xây theo hình vòm, bên trong hầm là vách bê tông cốt thép dày 1m, cao 2,7m. Mặt trước cửa hầm xây đá cao 7m, dài 20m. Các hầm được bố trí thông nhau theo hình chữ U. Hầm chủ yếu tích trữ mìn, thủy lôi để phòng thủ bờ biển, tạo nên một trận địa dưới nước án ngữ cửa biển Vũng Tàu-Cần Giờ. Chiến tranh thế giới lần thứ 2 kết thúc, Nhật đầu hàng quân đồng minh nên đã gỡ những quả thủy lôi dưới biển đưa lên núi cho vào hầm cất giữ và gài chất nổ bên ngoài. Sự thất thế của Nhật trên chiến trường đã tạo điều kiện thuận lợi cho cách mạng Việt Nam từng bước giành thắng lợi. Trong những năm kháng chiến chống Nhật, chống Pháp lâu dài và gian khổ, quân dân Vũng Tàu đã cùng với quân dân Biên Hòa, Bà Rịa không những đánh bại những cuộc càn quét dài ngày của địch vào chiến khu Đ, rừng Sác mà còn tiến sâu vào hậu địch đánh thắng nhiều trận oanh liệt. Trong thời kỳ chiến tranh, những trận đột kích thành công vào hầm thủy lôi Núi Lớn là những chiến công của quân dân Vũng Tàu. Từ vùng Bà Trao (núi Nứa - xã đảo Long Sơn), lực lượng vũ trang và an ninh của ta dựa vào dân đã nhiều lần đột nhập vào hầm đạn và hầm thủy lôi núi Lớn, chiếm lấy khí tài quân sự, vũ khí của địch để trang bị cho quân ta. Việc lấy thủy lôi trở thành một chiến dịch với sự tham gia của hàng trăm người, diễn ra vào buổi tối và hết sức bí mật. Lực lượng ta chia thành các tổ: ám hiệu, canh gác, tháo gỡ lựu đạn, chuyển tải thủy lôi, nuôi quân… Theo kế hoạch, khi có ám hiệu khói lửa, các chuyến ghe của quân dân ta ở Bà Trao từ từ cập sang cảng Bến Đá -Vũng Tàu để tiếp nhận và vận chuyển vũ khí lấy được của địch từ hầm thủy lôi. Tổ canh gác chia làm 2 nhóm cảnh giới từ đầu dốc Bến Đá và gần khu vực tượng Phật Bà Quan Âm bây giờ. Tổ tháo gỡ lựu đạn sẽ cùng với đặc công, du kích, cảm tử quân Thắng Nhì vào hầm thủy lôi, người soi đèn, người gỡ lựu đạn mở cửa, khi lấy xong gài lựu đạn lại như cũ. Nhóm chuyển tải thủy lôi ra ngoài gồng gánh nhau trèo lên sườn núi trong đêm tối mịt mù, khiêng thủy lôi xuống núi, chuyển thẳng ra ghe về bến an toàn. Tổ nuôi quân gồm các bà, các chị lo vận chuyển thức ăn và dầu đốt đèn cho mọi người tham gia các trận đột kích. Cuối tháng 6/1947, sau khi quân địch (quân Pháp tái chiếm lần thứ 2) rút khỏi bốt Bến Đình, các hoạt động đột kích hầm thủy lôi của quân dân ta dễ dàng hơn. Lực lượng của ta đã vận chuyển trung bình một lần 2 trái thủy lôi ra khỏi hầm, mỗi trái nặng hơn 100kg. Trong khoảng thời gian từ năm 1945 - 1954, quân ta đã bí mật lấy khoảng 60 trái thủy lôi để chế tạo bom, mìn làm vũ khí tiêu diệt địch. Ngày 4/8/1992, hầm thủy lôi Núi Lớn được xếp hạng Di tích lịch sử quốc gia. Nguồn: Báo Bà Rịa - Vũng Tàu điện tử.

TP Hồ Chí Minh 4164 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Khu Di tích Lịch sử cách mạng nhà tù Côn Đảo

Khu di tích lịch sử Côn Đảo (Nhà tù Côn Đảo) thuộc huyện Côn Đảo, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, gồm hệ thống nhà tù ở Côn Đảo và các nghĩa trang thuộc hệ thống nhà tù này. Trong lịch sử, chính quyền thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đã cho xây dựng 127 phòng giam, 42 xà lim và 504 phòng giam biệt lập - “chuồng cọp” tại khu vực Côn Đảo. Sau khi đất nước hoàn toàn thống nhất (1975), chức năng của hệ thống nhà tù ở Côn Đảo bị giải thể. Năm 1979, Khu di tích lịch sử Côn Đảo đã được Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt, với 17 di tích thành phần. 1. Nhà Chúa Đảo Khu vực này từng là nơi ở và làm việc của 53 đời Chúa Đảo, trong khoảng thời gian hệ thống nhà tù ở Côn Đảo duy trì hoạt động. Sau ngày giải phóng (1975) đến nay, nhà Chúa Đảo được sử dụng làm nơi trưng bày của Khu di tích lịch sử Côn Đảo. 2. Cầu Tàu Cây cầu được khởi dựng từ năm 1873. Đây cũng là nơi chứng kiến nỗi cực nhục đầu tiên của những người bị đưa ra đảo tù đày. Con số 914 được đặt tên cho cầu cũng là số tù nhân đã bị “ngã xuống” vì lao dịch, tai nạn trong quá trình lao động khổ sai để xây cầu. 3. Trại 1 Trại 1 còn được biết đến qua các tên gọi khác, như Banh 3, Lao 3, Trại Bác Ái, trại Phú Thọ. Trại được xây dựng năm 1928, trên tổng diện tích khoảng 12.700m2. Trong đó, diện tích phòng giam là 1.200m2, bao gồm 3 dãy khám giam, nhà y tế, nhà bếp và nhà ăn, phòng giam tập thể và phòng biệt lập, dãy nhà cầm cố (giam cầm). 4. Trại 2 Trại còn có các tên gọi khác, như Banh 1, Lao 1, Trại Cộng Hòa. Đến tháng 11 năm 1974, trại này được gọi là trại Phú Hải. Trại 2 được xây dựng từ năm 1862 và được chỉnh trang kiên cố vào năm 1896, với diện tích 12.040m2, gồm 02 dãy khám giam, 20 xà lim, bệnh xá, nhà nguyện, giảng đường, khu đập đá, câu lạc bộ, nhà Giám thị... , được bao bọc bởi bốn bức tường cao hơn 4m, xung quanh bố trí nhiều bốt gác. Đây là trại giam lớn và cổ nhất ở Côn Đảo. 5. Trại 3 Trại còn được biết đến qua các tên gọi khác, như Banh 2, Lao 2, Trại Nhân Vị, Trại 3, Trại Phú Sơn. Trại được xây dựng năm 1916, nằm cạnh Banh 1, với diện tích 13.228m2, gồm 13 khám lớn, 14 xà lim, 1 phòng hớt tóc, miếu thờ, phòng y tế, nhà bếp, phòng Giám thị, câu lạc bộ và khuôn viên cây xanh, bao quanh là hệ thống tường đá (cao 4m) và nhiều bốt gác. 6. Trại 4 Có tổng diện tích 5804m2, gồm 8 phòng giam, nhà bếp, nhà kho, bệnh xá, có tường đá dày, cao bao quanh. 7. Trại 5 Có tổng diện tích 3.594m2, với 12 phòng giam tập thể, được chia làm 3 dãy (mỗi dãy 4 phòng), khu nhà bếp, có tường đá dày, cao khoảng 4m bao quanh. 8. Trại 6 Tức Trại Phú An, có diện tích 42.140m2, gồm khu A và khu B. Mỗi khu đều có hai dãy, gồm 10 phòng, 4 xà lim, nhà bếp, bệnh xá, nhà kho. Khu trại này được bao bọc bởi hai lớp rào, có cổng ngoài và cổng trong. 9. Trại 7 Còn có tên gọi khác là Trại Phú Bình, hay Chuồng cọp kiểu Mỹ. Trại có diện tích 25.788m2, với 8 khu trại giam (A, B, C, D, E, F, G , H), mỗi khu đều có 48 chuồng cọp, nhà kho, nhà bếp, văn phòng Giám thị, bệnh xá. Quanh trại được bao bọc bởi hàng rào dây thép gai và tường bê tông. 10. Trại 8 Còn được gọi là Trại Phú Hưng, gồm 10 khám giam, được chia thành 2 dãy, cùng các công trình phụ, như nhà Giám thị, vọng gác. Bao quanh trại là hệ thống hàng rào dây thép gai. 11. Trại 9 Khi Mỹ - Ngụy đang cho đổ bê tông nền, đúc cột dựng trại, thì Hiệp định Paris được ký kết nên trại này đã bị bỏ dở. 12. Phòng điều tra Đây là nơi làm việc và lưu trữ hồ sơ hỏi cung. Mọi tù nhân trước khi được nhập giam, đều bị hỏi cung tại phòng này. 13. Cầu Ma Thiên Lãnh Từ năm 1930 - 1945, thực dân Pháp đã cho mở một nhánh đường đến Sở Ông Câu để tiện cho việc kiểm soát tù vượt ngục. Cầu mới xây dựng được 2 mố, mỗi mố cao khoảng 8m. Tên cầu do tù nhân lấy tên ngọn núi Ma Thiên Lãnh ở Triều Tiên để đặt. 14. Khu biệt lập Chuồng Bò Khu vực này là nơi tù nhân lao động khổ sai, đồng thời là nghĩa địa của tù nhân. “Bãi sọ người” tại đây chính là nghĩa địa đầu tiên ở Nhà tù Côn Đảo, tiếp đến là nghĩa địa Hàng Keo, nghĩa địa Hàng Dương. 15. Lò Vôi Đây là chứng tích điển hình về chính sách bóc lột sức lao động một cách dã man, cùng với chế độ nhà tù hà khắc, thâm độc, nhằm dập tắt ý chí của những người Việt Nam yêu nước bị tù đày tại Côn Đảo. 16. Nhà Công Quán Xây dựng cuối thế kỷ 19, diện tích 850m2, là nơi dừng chân của nhạc sĩ người Pháp: Charles Camille Saint Saens - Danh nhân văn hóa thế giới. Tại đây Ông hoàn tất 3 chương cuối vở nhạc kịch bất hủ Brunchida. 17. Nghĩa trang Hàng Dương Có diện tích khoảng 20 ha. Đây là nơi yên nghỉ của hàng vạn chiến sĩ cách mạng và đồng bào Việt Nam yêu nước đã lần lượt hy sinh dưới ách tù đày, khổ sai tàn bạo của bọn thực dân và đế quốc. Năm 1992, di tích này đã được đầu tư tôn tạo và chia thành 4 khu: - Khu A: gồm 688 ngôi mộ (có 7 mộ tập thể), với 86 mộ có tên và 602 mộ khuyết danh. - Khu B: gồm 695 ngôi mộ (có 17 mộ tập thể), với 275 mộ có tên và 420 mộ khuyết danh. - Khu C: gồm 372 ngôi mộ (có 1 mộ tập thể), với 329 mộ có tên và 43 mộ khuyết danh. - Khu D: gồm 148 ngôi mộ, với 11 mộ có tên và 137 mộ khuyết danh. Nhà tù Côn Đảo là một di tích đặc biệt (di tích nhà tù). Đây là nơi tập trung nhất hệ thống cai trị tù khét tiếng của Pháp và Mỹ, điển hình về chế độ cưỡng bức, giam cầm, hành hạ và tàn sát các chiến sỹ cách mạng, tù nhân lao động khổ sai đến kiệt sức; là nơi mà kẻ thù hung bạo phải run sợ trước khí phách, khí tiết cách mạng và niềm lạc quan của người tù yêu nước. Với những giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học đặc biệt của di tích, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định xếp hạng Di tích lịch sử Nhà tù Côn Đảo là Di tích quốc gia đặc biệt ngày 10/5/2012. Nguồn: Cục Di sản văn hóa

TP Hồ Chí Minh 3903 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Di tích Thích Ca Phật Đài

Nằm trên đường Trần Phú, con đường vòng quanh ôm Núi Lớn, lên Bến Đá và Bến Đình. Di tích Thích Ca Phật Đài gắn liền với vẻ đẹp của Bến Đá và cảnh quan thiên nhiên hướng Đông bắc Núi Lớn. Nếu Bến Đá là cảng cá sầm uất, nhộn nhịp thì Thích Ca Phật Đài là nơi tịch liêu, đượm vẻ huyền diệu của chốn thiên thai. Vùng núi Thích Ca Phật Đài trước đây cây cối tươi tốt không có người sinh sống. Khoảng năm 1957, ông Lê Quang Vinh, một công chức thời Pháp thuộc, bất đắc chí lên đây dựng chùa để tu hành, gọi là Thiền Lâm Tự. Năm 1962, Giáo hội Phật giáo nhận thấy Thiền Lâm Tự toạ lạc ở một vị trí có khung cảnh thiên nhiên đẹp đẽ, là vùng đắc địa tụ kết khí thiêng, lại thuận tiện giao thông đi lại cho chư Tăng, Phật tử thập phương hành hương nên đã lập đồ án xây dựng quy mô Thiền Lâm Tự thành Thích Ca Phật Đài. Sau hơn 19 tháng xây dựng, ngày 15 tháng 2 năm Quý Mão (1963), Thích Ca Phật Đài được khánh thành với những công trình kiến trúc như ngày nay. Thích Ca Phật Đài là một quần thể kiến trúc điêu khắc tạo dựng theo sự tích cuộc đời của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni gắn với cảnh quan thiên nhiên hài hòa, sống động thành khu danh thắng đẹp mang nhiều giá trị về văn hóa, lịch sử tôn giáo, là một trong những danh thắng thu hút nhiều khách du lịch nhất của Vũng Tàu. Vào Thích Ca Phật Đài, du khách đi qua tam quan, trên có bánh xe luân chuyển đạo lý nhà Phật gọi là Pháp luân với tám căm biểu tượng Trung đạo. Vòng ngoài có bốn núm biểu tượng cho Tứ diệu đế. Trên bốn cột của tam quan là bốn búp sen biểu tượng cho sự trong sạch, tinh khiết, thanh cao của nhà Phật. Toàn bộ khuôn viên Thích Ca Phật Đài được thể hiện trên triền núi như nửa vầng trăng, được chia thành ba cấp theo một hình tháp cao dần từ dưới lên. Bảo tháp mà du khách bắt gặp đầu tiên, sau khi bước lên hết cấp thứ nhất, là nơi ghi nhớ và tưởng niệm người đã có công dựng Thiền Lâm Tự: Nhà sư Giác Pháp tức quan phủ Lê Quang Vinh. Lối lên bậc thứ hai theo đường vòng cung nhỏ nhắn, bên trái là vách đá kỳ vĩ. Bên phải dõi tầm mắt đến tận Núi Nứa - Long Sơn và xa xa là cảng Dầu khí với những cần cẩu vươn cao nối liên với phố xá, nhà cửa và làng cá Bến Đình, Bến Đá ngay dưới chân núi. Thích Ca Phật Đài được bao phủ bởi màu xanh của nhiều loài cây cao vút. Gió biển thổi rì rào. Đi hết đường vòng cung, du khách tới độ cao 25m, không gian trải rộng ra trước mặt. Đây là khu vực của những công trình điêu khắc được xây dựng dựa theo những sự tích cuộc đời Đức Phật Thích Ca, từ khi Người ra đời đến khi nhập cõi Niết bàn. Bảo tháp Thích Ca Mâu Ni ở đây có tôn trí 13 viên Xá lợi Đức Phật, được đựng trong một hộp bằng vàng. Đây là niềm đại hạnh cho các Phật tử Việt Nam nói chung và Phật tử Vũng Tàu nói riêng. Bảo tháp ngọc Xá Lợi ở Thích Ca Phật Đài cao 17m vươn lên giữa sân hành lễ rộng khoảng 300m2, trên có búp sen. Lối lên Bảo tháp có đắp hình rồng, hai bên có đôi sư tử chầu tượng trưng cho Đại hùng - Đại lực. Dưới chân tháp có một thích án để thờ, trên khắc chữ: Nam mô Bồn sư Thích Ca Mâu Ni Phật, (Hết lòng tôn kính Đức Phật Thích Ca Mâu Ni). Dưới bốn cạnh chân Bảo tháp bát giác đặt bốn cái đỉnh lớn trong đặt bốn nắm đất thiêng được thỉnh từ nơi Ngài Đản sanh), nơi Ngài thành đạo), (nơi Ngài truyền đạo) và (nơi Ngài nhập Niết bàn) về đây. Thích Ca Phật Đài là một quần thề kiến trúc, điêu khắc với ý đồ diễn tả lại sự kiện chính trong cuộc đời Đức Phật. Nguồn: Giáo hội phật giáo tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu

TP Hồ Chí Minh 3841 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích chùa Linh Sơn “Linh sơn Cổ tự”

Linh Sơn cổ tự còn có tên gọi khác là chùa Phật Vàng (người Pháp gọi là Golden Buddha Statue) được khởi dựng trên sườn Núi Nhỏ từ những năm đầu của thế kỷ 20. Năm 1919, người Pháp xây dựng các công trình hoa tiêu và hải đăng phục vụ cho công cuộc chinh phục thuộc địa, buộc nhà chùa phải di dời xuống chân Núi Nhỏ. Viện chủ Thích Minh Thường, nguyên hòa thượng trụ trì lâu năm ở Linh Sơn cổ tự kể rằng, ban đầu chùa được xây dựng bằng tre nứa, vách cót, lợp ngói âm dương. Khoảng cuối những năm 40 của thế kỷ trước, hương chức Đình Thắng Tam cung thỉnh hòa thượng Thích Trí Tịnh về trụ trì và quản lý chùa. Sau này, hòa thượng Thích Trí Tịnh đảm đương chức vụ Phó Pháp chủ, Chủ tịch Hội đồng Trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, ngài giao cho đệ tử là cố hòa thượng Thích Tịnh Viên (viên tịch năm 1995) trụ trì. Linh Sơn cổ tự được di chuyển về vị trí gần Đình Thắng Tam và xây dựng khang trang như hiện nay. Ngôi chùa tọa lạc tại địa chỉ 104, Hoàng Hoa Thám, phường 2, TP. Vũng Tàu, cách Bãi Sau khoảng 500m. Hai bên cổng chùa là bức tượng đôi rồng chầu theo phong cách lưỡng long tranh châu. Tiếp đến là những bậc tam cấp dẫn lên chính điện có 100 pho tượng Phật phết vàng. Trong đó, đặc sắc nhất là pho tượng Phật thờ trong chánh điện, cao 1,2m, được tạc bằng đá sa thạch, điêu khắc công phu, khéo léo với những chi tiết sống động, tạo nên khuôn mặt hiền từ, nhân ái của đức Phật, có thể coi là bảo vật. Hòa thượng Thích Tịnh Định, hiện đang tu tập tại chùa, cho biết pho tượng này đã được các nhà khảo cổ thẩm định là tượng Phật của người Chăm, có niên đại từ thế kỷ thứ VII sau công nguyên. Nguồn gốc của pho tượng cũng vô cùng kỳ bí. Người ta kể rằng cách đây khoảng 100 năm có đoàn thuyền ghe chài từ miền Trung vào đánh bắt cá ở vùng biển Bãi Trước. Trong một lần lên núi kiếm củi, lấy nước ngọt, họ phát hiện 2 pho tượng Phật bằng đá trên sườn Núi Lớn, gần Bãi Dâu. Dân địa phương biết tin vội kéo đến xem và cương quyết đòi giữ lại. Sau khi đàm phán với người dân địa phương, những người đánh cá miền Trung chấp nhận giao lại pho tượng lớn cho dân làng Thắng Tam rước về thờ ở Linh Sơn cổ tự, còn pho tượng nhỏ họ đem về miền Trung. Hiện nay pho tượng nhỏ được thờ tại một ngôi chùa ở huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi. Một pho tượng khác đáng chú ý cũng đang được thờ cúng ở Linh Sơn cổ tự là pho tượng Phật Di Lặc bằng đồng, được thỉnh về từ Nam Lào năm 1972. Linh Sơn cổ tự chia thành nhiều không gian khác nhau, với kiến trúc cổ xưa, có nhiều tranh, tượng điêu khắc, chạm trổ tinh tế, mô tả các câu chuyện trong kinh Phật. Xen giữa những bức tượng Bồ Tát, La Hán đặt trong khuôn viên chùa là hồ sen và những cây hoa sứ đại thụ tỏa hương thơm dịu nhẹ. Hàng năm, chùa thường tổ chức các lễ cầu an, cầu siêu vào dịp Tết Nguyên đán, lễ hội Quan Âm, Đản sinh, lễ Vu Lan, lễ cúng siêu cho các vong linh thai nhi - ấu nhi đến năm 13 tuổi, lễ truyền tam quy ngũ giới. Từ nhiều năm nay, Linh Sơn cổ tự đã trở thành nơi tham quan chiêm bái ưa thích của người dân Vũng Tàu và khách thập phương. Ngôi chùa cũng đã được công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia. Nguồn: Báo Bà Rịa - Vũng Tàu điện tử.

TP Hồ Chí Minh 3471 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Điểm di tích nổi bật