Đình thần Thắng Tam tọa lạc trên đường Hoàng Hoa Thám, Phường Thắng Tam, thành phố Vũng Tàu, đây là một quần thể gồm Đình thần Thắng Tam, miếu Ngũ Hành và lăng Cá Ông. Đình thần Thắng Tam được xây dựng từ đời vua Minh Mạng, ban đầu đình chỉ được làm bằng tre lá, đến năm 1835 nhân dân đã đóng góp tu sửa, lợp mái ngói cho đình và đến năm 1965 đình được trùng tu, xây dựng kiên cố và giữ nguyên bố cục kiến trúc như ngày nay. Đình thờ chung cả ba người đã có công xây dựng nên ba làng ở Vũng Tàu, đó là Phạm Văn Dinh, Lê Văn Lộc và Ngô Văn Huyền. Vào thời vua Gia Long, bọn hải tặc thường hay đột nhập cửa sông Bến Nghé đón đường cướp bóc tiền bạc, hàng hoá. Để bảo vệ thương thuyền của người Việt, vua Gia Long liền phái ba đội quân đi trên ba chiếc thuyền bảo vệ sự thanh bình của bờ biển cửa ngõ, và khai hoang lập ấp, làm ăn sinh sống. Khoảng năm Minh Mạng thứ 3 (1822), tình trạng hải tặc không còn nữa, nhà vua ban chiếu khen thưởng chức tước, phẩm hàm và phần đất mà ba đội quân có công khai phá cho họ. Từ ba vị trí của ba đội quân dần dần hình thành nên ba làng. Làng thứ nhất gọi là làng Thắng Nhất do ông Phạm Văn Dinh cai quản, làng Thắng Nhì do ông Lê Văn Lộc cai quản, làng Thắng Tam do ông Ngô Văn Huyền cai quản. Sau này, ba ông trở thành Tiền Hiền được thờ tại ba ngôi đình của ba làng nói trên. Đình có kiến trúc theo lối nối tiếp gồm bốn ngôi nhà nối liền nhau bằng một lối đi bên hông, đó là Tiền Hiền – Hội Trường – Đình Trung – Sân khấu võ ca. Trong đình bài trí nhiều đồ lễ chạm trổ tinh xảo, sơn son thếp vàng lộng lẫy. Ngôi Tiền hiền được lợp bằng ngói âm dương, trên mái có “lưỡng long chầu nguyệt” đắp nổi. Đầu các đòn tay, xà gồ, cột đều chạm khắc hình rồng. Nội thất nhà Tiền Hiền bày 4 bàn thờ gồm bàn thờ Thổ Công, Tiền Hiền, Hậu Hiền và Tiền Vãng - Hậu Vãng. Hội trường là nơi sinh hoạt của các hội viên. Tiếp sau phần hội trường là ngôi Đình Trung có cấu trúc tương tự ngôi Tiền Hiền, bày 10 bàn thờ gồm bàn thờ Thần Nông, Thiên Y A Na, Ngũ Đức, Thánh Phi, Hậu Hiền, Hội Đồng, Phụ Án - Cao Các, Thiên Sư, Ngũ Thơ và Ngũ Tự - Tiền Hiền. Còn sân khấu võ ca là nơi diễn tuồng, hát bội khi đình có lễ. Miếu Bà Ngũ Hành Phía bên tay trái cổng khu di tích là Miếu Bà Ngũ Hành. Miếu được xây dựng vào cuối thế kỉ 19 thờ năm bà nữ thần: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Ngoài ra miếu còn thờ 2 vị hộ quốc được vua thăng Thượng Đẳng Thần là bà Thiên Y A Na và Thủy Long Thần Nữ. Miếu Bà Ngũ Hành được xây dựng theo lối kiến trúc một gian hai chái, trên mái có lưỡng long chầu nguyệt. Trong Miếu có 8 bàn thờ: giữa chính điện là bàn thờ 5 bà Ngũ Hành và hai vị Thượng Đẳng Thần; hai bên là bàn thờ 5 cô và 5 cậu; bên trái thờ Quan Công, Quan Bình và Châu Xương là những bậc trung nghĩa sẵn sàng cứu hộ những người đi biển khi họ gặp chuyện không may; Bên phải là bàn thờ Ông Địa – Thổ Công; phía sau là bàn thờ Tiền Hiền và những người giàu lòng nhân ái, độ lượng trong làng. Lăng Cá Ông nằm bên phải của khu di tích được xây dựng cùng thời kỳ với Miếu Bà ngũ Hành. Trong lăng hiện nay có một phần bộ xương của Cá Ông khổng lồ do ngư dân Vũng Tàu vớt được từ khoảng 100 năm trước. Lăng có kiến trúc theo lối cổ xưa, bên trong trưng bày tủ kính lớn chứa xương của Cá Ông và tương xứng với ba bàn thờ. Hai bên có thêm hai bàn thờ của Bà Sáu (Thần Rùa) và tổ nhạc. Hiện nay, khu di tích Đình thần Thắng Tam còn lưu giữ 12 sắc phong của vua Thiệu Trị và Tự Đức, trong đó có 6 sắc phong cho Đại Càn Quốc Gia Nam Hải (Cá Ông), 3 sắc phong cho Thiên Y A Na diễn Ngọc Phi và 3 sắc phong cho Thủy Long Thần Nữ. Hàng năm, đình thần Thắng Tam có 3 lễ hội lớn là cầu an (từ 17 đến 20 tháng 2 âm lịch), Nghinh Ông (từ 16 đến 18 tháng 8 âm lịch) và miếu Bà (từ 16 đến 18 tháng 10 âm lịch). Nguồn: Trung tâm xúc tiến đầu tư, thương mại, du lịch tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
TP Hồ Chí Minh 4196 lượt xem
Di tích lịch sử cách mạng Đồn nhà máy nước Vũng Tàu tọa lạc trên đường 30 tháng 4, phường 9, TP Vũng Tàu, nằm giữa Trường THPT Trần Nguyên Hãn và Công ty Cổ Phần Cấp nước Bà Rịa – Vũng Tàu. Đồn nhà máy nước tuy chỉ là một di tích có quy mô khiêm tốn, nhưng để lại những giá trị lịch sử đấu tranh cách mạng với nhiều trận đánh ác liệt, nêu cao tinh thần vì độc lập của quân và dân ta. Di tích Đồn nhà máy nước Vũng Tàu nằm cách nút giao đường Nguyễn An Ninh – Phạm Hồng Thái – 30 tháng 4 (ngã tư Giếng nước) khoảng hơn 50m. Di tích này có chiều dài khoảng 5m, rộng 3,7m, cao gần 4m, được xây dựng bằng đá, gạch, vôi, xi măng, sắt thép và gỗ. Đây là một công trình quân sự nhỏ, chia làm hai tầng, ngăn cách bằng một bức sàn gỗ, có các lỗ châu mai hướng về bốn phía. Thời kỳ chiến tranh, địa thế Vũng Tàu (Ô Cấp) có ý nghĩa quan trọng về mặt quân sự, nên quân Pháp chiếm đóng đã bắt tay xây dựng bến cảng và sân bay ngay từ khi đặt chân đến Vũng Tàu. Khi đó, tại vùng đất được biển bao bọc này, nước ngọt là một nguồn tài nguyên vô cùng quý giá, nên người Pháp đã xây dựng hệ thống cấp nước (giếng khoan, nhà máy lọc nước…) ngay tại vị trí gần ngã tư Giếng nước TP Vũng Tàu ngày nay. Để bảo vệ sân bay, bến cảng và hệ thống đầu nguồn cấp nước cho cả Vũng Tàu, quân Pháp lập một đồn lính nằm ngay bên cạnh nhà máy nước, nên gọi là Đồn nhà máy nước. Đồn này do lực lượng bảo an chiếm giữ với quân số khoảng một đại đội, được trang bị hỏa lực mạnh, án ngữ cửa ngõ Vũng Tàu lúc bấy giờ. Thời ấy, địch kiểm soát gắt gao việc đi lại của người dân ở khu vực này, khiến cho hoạt động của quân dân ta gặp khó khăn. Vì vậy, Đồn nhà máy nước trở thành mục tiêu cần phải tiêu diệt của lực lượng vũ trang cách mạng. Năm 1948, Ban hành động Cấp, Công an xung phong, Đội trinh sát 51 và lực lượng của Thị đội Cấp đã 2 lần tấn công vào Đồn nhà máy nước, phá đồn, thu 150 súng các loại. Các trận đánh tiến công Đồn nhà máy nước đều rất ác liệt, góp phần tiêu hao sinh lực và hỏa lực địch, ghi dấu chiến công trong lịch sử đấu tranh cách mạng của quân dân tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu năm xưa. Năm 1985, nhân dịp kỷ niệm 10 năm thành lập Đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo, chính quyền đặc khu đã cho xây dựng bức phù điêu trước Đồn nhà máy nước kỷ niệm chiến thắng 2 trận đánh đồn năm 1948. Đồng thời, gắn biển khắc nội dung giới thiệu giá trị lịch sử tiến công địa điểm quân sự này. Ngày 4/8/1992, Bộ Văn Hoá-Thông Tin đã công nhận Đồn nhà máy nước Vũng Tàu là di tích lịch sử cách mạng cấp Quốc gia. Nguồn: Báo Bà Rịa - Vũng Tàu điện tử
TP Hồ Chí Minh 3691 lượt xem
Di tích cấp Quốc gia nhà 86 Phan Chu Trinh (hiện nay là số 5 Phan Chu Trinh, phường 2, TP Vũng Tàu) từng là nhà của viên quan tư người Pháp Pierre Chappus nằm trên đường Phan Chu Trinh, dưới chân Núi Nhỏ. Ngôi nhà được xây dựng theo lối kiến trúc cũ đầu thế kỷ 20 của Pháp. Trong thời kỳ chiến tranh, ngôi nhà này từng là nơi nuôi giấu cán bộ hoạt động cách mạng. Ông Pierre Chappus có cha là người Pháp, mẹ là người Việt Nam. Ông là quan tư của chính quyền Pháp, chủ Sở Hải Đăng Vũng Tàu. Ngôi nhà của ông Pierre Chappus lúc đó tường xây bằng đá xanh, mái lợp ngói tọa lạc trên mảnh đất chiếm khoảng 100m mặt tiền đường Phan Chu Trinh và sâu vào 80m. Chung quanh nhà có nhiều cây ăn trái như dừa, xoài, mãng cầu, vú sữa, ổi, chanh… Phía sau nhà có hồ sen rất lớn và một cây vải thiều cỡ hai người ôm. Ông Pierre Chappus tuy là quan chức của Pháp, nhưng ông lại có cảm tình với cách mạng Việt Nam, đặc biệt rất kính trọng lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Trong lúc điều kiện vật chất, đời sống vô cùng khó khăn, ông ủng hộ cho Việt Minh tiền của, lúa gạo, cùng 50 con bò. Ông đã sử dụng ngôi nhà 86 Phan Chu Trinh của mình làm nơi nuôi giấu, bảo vệ cán bộ hoạt động bí mật, trong đó có đồng chí Nguyễn Hoài Đức, Thị đội trưởng Vũng Tàu. Thời bấy giờ, nhà ông Pierre Chappus luôn nuôi 5-7 con chó, mỗi con đặt một cái tên, mỗi khi nghe tiếng người lạ tới thì bầy chó sủa đánh động ở cửa trước, các đồng chí cán bộ liền len lỏi theo vườn cây ăn quả thoát ra bằng cửa sau. Những trường hợp là người quen (cán bộ) vào cổng, chó sủa, ông chỉ việc kêu tên từng con một là chúng nằm im không sủa. Thời kỳ chống Mỹ, ngôi nhà 86 Phan Chu Trinh được ông Pierre Chappus đồng ý cho cách mạng đặt làm Văn phòng Tỉnh ủy Bà Rịa - Long Khánh, thể hiện tấm lòng đầy thiện cảm đối với cách mạng Việt Nam. Ông cảm động nói với các cán bộ: “Các chú cứ lấy nhà tôi mà làm việc, rủi khi tôi có bị địch bắt mà chết thì đó cũng là một vinh dự cho tôi được chết cho cách mạng Việt Nam”. Năm 1957, Văn phòng Tỉnh ủy Bà Rịa - Long Khánh chính thức đặt tại nhà ông Pierre Chappus. Thường trực Văn phòng gồm đồng chí Trịnh Phong Đán và đồng chí Hồ Sĩ Hành. Lúc này, nhà ông Pierre Chappus nuôi 10 con chó, đây là “lực lượng” quan trọng trông giữ nhà rất hữu hiệu, bảo vệ an toàn cho cán bộ cách mạng hoạt động bí mật. Tới cuối năm 1958, Văn phòng Tỉnh ủy Bà Rịa - Long Khánh phải chuyển đi nơi khác để bảo đảm bí mật, nhưng ngôi nhà 86 Phan Chu Trinh vẫn là cơ sở để cán bộ lui tới nhờ sự giúp đỡ, vận động tiền và vật chất cho cách mạng. Ông Pierre Chappus mất vào năm 1959 ngay tại căn nhà 86 Phan Chu Trinh, thọ 81 tuổi. Ngày 4/8/1992, ngôi nhà 86 Phan Chu Trinh được Bộ Văn Hoá –Thông tin Thể thao –Du Lịch công nhận là di tích cấp Quốc gia. Theo đó, vào những dịp lễ, Tết, Trường Trung Học Đoàn Kết thường tổ chức cho các em học sinh đến dọn dẹp vệ sinh và tham quan nhà 86 Phan Chu Trinh, đồng thời giới thiệu cho các em về lịch sử đấu tranh giữ nước trường kỳ và hào hùng của dân tộc. Nguồn: Báo Bà Rịa - Vũng Tàu điện tử
TP Hồ Chí Minh 3622 lượt xem
Di tích lịch sử “Nhà cao cẳng” tọa lạc ở số 18, đường Lê Lợi, TP Vũng Tàu là nơi diễn ra nhiều cuộc họp bí mật của Tỉnh ủy Bà Rịa-Long Khánh trong những năm tháng kháng chiến chống đế quốc Mỹ. Nhà cao cẳng rộng 160m2, và sở dĩ có tên gọi như vậy vì phía dưới ngôi nhà là hàng 4 dãy cột đá, mỗi cột cao 2,2m, cạnh vuông 40cm như đôi chân chống đỡ ngôi nhà. Nhà được xây dựng theo kiến trúc kiểu nhà nghỉ biệt lập, có hàng rào, sân vườn bao quanh. Nhà được chia thành 2 khu: khu nhà chính và khu nhà phụ. Khu nhà chính gồm 2 tầng, tầng trệt là dãy cột trụ chống đỡ cả ngôi nhà. Tầng lầu là nơi ở chính của ngôi nhà, được thiết kế 2 mặt trước và sau có cầu thang lên xuống, xây thoai thoải từ phía ngoài trời dẫn lên lầu. Bên trong có một sảnh lớn dùng để tiếp khách và các phòng nhỏ dùng để nghỉ ngơi. Ở các phòng đều có cửa sổ hướng ra khu vườn, tạo nên một không gian tĩnh lặng. Mái nhà được lợp bằng ngói tây, tương tự mái nhà của dân tộc Thái, mái dốc xuống ở 4 phía, 2 phía đầu hồi đều có tam giác nhỏ để đón gió chống nóng. Khu nhà phụ là gian nhà rộng 2,25m, mái ngang 6m dùng làm nhà bếp và lối dẫn lên nhà chính. “Nhà cao cẳng” được ông Deloudet, Công chức, Sĩ quan người Pháp làm việc ở Sài Gòn cho xây dựng hoàn thành vào khoảng năm 1949. Ngôi nhà được xây để ông cùng vợ là bà Chau Chon làm nơi nghỉ mát ở Vũng Tàu. Xung quanh khu vực “Nhà cao cẳng” có nhiều biệt thự và khu nghỉ mát, hướng ra bãi biển, an ninh được kiểm tra rất nghiêm ngặt. Năm 1950, ông Deloudet về Pháp, ngôi nhà trở thành tài sản của bà Chau Chon. Đến năm 1951, bà bán ngôi nhà này cho kỹ sư nông nghiệp Nguyễn Văn Chiến. Năm 1952, ông Ba Trà, công nhân một nhà máy nước ở Bà Rịa được giao trọng trách trông coi “Nhà cao cẳng”. Ông là một người nhiệt tình tham gia vào các phong trào cách mạng của Đảng bộ; ông nhiều lần bị giặc bắt, được thả và luôn nằm trong tầm ngắm của quân địch. Với tinh thần yêu nước, tại Vũng Tàu, ông nhanh chóng kết nối với Đảng và tiếp tục làm cơ sở bí mật cho các cán bộ hoạt động cách mạng. Lợi dụng sự lơ là, thiếu cảnh giác của địch, trong thời gian từ năm 1956-1959, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Bà Rịa-Long Khánh đã biến “Nhà cao cẳng” và các biệt thự xung quanh thành cơ sở cách mạng, làm nơi ăn, chốn ở, nơi đi lại sinh hoạt hội họp của các đồng chí lãnh đạo phong trào cách mạng. Tại đây, dưới sự chỉ dẫn dắt của đồng chí Năm An Chi, phong trào cách mạng trong quần chúng nhân dân phát triển mạnh mẽ và sâu rộng. Trong các năm 1956, 1957, nhiều cuộc họp bí mật diễn ra tại “Nhà cao cẳng”. Trong cuộc họp, nhiều chủ trương của Đảng được triển khai, kịp thời bám sát tình hình, thúc đẩy phong trào cách mạng địa phương phát triển. Trong tháng 3 và tháng 4 năm 1959, chính tại nơi đây, Thường vụ Tỉnh ủy đã tổ chức cuộc họp với Huyện ủy Vũng Tàu nhằm kiểm tra công tác học tập Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng và triển khai những Chỉ thị của Đảng bộ liên tỉnh miền Đông; chương trình vận động phong trào quần chúng nhân dân chống luật của chính quyền Ngô Đình Diệm . Hiện tại di tích lịch sử cách mạng “Nhà cao cẳng” nằm trong khuôn viên của Cục Hải quan TP Vũng Tàu và do đơn vị này quản lý. Phần lớn kiến trúc ngôi nhà vẫn được giữ nguyên vẹn. Do chỉ tồn tại trong thời gian ngắn của thời kỳ đầu kháng chiến chống đế quốc Mỹ nên các hiện vật không được lưu lại. Năm 1991, “Nhà cao cẳng” được Bộ Văn Hoá Thông Tin công nhận là di tích lịch sử cách mạng. Nguồn: Báo Bà Rịa – Vũng Tàu
TP Hồ Chí Minh 3337 lượt xem
Nhà truyền thống cách mạng TP Vũng Tàu (số 1, Ba Cu, TP Vũng Tàu) trước đây là trụ sở Ủy ban Việt Minh. Trải qua các thời kỳ chiến tranh, nơi đây vẫn còn lưu giữ nguyên vẹn các hình ảnh về ký ức lịch sử đấu tranh hào hùng của quân dân Bà Rịa - Vũng Tàu. Nhà truyền thống cách mạng TP Vũng Tàu được xây dựng từ năm 1908-1913 với diện tích đất rộng 6.580m2. Nhà được xây dựng theo kiến trúc công sở thời Pháp thuộc, vốn là văn phòng chỉ huy quân sự khu vực Vũng Tàu từ thập niên đầu của thế kỷ 18 đến khi Nhật đảo chính Pháp. Đó là một ngôi biệt thự xây cất đồ sộ có hai tầng thoáng mát, đủ tiện nghi, nằm sát biển ở Bãi Trước. Trong khu biệt thự còn có văn phòng tham mưu trực thuộc, nơi thường xuyên có sĩ quan Pháp làm việc. Các đồng chí lãnh đạo Ủy ban Việt Minh đã nhanh chóng bắt liên lạc với xứ ủy Nam kỳ qua đồng chí Dương Bạch Mai, nhận Chỉ thị chuẩn bị cướp chính quyền. Qua đó trích “Chương trình Việt Minh”, viết truyền đơn rải khắp thị xã kêu gọi nhân dân Vũng Tàu nổi dậy và chuẩn bị lực lượng vũ trang làm bạo lực cách mạng cho cuộc khởi nghĩa. Trong những ngày khởi nghĩa, các đồng chí lãnh đạo cốt cán cùng lực lượng bảo vệ, cảm tử quân hơn 40 người ngày đêm túc trực, làm việc tại trụ sở. Ngày 28/8/1945, tại sân vận động Lam Sơn cách trụ sở Ủy ban Việt Minh 300m, dưới sự lãnh đạo của Ủy ban Việt Minh Thị Xã Vũng Tàu, cuộc mít tinh khởi nghĩa giành chính quyền của nhân dân địa phương giành thắng lợi. Trong những năm tháng đấu tranh gian khổ, ác liệt của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Ủy ban Việt Minh đóng vai trò là lãnh đạo nòng cốt bám trụ Vũng Tàu, Bà Rịa và các tỉnh miền Đông Nam bộ. Cuối năm 1945, Vũng Tàu-Bà Rịa sát nhập thành 1 tỉnh, các đồng chí lãnh đạo trong Ủy ban Việt Minh và chi bộ Đảng được điều về Bà Rịa, trụ sở cũng được di dời. Sau khi đất nước được giải phóng, di tích trụ sở Ủy ban Việt Minh đã có những đóng góp không nhỏ vào công tác du lịch của thành phố biển Vũng Tàu. Năm 1978, di tích đã được xây dựng thêm một số công trình phụ như nhà trệt ở phía sau, lắp đặt máy điều hòa nhiệt độ ở bên trong, xây thêm phòng trên lầu, cải tạo mặt bằng ngoại thất… Tuy nhiên không làm ảnh hưởng nhiều đến cảnh quan xung quanh và thiết kế chính của ngôi nhà. Năm 1991, trụ sở Ủy ban Việt Minh được Bộ Văn Hoá-Thông Tin công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia và đổi tên thành Nhà truyền thống cách mạng TP Vũng Tàu. Hiện nay, để phục vụ nhu cầu tìm hiểu lịch sử, tham quan di tích của người dân địa phương, bên trong hai tầng nhà truyền thống được sử dụng làm thư viện, nơi trưng bày, triển lãm, tổ chức hội họp. Phía tầng lầu là phòng trưng bày hình ảnh, tư liệu lịch sử, hình ảnh lãnh đạo của thành phố qua các thời kỳ và nhiều những hiện vật khác... Nguồn: Báo Bà Rịa - Vũng Tàu điện tử
TP Hồ Chí Minh 4325 lượt xem
Di tích lịch sử cách mạng nhà má Tám Nhung (Hồ Thị Khuyên) số cũ 42 trên 11 đường Trần Phú, nay là số 1, Trần Xuân Độ phường Thắng Nhì, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, nằm dưới chân núi Lớn, cách ngã tư Bến Đình phường Thắng Nhì, khoảng 100 mét về phía tây. Trước đây là một khu vườn rậm rạp, yên tĩnh gồm nhiều cây ăn trái do ông bà Tám Nhung khai phá, gây dựng. Tại ngôi nhà này vào những ngày cách mạng tháng Tám 1945 là nơi họp của Ủy ban mặt trận Việt Minh, trong 2 cuộc kháng chiến ngôi nhà là cơ sở nuôi dấu cán bộ hoạt động trong nội ô của Tỉnh ủy, Thị ủy Vũng Tàu…Với giá trị và ý nghĩa lịch sử tiêu biểu năm 1989 nhà má Tám Nhung (Hồ Thị Khuyên) được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận di tích cấp quốc gia. Hiện nay ngôi nhà của má Tám Nhung đã được trùng tu, tôn tạo vào năm 2015, di tích trở thành điểm tham quan giáo dục truyền thống về một bà mẹ Việt Nam tiêu biểu, sáng người chủ nghĩa anh hùng cách mạng của thành phố Vũng Tàu trong hai thời kỳ kháng chiến thật giản dị, nhân hậu mà trung kiên, bất khuất…đã hết lòng ủng hộ, bí mật nuôi dấu cán bộ cách mạng an toàn cho đến ngày miền Nam giải phóng, đất nước được thống nhất. Má Hồ Thị Khuyên sinh năm 1905, mọi người trong xóm thường gọi với tên thân mật là má Tám Nhung (vì chồng của má là ông Nguyễn Văn Nhung). Ông Nhung cũng là một người có tinh thần yêu nước, căm thù thực dân Pháp và bọn địa chủ cường hào, ác bá, sớm được giác ngộ cách mạng. Năm 1930 ông tham gia cướp chính quyền tại 18 thôn Vườn Trầu. Cuộc khởi nghĩa thất bại ông bị thực dân Pháp bắt. Chúng dùng mọi thủ đoạn mua chuộc tra tấn dã man nhưng ông không hề khai báo. Thân hình ông bị chúng đánh đập đến tàn phế, rồi lưu đày biệt xứ.. Khoảng năm 1941-1942 ông Nguyễn Văn Nhung từ Gò Công (Tiền Giang) đến khu vực Núi Lớn (Vũng Tàu) sinh sống sau đó ông xây dựng gia đình với bà Hồ Thị Khuyên. Hai ông bà chặt cây, khai hoang đất đai dưới chân Núi Lớn, phường Thắng Nhì để làm nhà, trồng cây ăn trái. Cuộc Khởi nghĩa Nam Kỳ thất bại phong trào cách mạng ở nhiều tỉnh khu vực Nam Bộ tạm thời lắng xuống trước sự đàn áp dã man của thực dân Pháp. Tại Bà Rịa -Vũng Tàu các cơ sở cách mạng không bị vỡ, tiếp tục duy trì hoạt động, tạo điều kiện thuận lợi cho cách mạng tháng Tám 1945. Vợ chồng ông bà Tám Nhung đã kịp thời bí mật liên lạc với Ban Việt Minh và binh vận ở Vũng Tàu. Hình thành bộ phận cốt cán trong cuộc vận động giành chính quyền 1945. Ngôi nhà của ông bà Hồ Thị Khuyên là nơi thành lập Ủy ban khởi nghĩa, quyết định giành chính quyền tại Vũng Tàu. Trong suốt thời kỳ 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954) ông bà Hồ Thị Khuyên tiếp tục bí mật tham gia hoạt động cách mạng. Năm 1962 trước sự khủng bố khắt khe của kẻ thù má Hồ thị Khuyên chuyển về hoạt động tại xã Tân Điền, huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang, má tham gia trong Hội mẹ chiến sĩ, trực tiếp đi đặt chông, gài mìn tiêu diệt địch …Năm 1968 giặc bình định xã Tân Điền, huyện Gò Công, Tiền Giang má Tám bị địch bắt và giam giữ 2 tháng. Trong trại má Tám bị chúng dùng đủ mọi cực hình tra tấn, té nước, tra điện vào đầu ngón chân, ngón tay… nhưng má kiên quyết không khai báo. Cuối cùng không có chứng cớ má Tám được trả tự do và trở về Vũng Tàu. Vào thời gian này địch ráo riết lập thêm nhiều đồn bót, kiểm soát gắt gao. Nhiều cơ sở cách mạng tại Vũng Tàu phải chuyển sâu vào Rừng Sác, sang Núi Dinh, Thị Vải… Để lãnh đạo phong trào cách mạng Thị ủy Vũng Tàu quyết định bám trụ các cơ sở. Nhà má Tám được giao nhiệm vụ bí mật nuôi dấu các cán bộ cách mạng. Để đảm bảo tuyệt đối an toàn cho anh em hoạt động má Tám nghĩ ra cách trú ẩn độc đáo bằng cách xây một căn hầm bí mật tại ngôi nhà của gia đình. Đến thăm ngôi nhà và căn hầm bí mật của gia đình má Hồ Thị Khuyên chúng ta càng thêm tự hào về tinh thần yêu nước, tấm lòng nhân hậu, cao cả của một người mẹ Việt Nam anh hùng trọn đời hy sinh vì sự nghiệp giải phóng của dân tộc. Nguồn: Bảo Tàng Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
TP Hồ Chí Minh 3579 lượt xem
Nhà lao Tân Hiệp còn có tên là "Trung tâm cải huấn Tân Hiệp" tọa lạc ở khu phố 6, phường Tân Tiến, TP Biên Hòa. Di tích Nhà lao Tân Hiệp đã được Bộ Văn Hoá Thể Thao xếp hạng là di tích cấp quốc gia ngày 15-1-1994. Nhà lao Tân Hiệp là một trong sáu nhà tù lớn nhất miền Nam Việt Nam và là nhà tù lớn nhất vùng Đông Nam bộ, được xây dựng ở vị trí quân sự quan trọng, án ngữ phía đông bắc thị xã Biên Hòa. Phía trước là quốc lộ 1; phía sau là đường xe lửa Bắc - Nam. Đây là vị trí biệt lập, thuận tiện trong giao thông, dễ dàng cho việc bảo vệ, canh gác, nhận tù từ nơi khác đến và chuyển tù đi Côn Đảo, Phú Quốc... Nhà lao Tân Hiệp có diện tích 46.520m2 với 8 trại giam, trong đó có 5 trại giam những người tù cộng sản, người yêu nước. Xung quanh nhà tù được bao bọc bởi 4 lớp kẽm gai bùng nhùng với 9 lô cốt, 3 tháp canh cùng đội lính bảo vệ và hệ thống báo động tối tân. Mang tên "Trung tâm cải huấn" nhưng thực chất bên trong là kho súng, phòng xét hỏi, tra tấn với những dụng cụ hiện đại bậc nhất. Mỗi trại giam chỉ có diện tích gần 200m2 nhưng giam giữ từ 300-400 người, có lúc lên đến cả ngàn người. Đặc biệt ở đây có các phòng "cải hối", "chuồng cọp" rất nhỏ hẹp và điều kiện sinh hoạt cực kỳ khắc nghiệt, tù nhân sống chẳng khác gì trong lò thiêu xác. Chế độ ăn uống cực kỳ mất vệ sinh, bọn cai ngục mua gạo mục, cá thối dùng để bón ruộng, chiên bằng dầu luyn cho tù nhân ăn dẫn đến nhiều người bị ngộ độc. Với quyết tâm thoát khỏi nhà tù đế quốc, trở về với Đảng, với nhân dân để tiếp tục chiến đấu, giải phóng dân tộc, ngày 2-12-1956, được sự nhất trí của Liên Tỉnh ủy miền Đông, những chiến sĩ cộng sản bị "câu lưu" trong nhà lao Tân Hiệp dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Trọng Tâm (Bảy Tâm) - phụ trách Đảng ủy nhà tù và một số đồng chí khác đã bất thần làm một cuộc phá xiềng tập thể giải thoát gần 500 đồng chí, đồng bào yêu nước. Sự kiện này đã làm xôn xao cả Lầu Năm Góc. Mỹ - Diệm vội vã huy động cả quân chủ lực lẫn bảo an, dân vệ đang trấn thủ 3 tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một và hai biệt đoàn biệt động quân đến bủa lưới bao vây, truy bắt đoàn tù nhưng đều thất bại. Các đồng chí, đồng bào của ta thoát khỏi nhà lao Tân Hiệp đã được sự giúp đỡ, che chở của các cơ sở địa phương, trở về căn cứ an toàn. Trong số tù nhân vượt ngục có các đồng chí: Bảy Tâm, Hai Thông, Lý Văn Sâm... đã trở thành những hạt nhân nòng cốt cho phong trào Đồng Khởi sau này. Năm 2001, để tái hiện phần nào tội ác của Mỹ - Diệm đối với các đồng chí, đồng bào ta bị giam cầm tại nhà lao Tân Hiệp và diễn tả lại toàn bộ cuộc nổi dậy phá khám Tân Hiệp ngày 2-12-1956, Bảo tàng Đồng Nai đã tiến hành sưu tầm hình ảnh, tài liệu, hiện vật trưng bày tại di tích và làm một sa bàn để phục vụ nhu cầu nghiên cứu, tham quan của mọi tầng lớp nhân dân. Hàng ngày, di tích luôn mở cửa đón khách tham quan. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 12037 lượt xem
Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh còn gọi là đình Bình Kính tọa lạc bên tả ngạn sông Đồng Nai, xưa kia thuộc ấp Bình Kính, thôn Bình Hoành, tổng Trấn Biên, nay là ấp Nhị Hòa, xã Hiệp Hòa, TP Biên Hòa, đã được Bộ Văn Hoá – Thông Tin – Thể Thao & Du Lịch xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 25-3-1991. Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ 18, ban đầu ngôi đền có qui mô nhỏ, vách làm bằng ván, mái ngói âm dương, cách ngôi đền hiện tại khoảng 400m về hướng Nam. Các tư liệu cho biết: ngôi đền được xây dựng lại lần đầu tiên vào năm Tự Đức thứ tư (1851); đến năm 1923, đền được tái thiết lại ở địa điểm hiện nay. Nguyễn Hữu Cảnh sinh vào năm 1650 tại Gia Miêu, huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa trong một gia đình có nhiều bậc danh tướng đương triều. Ông là người văn võ song toàn, lập được nhiều chiến công lớn và được chúa Nguyễn tin yêu, trọng vọng. Mùa Xuân năm Mậu Dần (1698), ông vâng lệnh chúa Nguyễn vào kinh lược xứ Đàng Trong khi ấy còn rất hoang vu. Đến đất Đồng Nai, ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố (nay là xã Hiệp Hòa); lấy đất Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn, đất đai mở mang ngàn dặm. Ông chiêu mộ lưu dân đến lập nghiệp, tổ chức bộ máy hành chính từng bước có qui củ, khuyến khích khai hoang, thúc đẩy Cù lao Phố phát triển thành một trong những cảng thị sầm uất, năng động nhất đàng Trong suốt thế kỷ 18 và chính thức sáp nhập vùng đất mới phương Nam vào bản đồ Đại Việt. Sau khi kinh lược phương Nam trở về, năm sau ông lại phụng mệnh chúa Nguyễn Phúc Chu thống lĩnh đại binh dẹp vua Chân Lạp giữ vững miền biên ải phương Nam. Tháng 4 năm Canh Thìn (1700), sau khi hoàn thành sứ mệnh, trên đường trở về đến Rạch Gầm (Tiền Giang) thì ông thọ bệnh qua đời nhằm ngày 16 tháng 5 âm lịch, thọ 51 tuổi. Trên đường di quan ông về quê an táng, quan tài của ông được đình lại khu đất khi xưa ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố để cho nhân dân địa phương có dịp bái biệt ông lần cuối. Nơi đình quan đã được nhân dân địa phương xây một ngôi mộ vọng để ghi nhớ sự kiện này. Khi hay tin Nguyễn Hữu Cảnh mất, Chúa Nguyễn vô cùng thương tiếc đã phong tặng ông là Thượng đẳng công thần đặc Trấn phủ Chưởng cơ với tước: Lễ Thành Hầu và đưa bài vị của ông vào thờ tại Thái miếu. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 9820 lượt xem
Đình Tân Lân nằm trên đường Nguyễn Văn Trị, thuộc địa phận phường Hòa Bình, TP Biên Hòa. Từ khi xây dựng, nhân dân lấy tên gọi của thôn là Tân Lân để đặt cho đình. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, tên địa phương nhiều lần thay đổi nhưng tên đình vẫn tồn tại đến ngày nay. Tương truyền, nguyên thủy đình Tân Lân là ngôi miếu nhỏ ở thành Kèn, do dân làng dựng lên từ thời vua Minh Mạng để tỏ lòng ngưỡng vọng Trấn Biên đô đốc tướng quân Trần Thượng Xuyên, người có công lớn trong việc khai phá đất đai và mở mang thương mại vùng Đồng Nai - Gia Định. Sau hai lần dời chuyển (vào năm 1861 và 1906), ngôi đình ở vị trí hiện nay. Mặt tiền đình hướng ra sông Đồng Nai lộng gió. Kiến trúc đình theo kiểu chữ tam gồm ba gian: tiền đình, chánh điện và hậu cung nối tiếp nhau. Chánh điện được bài trí các ban thờ, trang trí các hoành phi, câu đối, bao lam bằng gỗ trên các hàng cột bằng gỗ lim lớn được chạm khắc tinh tế, có giá trị nghệ thuật. Phần mái tiền đình là cả một công trình nghệ thuật đặc sắc với những mảng tranh gốm sứ hàng trăm tượng người và vật thể hiện các điển tích sinh động. Hậu cung được chia thành ba gian, chính giữa thờ Tiên Sư, hai bên thờ Tiền Thứ Việt Nam và Tiền Thứ Trung Hoa. Đối tượng thờ chính trong đình là vị đô đốc tướng quân Trần Thượng Xuyên. Bệ thờ chánh điện trang nghiêm với tượng thần được tạo tác chân phương nhưng uy nghiêm trên ngai sơn son thếp vàng. Chung quanh có bài trí những linh thú bằng đồng đứng chầu. Trước bàn thờ thần là bàn hội đồng và hai bộ bát bửu bằng đồng. Hai gian bên chánh điện bố trí bàn thờ thờ tả và hữu ban. Dọc tường tả hữu có các bệ thờ thái giám, hậu hiền, bạch mã và tiền hiền. Trần Thượng Xuyên nguyên là Tổng lãnh binh ba châu Cao - Lôi - Liêm dưới triều Minh (Trung Hoa). Năm 1679, Tổng binh trấn thủ các địa phương thủy lục ở Long Môn, thuộc tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc) là Dương Ngạn Địch và phó tướng Hoàng Tấn; cùng Tổng Binh trấn thủ các châu Cao, Lôi, Liêm và Trần Thắng Tài (tức Trần Thượng Xuyên) và phó tướng Trần An Bình đem binh biền và gia quyến trên 3.000 người, trên 50 chiến thuyền vào cửa biển Tư Dung và cửa Đà Nẵng xin các chúa Nguyễn cho tị nạn trên đất Việt. Đây là nhóm người Hoa trung thành với nhà Minh, không chịu thần phục nhà Thanh nên đã nổi dậy phất cờ "bài Mãn phục Minh" nhưng bất thành. Thấy họ lâm vào thế cùng lực tận, chúa Nguyễn đã chấp thuận cho phép họ nhập cư... Chúa Nguyễn Phúc Tần "... bèn khiến đặt yến tiệc đãi họ, an ủi, khen ngợi, cho các tướng lãnh y chức cũ, phong thêm quan tước mới, khiến vào ở đất Đông Phố để mở mang đất ấy. Họ được các tướng Vân Trình, Văn Chiêu hướng dẫn, binh thuyền tướng sĩ Long Môn của Dương Ngạn Địch, tiến vào cửa Lôi Lạp, theo cửa Đại, cửa Tiểu, đến định cư ở Mỹ Tho, binh lính tướng sĩ Cao, Lôi, Liêm của Trần Thượng Xuyên, Trần An Bình tiến vào cửa biển Cần Giờ rồi lên định cư ở Bàn Lân, xứ Đồng Nai (Biên Hòa ngày nay)". Cùng nhóm lưu dân người Việt đến trước, Trần Thượng Xuyên chiêu tập thương nhân người Hoa kiến thiết phố xá, tạo lập các cơ sở thương mại mà thương cảng Nông Nai đại phố (Cù lao Phố) một thời được ví như "xứ đô hội" phồn thịnh bậc nhất phương Nam lúc bấy giờ. Trần Thượng Xuyên là một trong những người có công lớn trong việc khai phá và xây dựng vùng đất Đồng Nai - Gia Định. Về hoạt động quân sự, Trần Thượng Xuyên là một dũng tướng thao lược nhiều lần cầm binh, giữ an bờ cõi phía Nam, mở rộng biên cương nước Việt. Trần Thượng Xuyên mất ngày 23-10 âm lịch khoảng năm 1720 (Canh Tý). Ghi nhớ công lao của Trần Thượng Xuyên, nhà Nguyễn ban phong danh hiệu cao quý "Nguyễn vi vương, Trần vi tướng, đại công thần bất tuyệt" (nghĩa: họ Nguyễn làm vua, họ Trần làm tướng, công khanh đời đời không dứt), được vua Minh Mạng, Thiệu Trị sắc phong "Thượng đẳng thần". Nhiều nơi ở Nam bộ, người dân đã lập đền thờ ông, tôn làm bậc thần linh của xứ sở. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 5350 lượt xem
Lăng mộ Trịnh Hoài Đức tọa lạc tại khu phố 3 phường Trung Dũng thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Được Bộ Văn hóa -Thông tin - Thể thao và Du lịch xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 27 tháng 12 năm 1990. Dưới thời Nguyễn lăng mộ Trịnh Hoài Đức thuộc thôn Bình Trúc, dinh Trấn Biên. Thời Pháp thuộc được đổi thành Bình Trước, thuộc quận Châu Thành, tỉnh Biên Hòa. Năm 1938 lăng mộ Trịnh Hoài Đức được trường viễn Đông Bác Cổ xếp là di tích. Người dân địa phương quen gọi là “lăng ông” có rất nhiều ngôi mộ cổ được xây bằng đá ong tô hợp chất, nhiều người cho rằnng, trước kia đây là khu mộ của họ tộc Trịnh Hoài Đức. Các ngôi mộ đều xây theo lối hình voi phục, mặt bằng dạng khối hình chữ nhật; các bia đá khắc chữ Hán hướng về phía tây Nam, tường phủ rêu xanh. Trong toàn khu mộ họ Trịnh, mộ Trịnh Hoài Đức nổi bật lên bởi quy mô kiến trúc, có lẽ đây là chủ ý của những người lập mộ trong nguyên tắc của người xưa về dòng họ. Trước năm 1975 đáo lệ hàng năm vào lễ thanh minh, con cháu Trịnh Hoài Đức từ các địa phương khác đến cúng viếng với nghi lễ trang trọng. Về sau có lễ do một số con cháu trong thân tộc họ Trịnh đã lớn tuổi hay lưu lạc mà các lễ viếng không còn duy trì như trước. Năm 1998 nhân kỷ niệm 300 năm hình thành và phát triển vùng đất Biên Hòa - Đồng Nai lăng mộ Trịnh Hoài Đức được trùng tu tôn tạo, kiến trúc mộ ban đầu được bảo tồn nguyên thủy, xung quanh có vòng thành kiên cố. Phía sau mộ có bức tường nhô cao, nối dạng thành hình bầu dục lượn sóng. Trên bức tường có khắc dòng chữ Hán tựa như bài thơ ca ngợi tài đức của Trịnh Hoài Đức nhưng lâu ngày đã bị mờ, không còn đọc được, hai bên trang trí hình hai đầu rồng cách điện. Hiện nay bức tường này được trang trí hình long ẩn vân. Phía trước cửa vào mộ có tấm bình phong lớn, ghi khắc tiểu sử và sự nghiệp của Trịnh Hoài Đức. Trên những cột vuông nối các bờ vòng thành trước mộ khắc những câu đối chữ Hán, nội dung chủ yếu nói về sử học về sự uyên bác bình diện nghiên cứu của Trịnh Hoài Đức. Trong vòng thành là thành tố chính của kiến trúc, gồm hai phần: Mộ: một của Trịnh Hoài Đức và một của chánh thất phu nhân, người họ Lê. Cấu trúc mộ giống nhau, hình voi phục, xung quanh có gờ hình móng ngựa, phía trước mỗi phần mộ đều có bia đá, khắc chữ Hán; chung quanh trang trí bởi các đường hồi văn, biểu tượng âm dương, phía dưới đắp nổi dạng chân quỳ. Nội dung các bia ở hai phần mộ Trịnh Hoài Đức nêu vắn tắt các danh, chức, phẩm, hàm mà Trịnh Hoài Đức được ban tặng, cùng người vợ của ông; Bia: còn ghi rõ thời gian là tháng 11 năm Ất Dậu, con là Trịnh Thiên Lễ Nhiên, Trịnh Thiên Nhiên Bảo, Trịnh Thiên Bảo cùng lập bia. Trịnh Hoài Đức một tài năng lớn, một nhân cách lớn đã góp phần đặt nền móng cho một vòng hào khí Đồng Nai - Văn hóa Đồng Nai, là niềm tự hào của người Đồng Nai. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Đồng Nai
Đồng Nai 7087 lượt xem
Di tích Đình An Hòa là một ngôi đình có lịch sử lâu đời khi được xây dựng từ cuối thế kỉ 18, tọa lạc tại xã An Hòa, huyện Long Thành, bên bờ sông Đồng Nai. Đình An Hòa được nhân dân trong làng dựng năm 1792, vốn là ngôi miếu nhỏ nằm bên tả ngạn sông Đồng Nai, thờ Thành Hoàng bổn cảnh. Qua thời gian, đình An Hòa đã có dấu hiệu xuống cấp và được tiến hành trùng tu, tôn tạo nhiều lần vào các năm 1944, 1953, 1994 và 2009. Hiện nay đình tọa lạc trong khuôn viên rộng gần 3 ngàn m2. Ngoài các giá trị phi vật thể và nghệ thuật chạm khắc gỗ, đình còn có giá trị tiêu biểu về quy mô kiến trúc nghệ thuật đặc trưng của đình làng Nam bộ thế kỷ XVIII ở Đồng Nai. Đình bảo tồn khá nguyên vẹn những đặc điểm của nền kiến trúc dân tộc, không chịu ảnh hưởng của kiến trúc Trung Hoa như một số ngôi đình khác trên địa bàn. Theo đó, tiền đình nhìn ra sông Đồng Nai đón gió lành. Mặt bằng kiến trúc đình được bố trí dạng chữ Công, gồm Khu chánh điện, Nhà tiền bối và Nhà khách. Ngoài ra đình còn có Nhà võ ca được dựng biệt lập ở phía trước đối diện với khu Chánh điện. Đây cũng là nơi diễn ra các hoạt động diễn xướng nghệ thuật, múa lân - sư - rồng trong các buổi lễ đình. Các hạng mục kiến trúc đình đều có kiểu nhà tứ trụ (nhà vuông) và nhà xiên chính bằng kỹ thuật ghép mộng truyền thống tạo ra bộ khung sườn vững chắc, có tính chịu lực cao. Mái đình lợp ngói âm dương và vảy cá, nền lát gạch Tàu. Bờ nóc mái trang trí họa tiết rồng chầu mặt trời, cá chép hóa rồng bằng gốm men xanh biểu tượng của mây mưa, sấm chớp, thể hiện ước vọng mưa thuận gió hòa, được mùa, mọi việc hanh thông… Đình An Hòa là ngôi đình hiếm hoi giữ được nét kiến trúc cùng nghệ thuật chạm khắc gỗ tinh xảo các họa tiết, đề tài như: rồng ẩn mây, cá vượt long môn, cúc, mai, dơi ngậm quả, sóng nước…trên hệ thống đầu kèo, xà ngang, cửa võng và các trang thờ. Điều này cũng biểu trưng cho ước mong mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an, cuộc sống yên bình của cư dân nông nghiệp, chài lưới làng Bến Gỗ. Trước năm 1945, đình là trụ sở hành chính của xã, thôn, nơi tổ chức các hoạt động cộng đồng. Sau khi miền Nam giải phóng, đình trở thành nơi hội họp và tổ chức các sinh hoạt văn hóa cộng đồng do Ban Quý tế xã An Hòa quản lý. Theo Ban Quý tế đình, trải qua những thăng trầm thời cuộc, biến động của đời sống, các hiện vật của đình cơ bản vẫn được gìn giữ, bảo vệ nhưng một số cổ vật cũng bị mất, thất lạc. Hàng năm, vào rằm tháng 8 âm lịch lại diễn ra lễ cúng Thần Thành Hoàng bổn cảnh, chư vị thần linh với ước mong quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa, làm ăn phát đạt, cuộc sống ấm no hạnh phúc. Vào ngày 21/1/1989, di tích đình An Hòa đã được nhà nước ta công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 4778 lượt xem
Di tích Tòa Hành chánh tỉnh Long Khánh tọa lạc trên đường Cách mạng tháng Tám, phường Xuân An, thị xã Long Khánh, đã được Bộ Văn hóa xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 16-11-1988. Tòa Hành chánh Long Khánh có tổng diện tích 9.000m2, xây dựng năm 1965 theo lối kiến trúc kiểu Pháp, bao gồm một tầng trệt và một tầng lầu. Đây là trụ sở làm việc cao nhất của Mỹ ngụy ở tỉnh Long Khánh thời bấy giờ. Tháng 3-1975, Mỹ - ngụy cho xây dựng tuyến phòng thủ chiến lược Phan Rang - Xuân Lộc - Tây Ninh nhằm ngăn chặn bước tiến của quân ta theo cửa ngõ Đông - Bắc vào Sài Gòn. Tòa Hành chánh Long Khánh được chọn làm trung tâm điều khiển mọi hoạt động quân sự của tuyến phòng thủ này. Quán triệt tư tưởng của Bộ Chính trị Trung Ương Đảng, Bộ Tư lệnh Miền quyết định mở chiến dịch Xuân Lộc giải phóng thị xã Long Khánh, phá tan tuyến phòng thủ chiến lược của địch, tiến về giải phóng Sài Gòn. Ngày 9-4-1975, chiến dịch bắt đầu được 5 tiếng đồng hồ thì tại Tòa Hành chánh Long Khánh diễn ra trận đánh lớn. Các đồng chí Phạm Lê Cảnh, Nguyễn Văn Trọng, tiểu đoàn 5; Nguyễn Thanh Sơn, Nguyễn Minh Đức, tiểu đoàn 7 của Trung đoàn 266 thuộc mũi xung kích sư đoàn 341 do đồng chí Trần Văn Trân chỉ huy đánh từ hướng Bắc thị xã xuống đã cắm cờ "Quyết chiến quyết thắng" lên đỉnh cột cờ trên lầu 1 Tòa Hành chánh. Đây là chiến thắng có tính chất bước ngoặt lịch sử cho cách mạng Việt Nam và là niềm tự hào của người dân Long Khánh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Sau ngày giải phóng miền Nam 30-4-1975, tỉnh Long Khánh biên chế thành huyện Xuân Lộc. Tòa Hành chánh được sửa chữa lại, trở thành trụ sở làm việc của Uỷ Ban Nhân Dân huyện Xuân Lộc. Năm 1991, huyện Long Khánh được tách ra từ huyện Xuân Lộc, Tòa Hành chánh trở thành trụ sở làm việc của Uỷ Ban Nhân Dân huyện Long Khánh. Năm 2004, Tòa Hành chánh được giao cho Phòng Văn Hoá Thể Thao-Thông Tin thị xã Long Khánh quản lý và sử dụng: Tầng trệt làm thư viện lưu trữ tư liệu phục vụ bạn đọc, tầng lầu làm phòng trưng bày truyền thống với 176 tài liệu, hiện vật. Hàng năm thu hút khoảng 500 khách tham quan, nghiên cứu, học tập. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 7002 lượt xem
Đài kỷ niệm - còn gọi là Đài chiến sĩ nằm ở vị trí trung tâm các con đường lớn ở nội ô thuộc phường Trung Dũng, TP Biên Hòa. Công trình này được chính quyền thuộc địa Pháp xây dựng năm 1923 với tên gọi "Đài kỷ niệm người Việt trận vong". Đây là công trình kiến trúc được mô phỏng theo kiểu ngọ môn Huế thời nhà Nguyễn, do vợ chồng giáo sư Robert Balick và đội ngũ giáo viên, học sinh Trường bá nghệ Biên Hòa thi công. Dưới bàn tay khéo léo và khối óc thẩm mỹ của những nghệ nhân, Đài chiến sĩ là một công trình đặc sắc thời bấy giờ và hoàn toàn mang màu sắc dân tộc. Những trụ đá được chạm khắc với đường nét tinh tế, những mảng hoa văn gốm được thực hiện công phu với màu sắc hài hòa. Tấm bia đá khắc chữ Hán ghi tên những con người ở Biên Hòa đã bỏ mạng vì nước Pháp - họ là những người dân thuộc địa bị bắt lính và chiến đấu trên những mặt trận xa quê hương mà thực dân Pháp chủ mưu. Trong tác phẩm "Bản án chế độ thực dân Pháp", Nguyễn Ái Quốc đã nhắc đến di tích này khi chính quyền thuộc địa Pháp tổ chức khánh thành vào ngày 21-1-1923. Đây là một sự mỵ dân của chính quyền thực dân. Với bút pháp giản dị nhưng hết sức hùng hồn, Nguyễn Ái Quốc đã dành những lời tâm huyết đứng về phía những con người cùng khổ, lên án chế độ thực dân tàn bạo chà đạp một dân tộc, nghiền nát từng con người của đất nước nô lệ, đánh đi bức thông điệp, bản cáo trạng đến những quốc gia, những dân tộc và cả những số phận bị áp bức chỉ còn một con đường duy nhất là vùng lên tự giải phóng. Diện mạo di tích Đài chiến sĩ được tu sửa, tôn tạo với một khuôn viên khang trang đẹp đẽ, trở thành một công viên văn hóa tô điểm làm đẹp TP Biên Hòa. Mặc dù trải qua hơn ba phần tư thế kỷ kể từ khi xây dựng đến nay, thời gian bao lần làm phai nhạt, hư hoại nhưng di tích Đài chiến sĩ mãi mãi là một bằng chứng không thể chối cãi tố cáo tội ác của thực dân Pháp, nhắc nhở cho người dân xứ Biên Hòa một thời lịch sử đau thương dưới ách thống trị ngoại bang để biết vươn lên xây dựng một cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Di tích Đài Kỷ niệm (Đài chiến sĩ) được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 16 tháng 11 năm 1988. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 5139 lượt xem
Di tích Nhà Xanh nằm trong khuôn viên Trường Công nhân kỹ thuật Đồng Nai, thuộc phường Thống Nhất, TP Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Di tích đã được Bộ Văn Hoá Thể Thao xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 12-12-1986. Nhà Xanh được xây dựng vào năm 1912 theo kiến trúc Pháp bằng vật liệu hiện đại, gồm một trệt, một lầu. Khi mới xây dựng, Nhà Xanh được dùng làm Văn phòng của Công ty kỹ nghệ và lâm nghiệp Biên Hòa, gọi tắt là B - I - F, " Bien Hoa Industrelle et Forestiere". Năm 1958, chính quyền Sài Gòn lấy biệt thự này làm cư xá cho Phái đoàn cố vấn quân sự Mỹ ở Biên Hòa. Nơi đây được đánh giá là một vị trí an toàn, lý tưởng, được bao quanh bằng nhiều đồn bót và được bảo vệ bởi các đơn vị lính bảo an. Sau luật 10 - 59 của chế độ Việt Nam Cộng hòa , cuộc chiến giữa ta và địch ngày càng cam go, ác liệt. Mỹ tăng cường can thiệp sâu vào miền Nam nhằm âm mưu nhanh chóng tiêu diệt các lực lượng cách mạng. Trước tình hình đó, Liên Tỉnh ủy miền Đông quyết định tổ chức trận tập kích vào phái đoàn cố vấn Mỹ ở Biên Hòa tại Nhà Xanh. Ngày 7-7-1959, một phân đội đặc công gồm 6 đồng chí là Huề, Phú, Bé, Sắc, Hưng do đồng chí Nguyễn Văn Hoa chỉ huy đã bất ngờ tấn công vào Nhà Xanh. Chỉ trong vòng chưa đầy 15 phút, quân ta đã tiêu diệt 2 cố vấn Mỹ Bui-s và Ovmand. Đây là trận đánh mở màn táo bạo làm rung chuyển chính quyền Mỹ - Diệm. Trận tập kích Nhà Xanh thể hiện được quyết tâm đánh Mỹ của quân và dân Biên Hòa như một hiệu lệnh cổ vũ phong trào cách mạng ở Biên Hòa và toàn miền Nam đang hừng hực khí thế. Với ý nghĩa lịch sử to lớn của trận đánh Mỹ đầu tiên tại Biên Hòa. Nhà Xanh tồn tại như một nhân chứng lịch sử khẳng định quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ của quân và dân ta. Từ năm 1986 đến nay, Nhà Xanh đã trở thành một địa chỉ quen thuộc của các tầng lớp nhân dân, học sinh, sinh viên ở Đồng Nai và cả nước, nhiều đoàn khách quốc tế đến thăm đã biểu thị sự kính phục tinh thần quả cảm, thông minh táo bạo của các chiến sĩ cách mạng đã làm nên trận đánh vang dội, trận đánh phủ đầu làm nhục ý chí của quân đội Mỹ. Di tích Nhà Xanh đã được sửa chữa nhiều lần vào các năm 1991, 1993, 1999. Để đáp ứng nhu cầu tham quan, học tập ngày càng cao của nhân dân và du khách, được sự chấp thuận của Sở Văn Hoá Thể Thao, đầu tháng 12-2006 Ban quản lý di tích - danh thắng đã phối hợp với Trường công nhân kỹ thuật Đồng Nai tiến hành tu bổ, nâng cấp di tích và dự kiến sẽ hoàn thành đưa vào phục vụ khách tham quan trong dịp Tết Nguyên đán. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 5484 lượt xem
Di tích chiến thắng La Ngà (tại km số 104-112 trên quốc lộ 20 đi Đà Lạt, thuộc xã Phú Ngọc, huyện Định Quán) được Bộ Văn hóa xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 12-12-1986. Để cổ vũ cho chiến thắng Việt Bắc thu - đông 1947 và cũng để giáng cho kẻ thù một đòn chí mạng, Ban chỉ huy chi đội 10 đã quyết định phải tổ chức một trận đánh lớn, để quân giặc thấy rằng dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam không dễ dàng chịu khuất phục trước bất kì một kẻ thù nào; Bằng tinh thần quả cảm và sự khôn khéo sau gần nửa năm chuẩn bị, nghiên cứu địa hình, chọn địa điểm: vào lúc 15 giờ 12 phút ngày 1/3/1948 trận chiến phục kích La Ngà bắt đầu và kết thúc vào lúc 15 giờ 57 phút cùng ngày, chỉ trong vòng 45 phút. Chiến thắng La Ngà đã làm nức lòng nhân dân Định Quán nói riêng, quân dân Đồng Nai nói chung. Đây là chiến thắng thể hiện sự mưu trí, dũng cảm của quân và dân ta làm cho địch một phen kinh hồn, bạt phía. Từ chiến thắng này lực lượng ta ngày càng thêm lớn mạnh, góp phần đánh bại kế hoạch đánh nhanh, thắng nhanh của địch, buộc chúng phải rơi vào thế bị động. Quần thể danh thắng đá Chồng, Thác Mai, sông La Ngà và Tượng đài chiến thắng La Ngà là một quần thể du lịch kì thú của Định Quán. Vẻ đẹp kỳ thú của Hòn Ba Chồng, Núi Đá Voi, Hòn Dĩa, cùng với ngôi chùa thiên nhiên dưới chân núi đá là những cụm tiêu biểu tạo thành cảnh đẹp hài hòa cho khu danh thắng Đá Chồng. Quần thể Đá Chồng Định Quán còn là nơi lưu lại những dấu tích của cuộc sống người tiền sử. Tại đây dưới các mái đá, ven các khe suối và cả các sườn dốc ven thung lũng đã phát hiện nhiều công cụ sản xuất, sinh hoạt của người xưa bằng đá, đồng, đất nung. Trong suốt cuộc kháng chiến dài 30 năm. Định Quán là một phần quan trọng của Chiến khu Đ. Đá Chồng đã chứng kiến sự hình thành, phát triển, trú quân, triển khai chiến đấu của lực lượng cách mạng. Ngày nay, một phần đất của khu danh thắng Đá Chồng Định Quán đã được sử dụng, xây dựng thành khu Trung tâm văn hóa thể thao huyện Định Quán. Tương lai không xa khu danh thắng Đá Chồng Định Quán sẽ được đầu tư tôn tạo góp phần làm cho cảnh quan thiên nhiên ngày càng tươi đẹp, là địa điểm du lịch sinh thái hấp dẫn. Nguồn: Uỷ Ban Nhân Dân Huyện Định Quán
Đồng Nai 9871 lượt xem
Mộ Cự thạch Hàng Gòn (còn gọi Di chỉ Hàng Gòn 7, Mộ Đông Dương, Mả Ông Đá), thuộc xã Hàng Gòn, thị xã Long Khánh, tỉnh Đồng Nai, gồm: Khu hầm mộ (phát hiện năm 1927) và Khu chế tác (phát hiện năm 1995). Năm 2011, di tích được tu bổ, tôn tạo với tổng mặt bằng là 37.120m2, với các hạng mục: Khu hầm mộ, khu chế tác, miếu Ông Đá, miếu Thổ thần, các công trình phụ trợ (cổng, hàng rào, sân đường nội bộ, nhà trực ban - bán vé, nhà bao che, nhà đón tiếp - trưng bày, nhà điều hành). 1. Khu hầm mộ: Di tích mộ Cự thạch Hàng Gòn hiện nay so với phát hiện vào năm 1927 vẫn còn giữ nguyên được cấu trúc, hiện trạng hầm mộ. Tuy nhiên, khu di tích dạng hầm mộ được chôn sâu trong lòng đất, so với bình diện của mặt đất hiện nay khoảng 3m. 2. Khu chế tác: Khu chế tác nằm ở phía Tây Nam của cổng chính và phía Đông Nam Khu hầm mộ. Cuộc khai quật năm 1996, đã phát lộ một số tấm đan đá hoa cương và hai trụ đá sa thạch có đầu đấu chéo vào nhau, cùng nhiều phế liệu đá hoa cương và đá cuội. 3. Miếu Ông Đá: mặt bằng dạng chữ Đinh, gồm Chánh điện và Nhà bếp. Chánh điện diện tích 51,84m2 được xây kiểu tứ trụ (nhà vuông, 4 cột), quay về hướng Đông. Hệ thống cột được làm bằng bê tông cốt thép, sơn giả gỗ. Ba vách tường được xây kín, mặt tiền để thông thoáng với cách bố trí ba cửa được làm bằng gỗ gõ đỏ, phần dưới để trơn, phần trên chạm lộng hình hoa mai. 4. Miếu Thổ thần: nằm cách Miếu Ông Đá khoảng 3m về phía Tây Bắc, diện tích 4m2, xây bằng gạch, sơn màu vàng, mái lợp tôn giả ngói màu đỏ, bên trong có một bàn thờ Thổ thần. 5. Các công trình phụ trợ khác: Cổng chính: Cổng phụ. Hệ thống hàng rào. Nhà Trực ban - Bán vé. Nhà bao che. Hệ thống tường khu hầm mộ gồm: Nhà trưng bày và Nhà điều hành. Di tích mộ Cự thạch Hàng Gòn là kiến trúc cổ bằng đá với quy mô kích thước, chất liệu xây dựng và kiểu thức độc đáo ở Việt Nam. Mộ Cự thạch Hàng Gòn đã góp phần làm đa dạng loại hình dolmen (mộ đá lớn) trên toàn thế giới. Trong quá trình khai quật tại di tích, các nhà khoa học đã thu được nhiều hiện vật có giá trị, đa dạng về chủng loại. Di tích mộ Cự thạch Hàng Gòn là công trình kiến trúc liên quan đến hình thức tín ngưỡng của cư dân cổ Đồng Nai, bổ sung cho nhận thức về thế giới quan, nhân sinh quan trong quá trình đấu tranh, tồn tại và sáng tạo văn hóa của nhân loại. Sinh hoạt tín ngưỡng tại di tích mộ Cự thạch Hàng Gòn là tục thờ “Ông Đá”, với ước vọng “Ông Đá” giúp cho người dân được sống cảnh an lành “phong điều vũ thuận”, “quốc thái dân an”... Hằng năm, vào ngày 13 tháng Chín Âm lịch lễ cúng “Ông Đá” được tổ chức, gồm các nghi thức chính: rước Ông Đá từ Khu hầm mộ về miếu Ông Đá, tổ chức lễ cúng tại miếu và hồi Ông Đá về Khu hầm mộ và nhiều hoạt động văn hóa như: Hội thi mâm ngũ quả, biểu diễn múa lân, múa rồng ... Với giá trị tiêu biểu, di tích lịch sử, khảo cổ Mộ Cự thạch Hàng Gòn được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt ngày 23/12/2015. Nguồn: Cục di sản văn hoá
Đồng Nai 6057 lượt xem
Tàu Ô là tên gọi xuất phát từ suối Tàu Ô chảy ngang qua Quốc lộ 13 thuộc ấp 4, xã Tân Khai. Trong Chiến dịch Nguyễn Huệ, chốt chặn Tàu Ô có vị trí cách cống Tàu Ô (đoạn suối Tàu Ô chảy qua Quốc lộ 13) khoảng 400m về hướng Bắc. Đây là một điểm chốt quan trọng trong hệ thống chốt chặn của Sư đoàn 7. Chiến thắng Chốt chặn Tàu Ô đã góp phần vào thành tích chung của Chiến dịch Nguyễn Huệ trong Cuộc tiến công chiến lược năm 1972, góp phần đưa cuộc kháng chiến của dân tộc ta bước sang giai đoạn toàn thắng cả về quân sự và trên nghị trường, buộc Mỹ phải ngồi vào bàn đàm phán hòa bình, ký Hiệp định Paris, chấm dứt chiến tranh tại Việt Nam. Để tưởng nhớ cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn 7, quân và dân địa phương trong Chiến dịch Nguyễn Huệ năm 1972 đã hy sinh vì nền độc lập dân tộc, năm 2009, được sự quan tâm về vật chất của Tỉnh ủy, UBND tỉnh Bình Phước, tỉnh Bình Dương, tỉnh Đồng Nai, TP. Hồ Chí Minh, Ban liên lạc Cựu Chiến binh Sư đoàn 7, Sư đoàn 7 đã tổ chức xây dựng công trình Tượng đài chiến thắng Tàu Ô trên diện tích 11.451,7m2. Công trình gồm 2 hạng mục chính: Nhà bia tưởng niệm và Tượng đài chiến thắng Chốt chặn Tàu Ô. Di tích đã trở thành địa chỉ đỏ của các chuyến về nguồn, tham quan, học tập của nhân dân trong và ngoài tỉnh. Di tích Địa điểm Chiến thắng Chốt chặn Tàu Ô là di tích tiêu biểu, có ý nghĩa, giá trị lịch sử to lớn. Ngày 29/3/2012, di tích Địa điểm Chiến thắng Chốt chặn Tàu Ô được Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch quyết định xếp hạng di tích lịch sử quốc gia. Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Tỉnh Bình Phước
Đồng Nai 3702 lượt xem
Di tích Địa điểm thành lập Chi bộ Đông Dương Cộng sản Đảng ở Phú Riềng tọa lạc tại xã Thuận Phú, huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước. Nơi đây, vào ngày 28/10/1929, Chi bộ Đông Dương Cộng sản Đảng được thành lập làm nền móng sau này cho phong trào cách mạng của công nhân cao su tại khu vực Đông Nam bộ. Đồn điền cao su Phú Riềng thuộc Công ty Michelin được thành lập tại làng Phú Riềng, quận Bà Rá, tỉnh Biên Hòa (nay thuộc Công ty Cổ phần Cao su Đồng Phú). Khi đầu tư khai thác và phát triển cao su tại đây, tư bản Pháp đã tuyển mộ hàng trăm nghìn người từ các tỉnh miền Bắc, miền Trung vào Nam để làm dân phu. Dưới sự hỗ trợ của bộ máy chính quyền thuộc địa, tư bản Pháp đã bóc lột nặng nề và tàn nhẫn sức lao động của những người dân phu như: Đánh đập, cúp phạt lương, tra tấn, chế độ làm việc hà khắc, không chỗ ở, đói cơm, thiếu áo, sống trong cảnh “địa ngục trần gian”, khiến cho “Mỗi cây cao su mọc lên là có một người công nhân ngã xuống”. Những người công nhân chỉ biết phản ứng bằng những hình thức tự phát như chặt cây cao su, biểu tình, bỏ trốn… nhưng tất cả đều bị đàn áp khốc liệt. Trước tình hình đó, năm 1928, đồng chí Nguyễn Xuân Cừ được Kỳ bộ Thanh niên Cách mạng đồng chí hội Bắc kỳ cử đi “vô sản hóa” ở đồn điền cao su Phú Riềng. Để lãnh đạo các phong trào đấu tranh của công nhân, tháng 4/1928, tổ chức Thanh niên cách mạng Đồng chí hội được thành lập do đồng chí Nguyễn Xuân Cừ làm Bí thư cùng với đồng chí Trần Tử Bình, đồng chí Phạm Thư Hồng, đồng chí Tạ, đồng chí Hòa, đồng chí Doanh và đồng chí Song. Đây chính là bộ phận đầu não lãnh đạo các hoạt động đấu tranh của công nhân cao su Phú Riềng. Từ tổ chức cơ sở này, thực hiện chủ trương phát triển tổ chức Đảng, ngày 28/10/1929, bên bờ suối Làng 3, Chi bộ Đông Dương Cộng sản Đảng, còn gọi là Chi bộ Phú Riềng được thành lập, do đồng chí Nguyễn Xuân Cừ làm Bí thư. Đây là chi bộ Đảng cộng sản đầu tiên của tỉnh Bình Phước và đồng thời là chi bộ đầu tiên của ngành cao su Việt Nam. Sự ra đời của Chi bộ Đông Dương Cộng sản Đảng – Chi bộ Phú Riềng đã đáp ứng kịp thời yêu cầu đấu tranh cách mạng, nhanh chóng lãnh đạo công nhân cao su đòi quyền lợi bằng các hình thức đấu tranh khác nhau, có tổ chức, kế hoạch với nhiều hình thức. Trong đó, điển hình là cuộc bãi công của 5.000 công nhân cao su năm 1930 làm nên “Phú Riềng Đỏ” anh hùng, phá tan “Địa ngục trần gian”. Sau 8 ngày (từ ngày 30/01/1930 đến 06/02/1930), cuộc đấu tranh đã giành thắng lợi to lớn, ảnh hưởng sâu rộng, góp phần thúc đẩy phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân Việt Nam lên một bước thắng lợi và là mốc son lịch sử trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng của đất nước. Di tích Địa điểm thành lập Chi bộ Đông Dương Cộng sản Đảng ở Phú Riềng là nơi ghi dấu giá trị, tầm quan trọng của đường lối đúng đắn và quá trình phát triển mạnh mẽ của tổ chức Đảng. Ngày nay, “Phú Riềng Đỏ” năm xưa trở thành mảnh đất bạt ngàn cao su, đóng góp “vàng trắng” xây dựng và kiến tạo quê hương Bình Phước ngày càng giàu đẹp. Năm 1985, Công ty Cổ phần Cao su Đồng Phú đã xây dựng đài tưởng niệm, đến năm 2019, Tập đoàn Công nghiệp cao su Việt Nam đầu tư tôn tạo di tích Địa điểm thành lập Chi bộ Đông Dương Cộng sản Đảng ở Phú Riềng khang trang hơn. Ngày nay, di tích Địa điểm thành lập Chi bộ Đông Dương Cộng sản Đảng ở Phú Riềng là địa chỉ ôn lại truyền thống đấu tranh cách mạng, khẳng định và nâng cao niềm tự hào đối với những đóng góp của công nhân cao su nói riêng, giai cấp công nhân, quân dân Bình Phước nói chung đối với sự nghiệp giành độc lập dân tộc. Với những giá trị lịch sử tiêu biểu đó, ngày 12/02/1999, di tích Địa điểm thành lập Chi bộ Đông Dương Cộng sản Đảng ở Phú Riềng được Bộ trưởng Bộ Văn hóa – Thông tin quyết định xếp hạng di tích lịch sử quốc gia. Nguồn: Trang Thông Tin Điện Tử Bảo Tàng Tỉnh Bình Phước
Đồng Nai 4741 lượt xem
Khu di tích Láng Le Bàu Cò tọa lạc tại xã Tân Nhựt, huyện Bình Chánh, Tp HCM. Láng Le Bàu Cò gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược vào năm 1948 với những trận đánh lớn đi vào lịch sử. Di tích Láng Le Bàu Cò được công nhận là di tích lịch sử cấp thành phố vào năm 2003. Sở dĩ được gọi tên là khu di tích Láng Le Bàu Cò vì Tên gọi của khu di tích Láng Le Bàu Cò là do người dân địa phương đặt ra. Xóm làng được thành lập cạnh những con kênh rạch chằng chịt và dòng sông. Láng Le Bàu Cò có vị trí nằm ở bên trong cánh đồng có diện tích rộng lớn và có rất nhiều tôm, cua, cá. Cùng với nhiều loài chim như vịt trời, cò, con le le, cúm núm, cồng cộc, đa đa, diệc, đỏ nách tới kiếm ăn tại đây. Vì vậy, người dân Tân Nhựt gọi với cái tên thân thuộc và mộc mạc đó là Láng Le Bàu Cò. Di tích Láng Le Bàu Cò được xem là cửa ngõ để di chuyển tới trung tâm căn cứ Vườn Thơm và tấn công cơ quan đầu não của quân địch tại Sài Gòn. Trước đây khu di tích Láng Le Bàu Cò vốn là cánh đồng lau sậy mọc um tùm. Vào ngày 15/4/1948 thực dân Pháp đưa 3 nghìn quân lính cùng nhiều vũ khí hiện đại đồng loạt tấn công khu vực Láng Le Bàu Cò nhằm tiêu diệt căn cứ Vườn Thơm. Khi đó lực lượng vũ trang cách mạng ở Láng Le - Bàu vì lực lượng nhỏ và vũ khí thô sơ tuy nhiên được sự giúp đỡ của người dân địa phương cùng với lợi thế về địa hình. Chỉ sau hơn nửa ngày đấu tranh đã chuyển sang tấn công khiến quân Pháp bị thương vong với số lượng lớn. Chiến thắng Láng Le Bàu Cò đã tiêu diệt 300 tên địch và bắt sống 30 lính đánh thuê cùng phá hủy nhiều máy móc, xe nhà binh, súng các loại của quân giặc. Tuy nhiên, về phía ta có nhiều cán bộ chiến sĩ đã anh dũng hy sinh với tuổi đời còn rất trẻ. Ngày 14/10/1966 tại Láng Le tiểu đoàn biệt động quân Việt Nam Cộng Hòa bị dân quân du khách tiêu diệt. Khu di tích Láng Le Bàu Cò có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với người dân Sài Gòn nói riêng và cả nước nói chung. Trước lòng căm thù thực dân Pháp, quân dân Láng Le Bàu Cò đã có cuộc chiến vang lừng lịch sử và có ý nghĩa to lớn mở đầu cho phía ta và phía địch. Đối với phía ta trận đánh mở đầu cho sự anh dũng trong tư thế kháng chiến vững mạnh. Còn với quân địch đã phải lùi vào thế bỏ chiến lược và bị tiêu diệt. Thực dân Pháp không còn định hình được chiến lược đánh bại Việt Minh. Hơn thế, tại căn cứ Vườn Thơm, Láng Le Bàu Cò còn diễn ra trận chiến quyết tâm bảo vệ căn cứ của ta và đập tan mọi kế hoạch phá hoại của quân giặc. Khu di tích Láng Le Bàu Cò sau phong trào Đồng Khởi vào năm 1960 còn là hậu cần, bàn đạp của lực lượng vũ trang để giải phóng Long An - Sài Gòn - Gia Định. Để tưởng nhớ sự hy sinh của đồng bào và các chiến sĩ của ta, vào năm 1988 huyện Bình Chánh đã xây dựng công trình lịch sử tại vùng đất Láng Le Bàu Cò với diện tích rộng 1000m2. Nguồn: Báo thông tin điện tử TP Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 13230 lượt xem
Nhà lao Tân Hiệp còn có tên là "Trung tâm cải huấn Tân Hiệp" tọa lạc ở khu phố 6, phường Tân Tiến, TP Biên Hòa. Di tích Nhà lao Tân Hiệp đã được Bộ Văn Hoá Thể Thao xếp hạng là di tích cấp quốc gia ngày 15-1-1994. Nhà lao Tân Hiệp là một trong sáu nhà tù lớn nhất miền Nam Việt Nam và là nhà tù lớn nhất vùng Đông Nam bộ, được xây dựng ở vị trí quân sự quan trọng, án ngữ phía đông bắc thị xã Biên Hòa. Phía trước là quốc lộ 1; phía sau là đường xe lửa Bắc - Nam. Đây là vị trí biệt lập, thuận tiện trong giao thông, dễ dàng cho việc bảo vệ, canh gác, nhận tù từ nơi khác đến và chuyển tù đi Côn Đảo, Phú Quốc... Nhà lao Tân Hiệp có diện tích 46.520m2 với 8 trại giam, trong đó có 5 trại giam những người tù cộng sản, người yêu nước. Xung quanh nhà tù được bao bọc bởi 4 lớp kẽm gai bùng nhùng với 9 lô cốt, 3 tháp canh cùng đội lính bảo vệ và hệ thống báo động tối tân. Mang tên "Trung tâm cải huấn" nhưng thực chất bên trong là kho súng, phòng xét hỏi, tra tấn với những dụng cụ hiện đại bậc nhất. Mỗi trại giam chỉ có diện tích gần 200m2 nhưng giam giữ từ 300-400 người, có lúc lên đến cả ngàn người. Đặc biệt ở đây có các phòng "cải hối", "chuồng cọp" rất nhỏ hẹp và điều kiện sinh hoạt cực kỳ khắc nghiệt, tù nhân sống chẳng khác gì trong lò thiêu xác. Chế độ ăn uống cực kỳ mất vệ sinh, bọn cai ngục mua gạo mục, cá thối dùng để bón ruộng, chiên bằng dầu luyn cho tù nhân ăn dẫn đến nhiều người bị ngộ độc. Với quyết tâm thoát khỏi nhà tù đế quốc, trở về với Đảng, với nhân dân để tiếp tục chiến đấu, giải phóng dân tộc, ngày 2-12-1956, được sự nhất trí của Liên Tỉnh ủy miền Đông, những chiến sĩ cộng sản bị "câu lưu" trong nhà lao Tân Hiệp dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Trọng Tâm (Bảy Tâm) - phụ trách Đảng ủy nhà tù và một số đồng chí khác đã bất thần làm một cuộc phá xiềng tập thể giải thoát gần 500 đồng chí, đồng bào yêu nước. Sự kiện này đã làm xôn xao cả Lầu Năm Góc. Mỹ - Diệm vội vã huy động cả quân chủ lực lẫn bảo an, dân vệ đang trấn thủ 3 tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một và hai biệt đoàn biệt động quân đến bủa lưới bao vây, truy bắt đoàn tù nhưng đều thất bại. Các đồng chí, đồng bào của ta thoát khỏi nhà lao Tân Hiệp đã được sự giúp đỡ, che chở của các cơ sở địa phương, trở về căn cứ an toàn. Trong số tù nhân vượt ngục có các đồng chí: Bảy Tâm, Hai Thông, Lý Văn Sâm... đã trở thành những hạt nhân nòng cốt cho phong trào Đồng Khởi sau này. Năm 2001, để tái hiện phần nào tội ác của Mỹ - Diệm đối với các đồng chí, đồng bào ta bị giam cầm tại nhà lao Tân Hiệp và diễn tả lại toàn bộ cuộc nổi dậy phá khám Tân Hiệp ngày 2-12-1956, Bảo tàng Đồng Nai đã tiến hành sưu tầm hình ảnh, tài liệu, hiện vật trưng bày tại di tích và làm một sa bàn để phục vụ nhu cầu nghiên cứu, tham quan của mọi tầng lớp nhân dân. Hàng ngày, di tích luôn mở cửa đón khách tham quan. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 12037 lượt xem
Di tích chiến thắng La Ngà (tại km số 104-112 trên quốc lộ 20 đi Đà Lạt, thuộc xã Phú Ngọc, huyện Định Quán) được Bộ Văn hóa xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 12-12-1986. Để cổ vũ cho chiến thắng Việt Bắc thu - đông 1947 và cũng để giáng cho kẻ thù một đòn chí mạng, Ban chỉ huy chi đội 10 đã quyết định phải tổ chức một trận đánh lớn, để quân giặc thấy rằng dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam không dễ dàng chịu khuất phục trước bất kì một kẻ thù nào; Bằng tinh thần quả cảm và sự khôn khéo sau gần nửa năm chuẩn bị, nghiên cứu địa hình, chọn địa điểm: vào lúc 15 giờ 12 phút ngày 1/3/1948 trận chiến phục kích La Ngà bắt đầu và kết thúc vào lúc 15 giờ 57 phút cùng ngày, chỉ trong vòng 45 phút. Chiến thắng La Ngà đã làm nức lòng nhân dân Định Quán nói riêng, quân dân Đồng Nai nói chung. Đây là chiến thắng thể hiện sự mưu trí, dũng cảm của quân và dân ta làm cho địch một phen kinh hồn, bạt phía. Từ chiến thắng này lực lượng ta ngày càng thêm lớn mạnh, góp phần đánh bại kế hoạch đánh nhanh, thắng nhanh của địch, buộc chúng phải rơi vào thế bị động. Quần thể danh thắng đá Chồng, Thác Mai, sông La Ngà và Tượng đài chiến thắng La Ngà là một quần thể du lịch kì thú của Định Quán. Vẻ đẹp kỳ thú của Hòn Ba Chồng, Núi Đá Voi, Hòn Dĩa, cùng với ngôi chùa thiên nhiên dưới chân núi đá là những cụm tiêu biểu tạo thành cảnh đẹp hài hòa cho khu danh thắng Đá Chồng. Quần thể Đá Chồng Định Quán còn là nơi lưu lại những dấu tích của cuộc sống người tiền sử. Tại đây dưới các mái đá, ven các khe suối và cả các sườn dốc ven thung lũng đã phát hiện nhiều công cụ sản xuất, sinh hoạt của người xưa bằng đá, đồng, đất nung. Trong suốt cuộc kháng chiến dài 30 năm. Định Quán là một phần quan trọng của Chiến khu Đ. Đá Chồng đã chứng kiến sự hình thành, phát triển, trú quân, triển khai chiến đấu của lực lượng cách mạng. Ngày nay, một phần đất của khu danh thắng Đá Chồng Định Quán đã được sử dụng, xây dựng thành khu Trung tâm văn hóa thể thao huyện Định Quán. Tương lai không xa khu danh thắng Đá Chồng Định Quán sẽ được đầu tư tôn tạo góp phần làm cho cảnh quan thiên nhiên ngày càng tươi đẹp, là địa điểm du lịch sinh thái hấp dẫn. Nguồn: Uỷ Ban Nhân Dân Huyện Định Quán
Đồng Nai 9871 lượt xem
Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh còn gọi là đình Bình Kính tọa lạc bên tả ngạn sông Đồng Nai, xưa kia thuộc ấp Bình Kính, thôn Bình Hoành, tổng Trấn Biên, nay là ấp Nhị Hòa, xã Hiệp Hòa, TP Biên Hòa, đã được Bộ Văn Hoá – Thông Tin – Thể Thao & Du Lịch xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 25-3-1991. Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ 18, ban đầu ngôi đền có qui mô nhỏ, vách làm bằng ván, mái ngói âm dương, cách ngôi đền hiện tại khoảng 400m về hướng Nam. Các tư liệu cho biết: ngôi đền được xây dựng lại lần đầu tiên vào năm Tự Đức thứ tư (1851); đến năm 1923, đền được tái thiết lại ở địa điểm hiện nay. Nguyễn Hữu Cảnh sinh vào năm 1650 tại Gia Miêu, huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa trong một gia đình có nhiều bậc danh tướng đương triều. Ông là người văn võ song toàn, lập được nhiều chiến công lớn và được chúa Nguyễn tin yêu, trọng vọng. Mùa Xuân năm Mậu Dần (1698), ông vâng lệnh chúa Nguyễn vào kinh lược xứ Đàng Trong khi ấy còn rất hoang vu. Đến đất Đồng Nai, ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố (nay là xã Hiệp Hòa); lấy đất Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn, đất đai mở mang ngàn dặm. Ông chiêu mộ lưu dân đến lập nghiệp, tổ chức bộ máy hành chính từng bước có qui củ, khuyến khích khai hoang, thúc đẩy Cù lao Phố phát triển thành một trong những cảng thị sầm uất, năng động nhất đàng Trong suốt thế kỷ 18 và chính thức sáp nhập vùng đất mới phương Nam vào bản đồ Đại Việt. Sau khi kinh lược phương Nam trở về, năm sau ông lại phụng mệnh chúa Nguyễn Phúc Chu thống lĩnh đại binh dẹp vua Chân Lạp giữ vững miền biên ải phương Nam. Tháng 4 năm Canh Thìn (1700), sau khi hoàn thành sứ mệnh, trên đường trở về đến Rạch Gầm (Tiền Giang) thì ông thọ bệnh qua đời nhằm ngày 16 tháng 5 âm lịch, thọ 51 tuổi. Trên đường di quan ông về quê an táng, quan tài của ông được đình lại khu đất khi xưa ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố để cho nhân dân địa phương có dịp bái biệt ông lần cuối. Nơi đình quan đã được nhân dân địa phương xây một ngôi mộ vọng để ghi nhớ sự kiện này. Khi hay tin Nguyễn Hữu Cảnh mất, Chúa Nguyễn vô cùng thương tiếc đã phong tặng ông là Thượng đẳng công thần đặc Trấn phủ Chưởng cơ với tước: Lễ Thành Hầu và đưa bài vị của ông vào thờ tại Thái miếu. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 9820 lượt xem
Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt, tọa lạc ấp Xóm Tháp, xã Tân Phong, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử - văn hóa ngày 23 tháng 7 năm 1993. Đồng thời là một trong ba công trình tháp cổ cuối cùng còn lại ở miền Nam nước ta. Trải qua nhiều lần trùng tu vào các năm 1938, 2003 và gần đây nhất là vào năm 2013. Mặc dù trải qua các đợt trùng tu tôn tạo, nhưng khu di tích tháp cổ Chót Mạt đã mang cho mình một diện mạo mới nhưng vẫn giữ nguyên được tinh thần kiến trúc cổ. Toàn bộ tòa Tháp được xây dựng bằng gạch và đá phiến với phần đỉnh tháp nhọn dần lên, từ mặt đất lên nơi cao nhất của đỉnh tháp được ước tính là 10m. Ngoài ra, ngọn tháp cổ này nằm trên gò đất cao giữa cánh đồng nên nhìn từ xa nó tựa như ngọn bút đang vươn lên cao dần. Năm 2003 Uỷ ban nhân dân tỉnh Tây Ninh quyết định phê duyệt dự án đầu tư trùng tu tôn tạo bảo tồn di tích tháp Chót Mạt và được tiến hành triển khai trùng tu tôn tạo phục hồi, trưng bày mở hố khai quật năm 2003 đưa vào sử dụng. Ngày 27/11/2019 UBND tỉnh ban hành Quyết định Quy định về phân cấp quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. Quyết định giao UBND huyện Tân Biên trực tiếp quản lý 4 di tích, trong đó có di tích cấp Quốc gia di tích Lịch sử- văn Hóa Tháp Chót Mạt. Đặc biệt Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt trên địa bàn xã Tân Phong, huyện Tân Biên được chọn nằm trong chũi liên kết phát triển du lịch của Tỉnh Tây Ninh. Đây là một địa điểm tham quan rất đáng để khám phá, góp phần phát triển du lịch trên địa bàn xã Tân Phong nói riêng và huyện Tân Biên nói chung. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Tây Ninh
Tây Ninh 9459 lượt xem
Thời kỳ nhà Mạc đóng đô ở Cao Bằng, để phòng bị quân nhà Lê tiến đánh, nhà Mạc đã tu bổ, sửa chữa thành Na Lữ (nay thuộc xã Hoàng Tung, Hòa An) và thành Bản Phủ (nay thuộc xã Hưng Đạo), thành Phục Hòa, ngoài ra còn xây dựng nhiều thành lũy khác ở Cao Bằng, làm cho Cao Bằng trở thành một trung tâm chính trị và quân sự ở vùng biên viễn Đông Bắc thời bấy giờ. Thành Na Lữ và thành Phục Hoà là hai thành được xây dựng từ trước. Theo ghi chép của Bế Hựu Cung trong Cao Bằng thực lục, thành Na Lữ và thành Phục Hòa mở đầu từ đời Đường Ý Tông năm Giáp Thân, niên hiệu Hàm Thông thứ 5 (874). Căn cứ vào sự hiện diện của nhiều ngôi mộ cổ có đá khắc ghi bia mộ tên, địa chỉ, quê quán những người phu dịch xây thành chết ở đây từ thời Hàm Thông có thể khẳng định hai thành này xây từ đời Đường. Thành Na Lữ được xây qua nhiều triều đại khác nhau. Khi nhà Mạc lên Cao Bằng đã cho xây lại bằng gạch. Thành Na Lữ có hình gần chữ nhật, có tổng diện tích khoảng 37,5 ha, chiều dài khoảng 800 m, chiều rộng khoảng 600 m, thành có 4 cửa. Thành Bản Phủ tại kinh đô Nam Bình, nước Nam Cương của Thục Phán khi xưa ở Cao Bình (Cao Bằng), nhà Mạc đã tu bổ thành Vương phủ tại vòng trong của kinh đô cũ Nam Bình và được gọi là thành Bản Phủ hay Vương phủ. Tại kinh đô Nam Bình xưa của nước Nam Cương và của nhà Mạc, thành Bản Phủ vẫn còn dấu tích khá rõ nét. Kinh đô Nam Bình gồm có hai vòng thành, để bảo vệ kinh thành, vòng ngoài có chu vi khoảng 5 km, gồm cả một vùng gò đồi thấp, quanh chân đồi được bạt dựng đứng như một bức tường thành, thuận lợi cho việc xây dựng phòng tuyến bảo vệ. Bờ thành phía Tây chạy song song với bờ sông Bằng đến đầu làng Bó Mạ, nối bờ thành Đông Nam chảy qua trước mặt Bản Phủ theo chân đồi ra gặp quốc lộ 4, phía Đông Bắc chạy theo chân đồi sát phía ngoài quốc lộ 4, lên đến Đầu gò là phía Tây Bắc tiếp tục chạy theo chân đồi, ra đến bờ sông gặp bờ thành phía Tây tạo thành một vòng thành khép kín. Khi nhà Mạc lên đóng đô đã tu sửa lại và xây dựng thêm một số công trình, trong đó thành Bản Phủ (thành nội - nơi của vua làm việc) được xây lên cao hơn trên các tường thành cũ từ thời kỳ Thục Phán, thành nằm trên một khu đất bằng phẳng. Cùng với việc xây dựng lại kinh thành, nhà Mạc còn xây dựng một hệ thống đồn bốt, thành lũy khá dày xung quanh kinh đô và một số điểm biên giới quan trọng, tạo thành một hệ thống bảo vệ kinh thành và bảo vệ biên giới. Thành Phục Hòa (huyện Phục Hoà) được xây theo kiểu hình vuông, mỗi chiều khoảng 400 m, gồm hai vòng thành, khoảng cách giữa hai vòng là 80 m. Hiện nay, tường thành phía Nam đã bị phá huỷ hoàn toàn. Thành Phục Hòa có 2 cổng chính: Cổng phía Bắc được mở thông ra quốc lộ đi Cửa khẩu Tà Lùng ngày nay, nhân dân thường gọi là Pác Cổng, cổng này được xây theo kiểu hình chữ nhật, rộng 8 m, cao 5 m, gồm hai cánh cổng làm bằng gỗ nghiến dày rất chắc chắn; cổng thứ hai ở phía Nam, mở thông ra bờ sông. Cả hai cổng đều bị san phẳng từ lâu, hiện nay không còn vết tích. Gần thành, tại phía Tây Bắc ngoại thành dọc bờ sông còn có nhiều vết tích lò nung gạch, nhân dân cho biết trong quá trình lao động, khai phá đã tìm thấy ở khu vực này nhiều lò gạch còn nguyên vẹn. Qua nghiên cứu, khảo sát cho thấy, tại Cao Bằng, nhà Mạc đã tu bổ, tôn tạo và xây dựng thêm nhiều thành, đồn luỹ, trong đó tu bổ, tôn tạo xây lại thành Bản Phủ, thành Na Lữ, thành Phục Hoà. Các đồn luỹ này đã tạo thành một hệ thống liên hoàn bảo vệ kinh thành khá vững chắc. Đến nay, những thành cổ nhà Mạc xây dựng thời kỳ đóng đô ở Cao Bằng, một số thành xây dựng bằng đất chỉ còn vết tích, nhưng các thành được xây bằng đá vẫn còn rất rõ. Nguồn: Báo Cao Bằng điện tử
Cao Bằng 8940 lượt xem
Dinh Quận Hóc Môn tọa lạc tại số 1, đường Lý Nam Đế, thị trấn Hóc Môn, (cạnh trụ sở UBND huyện) là nơi để lại nhiều sự kiện đấu tranh nổi bật suốt chặng đường dài lịch sử từ 1885 đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng của Nhân dân 18 Thôn vườn trầu. Sau khi hạ được Đại đồn Chí Hòa, thực dân Pháp xây dựng tại nơi đây một ngôi nhà gỗ cao 3 tầng dùng làm Đồn binh. Khi tên Trần Tử Ca về nhậm chức Đốc Phủ, dùng Đồn làm Dinh huyện Bình Long. Vốn là một tay say quỷ quyệt của thực dân Pháp, Trần Tử Ca bị nhóm do các ông Phan Văn Hớn (Quản Hớn) và Nguyễn Văn Quá (Chánh Lãnh Binh) cầm đầu gần 1.000 nghĩa quân tiến về đốt Dinh Quận, bắt và cắt đầu bêu giữa chợ. Đó là ngày 8/2/1885 Tết Ất Dậu. Sau đó, Dinh Quận Hóc Môn được xây dựng lại với nền móng đá xanh, tường gạch, có hệ thống phòng thủ từ lầu cao đến tận vòng rào. Lối kiến trúc y như Đồn binh nên người địa phương gọi là Đồn Hóc Môn. Trấn nhậm thay Trần Tử Ca là Đốc phủ Ngôn, đến Quận Trà rồi Quận Thọ. Đây là khoảng thời gian dài người dân vùng Hóc Môn hứng chịu bao cảnh tham tàn, bỉ ổi của thực dân Pháp và bọn tay sai đầu sỏ kể trên. Với truyền thống kiên cường bất khuất của Nhân dân Hóc Môn. Ngày 4/6/1930, khoảng 6 giờ sáng trước Dinh Quận, hàng trăm bà con Hóc Môn kéo biểu tình đòi “bãi bỏ thuế thân, giảm các thuế môn bài và thuế chợ, cấp đất cho dân cày nghèo”. Quận Trà cho mời những người cầm đầu vào Dinh thương lượng, nhưng chúng xảo quyệt bắt giữ họ trong đó có ông Lê Văn Uôi (Bí thư xã Tân Thới Nhì), là người cầm đầu cuộc biểu tình. Mọi người không nao núng, quyết liệt đòi hỏi Quận Trà phải thả những người bị cầm giữ. Đoàn biểu tình càng lúc càng đông, khí thế đấu tranh có phần lan rộng, khiến Quận Trà nhượng bộ. Một mặt chúng thả những người bị giữ, mặc khác chúng gọi điện cho quan thầy ở Sài Gòn cứu viện. 2 giờ sau, cuộc đấu tranh bị 2 tên Blachôlê và Nobbot chỉ huy bắn xối xả vào đoàn biểu tình, gây thương vong nhiều người. Nhưng sự kiện lịch sử gây ấn tượng nhất tại Dinh Quận Hóc Môn là cuộc khởi nghĩa Nam kỳ ngày 23/11/1940. Đồn Hóc Môn rất kiên cố, xây bằng đá xanh như là một pháo đài, cao khoảng 15 thước, có ụ súng và hệ thống phòng thủ lỗ châu mai do một trung đội lính khố xanh trấn giữ. Ngày 22/11/1940, Pháp tăng cường thêm 1 trung đội để đối phó với tình hình. Chiều 22/11/1940, cánh quân của ông Đỗ Văn Cội đột nhập vào thị trấn, giả dạng thường dân, phục kích sau lưng Đồn chờ lệnh cướp Đồn. Một cánh quân khác có nhiệm vụ phá cầu, đốn cây ngăn lộ, đánh chiếm các công sở, nhà việc... Cánh quân từ Phước Vĩnh An, Tân Thông, Tân An Hội, Tân Phú Trung do ông Phạm Văn Sáng và Đặng Công Bỉnh chỉ huy, xuất phát từ ấp Bến Đò, đánh chiếm nhà việc, diệt 1 tên, thu 4 súng, làm chủ tình hình tại đây (Tân Phú trung). Liền đó cánh quân này được lệnh kéo về Hóc Môn. Cánh quân Long Tuy Thượng do ông Bùi Văn Hoạt chỉ huy. Cánh quân thuộc Tổng Long Tuy Trung do ông Đỗ Văn Dậy và Lê Bình Đẳng chỉ huy. Khoảng 24 giờ đêm ngày 22/11/1940, vẫn chưa nghe thấy tiếng pháo lệnh ở Sài Gòn. Sau khi hội ý, các vị chỉ huy những cánh quân thống nhất tấn công Đồn giặc. Lập tức các cánh quân tiến thẳng về Đồn Hóc Môn, nơi trú ngụ của tên Quận trưởng Bùi Ngọc Thọ. 2 nghĩa quân tên Nghé và Kinh xung phong vào cổng trước, hy sinh. Nghĩa quân bốn phía xông vào Đồn như nước vỡ bờ. Trước sức mạnh của nghĩa quân và quần chúng, bọn lính trong Đồn không còn tinh thần kháng cự, bỏ chạy tán loạn. Nghĩa quân chiếm lĩnh hoàn toàn bên trong Đồn nhưng trên lầu, địch vẫn ngoan cố dùng súng bắn tẻ, cùng lúc gọi điện về Sài Gòn, Thủ Dầu Một cấp cứu. Vì nóng lòng bắt cho được tên Quận Thọ nên đồng chí Đỗ Văn Dậy bám ống máng nước để leo lên tầng trên Đồn. Đến lưng chừng bị trúng đạn, đồng chí bị rơi xuống và hy sinh sau đó. Cuộc chiến đấu đang thế giằng co thì viện binh địch đến. Không thể cầm cự, nghĩa quân rút khỏi thị trấn, phân tán về các làng, lực lượng vũ trang rút về ấp Bến Đò (Tân Phú Trung) rồi di chuyển sang ấp Mỹ Hạnh (Đức Hòa). Cuộc tiến công Đồn Hóc Môn (sau gọi là Dinh Quận Hóc Môn) tuy thất bại nhưng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng mọi người dân sự khâm phục lòng dũng cảm của các chiến sĩ cách mạng trong cuộc chiến đấu chống thực dân cướp nước. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, 7 giờ sáng ngày 30/4/1975, thị trấn Hóc Môn hoàn toàn được giải phóng, lá cờ Tổ quốc phất phới bay trên Dinh Quận, nơi tên Quận trưởng Nguyễn Như Sang và bọn tay sai đã chạy trốn từ tối đêm trước. Ngày nay Dinh Quận Hóc Môn được chọn làm Bảo tàng huyện, nơi đây tập trung nhiều tư liệu trưng bày, minh họa các giai đoạn lịch sử thăng trầm cũng như khí thế đấu tranh cách mạng của quân và dân trong huyện Hóc Môn qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Một Tượng đài đặt trước di tích Dinh Quận Hóc Môn thể hiện gương hy sinh bất khuất của quân và dân 18 Thôn Vườn trầu, được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn: Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 8909 lượt xem
Di tích tòa Đại sứ Mỹ còn được gọi "Nhà trắng phương Đông" là nơi xuất phát các âm mưu thâm độc về quân sự lẫn chính trị nhằm thôn tính lâu dài đất nước Việt Nam, địa điểm di tích là tòa nhà 5 tầng xây dựng theo kiến trúc hiện đại, tọa lạc tại góc đường Mạc Đĩnh Chi - Lê Duẩn, Phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, trên một mảnh đất rộng gần 5.000m2. Trước đó, tòa đại sứ Mỹ nằm tại số 39 đường Hàm Nghi. Khoảng 10 giờ sáng ngày 30/3/1963, tòa đại sứ Mỹ trên đường Hàm Nghi đã bị đội Biệt động F21 đánh chất nổ làm sập 3 tầng lầu: 1, 2, 3 do đó Mỹ đã quyết định xây lại. Tòa nhà được khởi công xây dựng vào năm 1965, hầu hết vật liệu cũng như máy móc xây dựng đều được chở từ Mỹ sang, dưới sự điều khiển của kỹ sư người Mỹ. Theo thiết kế, tòa nhà bao bọc bởi 7.800 viên đá Taredo có khả năng chống đỡ mìn, đạn pháo. Cửa chính trang bị bằng thép dầy, những cửa khác chắn bởi lớp kín dầy đặc biệt chống đạn. Tất cả cửa sử dụng hệ thống tự động kể cả cửa sắt chắn lối lên các tầng lầu. Bên trong tòa nhà gồm 140 phòng với 200 nhân viên phục vụ ngày đêm ngoài ra bên cạnh tòa nhà còn được xây thêm một dãy nhà phụ gọi là khu "Norodom" dành riêng cho nhân viên C.I.A. Khi khánh thành, tòa nhà chỉ có 3 tầng. Cuối năm 1966 xây thêm 2 tầng và 1 sân thượng dùng làm nơi hạ cánh cho máy bay lên thẳng. Bao quanh tòa nhà là bức tường cao 3m, hai đầu tường sát đường Lê Duẩn xây 2 lô - cốt cao, canh gác ngày đêm. Tòa Đại sứ hoàn thành tháng 9/1967 với một hệ thống phòng thủ như là một pháo đài có 60 lính gác, một hầm tránh bom, một hệ thống màn hình ra-đa nhằm kiểm soát mặt tiền. Ngay sau khi tòa nhà hoàn tất, ngày 24/9/1967, hàng ngàn sinh viên, học sinh kéo đến trước cổng Đại sứ quán Mỹ đấu tranh đòi "Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc", "Mỹ cút về nước" và ra thông báo tố cáo Mỹ "chà đạp và vi phạm nghiêm trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam". Nhưng sự kiện nổi bật xảy ra tại Tòa Đại sứ Mỹ là trận đánh của Biệt động thành trong Tổng Tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968. Mục tiêu đánh Đại sứ quán Mỹ được bổ sung ngày 24/ 1/1968 do Ngô Thành Vân phụ trách chung. Đội Biệt động 11 nhận lãnh nhiệm vụ quan trọng này gồm đội trưởng Út Nhỏ (đội trưởng trinh sát quân khu) và các chiến sĩ: Bảy Truyền, Tước, Thanh, Chức, Trần Thế Ninh, Chính, Tài, Văn, Đực, Cao Hoài Vinh, Mang, Sáu và 2 lái xe: Trần Sĩ Hùng và Ngô Văn Thuận. Một sự kiện khác cũng không kém phần tủi nhục cho Toà Đại sứ Mỹ là cảnh hỗn loạn tháo chạy xảy ra trong 2 ngày 29 và 30/04/1975 của Mỹ và đồng bọn. Trước sức tấn công thần tốc của quân và dân Việt Nam trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, trên 1.000 người Mỹ và hơn 5.000 người Việt thân Mỹ đã chen lấn, xô đẩy, đạp nhau để tranh giành một chỗ trên sân thượng của toà nhà hòng được trực thăng cứu thoát. Di tích này đã được cấp bằng công nhận của Bộ Văn hoá ngày 25/6/1976. Hiện nay, toà nhà Đại Sứ Mỹ đã bị phá bỏ, xây mới thành lãnh sự quán tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng cạnh đó một bia tưởng niệm ghi nhớ mãi chiến công của các chiến sĩ biệt động đã hy sinh trong trận đánh. Nguồn: Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 8795 lượt xem
Mai Xuân Thưởng là người lãnh đạo phong trào Cần Vương chống Pháp cuối thế kỷ XIX ở Bình Định. Mai Xuân Thưởng sinh năm Canh Thân 1860, mất năm Đinh Hợi 1887 người thôn Phú Lạc, tổng Phú phong, huyện Tuy Viễn, tỉnh Bình Định (nay là thôn Phú Lạc, xã Bình Thành, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Cha là Mai Xuân Tín làm Bố chánh ở Cao Bằng, mẹ là Huỳnh Thị Nguyệt con của một nhà quyền quý trong làng. Mai Xuân Thưởng vốn là người thông minh, ham học. Năm 18 tuổi (1878) ông đỗ Tú tài tại Trường thi Bình Định. năm 25 tuổi (1885) thi đỗ cử nhân. Hưởng ứng chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi, Mai Xuân Thưởng về quê Phú Lạc, chiêu mộ nghĩa binh, lập căn cứ ở hòn Sưng dựng cờ cần vương chống Pháp, sau đó Mai Xuân Thưởng đã đem lực lượng của mình gia nhập vào nghĩa quân do Đào Doãn Địch lãnh đạo và được Đào Doãn Địch phong giữ chức Tán lương quân vụ (phụ trách về lương thực của nghĩa quân). Kể từ đó cho đến năm 1887, phong trào cần vương ở Bình Định phát triển mạnh mẽ và lan ra đến Quảng Ngãi, Phú Yên...thu hút hàng chục ngàn người thuộc mọi tầng lớp tham gia. Ngày 20/9/1885 Đào Doãn Địch mất, giao toàn bộ lực lượng cho Mai Xuân Thưởng. Ông chọn vùng núi Lộc Đổng (nay thuộc xã Bình Tường, huyện Tây Sơn) làm đại bản doanh và tổ chức lễ tế cờ , truyền hịch kêu gọi sỹ phu, văn thân, nhân dân tham gia phong trào cần Vương chống Pháp. Trong buổi lễ ấy, nghĩa quân nhiều vùng trong tỉnh Bình Định đã nhất trí suy tôn ông làm Nguyên soái lãnh đạo cuộc khởi nghĩa và nêu cao khẩu hiệu: “Tiền sát tả, hậu đả Tây”. Đầu năm 1887, quân Pháp dưới sự chỉ huy của Trung tá Cherrean và quân triều đình do Trần Bá Lộc chỉ huy cùng với Công sứ Trira đã mở cuộc tấn công lớn lên căn cứ đại bản doanh của phong trào Cần Vương Bình Định, trận giao chiến giữa lực lượng nghĩa quân với giặc Pháp diễn ra vô cùng ác liệt, cuộc chiến đấu không cân sức, cuối cùng lực lượng khởi nghĩa bị đẩy lùi. Tháng 3 năm 1887, sau trận ác chiến ở Bàu Sấu (thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định), Mai Xuân Thưởng bị thương nặng, nghĩa quân rút về Mật khu Linh Ðổng. Ngày 21 tháng 4 năm 1887, Trần Bá Lộc bao vây đánh chiếm căn cứ mật khu Linh Đổng và bắt được một số nghĩa quân, trong đó có thân mẫu Mai Nguyên Soái. Đêm 30 tháng 4 năm 1887, Mai Xuân Thưởng đã cử một đội quân cảm tử đột nhập doanh trại Trần Bá Lộc, giải vây cho những người bị bắt, ông cùng đoàn thuộc hạ gồm 50 người vượt núi vào Phú Yên, tiếp tục kháng chiến, nhưng khi đến đèo Phú Quý (ranh giới giữa Bình Định và Phú Yên) thị bị phục binh Trần Bá Lộc bắt và đưa ra xử trảm tại Gò Chàm (Phía đông Thành Bình Định). Di tích Lăng mộ nhà yêu nước Mai Xuân Thưởng tọa lạc trên ngọn đồi cao của dãy núi Ngang (thuộc thôn Hòa Sơn, xã Bình Tường, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định) cách thành phố Quy Nhơn khoảng 50km về hướng Tây Bắc; Lăng mộ được xây dựng trên khu đất rộng 1988m2, khánh thành ngày 22 tháng 1 năm 1961.Về tổng thể, Lăng được thiết kế theo kiểu lăng mộ cổ, xung quanh có thành thấp bao bọc. Cổng Lăng (tam quan) là 4 trụ vuông, phía trên thắt lại theo kiểu bầu lọ mang dáng dấp kiến trúc cổng đình, miếu cuối thế kỷ XIX. Giữa nhà Lăng là mộ phần Mai Xuân Thưởng hình khối chữ nhật theo hướng Đông - Tây; Phía đầu mộ dựng tấm Bia đá khắc bài ký ghi tiểu sử và sự nghiệp của Mai Xuân Thưởng: Di tích được Bộ Văn hóa Thông tin quyết định xếp hạng cấp Quốc Gia ngày 20 tháng 4 năm 1995. Nguồn: UBND Huyện Tây Sơn tỉnh Bình Định
Gia Lai 8628 lượt xem
Di tích Ngã Ba Giồng là di tích lịch sử cách mạng thuộc Ấp 5, xã Xuân Thới Thượng, huyện Hóc Môn. Được bao quanh bởi ba con đường: Phan Văn Hớn, Nguyễn Văn Bứa và tỉnh lộ 19. Khu di tích Ngã Ba Giồng là khu tưởng niệm về những sự kiện lịch sử trong hai cuộc khácg chiến chống ngoại xâm. Được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia vào năm 2002. Ngã ba Giòng (còn có tên gọi đầy đủ là Ngã ba Giòng Bằng Lăng) nằm trên địa phận thôn Xuân Thới Tây thuộc 18 thôn vườn trầu xưa được hình thành từ những năm 1698 đến năm 1731. Từ lâu đời, Ngã ba Giồng là 1 địa danh có tên gọi dân gian đã đi vào lịch sử của quê hương 18 thôn vườn trầu Hóc Môn – Bà Điểm. Tục truyền rằng xưa kia nơi đây là 1 vùng đất giồng tương đối cao ráo và là nơi mọc nhiều cây bằng lăng nên địa danh này có tên gọi từ đó. Sau khi cuộc khởi nghĩa Nam kỳ (23/11/1940) bị thất bại, thực dân Pháp đã tăng cường đàn áp, khủng bố khốc liệt phong trào cách mạng vùng Hóc Môn – Bà Điểm. Chúng đã lập ra ở Hóc Môn 3 trường bắn để giết hại các đồng chí lãnh đạo Đảng, các đồng chí đồng bào yêu nước của quê hương Hóc Môn và các vùng lân cận. Ngã ba Giồng là trường bắn thứ ba ghi lại tội ác tày trời của giặc pháp và bọn tay sai đối với nhân dân Hóc Môn. Rút kinh nghiệm từ 2 trường bắn trước (1 tại rạp hát cũ trung tâm Quận lỵ Hóc Môn, 1 cạnh giếng nước sau Bệnh viện Hóc Môn ngày nay), chúng xử bắn công khai, bắt nhân dân đến xem nhằm mục đích uy hiếp tinh thần cách mạng của nhân dân Hóc Môn. Nhưng cách xử bắn đó đã phản tác dụng, nhân dân Hóc Môn đã tận mắt chứng kiến sự tàn ác của thực dân Pháp, sự hy sinh cao cả của các chiến sĩ cộng sản nên ngọn lửa yêu nước của họ càng bùng lên mãnh liệt. Trường bắn thứ 3 này, chúng không dám xây dựng gần trung tâm Quận lỵ nữa mà đưa ra khu vực Ngã ba Giồng là vùng hoang vắng, thưa dân để tránh sự phản kháng của nhân dân. Tại đây, chúng xây dựng thành 1 trường bắn có mô đất kiên cố dài 12m, cao 2,2m, phía trước có trồng 6 cột bắn, mỗi cột cao 1.7m, hướng bắn quay về phía đồng ruộng (bưng Tràm Lạc). Vào năm 1941, tại đây chúng lén lúc xử bắn rất nhiều lần, không cho nhân dân xem, hàng trăm chiến sĩ cộng sản và đồng bào yêu nước bị chúng giết hại. Với ý nghĩa lịch sử vô cùng thiêng liêng của Ngã ba Giồng, nơi ghi dấu tội ác dã man của giặc Pháp, nơi thể hiện ý chí chiến đấu bất khuất kiên cường và sự hy sinh cao cả của đồng chí và đồng bào ta sau cuộc khởi nghĩa Nam kỳ (23/11/1940); sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (30/4/1975), huyện Hóc Môn đã nhanh chóng khôi phục và tôn tạo khu di tích lịch sử cách mạng Ngã ba Giồng nhằm giáo dục truyền thống cho các thế hệ thanh thiếu niên. Nơi đây đã trở thành điểm tham quan, nơi tổ chức lễ hội truyền thống trong những ngày lễ lớn hàng năm của huyện Hóc Môn và thành phố đặc biệt là lễ kỷ niệm ngày Nam kỳ Khởi nghĩa (23/11). Hiện nay được sự nhất trí của thành phố, huyện đang tiến hành tôn tạo xây dựng Ngã ba Giồng thành “Khu tưởng niệm liệt sĩ Ngã ba Giồng”. Nguồn: Cổng thông tin điện tử Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 8504 lượt xem