Di tích lịch sử

Việt nam

Núi Bà Rá – Thác Mơ

Núi Bà Rá nằm trên địa phận phường Sơn Giang, thị xã Phước Long, tỉnh Bình Phước. Đây là một trong 3 ngọn núi cao và hùng vĩ nhất Nam Bộ. Truyền thuyết kể rằng vị tổ của người S’Tiêng có hai người em gái; ông đắp núi Bà Đen cho cô em gái đầu và đắp núi Bà Rá cho người em gái thứ hai để trấn giữ đất đai của người S’Tiêng. Đồng bào S’Tiêng gọi ngọn núi này với cái tên đầy thành kính: “Bơnom Brah”, có nghĩa là “ngọn núi Thần” hay “Thần Núi Yang Yumbra” là vị thần được tôn thờ trên đỉnh núi Bà Rá. Đồng bào Khmer gọi là núi “ Chân Phật”. Với độ cao 723m, địa hình hiểm trở nên núi Bà Rá là nơi ghi dấu nhiều chiến tích anh dũng kiên cường cũng như có nhiều giai thoại, gắn liền các sự kiện lịch sử quan trọng. Tại nơi đây, trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ là căn cứ hoạt động của những chiến sĩ cách mạng. Đây được xem là căn cứ địa cách mạng vững chắc. Từ năm 1925 đến năm 1941, thực dân Pháp cho xây tại chân núi một nhà tù lớn gồm có 3 camp (trại): Camp A giam cầm bọn trộm cướp lưu manh; Camp B giam cầm nữ tù nhân, chính trị phạm, những người bị tình nghi là cộng sản nhưng không thành án; Camp C giam cầm tù chính trị. Bọn cai tù dùng nhiều thủ đoạn dã man để tra tấn tù nhân, nhưng với tinh thần tự cường các chiến sĩ cộng sản đã biến nhà tù này thành nơi đấu tranh chính trị với thực dân Pháp. Ngọn núi “Thần” này gắn liền với cuộc kháng chiến của người dân Phước Long nói riêng và dân tộc ta nói chung, tại Đồi Bằng Lăng đã xây dựng một nhà bia và một đền tưởng niệm để tưởng niệm các chiến sĩ, quân dân đồng bào đã hi sinh trong kháng chiến ở khu vực Bà Rá. Núi Bà Rá là một thắng cảnh đẹp nổi tiếng với dòng sông Bé uốn quanh co, với Thác Mẹ, Thác Mơ, rừng cây với hệ thực vật đa dạng phong phú được Bộ Lâm nghiệp (nay là Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) xếp vào hệ thống rừng đặc chủng của cả nước. Từ Đồi Bằng Lăng, bước lên 1.767 bậc đá là lên đến đỉnh núi, đường lên núi khá đẹp được bao phủ bởi một màu xanh nào là trúc, lồ ô, đặc biệt hai bên đường đi có nhiều cổ thụ ướm chừng vài trăm năm tuổi. Trên đỉnh có ngọn ăng ten của Đài Phát thanh - Truyền hình Bình Phước, cao 48m nhằm đưa sóng truyền hình đến những vùng sâu, vùng xa trong tỉnh. Ở đây còn có một miếu thờ Đức Phật thánh mẫu Thiên Hậu và bà chúa xứ (núi Bà Rá) rất linh thiêng, đang có dự án xây dựng khu tâm linh Phật giáo gắn với du lịch sinh thái tại di tích. Núi Bà Rá còn có hang Dơi, hang bà Bảy Tuyết sâu, rộng rất đẹp. Đây là nơi ẩn trú của quân, dân ta trong suốt hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Với những giá trị to lớn, di tích Núi Bà Rá – Thác Mơ đã được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận xếp hạng là di tích lịch sử và thắng cảnh quốc gia ngày 20/4/1995. Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Tỉnh Bình Phước

Đồng Nai 4281 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Cuộc nổi dậy của đồng bào S’tiêng – xã Phú Riềng chống thực dân Pháp

Di tích Cuộc nổi dậy của đồng bào S’tiêng – xã Phú Riềng chống thực dân Pháp ngày 25/10/1933 (còn được gọi là Mả thằng Tây) tọa lạc tại ngã tư Phú Riềng, xã Phú Riềng, huyện Phú Riềng, tỉnh Bình Phước. Địa điểm này do thực dân Pháp xây dựng năm 1933 để tưởng nhớ Quận trưởng More – một trong những tên cầm quyền khét tiếng tàn ác của thực dân Pháp trên địa bàn quận Bà Rá thời bấy giờ. Trong những năm đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp đẩy mạnh trồng và khai thác cao su ở Nam Kỳ, trong đó có quận Bà Rá thuộc tỉnh Biên Hòa. Pháp xem vùng này là rừng thiêng nước độc và thường gọi với cái tên mỉa mai là “xứ mọi cà răng căng tai”. Chúng biến đây thành nơi đày ải những người chống đối và bắt lao động khổ sai phục vụ cho bọn tư bản đồn điền cao su. Đồng thời, tại đây, chính quyền thực dân Pháp đã thực hiện chính sách chiếm hữu thâm độc, dùng mọi thủ đoạn vắt kiệt sức lao động và làm nhục sắc tộc của đồng bào S’tiêng. Vì bản sắc dân tộc và không thể tiếp tục cuộc sống khắc nghiệt, đồng bào S’tiêng đã đứng lên đấu tranh để chống lại kẻ thù. Năm 1933, hai anh em Điểu Môn và Điểu Mốt (tại Sóc Bù Sum) từng tham gia phong trào nghĩa quân của thủ lĩnh N’Trang Lơng vào những năm 1920, đã đứng lên vận động, quy tụ được khoảng 200 thanh niên dân tộc S’tiêng tham gia nghĩa quân. Sau khi được thành lập, nghĩa quân đã bàn bạc, lên kế hoạch tiêu diệt Quận trưởng More. Ngày 25/10/1933, nghĩa quân tổ chức mai phục, More cưỡi ngựa thúc lính tra xét dân “đi xâu” (đi phục dịch, làm việc không công) thì rơi vào ổ phục kích của nghĩa quân. Quận trưởng More và binh lính tháp tùng đã bị nghĩa quân của ông Điểu Môn và Điểu Mốt tiêu diệt. Thực dân Pháp sau khi đàn áp cuộc nổi dậy của nghĩa quân đồng bào S’tiêng đã lập bia tưởng niệm tên Quận trưởng More. Nhưng đối với nhân dân ta, đây là nơi ghi dấu chiến tích vang dội, một chiến công đã đi vào lòng mỗi người dân Bà Rá, có ý nghĩa và giá trị lịch sử vô cùng to lớn, góp phần giáo dục lòng yêu nước, tinh thần đấu tranh giành độc lập tự do của đồng bào S’tiêng nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung. Với những giá trị tiêu biểu, ngày 29/5/1989, Bộ trưởng Bộ Văn hóa quyết định xếp hạng di tích Cuộc nổi dậy của đồng bào S’tiêng – xã Phú Riềng chống thực dân Pháp ngày 25/10/1933 là di tích lịch sử quốc gia. Nguồn: Trang Thông Tin Điện Tử Bảo Tàng Tỉnh Bình Phước

Đồng Nai 4293 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Sân bay quân sự Lộc Ninh

Sân bay quân sự Lộc Ninh nằm cách trung tâm thị trấn Lộc Ninh khoảng 500m. Sân bay được lắp ghép toàn bộ bằng những vỉ sắt (Tec-nich) thay cho bê tông, nằm trên một khu đồi bằng phẳng có diện tích 50.000m2. Đây là sân bay được Mỹ ngụy xây dựng ngày 10/3/1965 để sử dụng cho việc tiếp tế lương thực, đạn dược và di chuyển phương tiện chiến tranh cho Lộc Ninh - Campuchia. Do thời gian và nhiều yếu tố khác, sân bay quân sự Lộc Ninh không còn được nguyên vẹn như xưa, chỉ còn lại đường băng không còn những tấm vỉ sắt. Sau ngày Lộc Ninh được giải phóng ngày 07/4/1972, sân bay thuộc về chính quyền cách mạng lâm thời, là nơi đánh dấu nhiều sự kiện lịch sử quan trọng: ngày 31/01/1973, Thượng tướng Trần Văn Trà dẫn đầu phái đoàn quân sự Chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam bay về Sài Gòn dự phiên họp đầu tiên của Ban liên hiệp Quân sự bốn bên tại trại Davis (Sài Gòn). Cũng tại đây, ngày 12/02/1973 ta trao trả 27 sỹ quan, binh lính và nhân viên quân sự Mỹ, họ đã cảm ơn bộ đội ta đã giúp họ thoát chết và được trở về đoàn tụ với gia đình, chúng ta cũng đã đón hàng trăm người con ưu tú, trung kiên từ các nhà tù của Mỹ - Ngụy trở về, giữa hai hàng quân ngụy lăm lăm tay súng, anh chị em tù nhân không nhấc nổi bước chân, họ phải dìu, cõng nhau đi, lột bỏ quần áo tù nhân và hô to khẩu hiệu “Không có gì quý hơn độc lập tự do” . Hàng ngàn đồng bào Lộc Ninh tay cầm cờ hoa để đón chào những người chiến thắng trở về trong niềm xúc động khôn tả, nước mắt rơi đầy (trích Lộc Ninh lịch sử và truyền thống (1930 -2000)). Từ ngày 12/02/1973 đến ngày 28/3/1973, đã diễn ra 4 đợt trao trả tù binh tại sân bay này và cùng với 5 địa điểm khác trên cả nước, đã trao trả 26.492 người, các tháng tiếp sau đó tháng 4, 5, 6, ta vẫn tiếp tục trao trả tù binh. Ngày 7/3/1974, nhóm tù binh cuối cùng được trao trả, trong đó có bà Võ Thị Thắng, hình ảnh nụ cười của bà - người nữ sinh đấu tranh cho độc lập dân tộc bị cầm tù khi bước xuống sân bay quân sự Lộc Ninh. Đó là một hình ảnh đẹp không thể nào quên. Nụ cười ấy đã đi vào thơ văn như một hình ảnh thật đẹp: “Rất tự nhiên người con gái đó, đã đem nụ cười vào lịch sử ngàn năm” và nụ cười ấy cũng chứng minh cho câu nói đanh thép trước đó của bà "Liệu chính quyền các ông có tồn tại đến 20 năm để cầm tù tôi không?". Cũng tại đây ngày 12/9/1973, ta đón đoàn Ủy ban quốc tế và các vị đại sứ, trưởng phó đoàn của Ủy ban quốc tế về thăm và làm việc tại Lộc Ninh. Sau này nhiều người Mỹ đã tìm đến chiến trường xưa trong các chuyến du lịch Việt Nam để nhớ lại “Lộc Ninh ngày ấy”. Lịch sử đã sang trang, quá khứ đã khép lại nhưng với họ Lộc Ninh ngày ấy không bao giờ là dĩ vãng. Di tích Sân bay quân sự Lộc Ninh không chỉ là niềm tự hào mà còn là bằng chứng tố cáo tội ác xâm lược của bọn đế quốc, bè lũ tay sai của chúng, qua đó để giáo dục tinh thần cách mạng, truyền thống yêu nước cho thế hệ trẻ hôm nay và mai sau cũng như thu hút khách du lịch khi đến với tỉnh Bình Phước. Sân bay Lộc Ninh được Bộ Văn hóa công nhận xếp hạng di tích lịch sử quốc gia ngày 12/12/1986. Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Tỉnh Bình Phước

Đồng Nai 3877 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Trụ sở Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam

Di tích lịch sử Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam là một ngôi nhà tại Thị trấn Lộc Ninh, huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước, đoạn cuối đường Hồ Chí Minh – con đường chiến lược Bắc – Nam. Ngày 7/4/1972, Lộc Ninh được hoàn toàn giải phóng. Đây là huyện đầu tiên giải phóng trên toàn miền Nam. Từ đó, Lộc Ninh là nơi tập trung các cơ quan Chính trị, Quân sự, Hậu cần… Đặc biệt là Nhà Giao tế – Trụ sở của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Ngôi nhà được xây dựng từ năm 1911, là văn phòng làm việc của công ty cao su Xét – Xô của Pháp, để quản lý việc khai thác mủ cao su ở Lộc Ninh. Nhà được xây dựng theo lối nhà sàn của đồng bào dân tộc thiểu số, cho nên nhân dân trong vùng vẫn quen gọi là Nhà “Cao Cẳng”. Trong chiến dịch Nguyễn Huệ (1972), ngôi nhà bị phá hủy hoàn toàn. Tháng 03/1973, trước nhu cầu tình hình công tác trên mặt trận ngoại giao, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam thống nhất chọn vị trí nền ngôi nhà “Cao Cẳng” để xây dựng trụ sở cách mạng với đồ án bản vẽ thiết kế của kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát. Ngôi nhà xây dựng để đón tiếp các phái đoàn ngoại giao trong và ngoài nước nên gọi là “Nhà Giao tế”. Sau hơn một tháng thi công, công trình bề thế, khang trang đã được hoàn thành, gồm một trệt và một lầu. Tầng trệt xây dựng bằng bê tông chắc chắn, dùng để hội họp, mitting và cũng là nơi diễn ra các hoạt động văn hóa văn nghệ. Tầng lầu được xây dựng bằng gỗ, có lan can bao quanh được thiết kế theo kiểu phòng khánh tiết, mái tôn “5 nóc, 4 mái” được sơn đỏ. Tại phòng này, năm 1973 đã diễn ra hội nghị quân sự bốn bên giữa Việt Nam và Mỹ; Hội nghị bốn bên bàn về các điều khoản đã được ký trong Hiệp định Paris dưới sự giám sát của Ủy ban Quốc tế ICCS, gồm bốn nước thành viên: Ba Lan, Canada, Hunggary và Indonexia. Trong thời gian họp đều có sự phân chia rõ ràng từ lối đi, vị trí ngồi họp và vị trí ngồi nghỉ trong giờ giải lao… đều được bố trí riêng biệt. Đại diện của bốn phái đoàn ngồi họp trong một bàn tròn lớn, Ủy ban Quốc tế ngồi họp trong cùng một bàn tròn nhỏ, bốn bàn nhỏ bốn góc nhà là vị trí ngồi của tùy viên bốn bên. Tất cả đều đặt dưới lá cờ của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Hai bên có hai cầu thang đi lên. Nhìn từ trong ngôi nhà nhìn ra, cầu thang phía bên phải là lối đi của Quân đội nhân dân Việt Nam, bên trái là lối đi của quân sự Mỹ và Việt Nam Cộng hòa. Việc chọn bàn vuông hay bàn tròn để ngồi họp cũng là vấn đề mà các bên quan tâm. Khi họp ở trại David (Sài Gòn) hay họp ở Paris, Ban liên hợp quân sự bốn bên đã sử dụng bàn vuông hay bàn hình chữ nhật để ngồi họp nhưng khi họp ở Nhà Giao tế thì lại chọn bàn tròn. Bởi bàn tròn là thể hiện sự bình đẳng và tôn trọng giữa các bên, còn nếu là bàn vuông hay bàn hình chữ nhật thì một trong bốn bên khi đứng lên phát biểu trong cuộc họp thì giống như bên đó là chủ tọa cuộc họp. Còn sử dụng bàn tròn thì các bên đều ngang hàng như nhau. Nhà Giao Tế ra đời đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình, là chứng tích chứng minh về sự thất bại của đế quốc Mỹ và bọn tay sai, bên cạnh đó là sự đấu tranh anh dũng, khôn khéo của quân và dân ta trên cả hai mặt trận quân sự và ngoại giao trong cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc, thống nhất đất nước. Di tích Trụ sở Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam (Nhà Giao tế) đã được Bộ Văn hóa công nhận là Di tích lịch sử Quốc gia ngày 12/12/1986. Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Tỉnh Bình Phước

Đồng Nai 3581 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Mộ 3000 đồng bào An Lộc bị đế quốc Mỹ tàn sát ngày 03/10/1972

Di tích Mộ 3.000 đồng bào An Lộc bị đế quốc Mỹ tàn sát ngày 03/10/1972 (còn gọi là Mộ tập thể 3.000 người) tọa lạc tại phường An Lộc, thị xã Bình Long, tỉnh Bình Phước, là một trong những chứng tích ghi dấu tội ác chiến tranh mà Mỹ – ngụy đã gây ra cho nhân dân ta nói chung và nhân dân Bình Long nói riêng trong kháng chiến chống Mỹ. Năm 1971, thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị, Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam họp thông qua quyết tâm đánh bại chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của đế quốc Mỹ và tay sai, Chiến dịch Nguyễn Huệ được mở với hướng tấn công chủ yếu trên đường 13 và khu vực quyết chiến Lộc Ninh, An Lộc thuộc tỉnh Bình Long. Ngày 07/04/1972, Lộc Ninh hoàn toàn giải phóng, quân ta tiếp tục tiến công nhằm giải phóng thị xã An Lộc. Trước sự tấn công như vũ bão của bộ đội chủ lực, địch ra sức giữ thị xã vì An Lộc mất thì Bình Long mất và “Bình Long mất, Sài Gòn không còn”. Trong suốt 32 ngày đêm (từ ngày 13/04 đến 15/05/1972), chiến sự diễn ra vô cùng ác liệt, địch tập trung lượng lớn hỏa lực, pháo, đạn, bom cày nát mặt đất, hàng ngàn đồng bào bị sát hại, tài sản, nhà cửa bị phá hủy nặng nề. Địch còn nhẫn tâm cho máy bay B52 thả bom vào bệnh viện thị xã An Lộc, nơi mà phần lớn đồng bào tập trung để tránh đạn pháo và cũng là nơi binh lính địch bị thương đang được cứu chữa, khiến nhiều người bị tử nạn. Để giải quyết số thương vong, địch đã sử dụng xe thùng, xe ủi thu gom và ủi hàng ngàn tử thi xuống hố chôn, tạo nên một ngôi mộ tập thể trên 3.000 người và dựng nên tấm bia “Tổ quốc ghi công” để lừa bịp nhân dân. Ngày nay, di tích Mộ 3.000 đồng bào An Lộc bị đế quốc Mỹ tàn sát ngày 03/10/1972 đã được đầu tư tu bổ gồm các công trình: Đài tưởng niệm, Nhà bia tưởng niệm, Nhà đón tiếp…Di tích là nơi để tưởng niệm những hy sinh, mất mát của Quân chủ lực Miền và quân dân Bình Long trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, là nơi để nhân dân và du khách đến tưởng niệm, tìm hiểu về truyền thống lịch sử đấu tranh cách mạng hào hùng, vẻ vang của quân dân thị xã Bình Long. Ngày 01/4/1985, di tích Mộ 3000 đồng bào An Lộc bị đế quốc Mỹ tàn sát ngày 03/10/1972 được Bộ trưởng Bộ Văn hóa quyết định xếp hạng di tích lịch sử quốc gia. Nguồn: Trang Thông Tin Điện Tử Bảo Tàng Tỉnh Bình Phước

Đồng Nai 3528 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Căn cứ Bộ Chỉ huy Quân giải phóng miền Nam Việt Nam

Di tích Căn cứ Bộ Chỉ huy Quân giải phóng miền Nam Việt Nam tọa lạc tại xã Lộc Thành, huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước. Nơi đây tiền thân là Sở Chỉ huy tiền phương của chiến dịch Nguyễn Huệ năm 1972. Ngày 07/4/1972, Lộc Ninh được giải phóng, sau đó trở thành thủ phủ của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Để phù hợp với tình hình mới có lợi cho cách mạng miền Nam, Trung ương Cục và Bộ Tư lệnh Miền quyết định dời căn cứ Quân ủy Miền từ Sóc Con Trăng (Tây Ninh) về đóng tại sóc Tà Thiết. Căn cứ Bộ Chỉ huy Quân giải phóng miền Nam Việt Nam được xây dựng từ năm 1973 tại khu rừng thuộc sóc Tà Thiết nên còn được gọi là “Rừng Chính phủ” hay Căn cứ Tà Thiết. Tại đây, dưới những tán cây lớn và rừng le đan chằng chịt là nơi các đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước đã từng sống, chiến đấu và trực tiếp chỉ đạo cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam gồm các đồng chí: Tư lệnh Trần Văn Trà, Phó Tư lệnh Nguyễn Thị Định, Chính ủy Phạm Hùng, Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Lê Đức Anh… Riêng nhà ở và làm việc của Thượng Tướng Trần Văn Trà được dựng theo kiến trúc nhà sàn, tại một trảng đất trống trong khu vực sóc của đồng bào dân tộc Khmer. Ngoài ra, tại Căn cứ còn có hệ thống các công trình phục vụ khác như bếp Hoàng Cầm, hầm giao ban, hội trường… Tất cả đều được xây dựng theo lối nhà bán âm (nửa chìm nửa nổi) để hạn chế ánh sáng đèn phát ra ngoài vào ban đêm, vừa bảo đảm an toàn nếu bị địch ném bom. Vật liệu sử dụng chủ yếu bằng cây rừng, mái lợp lá trung quân, mỗi công trình đều có hệ thống giao thông hào thoát hiểm và các hầm trú ẩn. Các hầm chỉ huy, hầm thông tin, hầm quân y… được xây dựng khá rộng, để thuận tiện làm việc cũng như đề phòng khi trên mặt đất không an toàn. Căn cứ Bộ Chỉ huy Quân giải phóng miền Nam Việt Nam tại Tà Thiết đã làm tròn nhiệm vụ bảo vệ và phát triển các hoạt động của Quân ủy và Bộ Chỉ huy Miền trong giai đoạn cuối của kháng chiến chống Mỹ. Tại đây đã diễn ra các sự kiện quan trọng: Nơi đón tiếp các phái đoàn cao cấp của Bộ Chính trị, Bộ Tổng tham mưu, Trung ương Cục để bàn kế hoạch xây dựng lực lượng vũ trang, là nơi triển khai các phương án tác chiến, các Chỉ thị, Nghị quyết của Trung ương. Đặc biệt, năm 1975, tại đây, Bộ Chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh được thành lập, góp phần quan trọng làm nên thắng lợi vẻ vang của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Năm 1994 – 1995, di tích Căn cứ Bộ Chỉ huy Quân giải phóng miền Nam Việt Nam đã được phục hồi, tôn tạo và đưa vào phát huy giá trị. Đến năm 2018, Tỉnh ủy và UBND tỉnh Bình Phước thực hiện dự án tu bổ, tôn tạo, bổ sung các hạng mục như: Nhà tưởng niệm, Nhà đón tiếp, Nhà truyền thống, Đài tưởng niệm, Cổng vào khu di tích, Hồ cảnh quan… Di tích Căn cứ Tà Thiết là nơi ghi dấu quá trình hoạt động của Bộ Chỉ huy Quân giải phóng miền Nam Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Ngày nay, di tích vừa là địa chỉ đỏ có ý nghĩa tri ân, giáo dục truyền thống cách mạng, vừa là điểm đến du lịch lý tưởng của du khách.Với những ý nghĩa lịch sử to lớn, ngày 16/11/1988, Bộ trưởng Bộ Văn hóa quyết định xếp hạng di tích Căn cứ Bộ Chỉ huy Quân giải phóng miền Nam Việt Nam là di tích lịch sử quốc gia. Đến ngày 23/12/2015, di tích được Thủ tướng Chính phủ quyết định xếp hạng di tích lịch sử quốc gia đặc biệt. Nguồn: Trang Thông Tin Điện Tử Bảo Tàng Tỉnh Bình Phước

Đồng Nai 4364 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Bồn xăng kho nhiên liệu VK98

Di tích Bồn xăng – Kho nhiên liệu VK98 tọa lạc tại xã Lộc Quang, huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước. Di tích thuộc hệ thống di tích lịch sử quốc gia đặc biệt Đường Trường Sơn – Đường Hồ Chí Minh. Tổng kho nhiên liệu VK98 được xây dựng năm 1974, tọa lạc quanh ngọn đồi 117 (tên một điểm cao trong bản đồ quân sự) thuộc xã Lộc Quang, huyện Lộc Ninh, với diện tích 10ha, gồm 7 bồn, mỗi bồn có sức chứa 250.000 lít, Tổng kho nhiên liệu VK98 có trữ lượng 1.750.000 lít. Các bồn chứa xăng dầu được hàn bằng thép, mỗi bồn có đường kính 10m, cao 3,5m và cách nhau 100m theo hình tam giác, được chôn dưới lòng đất, bao bọc bởi các loại cây rừng có bố trí bãi chông dày đặc. Các bồn chứa được nối với nhau bằng đường ống dẫn, có độ cao so với mặt đường nên xe đến lấy xăng không phải dùng máy hút mà chỉ cần mở van để nguyên liệu tự chảy vào bồn. Một đại đội gồm 30 chiếc xe bồn (xe xitéc), ngày đêm vận chuyển xăng, dầu từ trạm VK96 Bù Gia Mập về tập kết tại Tổng kho nhiên liệu VK98 và vận chuyển xăng dầu ra chiến trường. Sau ngày giải phóng đất nước, các bồn chứa xăng dầu được Hậu cần Quân khu 7 tháo dỡ, còn lại một bồn phục vụ nhu cầu tham quan, tìm hiểu của nhân dân. Cùng với các điểm tập kết xăng dầu khác, di tích Bồn xăng – Kho nhiên liệu VK98 đã ghi dấu một thời “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ cung cấp xăng dầu, góp phần vào thắng lợi của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Ngày nay, di tích trở thành một trong những địa điểm để tìm hiểu, nghiên cứu về hệ thống đường ống xăng dầu nói riêng, con đường Trường Sơn huyền thoại nói chung trong kháng chiến chống Mỹ. Với những giá trị lịch sử tiêu biểu, Bộ trưởng Bộ Văn hóa quyết định xếp hạng di tích Bồn xăng – Kho nhiên liệu VK98 là di tích lịch sử quốc gia vào ngày 21/4/1989. Ngày 09/12/2013, di tích Bồn xăng – Kho nhiên liệu VK98 tại xã Lộc Quang, huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước là di tích nằm trong hệ thống di tích Đường Trường Sơn – Đường Hồ Chí Minh đã được Thủ tướng Chính phủ quyết định xếp hạng di tích lịch sử quốc gia đặc biệt. Nguồn: Trang Thông Tin Điện Tử Bảo Tàng Tỉnh Bình Phước

Đồng Nai 4100 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Điểm cuối đường ống dẫn xăng dầu VK96

Đường Hồ Chí Minh - cầu nối liền hậu phương lớn miền Bắc với tiền tuyến lớn miền Nam, là căn cứ địa vững chắc của chiến trường Nam Đông Dương trong kháng chiến chống Mỹ. Như chúng ta biết, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, nguồn nhiên liệu xăng dầu là một yêu cầu cấp thiết để phục vụ cho cuộc chiến tranh quy mô và thần tốc. Bình Phước mảnh đất “miền Đông gian lao mà anh dũng” rất vinh dự và tự hào khi trên địa bàn tỉnh có hai điểm di tích thuộc hệ thống di tích đặc biệt đường Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh là di tích Bồn Xăng – Kho nhiên liệu VK98 và Điểm cuối đường ống dẫn xăng dầu VK96. Trải qua những năm tháng hết sức gian khổ, bất chấp điều kiện địa hình, thời tiết khắc nghiệt và sự đánh phá ngăn chặn quyết liệt của kẻ thù, sau 6 năm (từ năm 1968 đến 1974), bộ đội đường ống Trường Sơn đã xây dựng, bảo vệ vận hành thông suốt tuyến đường ống xăng dầu dài 5.000km và hệ thống kho xăng dầu gần 3 vạn tấn từ biên giới phía Bắc của Tổ quốc xuyên dọc Trường Sơn vào đến Bù Gia Mập. Bù Gia Mập là điểm cuối cùng đường ống dẫn xăng dầu Bắc - Nam. Từ đây, nguồn xăng dầu được chở bằng xe bồn (hoàn toàn bí mật) về các Bồn xăng - Kho nhiên liệu VK98, VK99 ở Lộc Ninh. Di tích Điểm cuối đường ống dẫn xăng dầu VK96 còn có những tên gọi khác như: ký hiệu K22, Ô30. Sau này sử dụng mật danh là VK. Điểm cuối hệ thống tuyến đường ống dẫn xăng dầu này là VK96, tiếp đến các bồn xăng ở Lộc Ninh là VK98 (Lộc Quang), VK99 (Lộc Hòa). Di tích chính là nơi ghi dấu những chiến công to lớn và thầm lặng của bộ đội, bộ đội xăng dầu, thanh niên xung kích, quân dân địa phương... trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta, là minh chứng cho một trong những huyền thoại của con đường Trường Sơn lịch sử, đó là hệ thống đường ống dẫn xăng dầu Trường Sơn, là một trong những kỳ tích của Đoàn 559. Đây là một trong 3 hệ thống chủ lực của đường mòn chiến lược Hồ Chí Minh, thể hiện cho tinh thần quật cường, ý chí sắt đá của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, là thắng lợi của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam. Trong đó, hệ thống tuyến đường ống dẫn xăng dầu - đường Trường Sơn là hiện thân của ý chí sắt đá, thể hiện ý chí quyết thắng, lòng dũng cảm, khát vọng độc lập, quyết tâm giải phóng miền Nam, thu non sông về một mối của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta, là biểu tượng sáng ngời của tình đoàn kết chiến đấu thủy chung giữa ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia. Tuyến đường Trường Sơn đã tồn tại trong lịch sử của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước như một huyền thoại với cái tên “Đường mòn Hồ Chí Minh”. Hệ thống tuyến đường ống dẫn xăng dầu - đường Trường Sơn, con đường nối liền Nam - Bắc gắn với bao chiến công hào hùng của toàn dân tộc trong những năm tháng kháng chiến mãi mãi là niềm tự hào to lớn, cổ vũ, động viên toàn quân, toàn dân ta trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ta ngày nay. Với ý nghĩa lịch sử to lớn đó, di tích Bồn Xăng - Kho nhiên liệu VK98 huyện Lộc Ninh và di tích Điểm cuối đường ống dẫn xăng dầu VK96 huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước nằm trong hệ thống di tích đường Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh đã được Thủ tướng Chính phủ công nhận di tích quốc gia đặc biệt ngày 09/12/2013. Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Tỉnh Bình Phước

Đồng Nai 3692 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Di tích lịch sử khu vực Đồn Biên phòng Bu Prăng

Ngày 4/1/2023, Di tích lịch sử khu vực Đồn Biên phòng Bu P'răng nằm ở bon Đắk Huýt và bon Bu P'răng 2, xã Quảng Trực, huyện Tuy Đức, tỉnh Đắk Nông được công nhận là Di tích lịch sử cấp tỉnh. Đài tưởng niệm liệt sĩ – nơi ghi danh và tri ân 16 cán bộ, chiến sĩ của đơn vị đã anh dũng hy sinh trong cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam năm 1977. Để phục vụ nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới, ngày 20/5/1975, Đồn Công an nhân dân vũ trang Bu P’răng (tiền thân của Đồn biên phòng Cửa khẩu Bu P’răng) được thành lập, với quân số ban đầu là 32 cán bộ, chiến sĩ công an vũ trang được chi viện từ tỉnh Sơn La vào. Lúc bấy giờ, đồn được giao nhiệm vụ quản lý, bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới quốc gia với đoạn biên giới dài 16,5 km, thuộc xã Quảng Trực (huyện Đắk R’lấp, tỉnh Đắk Lắk cũ) nay là huyện Tuy Đức (Đắk Nông), giáp với tỉnh Mondulkiri, Vương quốc Campuchia. Trong chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam, cán bộ, chiến sĩ đã kiên cường bám trụ, dũng cảm chiến đấu 127 trận, bảo vệ vững chắc từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc. Mốc son lịch sử thể hiện tinh thần quả cảm của các chiến sĩ lúc bấy giờ là trận đánh kéo dài 47 ngày đêm (từ ngày 29/3 đến 16/5/1978) với bọn Pôl Pốt. Cuộc chiến đấu thắng lợi, bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới nói trên thể hiện sự đoàn kết, ý chí quyết tâm chiến đấu và sẵn sàng hy sinh của cán bộ, chiến sĩ Đồn Công an nhân dân vũ trang Bu P’răng. Với chiến công đó, ngày 6/11/1978, Đồn Công an nhân dân vũ trang Bu P’răng đã vinh dự được Nhà nước tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân. Đồn biên phòng cửa khẩu Bu P’răng đóng quân trên địa bàn huyện Tuy Đức, cách trung tâm huyện 35 km, được giao nhiệm vụ quản lý, bảo vệ chính diện 11 km đường biên giới, phụ trách bon Bu P’răng 2 thuộc xã Quảng Trực (Tuy Đức). Với tinh thần “Đồn là nhà, biên giới là quê hương, đồng bào các dân tộc là anh em ruột thịt”, cấp ủy, chỉ huy đơn vị đã quán triệt và triển khai thực hiện nghiêm túc các chỉ thị, mệnh lệnh và kế hoạch của cấp trên về nhiệm vụ, công tác biên phòng. Theo đó, cùng với xây dựng đầy đủ các văn kiện tác chiến, đồn thường xuyên tổ chức luyện tập các phương án, bảo đảm sẵn sàng chiến đấu cao, chủ động phát hiện và xử lý kịp thời mọi tình huống nảy sinh trên biên giới, địa bàn, trạm cửa khẩu. Chỉ tính trong 2 năm 2020-2021, đồn đã tổ chức 676 đợt tuần tra, kiểm soát, bảo vệ biên giới với 6.084 lượt cán bộ, chiến sĩ, qua đó phát hiện và xử lý 10 vụ/11 đối tượng vi phạm biên giới. Là đồn cửa khẩu, đơn vị duy trì hoạt động kiểm soát xuất nhập cảnh, xuất nhập khẩu qua cửa khẩu chặt chẽ, đúng luật pháp, đồng thời tham mưu cấp ủy, chính quyền địa phương thực hiện tốt công tác đối ngoại nhân dân, duy trì ổn định và phát triển quan hệ hợp tác hai bên biên giới. Nguồn: Trang Thông Tin Điện Tử Nông Thôn Mới - Tỉnh Đăk Nông

Lâm Đồng 3862 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Cầu Sêrêpôk

Cầu Sêrêpôk do người Pháp xây dựng vào năm 1941, hoàn thiện, đưa vào sử dụng năm 1957 và được chính quyền Pháp đặt tên là cầu 14 (cầu nằm trên tuyến đường 14), còn người dân địa phương đặt tên là cầu Sêrêpôk vì bắc qua sông Sêrêpôk nối liền hai tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông. Đầu cầu phía đông thuộc xã Hòa Phú, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk; còn đầu cầu phía đông thuộc xã Tâm Thắng, huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông. Năm 1904, thực dân Pháp bắt tay xây dựng bộ máy cai trị, thành lập đơn vị hành chính tỉnh Đắk Lắk và chia cao nguyên Đắk Lắk thành năm quận. Trong quá trình xâm lược, thực dân Pháp đã nhận thấy sự khó khăn trong việc di chuyển trên con đường huyết mạch, làm ảnh hưởng đến ý đồ xâm chiếm mở rộng lãnh thổ. Năm 1941, chính quyền thực dân Pháp quyết định xây dựng cầu 14 và cây cầu được xây dựng bằng xương máu của các tù nhân chính trị ở nhà đày Buôn Ma Thuột, người dân địa phương. Cầu được thiết kế với kết cấu giàn bê tông cốt thép liên tục chạy dưới, dài 169,5 m, có 4 nhịp, rộng 5 m, hai làn đường cho người đi bộ 1,37 m, làn đường xe chạy là 2,8 m, tải trọng 5 tấn. Vào những năm đầu thập niên 40 của thế kỷ 20 thì cầu Sêrêpôk thuộc loại hiện đại và có kiến trúc đẹp. Bước sang giai đoạn 1954-1975, tuyến đường 14 được đế quốc Mỹ và ngụy quyền khai thác triệt để, bố trí lực lượng chốt chặn nhằm kiểm soát, ngăn chặn mọi nguồn lực của bộ đội Việt Nam. Cũng chính tại nơi đây, quân và dân ta mở mũi tiến công quan trọng tiến về giải phóng Buôn Ma Thuột (Đắk Lắk) rồi hướng về Sài Gòn, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Năm 1985, trước tình hình phát triển của vận tải đường bộ, cầu Sêrêpôk xây dựng từ thời Pháp không thể tiếp tục đáp ứng được nhu cầu vận chuyển về cả tải trọng và mật độ phương tiện nên Bộ Giao thông vận tải quyết định đầu tư xây dựng cây cầu mới thay thế cho cầu cũ tải trọng nhỏ và đã xuống cấp. Cầu Sêrêpôk mới được xây dựng trên Quốc lộ 14, cách cầu cũ 30 m về phía bắc. Cầu dài 176 m, có kết cấu bê tông cốt thép dầm giản đơn, gồm 5 nhịp, chiều rộng 11 m, có 2 làn xe cơ giới rộng 7 m và 2 làn đi bộ rộng mỗi làn 1,25 m. Công trình do Khu Đường bộ 5 làm chủ đầu tư và Công ty Công trình Giao thông 510 của Tổng công ty Công trình Giao thông 5 thuộc Bộ Giao thông vận tải thi công. Cầu được hoàn thành và đưa vào sử dụng từ tháng 10 năm 1992. Từ đó, các phương tiện lưu thông trên quốc lộ 14 đều qua cây cầu mới. Vào năm 2016, một cây cầu thứ ba nằm giữa hai cầu cũng đã được hoàn thành phục vụ nhu cầu đi lại ngày càng tăng trên Quốc lộ 14. Với ý nghĩa đó, cầu Sêrêpốk được Uỷ Ban Nhân Dân tỉnh Đắk Nông chọn làm điểm di sản của Công Viên Địa Chất Đắk Nông thuộc tuyến du lịch “Bản giao hưởng của làn gió mới”. Nguồn: Báo Đắk Nông điện tử

Lâm Đồng 3948 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Địa điểm chiến thắng Đồi 722 – Đắk Sắk

Đồi 722 – Đắk Sắk là căn cứ biệt kích của Mỹ - Ngụy thiết lập năm 1965. Đây là nơi diễn ra trận chiến ác liệt của bộ đội chủ lực cùng lực lượng quân sự địa phương tiến công tiêu diệt căn cứ biệt kích vào ngày 22 và 23/8/1968. Đồi 722 ở độ cao 722m so với mặt biển trên địa bàn thôn Thổ Hoàng 4, xã Đắk Sắk, huyện Đắk Mil,. Tháng 5/1965, Mỹ - Ngụy và chính quyền Sài Gòn cho xây dựng căn cứ quân sự Đồi 722 (còn gọi là trại lực lượng đặc biệt Đức Lập) cách trung tâm quận Đức Lập khoảng 10 km về hướng Đông nhằm tăng cường lực lượng và gia tăng các hoạt động quân sự. Để đối phó với âm mưu, thủ đoạn của địch, năm 1968 Bộ Chính trị, Bộ Tư lệnh chiến trường Tây Nguyên xác định cần phải tiêu diệt địch tại chi khu quận lỵ Đức Lập mà nòng cốt là cứ điểm quân sự Đồi 722 - Đắk Sắk, một trong số sào huyệt trọng yếu của địch trên mặt trận Tây Nguyên. Thực hiện chủ trương đó, trong suốt những năm 1968 đến 1975 bộ đội chủ lực ta phối hợp với quân dân địa phương tổ chức nhiều trận đánh vào cứ điểm này, một mặt làm tiêu hao lực lượng sinh lực địch, mặt khác nhằm đánh phá hệ thống đồn bốt đang án ngự phá hoại đường Hồ Chí Minh trên chiến trường Nam Tây Nguyên. Sau năm 1968, qua nhiều thất bại nặng nề ở chiến trường Nam Tây Nguyên, địch lui về cố thủ trong các cứ điểm quân sự, trong đó địa bàn Đồi 722 - Đắk Sắk là cứ điểm quân sự trọng yếu. Từ đây, chúng tiếp tục thực hiện chính sách dồn dân lập ấp. Trước tình hình đó, để giữ vững thế trận, Tỉnh ủy Quảng Đức chỉ đạo Huyện ủy Đắk Mil, quyết tâm vượt qua khó khăn, thực hiện “ba bám” (cán bộ bám dân, dân bám đất và du kích bám địch) tiếp tục đấu tranh với địch, đẩy mạnh xây dựng hậu cứ, tăng gia sản suất, bảo đảm cung cấp lương thực cho mặt trận; mở rộng vùng giải phóng, đẩy địch vào thế co cụm, cùng với Nhân dân cả nước sẵn sàng chiến đấu. Đến năm 1975, cứ điểm Đắk Sắk, Đức Lập bị quân ta xóa sổ hoàn toàn. Sau ngày giải phóng, để tưởng nhớ sự hy sinh to lớn của cán bộ, chiến sĩ ta tại Đồi 722 - Đắk Sắk nói riêng, trong chiến dịch Đức Lập mùa thu 1968 nói chung, tỉnh Đắk Nông đã lập Đài tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ. Ngày 24/10/2012, di tích Đồi 722 - Đắk Sắk được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là Di tích lịch sử cấp quốc gia. Hiện nay, Di tích lịch sử Đồi 722 - Đắk Sắk có tổng diện tích gần 4 ha, trên di tích này vẫn còn lại một số di vật, quân trang quân dụng, như giày, mũ, vỏ đạn. Năm 2010, khu vực I của di tích đã được Nhà nước đầu tư xây dựng nhà bia tưởng niệm, khuôn viên cây xanh và tường rào với tổng diện tích đầu tư xây dựng 2.485m2. Hàng năm, di tích phục vụ khoảng trên 1.000 lượt khách đến viếng thăm, học tập. Đây là di tích lịch sử có ý nghĩa trọng đại trong giáo dục truyền thống, ý thức chính trị cho thế hệ trẻ, tri ân công lao to lớn của các bậc cha anh. Là một trong những mốc son lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc của Đảng bộ, Nhân dân tỉnh Đắk Nông nói riêng và Việt Nam nói chung. Nguồn: Báo Đắk Nông điện tử

Lâm Đồng 3746 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích lịch sử địa điểm lưu niệm N’Trang Gưh

Căn cứ vào sử liệu địa phương và lời kể của một số già làng ở Krông Nô thì N’Trang Gưh, tên thật là Y Gưh, là người dân tộc Ê đê, sinh khoảng năm 1845, tại buôn Choáh Kplang, nay thuộc xã Buôn Choáh (Krông Nô). Tương truyền, N’Trang Gưh là người tài cao, đức rộng và là một thành viên săn bắn giỏi của buôn nên có nhiều của cải quý giá như sừng tê giác, ngà voi. Không những thế, ông còn biết tính toán làm ăn giỏi nên mỗi khi đến mùa luôn thu được nhiều lúa, ngô, nuôi được nhiều trâu, bò, heo, gà... có uy tín trong buôn gần, làng xa, được mọi người yêu quý. Ngoài giàu có về của cải, ông còn là người giàu lòng thương người vì luôn hướng dẫn bà con những kinh nghiệm săn bắt, chăn nuôi, trồng trọt và sẵn sàng giúp đỡ người nghèo khó, hoạn nạn, mất mùa. Năm 1884, quân Xiêm tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược, đánh chiếm vùng hạ lưu sông Krông Nô và Krông Ana. Hưởng ứng lời kêu gọi của N’Trang Gưh, người dân ở 20 buôn người Bih sống trên lưu vực sông Krông Nô và Krông Ana đã đứng lên chống ngoại xâm. Nghĩa quân do N’Trang Gưh chỉ huy có đến 600 người, không có súng, chỉ dùng các loại vũ khí thô sơ: cung tên, giáo mác… Nhằm tăng thêm sức mạnh, N’Trang Gưh đã tạo ra một loại nỏ khá đặc biệt, chưa ở đâu có. Nỏ có chiều dài quá đầu người, thành nỏ rộng một gang tay, mỗi lần bắn ra 3 mũi tên. Với thứ vũ khí lợi hại này, cộng với tinh thần dũng cảm, kiên cường và mưu trí, năm 1887, nghĩa quân N’Trang Gưh đã bao vây tiêu diệt toàn bộ quân Xiêm ngay trên cánh đồng buôn Tur và buôn Phok. Chiến thắng vẻ vang của nghĩa quân N’Trang Gưh đã đập tan cuộc xâm lược của quân Xiêm, giúp đồng bào yên tâm lao động sản xuất, xây dựng buôn làng. Những năm đầu thế kỷ 20, bộ máy cai trị của chính quyền thực dân Pháp đã thâu tóm và kiểm soát gần như toàn bộ số buôn, bon của đồng bào bản địa trên vùng đất Tây Nguyên. Buốc Gioa (Bourgeois), công sứ Pháp đầu tiên tại Đắk Lắk đã ngang nhiên dùng vũ lực quân sự xua đuổi người Ê đê, M’nông đi nơi khác, chiếm lấy buôn, bon, đất đai, nương rẫy, bến nước để thiết lập các đồn điền và xây dựng hệ thống đồn bốt. Đồng bào bị bắt vào làm phu trong các đồn điền của Pháp, mỗi ngày họ phải lao động từ 14 đến 15 giờ. Đầu năm 1900, quân Pháp đánh chiếm các buôn của người Bih dọc lưu vực sông Krông Nô và Krông Ana. N’Trang Gưh đã lãnh đạo nghĩa quân chiến đấu chống lại quân xâm lược, nổi tiếng nhất là trận tiêu diệt đồn buôn Tur. Vào một buổi sáng năm 1901, dưới sự chỉ đạo của N’Trang Gưh, nghĩa quân đã vượt sông Krông Nô bao vây đồn Tur, dùng ná bắn được nhiều tên giặc rồi tấn công vào đồn. Chỉ một thời gian ngắn, toàn bộ quân địch đồn trú tại đây bị tiêu diệt, tên thực dân Buốc Gioa, kẻ có nhiều nợ máu với nhân dân chết gục trước sân đồn. Thừa thắng, nghĩa quân tiếp tục tiến công, lần lượt tiêu diệt các đồn khác của thực dân như đồn buôn Jiăng, đồn buôn Dur... Với sự lãnh đạo tài tình và dũng cảm của N’Trang Gưh, nghĩa quân đã chiến đấu trong suốt 13 năm. Năm 1914, do trong hàng ngũ nghĩa quân có người phản bội, địa điểm đóng quân của N’Trang Gưh bị tiết lộ, nên ông bị Pháp bắt, kết án tử hình. Sau khi N’Trang Gưh mất, thi thể của ông được nhân dân đưa về chôn cất tại quê hương, nơi ông sinh ra là buôn Choáh xã buôn Choah (Krông Nô). Để ghi nhớ địa điểm từng để lại nhiều dấu ấn lẫy lừng của người tù trưởng buôn làng Ê Đê, người anh hùng của các dân tộc Tây Nguyên, ngày 2-8-2011, Bộ Văn hoá - Thể thao và Du lịch đã xếp hạng địa điểm lưu niệm N’Trang Gưh là Di tích lịch sử cấp quốc gia. Nguồn: Trang Thông Tin Điện Tử Huyện Krông Nô

Lâm Đồng 3887 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích lịch sử địa điểm bắt liên lạc Tây Nguyên đến Đông Nam Bộ

Di tích lịch sử thôn Cây Xoài là Địa điểm bắt liên lạc khai thông đường hành lang chiến lược Bắc-Nam, đoạn qua tỉnh Đắk Nông. Ngày 25/5/1959, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng chính thức thành lập Đoàn B90, có nhiệm vụ bí mật vào Nam cùng với đơn vị tại chỗ xây dựng cơ sở, xoi mở hai tuyến đường phía Đông và phía Tây từ Nam Tây Nguyên vào miền Đông Nam Bộ - nơi có Xứ ủy Nam Bộ. Vượt qua những khó khăn, hi sinh và cả những chuyến móc nối không thành công, cuối cùng, vào khoảng 16 giờ, ngày 30/10/1960, Đoàn công tác B90 đã bắt liên lạc với đoàn công tác C200 của miền Đông Nam Bộ tại thôn Cây Xoài, xã Đắk Nia, TP. Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông. Đến ngày 4/11/1960, tại ki-lô-mét 4 trên đường Đắk Song đi Gia Nghĩa, cánh phía Tây của Đoàn B90 tiếp tục bắt liên lạc với đơn vị C270 từ Đông Nam Bộ lên. Đây là sự kiện có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về mặt chiến lược, đường hành lang chiến lược Bắc - Nam được khai thông đã trở thành một điểm nút quan trọng giúp thông suốt tuyến đường Hồ Chí Minh, từ đây, tuyến vận tải quân sự chiến lược Đường Hồ Chí Minh như huyết mạch thông suốt từ Bắc chí Nam chi viện kịp thời sức người, sức của từ hậu phương lớn miền Bắc xã hội chủ nghĩa cho tiền tuyến lớn miền Nam, góp phần quyết định vào thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Từ năm 1961 đến năm 1965, tuyến Đường Hồ Chí Minh thông suốt, hàng vạn con em đồng bào Nam Bộ tập kết ra Bắc đã trở lại chiến trường; hàng loạt nhu yếu phẩm như bưu phẩm, công văn tài liệu, vũ khí, khí tài, kể cả thiết bị đài phát thanh giải phóng... đã được các chiến sĩ giao liên tuyến cánh Đông và cánh Tây đưa đón vận chuyển khẩn trương chi viện cho chiến trường Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ; đưa đón cán bộ cấp cao của Đảng vào Nam lãnh đạo quần chúng đấu tranh chống Mỹ. Qua một thời gian hoạt động, cơ sở ở Nam Tây Nguyên được mở rộng và nối liền các vùng có cơ sở ở Tây Khánh Hòa, Tây Ninh Thuận, Đắk Lắk, Lâm Đồng và nối liền từ Đăk Mil đến chiến khu Đ. Bên cạnh đó, lực lượng hành lang Quảng Đức phối hợp với Campuchia mở rộng vùng kiểm soát dọc tuyến hành lang, tạo sự liên hoàn, phối hợp có hiệu quả các chiến trường trong kháng chiến. Để đạt được kỳ tích nối thông giữa các chiến trường, góp phần quan trọng vào thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, không thể không nhắc đến vai trò của đồng bào các dân tộc trên địa bàn đã không quản hi sinh, gian khổ bảo vệ hành lang, che chở cho các lực lượng tham gia vận tải quân sự trên đường Trường Sơn, che dấu cán bộ, bảo vệ cách mạng, đảm bảo hoạt động thông suốt. Đó là những chàng trai, cô gái Đoàn H50 bám đường, bất chấp gian khổ, thiếu thốn; Là các đoàn dân công của địa phương bí mật gùi, thồ hàng hóa, vũ khí vượt qua những đèo cao, dốc đứng, cánh đồng lầy lội và đồn bốt nguy hiểm; Đó là hình ảnh 800 đồng bào ở căn cứ Nâm Nung phải ăn lá rừng, củ rừng để dành lúa, ngô, khoai, sắn giúp đỡ đội xoi đường và cán bộ, bộ đội đi trên hành lang, bất chấp sự nguy hiểm để nuôi quân, che chở các chiến sĩ cách mạng... Di tích lịch sử thôn Cây Xoài “Địa điểm bắt liên lạc khai thông đường hành lang chiến lược Bắc - Nam, đoạn qua tỉnh Đắk Nông” là một trong những địa danh lịch sử gắn liền với kỳ tích của thế kỷ 20 - Đường Trường Sơn, được Nhà nước đầu tư xây dựng và hoàn thành vào ngày 23/3/2010. Ngày 02/8/2011, Bộ Văn hóa - Thể thao & Du lịch công nhận đây là di tích lịch sử cách mạng cấp Quốc gia. Ngày 30/10/2017, Ủy ban Nhân dân tỉnh Đắk Nông đã tổ chức Lễ tưởng niệm và đặt Bia ghi danh sách các cán bộ, chiến sĩ đã tham gia chiến đấu, hy sinh trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Đường hành lang chiến lược Bắc-Nam, tại thôn Cây Xoài, xã Đắk Nia, TP. Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông. Nguồn: Đảng Ủy Khối Các Cơ Quan Và Doanh Nghiệp Tỉnh Đắk Nông

Lâm Đồng 6460 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp của N’Trang Lơng

Các địa điểm về phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp của đồng bào Mnông do người anh hùng N'Trang Lơng lãnh đạo là nơi ghi dấu chiến công hiển hách, oanh liệt chống ngoại xâm, thể hiện ý chí đấu tranh kiên cường, tinh thần bất khuất, đoàn kết, nghĩa tình của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc. Chiến tranh đi qua, nơi đây còn dấu tích hầm, hào, lũy, công sự... mang giá trị lịch sử - văn hóa trong việc giáo dục truyền thống yêu quê hương đất nước cho các thế hệ. Hiện nay, để ghi nhớ công ơn, chiến công đấu tranh chống giặc xâm lược, các cấp thẩm quyền đã xếp hạng, đầu tư, tu bổ, phục dựng lại một số địa điểm của phong trào đấu tranh do N'Trang Lơng tại huyện Tuy Đức và xây dựng tượng đài tại Thành phố Gia Nghĩa cụ thể như: 1. Dấu tích đồn Bu Méra có tổng diện tích 1 ha (100m - 100m), đồn trước đây được bố trí khá khoa học, gồm một cửa chính ở phía Tây - Bắc, rộng 2,5m và 2 cửa phụ (cửa thoát hiểm) phía Tây - Nam và Đông - Bắc thông theo đường hào chạy dọc xuống phụ lưu Đắk Buk So. Với diện tích tổng thể chỉ có 1 ha, nhưng đồn Bu Méra lại chứa đựng một tiểu quần thể sinh thái mang âm hưởng của núi rừng Tây Nguyên; có nhiều loại gỗ lớn, tuổi từ 70 đến 90 năm (là gỗ tái sinh, hầu như vẫn còn nguyên vẹn), cùng với nhiều loài chim, sóc, bò sát,… Hiện nay, di tích đã được phục dựng, tôn tạo với các hạng mục như hào, lũy, cổng,… để phục vụ khách tham quan du lịch. 2. Dấu tích bon Bu Nor với diện tích khoảng 7 ha, hiện nay nằm trong rừng phòng hộ của Lâm trường Quảng Tân với nhiều loại gỗ kích thước khá lớn, còn nguyên sinh. 3. Dấu tích "Bia Henri Maitre" được Uỷ Ban Nhân Dân tỉnh Đăk Nông công nhận là di tích lịch sử cấp tỉnh, ngày 24 tháng 12 năm 2008 của UBND tỉnh Đăk Nông. Hiện nay, phần mộ của Henri Maitre vẫn nguyên vẹn. Mộ có diện tích khoảng 3m2, nơi cao nhất là 40cm (so với mặt đất), dấu tích phản ánh tội ác của thực dân Pháp đối với nhân dân các dân tộc Tây Nguyên; phản ánh ý chí đấu tranh kiên cường, bất khuất của đồng bào các dân tộc Đăk Nông dưới sự lãnh đạo mưu lược dũng mãnh của vị anh hùng dân tộc N'Trang Lơng. 4. Tượng đài Anh hùng N'Trang Lơng và phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc 1912 - 1935 tại đồi Đắk Nu, phường Nghĩa Đức, Thành phố Gia Nghĩa. Ngày 27/08/2007, Di tích lịch sử các địa điểm về phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp của đồng bào M’nông do N’Trang Lơng lãnh đạo, được công nhận là di tích lịch sử cách mạng cấp Quốc gia theo quyết định của Bộ Văn hóa - Thể thao & Du lịch. Nguồn: Sở Văn Hoá Thể Thao Và Du Lịch Đắk Nông

Lâm Đồng 4003 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích lịch sử cách mạng Căn cứ kháng chiến B4 – Liên tỉnh IV

Khu di tích căn cứ kháng chiến B4 – Liên tỉnh IV thuộc thôn Tân Tiến, xã Nâm Nung (Krông Nô) hiện đang được đầu tư xây dựng, trùng tu gần hoàn thành. Không những là “địa chỉ đỏ” để lưu giữ, giáo dục truyền thống cách mạng mà khu di tích sẽ hứa hẹn trở thành một trong những điểm du lịch lịch sử-sinh thái hấp dẫn. Di tích lịch sử căn cứ kháng chiến B4 - Liên tỉnh IV nằm giữa một vùng đồi núi chập chùng như ôm ấp và che chở các dấu tích của một thời lịch sử oai hùng. Nơi đây, tháng 12/1960, Tỉnh ủy Quảng Đức được thành lập trực thuộc Liên Khu ủy 5, dựa vào vùng căn cứ kháng chiến tại Nâm Nung gồm các buôn R’cập, Ja Ráh, Dốc Ju, Broah, Choaih, Fi Bri để lãnh đạo cách mạng. Khu căn cứ kháng chiến B4 - Liên tỉnh IV trong kháng chiến giữ vai trò vừa là tiền tuyến vừa là hậu phương, là nơi xây dựng lực lượng cách mạng và tham gia sản xuất, cung cấp lương thực, thực phẩm cho tiền tuyến, cho các vùng khác để cứu đói. Đồng thời, cũng là nơi tổ chức các trận đánh lớn ngay trên địa bàn căn cứ, làm tiêu hao sinh lực địch, khai thông đường hành lang chiến lược, phục vụ đắc lực cho chiến trường miền Nam. Với những chiến tích lịch sử oai hùng đó, ngày 17/3/2005, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã công nhận Di tích lịch sử căn cứ kháng chiến B4 - Liên tỉnh IV là di tích cấp Quốc gia. Để địa danh xứng tầm với vai trò, vị trí về lịch sử cách mạng, những năm qua, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh đã tổ chức khảo sát, khoanh vùng di tích. Trên cơ sở đó, tỉnh cũng đã quyết định đầu tư hơn 28 tỷ đồng để xây dựng, trùng tu các hạng mục: khu công sự, khu văn phòng liên tỉnh IV, phòng làm việc Ban cán sự B4, hội trường, trạm quân y, cầu qua khu căn cứ, đường nội bộ khu căn cứ, khu khánh tiết (nhà lưu niệm, bia tưởng niệm, tượng đài) và trồng cây xanh, tạo cảnh quan môi trường ở khu căn cứ cách mạng Nâm Nung. Để phát huy giá trị lịch sử cách mạng, công tác tuyên truyền, giáo dục trong quần chúng nhân dân, nhất là thế hệ trẻ về giá trị to lớn của khu di tích đã được triển khai sâu rộng, từ đó, có ý thức bảo vệ, hiểu được tiềm năng du lịch văn hóa, lịch sử của quê hương. Nguồn: Báo Đắk Nông điện tử

Lâm Đồng 4114 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Nhà ngục Đăk Mil

Nằm dọc theo quốc lộ 14, cách trung tâm thị xã Gia Nghĩa khoảng 60 km, ngục Đắk Mil, nằm trong địa phận huyện Đắk Mil, là di tích lịch sử oai hùng còn mang đậm dấu ấn của thời gian. Nhà ngục Đăk Mil, được công nhận là Di tích lịch sử Quốc gia ngày 17 tháng 3 năm 2005. Năm 1940, phong trào Cách mạng nổ ra khắp nơi trong cả nước, do số lượng tù chính trị tại Nhà đày Buôn Ma Thuột ngày càng đông và để phục vụ thi công tuyến đường xuyên qua cao nguyên M’Nông bên cạnh nhà tù Buôn Ma Thuột thực dân Pháp còn cho xây dựng Nhà ngục Đăk Mil, (nay thuộc huyện Đăk Mil, Đắk Nông) giữa một khu rừng già, nơi rừng thiêng nước độc dùng để giam tù chính trị. Nhà ngục Đăk Mil, trở thành một cơ sở cách mạng trên địa bàn huyện và đã chứng kiến nhiều lần vượt ngục của những người chiến sĩ Cộng sản Việt Nam Từ năm 1940 đến 1943, nơi đây đã giam giữ hàng trăm lượt chiến sĩ cộng sản, có thời điểm lên đến 120 người. Các chiến sĩ cách mạng bị đày ở Nhà ngục Đăk Mil, từ năm 1941 đến năm 1943: Chu Huệ, Hồ Tùng Mậu, Nguyễn Tạo, Trần Hữu Doánh, Trương Vân Lĩnh, Nguyễn Khải, Trần Tống, Lê Nam Thắng …. Cuối năm 1943 người Pháp chuyển toàn bộ số tù ở đây về nhà ngục Buôn Ma Thuột và cho phá hủy ngục Đăk Mil,. Nhà ngục Đăk Mil, thời xưa được dựng trên một khoảng đất giữa rừng núi u ám của huyện Đăk Mil,. Bên ngoài dãy Nhà ngục 9 gian thưng bằng gỗ, mái lợp tranh là hàng rào gỗ được chèn chặt bằng giây thép gai. Bên trong Nhà ngục lối đi được đặt ở giữa 2 dãy sàn gỗ có đủ cùm chân, xiềng tay, mỗi một chiếc cùm có treo 4 ống tre: 2 ống trên đựng nước uống, 2 ống dưới đựng nước tiểu và phân. Trải qua một thời gian dài, Nhà ngục Đăk Mil, đã bị đổ nát và trở thành phế tích. Hiện nay, vào ngày 31/12/2010, sau hơn hai năm tiến hành trùng tu, tỉnh Đắk Nông đã hoàn thành việc khôi phục, xây dựng Di tích lịch sử quốc gia Nhà ngục Đăk Mil, tại thôn 9A, xã Đắk Lao (Đắk Mil). Công trình do Bộ Văn Hoá Thể Thao và Du Lịch đầu tư với tổng kinh phí trên 9 tỷ đồng. Toàn bộ di tích nằm giữa khu dân cư đông đúc với diện tích khoảng gần 1 ha, với 2 hạng mục chính là nhà ngục và nhà trưng bày các hiện vật. Nhà ngục đã được tái hiện với diện tích tương tự nhà ngục trước đây thực dân Pháp đã dựng nên, hiện vẫn còn nền móng cũ. Nguồn: Trang Thông Tin Điện Tử Huyện Đắk Mil,.

Lâm Đồng 5189 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Cổ Thạch

Chùa Cổ Thạch (còn gọi chùa Đá Cổ, hay chùa Hang) tọa lạc ở xã Bình Thạnh, huyện Tuy Phong (Bình Thuận), trong khu vực bãi biển Cổ Thạch Với kiến trúc độc lạ trong một cảnh quan thiên nhiên kỳ thú, chùa Cổ Thạch đã được công nhận là một di tích, thắng cảnh cấp Quốc gia của Việt Nam. Từ những năm 1835-1836, thiền sư Bảo Tạng tìm đến Bình Thạnh đã khai lập nên chùa Cổ Thạch và trụ trì nơi đây năm năm. Sau đó, vị thiền sư giao chùa cho các đệ tử trông coi, ông tiếp tục độc hành về phía Nam của Tổ quốc và dừng chân ở miền Đông Nam bộ (Đồng Nai và Bà Rịa – Vũng Tàu). Ban đầu, chùa chỉ là một thảo am nhỏ vách ván, lợp lá, qua nhiều lần trùng tu, tôn tạo đến thời Thiệu Trị chùa được xây dựng lớn cả về không gian lẫn nghệ thuật và còn giữ hầu như nguyên vẹn đến ngày nay. Cho đến nay, dù đã trải qua 170 năm nhưng ngôi chùa vẫn còn lưu giữ nhiều di sản văn hóa Hán Nôm; liễn; đối; hoành phi và nhiều tài liệu cổ quý giá. Trong số đó, Đại Hồng chung và trống sấm đã có niên đại từ đầu thế kỷ thứ 19. Khu vực chùa Cổ Thạch là một quần thể kiến trúc, am, điện, cốc liên hoàn với nhau trên khu đồi đá rộng hơn 4 ha. Đầu năm 1997, chùa xây dựng thêm nhiều tượng Phật Bà Quan Âm rải rác ven biển, tạo phong cảnh đẹp khi đứng trên chùa nhìn xuống. Đường vào cổng Tam quan gồm 36 bậc thang gắn kết bằng phiến thạch. Dưới chân bậc thang là đôi rồng uốn lượn hai bên. Bên phải chiếc cầu nơi cổng là bức tượng hình hổ ngồi và đối xứng qua là tượng voi nằm với kỹ thuật tạc tạo tinh vi. Chính điện chùa nằm trong quần thể núi đá tự nhiên, có khi nằm lọt thỏm giữa những tảng đá to. Kế đó là các nhà thiền, từ đường, nhà tổ, gác chuông, lầu trống, am cốc thờ tự, với những câu liễn phi, hoành đối khá ấn tượng và bảo quản tốt. Nhiều di sản văn hoá Hán Nôm, liễn, đối, hoành phi và những tài liệu có từ ngày tạo lập chùa. một số cổ vật có giá trị lịch sử văn hoá. Mỗi hang động thờ một vị Phật, hoặc Bồ tát, hoặc một nhà sư đã viên tịch. Ba phiến đá tự nhiên xếp thành hàng ngang trước khu chánh điện tạo dáng con cá kình (theo kinh của Phật gọi là con “ma kiệt”, một loài thủy quái được xem là hóa thân từ Phật Bà Quan Thế Âm Bồ Tát để giúp đỡ ngư dân khi gặp nạn ở biển khơi). Ngôi chùa đi theo lối kiến trúc cổ xưa nên được bày phối với nhiều màu sắc sặc sỡ rất bắt mắt. Bởi vị trí địa hình là núi đá cao nên mỗi lối đi của ngôi chùa đều có các bậc thang lên xuống thoai thoải theo sườn dốc. Ngay phía dưới chân chùa là đại dương mênh mông tạo nên một cảnh quan sơn thủy hữu tình. Ngôi chùa Cổ Thạch nằm trên quần thể núi đá nên cũng có rất nhiều hang động đặc biệt. Tận dụng địa thế này, các thiền sư đã dùng chúng làm nơi thờ phụng.Trong mỗi hang động ở chùa Cổ Thạch đều thờ một vị Phật, Bồ tát hoặc một nhà sư đã viên tịch. Ở đây, có một hang động của Tổ sư – người đã khai sơn ra ngôi chùa này, phía ngoài tượng thờ Tổ sư còn có các bài vị có công lao xây dựng chùa. Kế bên đó là hang thờ Phật Mẫu Chuẩn Đề. Trong hang động này có tượng Phật 8 tay và nhiều tượng cổ khác. Còn ở hang Tam Bảo, các thiền sư dùng để thờ phụng 23 pho tượng Phật cổ với nhiều kích thước và niên đại khác nhau. Vào ngày 25/05 âm lịch hàng năm sẽ là ngày giỗ Tổ của chùa Cổ Thạch. Đây là ngày mà để tăng ni, phật tử nơi đây tưởng nhớ công ơn to lớn của vị Thiền Sư Bảo Tạng – người có công lao to lớn trong việc xây dựng chùa ngày ấy. Nguồn: Phật giáo online

Lâm Đồng 4061 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Tháp Chăm Po Sah Inư

Po Sah Inư là một trong ba nhóm đền tháp Chăm thuộc phong cách kiến trúc nghệ thuật Hòa Lai, có niên đại sớm từ đầu thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 9. Nhóm tháp tọa lạc trên ngọn đồi khi xưa có tên là đồi Bà Nài thuộc địa phận thôn Ngọc Lâm phường Phú Hài (xưa là Phố Hài), thành phố Phan Thiết. Cạnh tháp B trong nhóm tháp có một ngôi chùa cổ là chùa Bửu Sơn được xây dựng từ cuối thế kỷ 19. Phía dưới chân đồi là biển, phía Tây phía dưới đồi có con Sông Cái bao quanh chảy ra biển. Nhóm đền tháp Po Sah Inư có 3 tháp gồm: Tháp Chính (tháp A), tháp thờ thần Lửa (tháp C) và tháp B thờ bò thần Nandin (cuối thế kỷ 19 vẫn còn, sau đó đã mất). Đây là nhóm đền tháp được xây dựng trên đồi cao gần biển duy nhất trong phong cách kiến trúc nghệ thuật Hòa Lai của nền văn hóa Chămpa, trong khi tất cả các tháp khác đều tọa lạc trên đồi cao hoặc khu vực đồng bằng xa biển. Tháp Chính thờ thần chủ Siva, trong lòng tháp vẫn còn bệ thờ Linga - Yoni là biểu tượng của thần, có niên đại cùng thời với tháp cho đến nay. Từ thế kỷ 19 – 20 nhiều người thường gọi là tháp Phố Hài trùng với địa danh ở đây. Khoảng từ thế kỷ 20 về sau người Chăm gọi là tháp Po Sah Inư là tên của công chúa, chị ruột của vua Podam và đều là con của vua Chăm ParaChanh mà sử Việt gọi là La Khải. Sau khi Po Sah Inư mất, Hoàng tộc Chăm đã xây đền thờ để thờ Bà trong khuôn viên tháp Phố Hài. Như vậy có thời kỳ nhóm đền tháp này tồn tại 2 tên là Phố Hài và Po Sah Inư. Tháp Chính là tháp lớn và cao nhất trong nhóm. Tháp cao 16m; có tất cả 3 tầng, hai tầng trên có kiến trúc gần giống tầng dưới nhưng giảm dần kích thước cũng như các chi tiết kiến trúc và nghệ thuật. Cứ như vậy, nhỏ dần và cao vút lên trên cùng với phần mái tháp. Ở lưng chừng mái tháp có 4 lỗ thông hơi về 4 hướng, nhằm thông hơi và hút khí nóng trong lòng tháp ra ngoài, phần nào tạo sự cân bằng giữa bên trong và bên ngoài, sự hòa hợp giữa thần linh và trời đất. Đây chính là điểm nhấn về tâm linh khi các chức sắc thực hiện lễ nghi và họ tin rằng, các vị thần từ cõi trên đi về bằng con đường này. Tháp Chính cũng là nơi được tập trung những giá trị về kiến trúc vật chất và tinh thần cũng như về tâm linh, tín ngưỡng tôn giáo. Tháp B: Tháp cao 12m, có 3 tầng như tháp A nhưng nhỏ hơn. Trong lòng tháp thờ bò thần Nandin mà từ cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20 người dân địa phương vẫn thấy, sau đó không thấy nữa. Trong đợt khai quật khảo cổ những năm 1991 - 1995, đã tìm thấy một số mảnh và bàn chân của bò thần Nandin. Trước tháp có một sân lễ lớn, hiện nay dùng dựng rạp trong lễ Katê. Tháp C: Do chức năng nguyên thủy ban đầu là thờ thần Lửa nên kiến trúc chỉ có 1 tầng bao gồm cả chân đế, thân và đỉnh tháp, tháp có chiều cao 5m; chiều rộng mỗi cạnh gần 4m. Dấu vết sụp đổ cho biết hàng trăm năm trước cho đến những năm 80 của thế kỷ 20, phần đỉnh và mái tháp bị sạt đổ cùng với đế tháp bị mủn mục sâu vào bên trong thân tháp. Sau khi tu bổ tôn tạo xong, chức năng của tháp được sử dụng lại, nhưng chủ yếu là nơi người ta để lễ vật trước khi vào hành lễ ở tháp Chính. Cả 3 ngôi tháp trong nhóm Po Sah Inư đã được tu bổ, tôn tạo lại nhiều lần để có được hình dáng kiến trúc và không gian văn hóa như hiện tại. Từ trước cho đến nửa đầu thế kỷ 20 người Chăm thường thực hiện nhiều lễ nghi ở đây. Từ năm 2005 lễ hội Katê được phục dựng với đầy đủ các quy trình về không gian, thời gian, hình thức, nội dung và giá trị nguyên gốc như xưa. Từ lúc được phục dựng cho đến nay và mãi sau này, hàng năm lễ hội Katê được tổ chức đều đặn để cùng với tháp Po Sah Inư cổ kính làm nên điểm đến thu hút du khách tạo đà cho phát triển du lịch. Nguồn: Ban tuyên giáo tỉnh uỷ tỉnh Bình Thuận

Lâm Đồng 5779 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Điểm di tích nổi bật