Theo sử sách ghi lại: Nghĩa Đô xưa là một thung lũng rộng lớn, đất rừng trù phú, được bao quanh bởi suối, tạo nên phong cảnh trùng điệp yên bình. Cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19, nơi đây có tên gọi là “Mường Khuông”, sau đổi tên là “Mường Nghĩa Đô” gắn với sự kiện hình thành đền Nghĩa Đô vào ngày 14 tháng 7 năm Canh Tuất, năm Tự Đức thứ ba (1850). Tên Nghĩa Đô gắn với vùng đất này từ đó. Tại đây, anh em Vũ Văn Uyên, Vũ Văn Mật (các chúa Bầu) cùng một số tướng công họ Vũ và tướng lĩnh trong vùng đã cho xây dựng tuyến phòng thủ bảo vệ thành Nghị Lang từ xa; tổ chức khai khẩn phục vụ sản xuất quân lương tại chỗ, mở mang, phát triển vùng đất này. Đặc biệt, các chúa Bầu cho phép quân binh người miền xuôi hòa nhập với người bản địa làm thế đồn trú lâu bền trên miền biên ải. Đền Nghĩa Đô được công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh từ năm 2016. Năm 2018, đền được tôn tạo, trùng tu; đến năm 2019 khánh thành và đưa vào sử dụng, đáp ứng nhu cầu tâm linh của người dân trong vùng và du khách thập phương. Lễ hội đền Nghĩa Đô được tổ chức thường niên vào ngày 14/7 (âm lịch) nhằm tưởng nhớ công lao to lớn của các chúa Bầu cách đây hàng trăm năm đã bảo vệ cuộc sống bình yên cho người dân, mở mang phát triển vùng đất này. Báo Lào Cai điện tử
Lào Cai 3420 lượt xem
(ĐCSVN) – Di tích Lịch sử Quốc gia đồn Phố Ràng ở thị trấn Phố Ràng, huyện Bảo Yên (Lào Cai) là chứng tích đặc biệt, nơi khắc ghi chiến thắng lịch sử hào hùng, oanh liệt của thế hệ cha ông 73 năm về trước (26/6/1949 – 26/6/2022). Theo Lịch sử đảng bộ huyện Bảo Yên (Lào Cai), đồn Phố Ràng được xây dựng trên cao điểm 442, diện tích rộng gần 1 ha; đây là một vị trí chiến lược, có thể khống chế toàn bộ khu vực lòng chảo thị trấn Phố Ràng và các khu vực lân cận. Thế đồn gần như 3 mặt là sông, ở vị trí đồn có thể bao quát, theo dõi toàn bộ các hoạt động ở sông và hai bên bờ. Pháp cho xây dựng một hệ thống công sự vững chắc với nhiều lô cốt, giao thông hào, hàng rào tre vót nhọn ken dày đặc quanh cứ điểm, mìn, vật cản và ụ súng được bố trí xung quanh đồn. Địch còn bố trí 2 trung đội Âu - Phi, 1 đội lính khố đỏ, 1 trung đội lính dù, 1 trung đội lính dõng, các loại vũ khí sẵn sàng đánh trả và cản bước tiến của các nhánh quân ta lên giải phóng vùng Tây Bắc. Ngày 19/5/1949, chiến dịch sông Thao mở màn, quân ta đã diệt 2 vị trí là Đại Bục và Đại Phác (huyện Trấn Yên, Yên Bái) thuộc phân khu Nghĩa Lộ, làm rung chuyển toàn bộ hệ thống phòng ngự của địch ở hữu ngạn sông Hồng thuộc tỉnh Yên Bái. Thừa thắng ta đánh tiểu khu Phố Ràng là cứ điểm xung yếu, căn cứ đầu não của địch và cũng là sở chỉ huy của tiểu khu. 18 giờ ngày 24/6/1949, pháo binh của ta bắt đầu bắn vào đồn địch, áp chế các ụ súng. Sau hơn 40 giờ chiến đấu liên tục với khí thế mãnh liệt, kiên cường, dũng cảm, đúng 08 giờ ngày 26/6/1949, quân ta đã làm chủ trận địa, hạ được đồn, bắt sống được tên quan Ba chỉ huy đồn, tiêu diệt hơn một đại đội địch. Đồn Phố Ràng bị hạ, một bộ phận quân địch rút chạy theo 2 hướng về Nghĩa Đô và Lào Cai. Sở chỉ huy Phố Ràng bị tiêu diệt đã làm rung chuyển tuyến phòng thủ của địch từ Phố Lu đến Nghĩa Đô, làm cho địch tổn thất, hoang mang và lo sợ. Chiến thắng đồn Phố Ràng đã phá vỡ một mắt xích quan trọng trong tuyến phòng thủ Bảo Hà - Phố Ràng - Nghĩa Đô - Yên Bình, thúc đẩy sự tan rã của địch, tạo tiền đề cho bộ đội chủ lực tiến vào giải phóng Phố Lu và tiến đánh đồn Nghĩa Đô, góp phần quan trọng đưa chiến dịch Sông Thao đến toàn thắng, đập tan tuyến phòng thủ trọng yếu của địch, giải phóng trên 600 km2 và hàng chục vạn nhân dân các dân tộc Tây Bắc thoát khỏi ách kìm kẹp của địch. Trận đồn Phố Ràng là chiến thắng hào hùng, oanh liệt đã được ghi vào trang sử vẻ vang của đất nước ta. Ngày 11/06/1999 di tích đồn Phố Ràng được Bộ Văn hoá Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể Thao – Du lịch) công nhận là Di tích Lịch sử cấp Quốc gia, theo Quyết định số 38/QĐ-BVHTT. NGUỒN: Cơ quan Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
Lào Cai 3339 lượt xem
Bà Hoàng Thị Loan - thân mẫu Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ra trên mảnh đất giàu truyền thống cách mạng và hiếu học; quê gốc của dòng họ Hoàng tại thôn Vân Nội, xã Hồng Tiến, huyện Khoái Châu. Trong bà hội tụ những phẩm chất cao đẹp của người phụ nữ truyền thống Việt Nam, đảm đang, nhân hậu, chịu thương, chịu khó, hết lòng vì chồng, vì con. Để tỏ lòng thành kính và tôn vinh công lao to lớn của bà, năm 2003, UBND tỉnh Hưng Yên đã quyết định khởi công xây dựng nhà thờ (nay là Nhà tưởng niệm) trên mảnh đất thôn Vân Nội, xã Hồng Tiến. Đây là công trình mang đậm nét kiến trúc truyền thống, hài hòa với không gian, cảnh quan làng quê vùng đồng bằng Bắc Bộ, trong khuôn viên cũ của đình làng Vân Nội. Được khánh thành năm 2005, đây là một trong những công trình quan trọng của tỉnh, là nơi để các tầng lớp nhân dân trong và ngoài tỉnh về dâng hương, thăm viếng, tưởng nhớ người phụ nữ cả đời hy sinh cho chồng con và dâng hiến cho dân tộc Việt Nam một người con vĩ đại - Chủ tịch Hồ Chí Minh vô vàn kính yêu. Ngày 26-7-2023, Chủ tịch UBND tỉnh Hưng Yên đã ký quyết định xếp hạng Di tích lịch sử cấp tỉnh đối với Nhà tưởng niệm bà Hoàng Thị Loan theo số 1555/Quyết Định -Chủ Tịch Uỷ Ban Nhân Dân. Sau 20 năm kể từ khi xây dựng, một số hạng mục của công trình đã xuống cấp. Được sự quan tâm của lãnh đạo tỉnh và các sở, ban, ngành, đầu năm 2024, UBND huyện Khoái Châu đã triển khai Dự án trùng tu, tôn tạo Nhà tưởng niệm bà Hoàng Thị Loan và các công trình phụ trợ, bao gồm các hạng mục: Trùng tu, tôn tạo các hạng mục di tích Nhà tưởng niệm; cải tạo, nâng cấp đường vào Nhà tưởng niệm và một số hạng mục khác… Sau 6 tháng thi công, đến nay, công tác trùng tu, tôn tạo các hạng mục và các công trình phụ trợ Nhà tưởng niệm bà Hoàng Thị Loan đã hoàn thành. Di tích Nhà tưởng niệm bà Hoàng Thị Loan, để nơi đây thành địa chỉ đỏ, là điểm thu hút khách tham quan, tìm hiểu lịch sử… Nguồn Sở văn hóa thể thao và du lịch.
Hưng Yên 4032 lượt xem
Căn cứ vào thần tích, sắc phong còn lưu giữ, Đình làng Mão Xuyên được xây dựng để tôn thờ vị Thành Hoàng Làng là Ông Hoàng Văn Lang hay còn gọi là Đức Hoàng Hai người con thứ 2 của nữ tướng Ngọc Chí thời Hai Bà Trưng là những người có công đánh đuổi quân Nam Hán những năm 40 – 43 sau công nguyên, đình có kiến trúc “ tiền nhất hậu đinh”. Hiện nay đình vẫn giữ được 2 đạo sắc phong và các hiện vật quý giá như bia đá, các bức đại tự, câu đối, cửa võng và hệ thống tượng thờ. Phía sau đình là chùa là nơi thờ phật Thích Ca Mâu Ni có kiến trúc chữ Đinh với nhiều nét cổ kính còn lưu giữ như Tam Quan, tiền đường và thượng điện. Trong kháng chiến chống quân xâm lược Đình - Chùa Mão Xuyên còn là nơi hoạt động cách mạng của các đồng chí tiền khởi nghĩa tại địa phương. Với ý nghĩa và giá trị lịch sử đó, tại buổi lễ, thừa ủy quyền của Chủ tịch UBND tỉnh, đồng chí Mai Xuân Giới, Phó Bí thư Huyện ủy – Chủ tịch UBND huyện đã trao bằng xếp hạng di tích cấp tỉnh Đình-Chùa Thôn Mão Xuyên cho cán bộ và nhân dân xã Nguyễn Trãi. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên.
Hưng Yên 3631 lượt xem
Động Hàm Rồng nằm ngay dưới chân núi Hàm Rồng thôn Na Bủ xã Tung Chung Phố huyện Mường Khương,Thành Phố Lào Cai (nay thuộc thị trấn Mường Khương) cách trung tâm huyện gần 2km. Đây là một hang động lớn nằm trong lòng núi đá vôi. Sở dĩ có tên là Hàm Rồng vì theo truyền thuyết và những câu truyện dân gian thì trong động có một con rồng rất to thường hay xuất hiện khi thời tiết thay đổi. Vì vậy người dân địa phương đặt tên cho hang động đó là động Hàm Rồng. Đến động Hàm Rồng du khách sẽ có dịp được chiêm ngưỡng vẻ đẹp huyền bí giữa một vùng núi rừng bao la rộng lớn. Đường đi tới động Hàm Rồng khá thuận lợi, du khách men theo dòng suối Tùng Lâu vào cửa chính vào động. Dòng suối này quanh năm uốn mình trên từng khe núi, đi qua hang động tạo thành dòng thác “Páo Tủng” – một thắng cảnh tuyệt diệu của cả vùng Mường Khương. Quần thể hang động Hàm Rồng bao gồm 2 hang chính nối liền nhau với tổng chiều dài khoảng 750m. Cửa động Hàm Rồng với chiều rộng hơn 6m, vòm hang cao 5m nên thuận tiện cho du khách vào tham quan. Trong lòng hang động phân chia chia thành nhiều ngách nhỏ nối liền với nhau, vào sâu khoảng 10m là tới những nhũ đá đơn lẻ màu tối, đi tiếp lên qua lỗ thông nhỏ - nơi đón nhận ánh sáng tự nhiên chiếu sâu vào hang với các hình thù kỳ lạ đó là: hình nhũ đá bám trên vách đá với những hang vòm trông mềm mại tựa như giàn bầu tiên đang leo, đi sâu xuống lồng hang du khách sẽ nhận thấy những hình thù giống như hình con dê đang ăn cỏ, hình con chim đang bay, chúng hòa quyện với cảnh sắc lung linh dưới ánh đèn. Đột nhiên trước mắt du khách hiện ra một cung điện với những chiếc vương miện điểm những viên ngọc sáng long lanh của Hoàng đế, rồi tới những hình thù giống những thửa ruộng bậc thang nối tiếp nhau. Giữa hang là khối hình trụ tròn có đầu giống ông bụt với khuôn mặt phúc hậu, nhưng thân hình lại gai góc xù xì bám vào nhau tựa như những cần ăng ten, có chỗ trông như bàn cờ tiên, giống như của buồng của công chúa...Càng vào sâu trong hang động du khách càng nhận thấy sự uy nghi lộng lẫy với sự đa sắc màu tạo nên cảnh đẹp nên thơ và trữ tình. Động Hàm Rồng có giá trị rất lớn về du lịch, địa chất, thẩm mỹ. Đến với động du khách không những được chiêm ngưỡng phong cảnh hữu tình của núi rừng, sông suối tự nhiên mà còn là điều kiện cho các nhà nghiên cứu về địa lý, đất đai thổ nhưỡng địa tầng. Hàm Rồng còn là nguồn cảm hứng sáng tạo nghệ thuật cho các nhà hội họa, nhiếp ảnh. Động Hàm Rồng được nhà nước công nhận là Di tích Danh thắng cấp Quốc Gia theo QĐ số: 15/QĐ-BVHTT ngày 14/4/2003. NGUỒN: Ủy ban nhân dân tỉnh Lào Cai
Lào Cai 3357 lượt xem
Cách thành phố Lào Cai 28 km về phía Tây Bắc qua huyện Bát Xát tới Bản Vược rẽ trái là đến xã Mường Vi - nơi có thung lũng rộng lớn, xung quanh là những dãy núi đá vôi trùng điệp tạo thành một quần thể hang động rộng lớn gọi là quần thể hang động Mường Vi. Nơi đây bao gồm các động Ná Rin, Cám Rang, Cám Rúm và Cám Tẳm đều khá đẹp, đây là một trong những di tích độc đáo và hấp dẫn của tỉnh Lào Cai. Động Ná Rin là động lớn có rất nhiều nhũ thạch màu ánh bạc trong suốt đan xen vào nhau giống như những bức bình phong đơn giản về kiểu dáng nhưng toát lên vẻ đẹp sang trọng và nguyên sơ. Đầu nhũ thạch giống như giọt nước tinh khiết bắt nguồn từ dòng suối nhỏ nằm trên vách hang, nhũ đá tựa như những chiếc đèn chùm ánh pha lê to nhỏ khác nhau. Động Cám Rang nằm trên lưng chừng một quả núi ở vị trí cao ít hơi nước, màu nhũ hơi nâu sẫm nhưng rắn chắc. Phía trong hang là những tảng đá có hình thù giống như quả bầu dài và mâm ngũ quả có màu vàng thu hút tầm mắt của mọi khách du lịch khi tới đây tham quan và khám phá. Phía trong động có cổng trời, trên cổng là dải nhũ đá trông như vương miện với những dải ren cầu kỳ óng ánh. Hấp dẫn không kém là các động Cám Rúm và Cám Tẳm, hai động này cũng có nhiều tảng đá với những hình thù độc đáo được phủ bởi nhũ thạch muôn màu sắc. Riêng động Cám Tẳm chứa đựng nhiều yếu tố dân gian phong phú và hấp dẫn, nơi đây còn lại nhiều những vết tích cổ xưa, phản ánh đời sống văn hóa tâm linh của cộng đồng dân tộc Giáy. Động Mường Vi còn chứa đựng nhiều sự tích dân gian thần bí nói về ông vua người Giáy thông minh anh dũng với những chiến công chống giặc ngoại xâm bảo vệ làng bản như những đợt đắp suối ngăn nước chống giặc, trồng tre tạo hàng rào chống giặc rất hiệu quả, rồi đến câu chuyện về con ngựa đá biết bay của ông Vua... Ngoài ra còn có những câu chuyện dân gian kể về sự tích của các nàng tiên xinh đẹp hiền lành thường xuyên xuống giúp đỡ bà con trong những ngày mùa bận rộn trồng cấy và thu hoạch... Quần thể động Mường Vi là quần thể động lớn có nhiều đặc thù và giá trị nghiên cứu khác nhau, là nơi chứa đựng kho tàng dân gian phong phú về non nước và con người nơi đây, đồng thời cũng là nơi tìm hiểu nghiên cứu của những nhà địa chất học. Đặc biệt quần thể động Mường Vi có một giá trị thực tiễn về chiến lược bảo vệ an ninh biên giới, làm giàu đẹp môi trường sinh thái của địa phương. Đây còn là nơi tìm hiểu các giá trị thẩm mỹ, cung cấp nguồn cảm hứng sáng tạo cho các nhà nghiên cứu sáng tác về văn học và hội họa. Hiện nay nơi đây đã và đang thu hút được sự quan tâm của nhiều ngành khoa học như: văn hóa, môi trường, du lịch, địa chất...nhằm khai thác bảo tồn phát huy các giá trị của di tích phục vụ sự phát triển kinh tế cho địa phương. Quần thể động Mường Vi được nhà nước công nhận là Di tích Danh lam thắng cảnh Quốc gia theo quyết định số 38/QĐ-BVHTT ngày 11/6/199 của Bộ Văn hóa Thông tin. NGUỒN: Ủy ban nhân dân tỉnh Lào Cai
Lào Cai 3404 lượt xem
Đền Cấm thuộc thôn Soi Mười xã Vạn Hòa (nay là tổ 3 phường Phố Mới - Lào Cai), ngôi đền được tọa lạc dưới chân quả đồi thấp, xung quanh cây trái tốt tươi, trước đền là 3 cây cổ thụ: cây si, cây mít và cây ngọc lan tỏa bóng mát cho đền tạo nên cảnh quan rất lý tưởng. Ngôi đền được xây dựng và tồn tại cách đây gần 200 năm nay gắn liền với lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam nói chung và đồng bào các dân tộc Lào Cai nói riêng. Ngôi đền có truyền thuyết gắn liền với công cuộc 3 lần kháng chiến chống quân Nguyên Mông dưới sự chỉ huy của vua tôi nhà Trần đó là vị tướng quốc Trần Quốc Tuấn - người được phong hiệu “Vạn cổ anh linh Thượng đẳng phúc thần”. Tương truyền rằng, năm 1257 Trần Quốc Tuấn hành quân lên biên giới chỉ huy quân phòng thủ chống quân xâm lược Mông Cổ (Thế kỷ XIII) có rất nhiều tướng lĩnh đã ngã xuống vùng đất nơi biên cương này. Đền Cấm được xây dựng để tưởng nhớ 5 binh sĩ nhà Trần (không rõ tên tuổi). Hồi đó khu vực ga (Phố Mới ngày nay) là một cánh rừng nguyên sinh rậm rạp, trong một lần thị sát và chỉ huy phòng thủ biên giới (khoảng năm 1257), tướng Trần Quốc Tuấn đã chọn địa điểm ngôi Đền Cấm bây giờ làm trạm quân y tuyến 2 trong phòng thủ biên giới. Sau đó trong các trận chiến đấu, thương binh được đưa về chữa trị dưới cánh rừng này, người dân bản địa lúc đó là người Việt, người Tày và người Giáy cũng đưa người ốm đau vào nhờ quân y chăm sóc giúp. Rồi có chuyện ly kỳ xảy ra đó là: đêm đêm có một thiếu nữ mặc váy áo màu xanh đến chữa thuốc cho mọi người, thiếu nữ chữa rất giỏi, ai được dùng thuốc đều khỏe mạnh, nhưng thầy thuốc thần kỳ chỉ xuất hiện vào ban đêm còn ban ngày không thấy xuất hiện. Tìm hiểu bản xứ, người dân cho biết không có con cái nhà ai như vậy, sau đó người dân và quan binh đều tin rằng đó là hiển linh của Thánh Mẫu thượng ngàn giúp quan quân và nhân dân giữ nước. Ngay dưới Phương Đình bên cây mít cổ thụ này là 5 ngôi mộ của những quan binh đã xả thân vì nghĩa lớn. Đền Cấm nằm ở vị trí trung tâm cánh rừng xưa, trước đây là một ngôi miếu nhỏ do quan binh và dân làng cùng nhau tạo tác, sau đó được chính thức khởi công xây dựng thành ngôi đền từ thế kỷ XVI, sau bao thăng trầm vẫn giữ được một số sắc phong và cây mít cổ thụ. Ngày nay, đền đã được trùng tu khang trang, to đẹp gồm 2 phần là tòa đại bái và hậu cung. Đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng dân gian không những của người dân thành phố mà cả du khách thập phương, tô đẹp thêm truyền thuyết xưa - truyền thuyết về tình nghĩa quân dân nơi biên giới. Đền Cấm tổ chức lễ hội chính vào ngày thìn tháng bảy (âm lịch) hàng năm, làm lễ giỗ cho 5 vị binh sĩ nhà Trần. Người dân coi đây là ngày giỗ “xóa tội vong nhân” cho 5 vị binh sĩ; do đó cùng nhau đóng góp gạo thịt...để tổ chức. Phần lễ của di tích được tổ chức khá khang trang theo trình tự. Bên cạnh phần lễ còn diễn ra phần hội được tổ chức vui vẻ với các trò chơi truyền thống như ném còn, đánh én...ngoài ra nơi đây còn là nơi tổ chức lễ hội xuống đồng hàng năm. Ngày 27/12/2001 Đền Cấm được công nhận là Di tích Lịch sử cấp Quốc Gia theo Quyết định số 51/QĐ-BVHTT của Bộ Văn hóa và Thông tin. NGUỒN: Ủy ban nhân dân tỉnh Lào Cai
Lào Cai 3609 lượt xem
Di tích lịch sử Cây đa và Đền La Tiến nằm trên địa bàn xã Nguyên Hòa (Phù Cừ, Hưng Yên). Đây là nơi tưởng niệm anh linh 1.145 anh hùng liệt sỹ, chiến sỹ cách mạng và đồng bào ta đã bị thực dân Pháp giết hại trong thời gian chiếm đóng tại đây (từ năm 1949 - 1954), trong đó có 121 cán bộ và nhân dân xã Nguyên Hòa (Phù Cừ, Hưng Yên). Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, La Tiến là địa bàn có vị trí chiến lược trọng yếu về quân sự, án ngữ phía Nam Hưng Yên, phía Bắc Thái Bình và phía Tây Hải Dương nên địch đã lấy đây là vị trí chiếm đóng, lập bốt, án ngữ nhằm ngăn chặn sự chi viện sức người, sức của, vũ khí, súng đạn, lương thực, thực phẩm… từ các vùng lân cận và đàn áp phong trào cách mạng của quân, dân Hưng Yên. Ngay từ buổi đầu chiếm đóng, địch đã khủng bố hòng thiết lập “vành đai trắng” vô cùng tàn bạo. Chúng bắt hàng nghìn người dân và du kích trong vùng đưa về bốt La Tiến tra tấn dã man và giết hại bằng những hình thức man rợ. Chỉ trong gần 5 năm chiếm đóng tại La Tiến (1949 - 1954), địch đã giết hại 1.145 chiến sĩ cách mạng, đồng bào yêu nước. Nhưng sự tàn bạo của kẻ thù không những không đàn áp được phong trào cách mạng, mà còn thổi bùng lên ngọn lửa căm thù, ý chí chiến đấu ngoan cường vì độc lập tự do của quân và dân ta. Trận tiến công tiêu diệt bốt La Tiến do quân và dân ta tiến hành vào cuối tháng 1/1954 đã góp phần vào những chiến công vang dội của quân và dân tỉnh Hưng Yên trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược; có ý nghĩa to lớn trên chiến trường cả nước, góp phần làm suy yếu địch, tạo điều kiện cho quân và dân ta đi tới chiến thắng Điện Biên Phủ. Với những giá trị lịch sử đặc biệt, Cây đa và Đền La Tiến đã được công nhận là Di tích lịch sử Quốc gia theo Quyết định số 4007/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thông Tin Du Lịch ngày 18/11/2015 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Ngày nay, Di tích này đã trở thành biểu tượng cho tinh thần kiên cường, bất khuất, quật khởi của nhân dân Phù Cừ nói riêng, nhân dân Hưng Yên và cả nước nói chung. Nơi đây không chỉ là nơi lập bia căm thù, khắc ghi tội ác của kẻ thù, mà còn là địa điểm tri ân những chiến sĩ, đồng bào trong tỉnh và các tỉnh lân cận đã hy sinh anh dũng để bảo vệ từng tấc đất, khúc sông quê hương. Nơi đây cũng trở thành địa chỉ đỏ giáo dục thế hệ trẻ về truyền thống cách mạng, tinh thần yêu nước, anh dũng, kiên cường của cán bộ, chiến sỹ và đồng bào ta. Cổng thông tin điện tử huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên.
Hưng Yên 3527 lượt xem
Đền Tống Trân tọa lạc tại vị trí đắc địa, trên khu đất cao và thoáng ở phía Nam thôn An Cầu, xã Tống Trân, huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên. Đền Tống Trân có tên tự “Tiên căn linh từ”, tên nôm là Đền Thượng, đền Quan Trạng, nhân dân thường gọi là Đền Tống Trân. Tương truyền đền được xây dựng trên nền nhà cũ của Tống Trân từ thời Lý. Ngôi đền nằm tách biệt với khu dân cư trên khuôn viên rộng khoảng 5 mẫu Bắc Bộ. Năm 1950 ngôi đền đã bị phá hủy, qua nhiều lần trùng tu đến năm 1998, đền Tống Trân được tôn tạo lại khang trang. Đền Tống Trân có nghi môn kiến trúc hai tầng tám mái. Phần cổ diêm ghi chữ Hán “Lưỡng Quốc Trạng Nguyên từ môn” (cổng đền Lưỡng Quốc Trạng Nguyên). Giữa khoảng sân là tắc môn bằng đá hình cuốn thư được chạm khắc, chế tác tỉ mỉ, tinh tế, có nội dung ca ngợi cảnh đẹp ngôi đền bằng chữ Hán. Với nguyên lý “Khí gặp gió thì tán, gặp nước thì dừng” trong phong thủy , “ao mắt rồng” trước sân di tích quanh năm nước trong xanh mang ý nghĩa là điểm tụ thủy (tụ khí) đem lại sự hưng thịnh, vượng khí cho muôn dân trong làng. Di tích có kiến trúc hình chữ Nhị, chuẩn lối kiến trúc xưa, gồm hai tòa tiền tế và hậu cung. Tòa tiền tế gồm 3 gian 2 chái được làm theo kiểu tường hồi bít đốc. Giữa đường bờ nóc là đầu hổ phù ngậm chữ Thọ và đôi mặt nguyệt, hai bên có hình lưỡng long chầu nguyệt. Trên các bức chấn phong 3 gian tiền tế đều chạm khắc hình hoa lá và ghi chữ Hán. Trong gian Tiền tế, nền ở 2 đầu hồi cao hơn nền của 3 gian giữa một khoảng là 45cm. Hệ thống kê chân cột là tảng hình quả bồng. Đỡ phần mái là các bộ vì kèo kết cấu theo kiểu giá chiêng, các cấu kiện được bào trơn, đóng bén tạo nên vẻ chắc khỏe, vững trãi cho ngôi đền. Gian giữa đặt bàn thờ Công đồng, phía trên ban thờ là 3 bức cửa võng sơn son thếp vàng, phía trên cửa võng là bức Đại tự chữ Hán “Lưỡng Quốc Trạng Nguyên. Gian bên phải treo bức cuốn thư, gian bên trái là bức trâm viết bằng chữ Hán, nét chữ thanh thoát, sắc nét, đề 8 câu thơ ca ngợi cảnh đẹp của vùng đất cũng như không gian phong quang, thoáng đãng của khu đền. Hậu cung có kiến trúc tường hồi bít đốc, gồm 3 gian 2 chái. Kết cấu hai bộ vì giữa có kiến trúc kiểu giá chiêng. Giữa bộ vì hồi là đầu hổ phù ngậm chữ Thọ và xung quanh là hoa dây. Các đầu dư đều chạm đầu rồng cách điệu với đao mác dựng ngược. Cách tạo tác này vừa có tác dụng chịu lực vừa để trang trí, phần nào làm bớt đi sự thô cứng của các cấu kiện kiến trúc. Gian giữa hậu cung là nơi đặt khám và tượng thờ Trạng Nguyên Tống Trân, hai gian bên là ngai thờ Dương Tam Kha và Đoàn Thượng. Trong khuôn viên di tích, ngoài khu thờ chính còn có đền Mẫu là nơi thờ vọng bà Cúc Hoa, người vợ hiền tần tảo của Tống Trân. Nàng cũng là người thay chàng chăm sóc mẹ trong suốt 10 năm khi Tống Trân đi sứ. Nhà Mẫu mới được phụng dựng lại trong những năm gần đây trên nền móng cũ với kiến trúc kiểu đơn giản. Tòa nhà có kiến trúc hình chữ Đinh gồm hai tòa tiền tế và hậu cung. Tiền tế gồm ba gian hai trái, kiến trúc theo kiểu vì kèo đơn giản. Các cấu kiện được bào trơn đóng bén không chạm khắc hoa văn. Gian giữa là nơi đặt tượng thờ bà Cúc Hoa. Để tưởng nhớ đến công lao của bậc hiền tài, hàng năm lễ hội đền Tống Trân được tổ chức từ ngày 10 đến ngày 17 tháng 4 âm lịch, trong đó ngày 13 và ngày 14 là ngày hội chính. Với những giá trị lịch sử, văn hóa, kiến trúc nghệ thuật, đền Tống Trân đã được Nhà nước công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia theo quyết định số 2387/Quyết Định ngày 30/12/1991. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Phù Cừ , tỉnh Hưng Yên
Hưng Yên 3587 lượt xem
Nằm trong quần thể di tích lịch sử đền Quốc gia Bảo Hà của tỉnh Lào Cai, Đền Ken (Chiêng Ken, Văn Bàn, Lào Cai) nổi tiếng bởi vẻ tôn nghiêm, cổ kính với những chứng tích còn nguyên giá trị. Đền Ken tọa lạc trên đỉnh đồi Pù Đình, cao hơn 180m, giữa lòng thôn Ken với khu đất rộng trên 10.000m2. Theo ký ức từ những vị cao niên, do lợi thế về điểm cao, lại có tầm quan sát rộng, nên thời thuộc Pháp, các quan binh thực dân đã chọn nơi này là điểm "chốt giữ" cả 4 thôn: Ken, Chiềng, thôn Bô, thôn Bẻ xung quanh bán kính 4 km. Tuy nhiên, bọn chúng không giữ đồn được lâu trước phong trào đấu tranh và sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của quân Cách mạng (thời đó gọi là Việt Minh), bọn thực dân đã phải rút chạy, trả lại cuộc sống bình yên cho nhân dân địa phương. Từ đó, tính linh thiêng của ngôi đền càng được nhân dân tôn thờ, bởi địch chốt giữ nơi này càng đánh càng thua. Theo tích xưa, Đền Ken thờ ông Nguyễn Hoàng Long và các vị tướng lĩnh dòng họ Nguyễn đã có công đánh đuổi giặc và khai khẩn lập làng xã tại châu Văn Bàn. Nhân dân trong vùng nhớ tới công lao của ông và các tướng lĩnh dòng họ Nguyễn đã tôn thờ, lập đền thờ tại nơi đây. Do Đền được đặt trên ngọn đồi cao nhất làng nên còn được nhân dân gọi là đình Ken. Qua thời gian với những biến cố thăng trầm của lịch sử và các cuộc chiến tranh đã khiến Đền Ken bị tàn phá nhiều lần, có lúc tưởng chừng như không còn dấu tích. Ngày nay đường lên Đền đã được nhân dân địa phương mở mang. Các phương tiện giao thông hiện đại như ô tô, xe máy vào được tận nơi, rất thuận lợi cho du khách đến thăm viếng. Với sự linh thiêng huyền bí được người dân truyền miệng và cảnh trí đẹp Đền Ken ngày càng được nhiều người biết đến và thu hút ngày càng nhiều khách thập phương đến viếng, lễ bái. Hàng năm cứ vào ngày 7 tháng 01 âm lịch, tỉnh Lào Cai tổ chức tế Lễ Đền Ken để tưởng nhớ đến công lao của ông Nguyễn Hoàng Long và các chư vị. NGUỒN: Du lịch Việt Nam
Lào Cai 2947 lượt xem