Đền Mẫu Trịnh Tường là nơi thờ Thánh Mẫu Thượng ngàn - Thánh Mẫu thứ hai trong Tam tòa Thánh Mẫu, cai quản nhạc phủ, tức là cai quản vùng rừng núi, trấn giữ biên ải. Bà Trần Thị Thanh, thủ nhang đền Mẫu Trịnh Tường cho biết: Đền được xây dựng từ đầu thế kỷ XX và được xếp hạng Di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh năm 2016. Trong những năm qua, huyện Bát Xát đã huy động nhiều nguồn lực để trùng tu, tôn tạo di tích, đồng thời quản lý tốt các hoạt động lễ hội. Từ ngôi đền chính là căn nhà cấp 4 nhỏ làm nơi thờ tự, đến nay đền Mẫu Trịnh Tường đã được mở rộng với các hạng mục: Nhà đền chính, nhà sắp lễ, am hóa vàng, nhà hữu vu, cổng tam quan, hồ bán nguyệt… Bước vào đền Mẫu Trịnh Tường, khách tham quan cảm nhận được không gian tĩnh lặng, yên bình với khói nhang phảng phất, tiếng chim hót líu lo trên những tán cây cổ thụ. Mặc dù đã qua các thời kỳ tu sửa nhưng du khách vẫn được ngắm nhìn những kiến trúc cổ kính còn sót lại trên từng viên gạch, mái ngói hoặc các pho tượng thờ sơn son thiếp vàng mang dáng vẻ uy nghi, tráng lệ. Hằng năm, cứ đến ngày 10/3 âm lịch sẽ diễn ra Lễ hội đền Mẫu Trịnh Tường để cầu cho một năm mưa thuận, gió hòa, mùa màng tươi tốt, quốc thái, dân an. Lễ hội được tổ chức trang trọng, đúng tín ngưỡng thờ Mẫu Thượng ngàn; khai thác được những giá trị văn hóa truyền thống, tạo nên hoạt động văn hóa, tín ngưỡng dân gian đa sắc màu, hấp dẫn và phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương. nguồn “Báo Lào Cai điện tử
Lào Cai 2992 lượt xem
Đền thờ thượng tướng quân Doãn Nỗ tọa lạc trong khuôn viên rộng hơn 1.000 m2 tại thôn Phương Trung, xã Phương Chiểu (thành phố Hưng Yên). Nơi đây đất tốt, bốn mùa cây cối xanh tươi. Thượng tướng quân Doãn Nỗ là vị khai quốc công thần thời Hậu Lê. Ông là một tướng tài của Lê Lợi, người có công lớn trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chống quân Minh ở thế kỉ XV. Ông có nguồn gốc xuất thân từ một vọng tộc khá lâu đời ở chạ Kẻ Nưa (nay thuộc huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa). Ông sinh năm 1393, là con thứ 2 của cụ Doãn Quyết – người đã từng thi đỗ tam trường làm Cung hiển đại phu dưới triều Trần. Năm Ất Mùi (1415) giặc Minh về tàn sát vùng Nông Cống giết hơn 3.000 người, riêng Kẻ Nưa chỉ còn 18 người chạy thoát trong đó có 2 anh em ông. Năm 1416, Doãn Nỗ về với Lê Lợi, tham gia hội thề Lũng Nhai và cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Ông là một trong những tướng lĩnh đầu tiên của Lê Lợi. Năm 1425, Lê Lợi cử tướng quân Doãn Nỗ cùng với quan Tư đồ Trần Nguyên Hãn chiêu dụ nhân dân, đem theo 1000 quân đánh vào phía Nam, giải phóng thành Tân Bình, Thuận Hóa (thuộc các tỉnh từ Quảng Bình đến Thừa Thiên Huế ngày nay) để mở rộng địa bàn khiến quân Minh phải rút vào thành cố thủ. Từ đó nghĩa quân Lam Sơn có một hậu phương vững chắc, tiến lên phản công ra Bắc giải phóng Thăng Long. Sau kháng chiến chống quân Minh thắng lợi, khi xét công ban thưởng, ông được vua Lê Thái Tổ phong làm Trung lượng đại phu, Tả bổng thánh vệ tướng quân, tước Đại Trí tự. Sau đó, ông được phong Trụ quốc công Thượng tướng quân quản đạo Sơn Nam. Ông được ban ấp lộc điền ở làng Hương Chiếu, nay là xã Phương Chiểu. Ông đưa cả gia đình ở kinh thành về Hương Chiếu, hình thành lên dòng họ Doãn ở Hưng Yên. Ngôi đền Thượng tướng quân Doãn Nỗ được xây dựng ngay khi ông mất (1439). Xưa kia, đền thờ và lăng Thượng tướng công Doãn Nỗ chỉ là một ngôi miếu nhỏ với kiến trúc chữ Đinh, trải qua thời gian, ngôi miếu được trùng tu, tôn tạo ngày một to đẹp hơn. Hiện nay, đền có kết cấu kiến trúc hình chữ Tam gồm Tiền tế, Trung từ và Hậu cung. Tiền tế gồm 5 gian bằng gỗ lim, dựng theo lối cổ, tứ trụ lòng thuyền con chồng đấu sen, chạm khắc hoa lá. Trung tâm gian tiền tế là bức đại tự “Trấn Gia Vũ Liệt” phía dưới có nhang án thờ, điêu khắc thế kỷ 19. Hai bên câu đối (Lê triều Thái Tổ phát tích Nam Sơn thùy đại hiển - Khai quốc công thần Doãn tướng công kiệt xuất anh hùng). Đối với Tòa Trung từ đặt khám thờ thân phụ của Doãn Nỗ là cụ Doãn Quyết và thân mẫu họ Nguyễn. Tòa Hậu cung ở vị trí trang trọng nhất đặt tượng thờ Thượng tướng quân Doãn Nỗ. Các hạng mục tương đối vững chắc, đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng tâm linh của con cháu dòng họ Doãn và nhân dân địa phương đến chiêm bái, thể hiện lòng tri ân, thành kính với bậc tiền nhân. Cách đền thờ 500m là khu lăng mộ của Thượng tướng quân Doãn Nỗ. Lăng được xây trên khu đất “Hình long ẩm thủy” (hình con rồng uống nước) với thế tả Thanh Long, hữu Bạch Hổ. Lăng mộ ông nằm trên gò đất cao, xung quanh là đồng ruộng. Lăng có diện tích 16 m2 được xây 2 tầng 8 mái. Mặt trước lăng đắp nổi hàng chữ “Doãn Nỗ công thần”. Cạnh lăng là tấm bia hậu lược ghi về thân thế, sự nghiệp của Doãn tướng quân bằng chữ quốc ngữ để người đời sau tỏ lòng thành kính, tưởng nhớ một danh tướng tiêu biểu thời Lê được cả nước tôn thờ. Trải qua nhiều biến thiên của lịch sử, đến nay đền thờ Thượng tướng quân Doãn Nỗ còn lưu giữ được nhiều hiện vật có giá trị, tiêu biểu là cuốn gia phả chi họ Doãn ở Phương Chiểu, cuốn hợp phả họ Doãn, một đạo sắc phong thời Lê, các bức đại tự, câu đối và tượng của Thượng tướng quân Doãn Nỗ…Số hiện vật tuy không lớn song đã góp phần quan trọng trong việc nghiên cứu lịch sử đất nước, lịch sử danh nhân và lịch sử làng xã cùng những mối quan hệ huyết thống dòng họ. Bên cạnh đó, một số hiện vật, đồ thờ còn làm giàu cho nền nghệ thuật cổ truyền của dân tộc. Hàng năm, vào dịp đầu xuân, nhân dân địa phương và dòng họ Doãn đều mở hội vào giữa tháng Giêng để tưởng nhớ Thượng tướng quân Doãn Nỗ. Với những giá trị tiêu biểu, đặc sắc đền thờ và lăng Thượng tướng quân Doãn Nỗ được xếp hạng là Di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 20.4.1995. Nguồn Sở văn hóa thể thao và du lịch
Hưng Yên 3582 lượt xem
Nguyễn Thiện Thuật (1844 - 1926) tự Mạnh Hiếu, người làng Xuân Dục, tổng Bạch Sam, huyện Đường Hào (nay thuộc làng Xuân Đào, xã Xuân Dục, thị xã Mỹ Hào). Sinh trưởng trong một gia đình nho học nghèo, năm 1870, Nguyễn Thiện Thuật đậu tú tài. Năm 1874, Ông có công dẹp giặc ở phủ Kinh Môn (Hải Dương) được cử làm Bang biện phủ. Năm 1876, đậu cử nhân và giữ chức tri phủ phủ Từ Sơn, Ông làm quan thanh liêm, công minh, văn võ song toàn. Năm Kỷ Mão (1879), ông giữ chức Tán tương quân thứ, đến năm 1881, giữ chức Hương Hóa sơn phòng chánh sứ kiêm Tán tương quân thứ tỉnh Sơn Tây. Vì vậy, đương thời gọi ông là Tán Thuật hoặc Tán Đông (vì ông ở tỉnh Đông). Khi thực dân Pháp đánh chiếm Bắc Kỳ, Nguyễn Thiện Thuật hai lần kháng lệnh triều đình, quyết tâm đánh Pháp. Lần thứ nhất, ông lui về Đông Triều, thường liên lạc với Đinh Gia Quế - lãnh tụ của nghĩa quân Bãi Sậy, chiêu mộ và phát triển lực lượng nghĩa quân ở vùng đồng bằng. Ngày 12/11/1883, nghĩa quân Nguyễn Thiện Thuật tấn công tỉnh lỵ Hải Dương bao vây địch, nhưng lực lượng còn non yếu, ông phải cho lui quân. Lần thứ hai vào cuối năm 1883, sau khi ký hiệp ước Hác Măng (Harmand), triều đình tiếp tục nhượng bộ thực dân Pháp, bãi binh ở Bắc Kỳ và đòi các quan lại phải về kinh đợi chỉ, Nguyễn Thiện Thuật bèn mang quân lên Hưng Hóa (Tuyên Quang) cùng với Nguyễn Quang Bích giữ thành. Tháng 3/1884, thành Hưng Hóa thất thủ, ông cùng với một số tướng lĩnh cương quyết ở lại chống Pháp. Sau khi thành Lạng Sơn thất thủ (tháng 3/1885), Nguyễn Thiện Thuật trốn sang Long Châu (Trung Quốc) chuẩn bị lực lượng tiếp tục chiến đấu. Tháng 7/1885, Vua Hàm Nghi hạ chiếu Cần Vương, Nguyễn Thiện Thuật trở về nước thành lập căn cứ địa Bãi Sậy, lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống Pháp, tiếp tục sự nghiệp của họ Đinh (lúc này Đinh Gia Quế đã mất). Vua Hàm Nghi phong cho ông là “Bắc Kỳ Hiệp thống quân vụ đại thần gia chấn trung tướng quân”, nhân dân còn gọi ông là quan Hiệp thống, các tướng lĩnh tài giỏi theo về rất đông. Bãi Sậy là địa bàn đặc biệt quan trọng về mặt chiến lược trong cùng đồng bằng sông Hồng lúc đó. Với vị trí đắc địa như vậy, ngay từ khi quân Pháp đánh chiếm các tỉnh Bắc Kỳ (1883), Bãi Sậy đã được xây dựng thành một căn cứ chống thực dân Pháp của nghĩa quân Đinh Gia Quế. Từ năm 1885, trên cơ sở khu căn cứ mà họ Đinh đã xây dựng trước đó, với tầm nhìn chiến lược của một nhà quân sự, Nguyễn Thiện Thuật đã tiếp tục mở rộng khu căn cứ Bãi Sậy ra hầu khắp các phủ, huyện của tỉnh Hưng Yên và Hải Dương, bao gồm Khoái Châu, Văn Lâm, Văn Giang, Mỹ Hào, Yên Mỹ,... Với sự lãnh đạo sáng suốt của Nguyễn Thiện Thuật, phong trào Cần Vương trên vùng đất Bãi Sậy nhanh chóng phát triển về mọi mặt, trở thành một trong những trung tâm chống Pháp lớn nhất vào cuối thế kỷ XIX ở Bắc Kỳ. Năm 1888, Hoàng Cao Khải đem quân đàn áp phong trào, mượn danh Đồng Khánh dụ dỗ mua chuộc khuyên Nguyễn Thiện Thuật ra hàng và hứa khôi phục chức tước. Nguyễn Thiện Thuật đã viết vào tờ sớ dụ này 4 chữ “Bất khẳng thụ chỉ” (Không chịu nhận chỉ). Sau ông giao quyền cho em là Nguyễn Thiện Kế tiếp tục duy trì cuộc khởi nghĩa, sang Trung Quốc với chủ trương cầu viện để tăng cường lực lượng chống Pháp. Suốt quãng đời còn lại ở Trung Quốc, Nguyễn Thiện Thuật thường liên lạc với Tôn Thất Thuyết và một số chiến hữu, trong đó có Nguyễn Chí Thường con trai thứ hai của ông. Sau Thường bị bắt đầy đi Côn Đảo. Ông lại cùng Kỳ ngoại hầu Cường Để và Phan Bội Châu sang Đông Kinh thành lập “Việt Nam Duy tân Phục quốc hội” với mục đích tìm cách giải phóng dân tộc, mở mang dân trí, tạo điều kiện đưa học sinh Việt Nam ra hải ngoại du học,… Nguyễn Thiện Thuật mất ngày 25/5/1926. Phần mộ của Ông được đặt trên quả đồi thuộc hương Quan Kiều, ngoại vi thành phố Nam Ninh, tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc). Bia mộ khắc dòng chữ “Việt Nam cách mạng. Cố tướng quân Nguyễn Công Thiện Thuật - Chi mộ”.Ngày 30/01/2005, di hài Ông đã được di chuyển về an táng tại xã Xuân Dục, huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên. Khu lưu niệm Tướng quân Nguyễn Thiện Thuật tọa lạc trên mảnh đất Xuân Nhân - nơi đặt trạm gác tiền tiêu của nghĩa quân Bãi Sậy năm xưa, với tổng diện tích 1621,9m2, gồm nhiều hạng mục: cổng, nhà tưởng niệm, nhà bia, phần mộ của Tướng quân Nguyễn Thiện Thuật và bức tường phù điêu. Khởi nghĩa Bãi Sậy (1885 - 1892) là cuộc khởi nghĩa có quy mô lớn, kéo dài và có tiếng vang lớn nhất ở vùng Đồng bằng Bắc Bộ trong phong trào "Cần Vương" chống thực dân Pháp cuối thế kỷ XIX . Cuộc khởi nghĩa kéo dài một thập kỷ, trải qua ba giai đoạn, gắn liền với tên tuổi của ba vị thủ lĩnh: Đinh Gia Quế, Nguyễn Thiện Thuật và Nguyễn Thiện Kế. Song có thể khẳng định rằng Nguyễn Thiện Thuật là vị lãnh tụ tiêu biểu nhất, là linh hồn của cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy. Với những giá trị trên, Khu lưu niệm Nguyễn Thiện Thuật, xã Xuân Dục, thị trấn Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên đã được Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích lịch sử quốc gia tại Quyết định số 3077/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao Du Lịch ngày 27/10/2020./. Nguồn Cục Di sản văn hóa .
Hưng Yên 3638 lượt xem
Tô Hiệu sinh năm 1912, là con út trong một gia đình có truyền thống khoa bảng, yêu nước. Cụ nội của Ông là Đốc Nam Tô Ngọc Nữu, được ca tụng là một trong ba người thầy mẫu mực của Bắc Kỳ đương thời. Thân phụ là ông Tô Y, thân mẫu là bà Ngô Thị Lý - con gái của Cụ Ngô Quang Huy, nguyên Đốc học Bắc Ninh, một trong những lãnh tụ chủ chốt của phong trào khởi nghĩa Bãi Sậy cuối thế kỷ XIX. Ngay thừ nhỏ, Tô Hiệu đã tỏ ra là người thông minh và có chí lớn. Cha mất sớm, thân mẫu của Ông cùng với người con cả là Tô Tu phải vất vả nuôi 5 anh em ăn học. Tô Hiệu được cho đi học tại trường tiểu học nam Hải Dương. Năm 1926 khi mới 14 tuổi, Tô Hiệu tham gia phong trào để tang nhà yêu nước Phan Chu Trinh nên bị đuổi học, Ông được anh cả tiếp tục cho lên Hà Nội ăn học. Thời kỳ 1927 - 1929, Tô Hiệu cùng với em họ là Tô Gĩ được kết nạp vào tổ chức Xích Vệ đoàn - một tổ chức thanh niên học sinh do Hội thanh niên Việt Nam cách mạng - tổ chức tiền thân của Đảng lãnh đạo. Thời gian này, Tô Hiệu tham gia rất tích cực vào các hoạt động của hội như mít tinh, biểu tình giăng biểu ngữ trong những ngày kỉ niệm lớn của Quốc tế, đồng thời còn có nhiệm vụ bảo vệ cho đoàn biểu tình và các đồng chí lãnh đạo. Năm 1930, trong một lần đi vận động quyên góp, Tô Hiệu bị mật thám theo dõi, bắt giam và bị kết án 4 năm tù và đày ra Côn Đảo. Chính tại đây, Ông cùng với anh trai Tô Chấn được vinh dự kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương, khi mới 18 tuổi. Tô Hiệu đã được những người cộng sản đàn anh như Tôn Đức Thắng, Ngô Gia Tự tin tưởng, quan tâm dìu dắt và rèn giũa bản lĩnh người Đảng viên trẻ. Năm 1934, mãn hạn tù, Tô Hiệu được thả và bị quản thúc tại quê nhà làng Xuân Cầu. Vượt lên sự bao vây theo dõi của mật thám Pháp, Tô Hiệu vừa tham gia lãnh đạo phong trào yêu nước, nâng cao dân trí, tập hợp quần chúng ở quê nhà, vừa tìm cách phối hợp với các đồng chí trung kiên để khôi phục lại Xứ ủy Bắc Kỳ. Cuối năm 1936, tại một cuộc họp ở nhà đồng chí Tô Hiệu thuê tại phố Hàng Bột (Hà Nội), gồm các đồng chí Hoàng Văn Nọn, Hoàng Quốc Việt, Trường Chinh, Tô Hiệu, Nguyễn Văn Minh, Lương Khánh Thiện, Trần Quý Kiên chính thức khôi phục lại Xứ ủy Bắc Kỳ sau những năm phong trào cách mạng thoái trào, các tổ chức Đảng bị tan vỡ. Tại cuộc họp, Tô Hiệu được bầu là Ủy viên Thường vụ Xứ ủy, phụ trách tuyên truyền, huấn luyện công nhân và trực tiếp tham gia lãnh đạo công tác, hoạt động công khai tại Hà Nội (lúc này Hà Nội chưa có Thành ủy). Cuối năm 1938, Tô Hiệu được Trung ương cử làm Bí thư Liên khu B, bao gồm các tỉnh duyên hải Bắc Bộ và Hải Dương, Hưng Yên; đặc trách Bí thư Hải Phòng. Tháng 12/1939, Tô Hiệu bị mật thám Pháp bắt giữ tại cơ sở ấn loát của Thành ủy. Mặc dù thân thể gầy gò bị căn bệnh lao phổi khi bị đày ở nhà tù Côn Đảo hành hạ, lại bị tra tấn, mua chuộc, nhưng với khí tiết kiên trung và nghị lực của người cộng sản, Ông đã vượt qua mọi thử thách ác liệt. Đồng chí bị kết án tù 5 năm, đày đi nhà ngục Sơn La đầu năm 1940. Đầu năm 1944, lúc này sức khỏe Tô Hiệu gần như suy kiệt, nhưng với tinh thần lạc quan, Tô Hiệu nói với anh em trong Chi bộ: “mình biết chắc chắn mình sẽ chết sớm hơn người khác vì vậy phải tranh thủ thời gian chiến đấu phục vụ cho Đảng”. Trước mấy ngày trút hơi thở cuối cùng, Tô Hiệu đã nhờ đồng chí Hoàng Tùng ghi lại bức di chúc cho Chi bộ nhà tù Sơn La, khuyên anh em ở lại giữ vững tinh thần chiến đấu, phân tích rõ tình hình thế giới và trong nước, sự tất thắng của Cách mạng. Đồng chí trút hơi thở cuối cùng vào ngày 7/3/1944 trong sự thương tiếc của tất cả đồng chí và đồng bào. Nhà cách mạng Tô Hiệu đã hy sinh nhưng Tinh thần Tô Hiệu mãi bất diệt và trở thành một di sản tinh thần quý báu của Đảng và dân tộc, niềm tự hào của các thế hệ con cháu, cũng như người dân trong cả nước. Sự tích Cây đào Tô Hiệu tại nhà ngục Sơn La đã đi vào các trang sách và được coi là biểu tượng của tinh thần lạc quan cách mạng. Nhà Tưởng niệm Liệt sỹ Tô Hiệu được hưng công xây dựng năm 2000, cùng thời gian với việc xây dựng, tôn tạo Đốc Nam Tô Thị Từ Đường (nhà thờ họ Tô chi cụ Đốc Nam Tô Ngọc Nữu). Nhà tưởng niệm đồng chí Tô Hiệu Nhà tưởng niệm gồm 3 gian tiền bái và 1 gian hậu cung, được làm bằng gỗ tứ thiết; các bộ vì được làm kiểu con chồng đấu sen kết hợp với kiểu kèo giá chiêng trụ chốn, tạo cho không gian nội thất được thoáng rộng. Các đề tài trang trí chủ yếu là hoa văn lá lật truyền thống, chủ yếu ở hai bộ vì hồi và trên các đấu sen kê trên các trụ cột. Gian Hậu cung bài trí ban thờ với ảnh và tượng đồng chí Tô Hiệu. Toàn bộ khu nội tự của ba gian nhà thờ dùng để trưng bày những hiện vật và hình ảnh quý về thân thế sự nghiệp và cuộc đời hoạt động của đồng chí Tô Hiệu được sắp xếp từ trái qua phải theo 3 chủ đề: Quê hương Xuân Cầu và gia đình, dòng họ Tô làng Xuân Cầu; Tiểu sử và quá trình hoạt động cách mạng của đồng chí Tô Hiệu; Những tình cảm của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và nhân dân đối với đồng chí Tô Hiệu. Nhà thờ Họ Tô chi cụ Đốc Nam - Tô Ngọc Nữu Cùng nằm trong khuôn viên di tích Nhà tưởng niệm đồng chí Tô Hiệu, cổng vào xây gạch chỉ, theo kiểu truyền thống, hai bên trụ cổng đắp nổi đôi câu đối chữ Hán. Công trình nhà thờ họ được thiết kế xây dựng bằng gỗ theo kiến trúc truyền thống; hướng Đông Bắc nhìn ra sông Nghĩa Trụ - một nhánh sông cổ của sông Hồng. Mặt bằng Từ đường có kiến trúc kiểu chữ nhất, xây kiểu tường hồi bít đốc, mái lợp ngói âm dương. Lòng nhà chia làm 5 gian, hệ cửa làm kiểu bức bàn theo kiểu thượng song hạ bản; kết cấu các bộ vì kèo làm bằng gỗ tứ thiết theo kiểu con chồng đấu sen; đề tài trang trí chủ yếu tập trung ở bộ vì hồi và các bức cốn trên vì nách tại hai gian hồi với các đề tài trúc/mai hóa long, các đấu kê và trên các con chồng, đầu các xà nách chạm cánh sen, hoa văn lá lật mềm mại. Gian giữa nhà thờ là nơi đặt khám thờ, bên trong đặt 4 bài vị của các vị liệt tổ họ Tô. Gian hồi Phải trên treo bức đại tự 壽春 (Xuân Thọ) do các học trò của cụ Đốc Nam bái tặng mừng thọ cụ được làm năm Tân Mùi (1871). Giữa sân là cây đào được chiết từ cây đào Tô Hiệu ở nhà tù Sơn La do Tỉnh ủy Sơn La tặng năm 1998. Với những giá trị trên, Khu lưu niệm Tô Hiệu, xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên đã được Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng là Di tích lịch sử quốc gia tại Quyết định số 3080/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao Du Lịch ngày 27/10/2020./. Nguồn Cục Di sản văn hóa .
Hưng Yên 3370 lượt xem
Đình Sầm Khúc (còn gọi là Đình Chằm) thuộc xã Việt Hưng, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên. Căn cứ vào thần tích, sắc phong, bản kê khai của các Hương lão và Lý dịch làng Sầm Khúc (xưa là làng Mỹ Trạch) do Viện Viễn Đông Bác cổ thu thập vào năm 1938, hiện đang được lưu giữ tại Viện nghiên cứu Hán Nôm và Thư viện tỉnh Hưng Yên và lời kể của các bậc cao niên trong thôn, đình Sầm Khúc là nơi tôn thờ Thành hoàng làng Phổ Cứu Đại vương (thời vua Hùng Vương), có công âm phù giúp các vua dẹp giặc, thiết lập trật tự đất nước, đem lại cuộc sống ấm no cho nhân dân. Trên câu đầu tòa Đại bái có ghi niên đại tuyệt đối năm dựng đình “Duy Tân nhâm tý niên mùi nguyệt giáp dần nhật lương thời thụ trụ thượng lương đại cát” (Ngày mùng 6 tháng 8 năm Nhâm Tý (1912) niên hiệu Duy Tân dựng thượng lương tốt lành). Dựa vào các sắc phong hiện còn, trong đó có đạo sắc phong sớm nhất vào năm Tự Đức thứ 10 (1856), có thể biết đình Sầm Khúc đã tồn tại từ trước thời điểm đó. Đình Sầm Khúc được khởi dựng trên một khu đất cao, thoáng, mặt tiền quay hướng Tây Nam. Ngôi đình có bố cục mặt bằng hình chữ Đinh. Nhìn từ ngoài vào, trước mặt đình là hồ nước, giữa hồ nước và Nghi môn là con đường làng chạy qua. Qua Nghi môn là một khoảng sân rộng, trong cùng là kiến trúc của ngôi Đại đình bề thế, uy nghiêm và Hậu cung. Các cấu kiện và thành phần kiến trúc đều được làm bằng gỗ tứ thiết mang đậm phong cách mỹ thuật thời Nguyễn còn đồng bộ, vững chắc. Nghi môn được làm theo kiểu tứ trụ (lồng đèn) tạo thành 3 cửa ra vào. Tòa Đại bái là hạng mục có diện tích lớn nhất tại đình Sầm Khúc gồm 05 gian được làm theo kiểu tường hồi bít đốc với kích thước dài 19,3m, rộng 10,17m, cao 6,4m (tính từ nóc mái xuống nền đình). Bốn phía xung quanh nền Đại bái đều được bó vỉa bằng gạch chỉ, cao 0,65m so với sân đình, phía ngoài phủ vữa áo. Phần móng được gia cố vững chắc. Mặt nền lát gạch bát (30cm x 30cm), mạch chữ công. Từ sân có bậc xây bằng gạch dẫn lên hiên Đại bái. Kết cấu kiến trúc Đại bái gồm có 6 bộ vì, với 24 cột gỗ (12 cột cái, 12 cột quân), kiểu 4 hàng chân cột. Khoảng cách giữa cột cái trước với cột cái sau là 4,22m, cột cái với cột quân là 2,05m. Các cột đứng trên chân tảng bằng đá xanh không trang trí hoa văn. Nâng đỡ phần mái tòa Đại bái là các bộ vì nóc và vì nách. Hệ thống vì nóc Đại bái đình Sầm Khúc đều được làm theo kiểu “chồng rường trụ trốn”. Các vì nách tòa Đại bái đình được tạo tác theo hai dạng: “bán chồng rường” ở các gian bên và “cốn mê” tại gian giữa. Tòa Hậu cung là hạng mục gồm 03 gian, nằm song song với tòa Đại bái, được làm theo kiểu tường hồi bít đốc, có kích thước 7,9m x 7,1m (khoảng cách giữa hai cột cái là 2,8m; cột cái đến cột quân 1,67m). Trung tâm Hậu cung là nơi đặt ban thờ Thành hoàng làng Phổ Cứu Đại vương. Mặt nền lát gạch 20cm x 20cm, mạch chữ công. Móng được bó vỉa bằng gạch đỏ phủ vữa áo. Điều đặc biệt tại Hậu cung đình làng Sầm Khúc hiện vẫn còn giữ lại được một phần kiến trúc ván sàn gỗ của ngôi đình cổ xưa. Hậu cung có kết cấu kiểu 4 hàng chân cột với 6 cột cái và 10 cột quân (cột cái có đường kính 300mm, cột quân có đường kính 250mm). Nâng đỡ hoành mái là các bộ vì nóc, vì nách và hệ thống cột gỗ kê lên chân tảng. Hậu cung có 03 bộ vì nóc làm kiểu “chồng rường”, không trang trí hoa văn. Các chạm khắc ở đây tập trung trên các thành phần cấu kiện kiến trúc, làm nên vẻ đẹp hoàn mỹ của công trình, mang phong cách nghệ thuật chủ đạo thời Nguyễn với nhiều đề tài trang trí khá phong phú, đa dạng làm cho ngôi đình trở nên sinh động và đạt giá trị kiến trúc nghệ thuật đỉnh cao trong nền nghệ thuật thời Nguyễn. Trong đó, hình tượng tứ linh với rồng là chủ đạo trong các mảng chạm, ngoài ra còn có các trang trí như tứ linh hoá tứ quý, tứ quý (tùng, cúc, trúc, mai), lá lật, vân mây, hoa văn chữ Thọ,… Đình Sầm Khúc là một công trình kiến trúc độc đáo, nơi lưu giữ được nhiều di vật quý giá cả về văn hóa vật thể lẫn phi vật thể. Hầu hết trên tất cả các cấu kiện và thành phần kiến trúc đều chạm khắc dầy đặc các đề tài trang trí phong phú, đa dạng thể hiện hình tượng các linh vật, hoa văn cây cỏ trong trạng thái động. Hiện đình Sầm Khúc còn lưu giữ được những di vật, cổ vật quý hiếm, có giá trị tiêu biểu: thần tích, đại tự, cuốn thư, sắc phong, chuông đồng, ngai và bài vị, cửa võng, kiệu,...Ngoài các dấu tích vật chất có giá trị lịch sử và nghệ thuật, đình Sầm Khúc còn là nơi diễn ra những sinh hoạt văn hoá tâm linh của người dân nơi đây, phản ánh rõ nét tính cộng đồng làng xã đồng thời nêu cao đạo lý “uống nước nhớ nguồn”. Những nghi thức sinh hoạt tín ngưỡng lễ hội, những trò chơi dân gian truyền thống đã phản ánh đời sống xã hội của cư dân nơi đây. Với những giá trị trên, Đình Sầm Khúc, xã Việt Hưng, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên đã được Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng là Di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia theo Quyết định số 3078/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao Du Lịch ngày 27/10/2020./. Nguồn Cục Di sản văn hóa .
Hưng Yên 3375 lượt xem
Đền Đồng Ân là di tích có lịch sử lâu đời, đến nay vẫn còn nền móng của ngôi đền cổ cho thấy nơi đây đã từng được xây dựng rất quy mô, trong đó có gạch từ thời Lê (cuối thế kỷ XVIII) và một số hiện vật có niên đại trên 100 năm đang lưu giữ tại đền. Đồng Ân là tên gọi có từ xưa với ý nghĩa là nhân dân đồng lòng biết ơn vị tướng Hưng Đạo Đại vương - Trần Quốc Tuấn, người đã có công trong cuộc chiến đánh đuổi giặc ngoại xâm Nguyên - Mông. Ngoài ra, đền còn được người dân địa phương biết đến với tên gọi khác là đền Mi do trước đây gắn với tên gọi của địa danh thôn Mi. Trải qua thăng trầm biến động lịch sử gắn với mảnh đất Bảo Thắng anh hùng qua nhiều thế kỷ, đến nay Đền vẫn tọa lạc trên cánh đồng thuộc thôn Quyết Tâm, xã Thái Niên huyện Bảo Thắng. Với vị trí chiến lược nằm ven sông Hồng, thuộc cửa quan Bảo Thắng xưa kia, ngôi đền vừa là cột mốc văn hóa tâm linh đánh dấu chủ quyền lãnh thổ vùng biên ải vừa là một trong những nơi hoạt động cách mạng bí mật của quân dân Bảo Thắng trong các thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp. Đền Đồng Ân chính là nơi thờ Đức Thánh Trần tức Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn. Trong ba cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông, ông đã dùng tài thao lược của mình để lãnh đạo quân dân khắp nơi đồng trí đồng lòng bảo vệ giang sơn đất nước. Trong đó không thể nhắc tới vùng đất Quy Hóa (Lào Cai ngày nay), nơi địa đầu Tổ Quốc có cửa quan Bảo Thắng là một trong những điểm trọng yếu mà giặc phương Bắc đều nhắm tới mỗi lần xâm lược nước ta. Vì thế trong suốt cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm phương Bắc, Bảo Thắng luôn là vị trí trọng yếu của quân ta trên bản đồ chiến lược. Trong 3 lần kháng chiến chống quân Nguyên Mông, dưới sự lãnh đạo tài ba của Trần Hưng Đạo, quân và dân vùng Quy Hóa đã tích cực phòng thủ cửa quan, chặn đánh quân giặc ngay từ cửa ngõ biên giới góp phần vào chiến thắng chung của nhân dân cả nước. Để tưởng nhớ công ơn của những tướng sĩ đã cùng nhân dân chống giặc ngoại xâm và sự lãnh đạo tài ba của Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn, nhân dân khắp nơi cùng nhau lập đền thờ để bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đó. Ở thành phố Lào Cai có Đền Thượng là ngôi đền thờ Ông được xây dựng từ thế kỷ XVII, do nhân dân địa phương xây dựng để thờ phụng, hàng năm đón nhiều lượt du khách trong và ngoài nước đến hành lễ và vãn cảnh. Tuy chưa xác định được chính xác niên đại của ngôi đền Đồng Ân nhưng căn cứ vào kết quả đào khảo sát khảo cổ nền móng đền Đồng Ân cho thấy vật liệu xây dựng đền có sớm nhất từ thời Lê (thế kỉ XVIII). Do vậy, có thể nói đền Đồng Ân là ngôi đền tuy có sau đền Thượng nhưng đây cũng là một trong những di tích thờ Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn và có nhiều ý nghĩa tâm linh đối với người dân Bảo Thắng nhiều đời nay. Đến nay, nhân dân vẫn lưu truyền “Vùng đất này trước kia là cánh đồng rộng mênh mông, cây cỏ mọc um tùm lại ven sông Hồng, năm ấy giặc phương Bắc tràn xuống xâm lược, tướng lĩnh nhà Trần lên dẹp giặc vùng biên ải, trong khi giao tranh đã bị thương sau đó về đến khu đất của đền thì dừng lại dưỡng thương. Sau đó, người dân chỉ thấy còn lại bộ áo giáp mà không thấy xác nên đã lập lên ngôi đền để để tưởng nhớ công ơn đánh giặc của vị tướng đó”. Với những giá trị lịch sử năm 2016 Đền Đồng Ân đã được UBND tỉnh công nhận là di tích lịch sử - Văn hóa cấp tỉnh. Đền Đồng Ân có vị trí thuận lợi, tọa lạc ngay gần bờ sông Hồng, hướng đền trông ra sông với phong cảnh sơn thủy hữu tình, trong tương lai sẽ phát triển thành điểm du lịch tâm linh thu hút được nhiều khách du lịch khi đến với Lào Cai nói chung và huyện Bảo Thắng nói riêng. Trong thời gian tới Đền Đồng Ân sẽ là một điểm sáng trên bản đồ du lịch tâm linh của tỉnh Lào Cai khi được kết nối với các điểm di tích khác trong huyện như chùa Liên Hoa ở xã Phong Niên, đền Ngòi Bo ở xã Gia Phú đều là những di tích nằm ven sông Hồng. Cùng với hệ thống các Đền linh thiêng của tỉnh Lào Cai tọa lạc dọc theo tả ngạn Sông Hồng như Đền Thượng, Đền Mẫu, Đền Cấm, Đền Quan, Đền Đôi Cô... Đây là những địa chỉ du lịch tâm linh thu hút hàng vạn lượt khách tham quan, chiêm bái, hành lễ các dịp trong năm. Trong đó có nhiều di tích nổi tiếng khắp vùng, miền. Bên cạnh đó, với truyền thống cách mạng của một huyện anh hùng, Bảo Thắng còn có nhiều điểm thăm quan giới thiệu về lịch sử của địa phương trong các giai đoạn kháng chiến đóng góp vào thắng lợi chung của cả nước như khu căn cứ cách mạng Soi Cờ - Soi Giá; Đồn Phố Lu, tiếp đó là động Tiên đẹp nổi tiếng ở xã Xuân Quang, thác Đầu Nhuần ở xã Phú Nhuận với nhiều thác nước đẹp, hoang sơ và chưa chịu tác động của con người. Đó là điểm đến thú vị của những người thích trải nghiệm, khám phá… Khi kết nối Đền Đồng Ân với những điểm di tích – danh thắng nói trên sẽ hình thành nên các điểm, tuyến du lịch thu hút du khách đến với huyện Bảo Thắng, tạo thành hướng đi mới trong phát triển kinh tế du lịch tại địa phương nói riêng và của cả tỉnh Lào Cai nói chung. NGUỒN: SỞ DU LỊCH TỈNH LÀO CAI
Lào Cai 3066 lượt xem
Nằm ngay trung tâm thành phố Lào Cai, di tích Địa điểm lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Lào Cai thường được mọi người biết đến với tên gọi “Công viên Hồ Chí Minh”, thuộc địa phận phường Lào Cai, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai. Khu di tích là địa danh tưởng niệm, ghi dấu chuyến thăm duy nhất của Bác Hồ cùng phái đoàn chính phủ với Đảng bộ và nhân dân Lào Cai. Vị trí di tích được đặt trên nền Nhà máy điện Lào Cai cũ, nơi Bác đã dành thời gian đến thăm hỏi, động viên công nhân tại công trình Nhà máy điện đang xây dựng sắp sửa hoàn tất. Trong bộn bề khó khăn của đất nước dù bận trăm công nghìn việc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành thời gian về thăm và làm việc với Đảng bộ và nhân dân Lào Cai vào ngày 23-24/9/1958. Ghi nhớ công lao to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh và trân trọng những tình cảm quý báu của Người với quê hương Lào Cai, nhân dịp kỷ niệm tròn 40 năm Bác Hồ đến thăm Lào Cai (1958-1998), UBND tỉnh Lào Cai xây dựng công trình khu lưu niệm Bác Hồ. Năm 2022, Địa điểm lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Lào Cai đã được Bộ Văn hóa công nhận là di tích lịch sử cấp Quốc gia. Đây là công trình tâm linh để nhân dân, du khách gần xa có dịp bày tỏ lòng biết ơn, niềm thành kính, dâng hương tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Bên cạnh đó, Khu tưởng niệm còn là "địa chỉ đỏ" giáo dục cho thế hệ trẻ hôm nay và mai sau về lịch sử dân tộc, về thân thế, sự nghiệp vĩ đại của Người. Nơi đây, luôn mở cửa đón nhân dân cả nước đến tham quan và tỏ lòng thành kính, biết ơn Hồ Chủ tịch. NGUỒN: SỞ DU LỊCH TỈNH LÀO CAI
Lào Cai 3069 lượt xem
Đồn Bắc Hà nằm ngay trung tâm thị trấn Bắc Hà, được xây trên một quả đồi cao bao quát toàn bộ khu vực thị trấn Bắc Hà. Đây là một công trình đồn trú quân sự có quy mô lớn, được xây dựng theo hình xoắn ốc từ thấp lên cao, tường rào bằng dây thép gai bên ngoài cùng, tiếp đến là lớp tường thành bảo vệ bao quanh đồn có nhiều chòi canh gác cùng lối ra vào. Bên trong đồn có nhiều đơn nguyên kiến trúc với chức năng khác nhau, hình thành nên hệ thống khép kín bên trong nhằm phục vụ quân Pháp khi chiếm đóng tại Bắc Hà. Trước khi Bắc Hà được giải phóng, thực dân Pháp đã đốt đồn Bắc Hà rồi rút chạy khiến cho ngày nay di tích lịch sử này không còn được nguyên vẹn. Hiện tại, các công trình thuộc Đồn Bắc Hà đã bị phá hủy hầu hết, chỉ còn lại một phần trong số các công trình đó như: lô cốt, bể nước ba ngăn ở trung tâm đỉnh đồi; một đường hầm ở phía Nam di tích và hệ thống kè móng bao quanh Đồn. Các công trình này chỉ còn phần tường, hệ thống mái và nền không còn. Một số công trình chỉ còn lại dấu tích của nền móng như: nhà Quan Ba, chuồng ngựa, nhà lính. Ngày nay, với việc được xếp hạng là di tích lịch sử cấp tỉnh, đồn Bắc Hà hứa hẹn sẽ tạo ra một điểm thu hút du khách tham quan, tìm hiểu về lịch sử chống giặc ngoại xâm của ông cha ta ngày xưa khi đến tham quan Cao nguyên trắng Bắc Hà. NGUỒN: SỞ DU LỊCH TỈNH LÀO CAI
Lào Cai 2712 lượt xem
Tỉnh Lào Cai vừa xếp hạng Thác Bạc, tổ dân phố 2, phường Ô Quý Hồ, thị xã Sa Pa, tỉnh Lào Cai là di tích danh lam thắng cảnh cấp tỉnh. Ủy ban nhân dân tỉnh vừa ban hành văn bản số 3415/QĐ-Ủy ban nhân dân ngày 31/12/2023 xếp hạng Thác Bạc là di tích danh lam thắng cảnh cấp tỉnh Theo đó, khu vực bảo vệ di tích được xác định theo Biên bản khoanh vùng các khu vực bảo vệ di tích và Bản đồ khoanh vùng các khu vực bảo vệ di tích trong hồ sơ khoa học di tích. Ủy ban nhân dân tỉnh Lào Cai giao Sở Văn hóa và Thể thao, Ủy ban nhân dân thị xã Sapa xây dựng phương án bảo vệ, quản lý, tu bổ và sử dụng di tích danh lam thắng cảnh Thác Bạc theo đúng quy định hiện hành của nhà nước. Danh thắng Thác Bạc thuộc Tổ dân phố số 2, phường Ô Quý Hồ, thị xã Sa Pa là một trong những địa điểm du lịch hấp dẫn, thu hút đông đảo du khách trong và ngoài nước (mỗi năm đón trên 45.000 lượt du khách). Thắng cảnhThác Bạc được biết đến từ thế kỷ XX, thời kỳ Pháp thuộc cùng với các địa điểm du lịch, nghỉ dưỡng nổi tiếng: Thác Bạc, Cầu Mây, Hang Đá. Đến năm 2011, tỉnh Lào Cai đầu tư xây dựng hồ thuỷ lợi Thác Bạc chứa nước thượng nguồn và điều chỉnh đảm bảo lượng nước quanh năm và tạo cảnh quan, vẻ đẹp hùng vĩ cho thác. Nhìn từ xa, Thác Bạc trông như một dải lụa mềm mại, bạc trắng vắt ngang trời, khi lại gần dòng thác đổ ào ào giống như con Bạch Long đang vươn mình gầm vang giữa đất trời hết sức hùng vĩ. Trải qua quá trình thăng trầm của lịch sử, biến đổi của khí hậu nhưng đến nay Thác bạc vẫn là địa điểm đẹp, hấp dẫn đối với du khách trong và ngoài nước, đáp ứng đầy đủ các tiêu chí và được Ủy ban nhân dân tỉnh Lào Cai xếp hạng là di tích danh lam thắng cảnh cấp tỉnh./. NGUỒN: Ủy ban nhân dân tỉnh Lào Cai
Lào Cai 2923 lượt xem
Di tích quốc gia – danh lam thắng cảnh Hang động Tả Phìn nằm ở xã Tả Phìn, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai, cách thị trấn Sapa 12km chếch về phía Bắc, đây là nơi có hai dân tộc Dao và Mông sinh sống, cũng là nơi có nhiều giá trị nghiên cứu, khảo cổ, và thu hút nhiều du khách đến tham quan du lịch. Tới Sapa, du khách muốn ghé thăm quan Hang động Tả Phìn, du khách sẽ đi qua thị trấn xuống bản Tả Phìn, cách trụ sở UBND xã Tả Phìn gần 1km về phía Bắc có dãy núi đá vôi, là một nhánh núi của dãy núi Hoàng Liên Sơn. Trong dãy núi này có một quả núi nhỏ, dưới chân núi du khách nhìn thấy một vết nứt xuất hiện một cửa hang, chiều cao khoảng 5m, rộng khoảng 3m, mở ra một lối đi xuyên xuống đất, thu hút sự tò mò của du khách đến nơi đây khám phá hang động. Bắt đầu chuyến hành trình khám phá xuyên xuống lòng đất, du khách đi khoảng hơn 30m trong tối tăm, gập ghềnh sẽ gặp một hang động. Từ đây, động chia thành rất nhiều ngả chúc xuống lòng đất chỉ vừa một người chui lọt, nhiều đoạn cheo leo phải bám vào những tai đá, đu người mà lên xuống. Đi theo những vách nhỏ này càng tỏa ra nhiều lối, thậm chí có những ngách đi vòng vèo, rích rắc và cuối cùng vẫn trở về vị trí ban đầu. Để tiếp tục hành trình khám phá hang động, du khách đi theo đường của vách lớn, ở đây du khách có được cảm giác như đang xuyên lên vách núi, đường đi ngoằn nghèo, lúc lên lúc xuống, chỗ phình to chỗ giống người thiếu phụ đang bồng con, chỗ giống các nàng tiên đang tắm, chỗ giống mâm xôi khổng lồ với những mảng nham thạch xù xì phớt trắng, những mảng san hô bám viền xung quanh, có chỗ giống như những dãy cột nhà trắng mịn buông từ trên nóc xuống… Đặc biệt, chỗ rộng nhất lòng động trên vòm cao khoảng 8m, tạo điều kiện cho các nhũ đã rủ xuống, đan xen vào nhau không theo một thứ tự sắp xếp nào, uốn lượn, nhấp nhô, long lanh màu ngọc bích, có những giọt nước từ đỉnh núi thấm dần rồi đọng lại nơi chóp của nhũ đá thánh thót nhỏ giọt, như điểm từng nhịp trong không gian hư ảo. NGUỒN: Ủy ban nhân dân tỉnh Lào Cai
Lào Cai 2991 lượt xem