Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch Travelviet
Tải ứng dụng Travelviet
Khám phá các di tích lịch sử tại Nghệ An không chỉ giúp du khách hiểu thêm về văn hóa, mà còn mang lại những trải nghiệm thú vị qua từng câu chuyện lịch sử độc đáo. Mỗi di tích là một phần không thể thiếu trong bức tranh lịch sử của mảnh đất anh hùng này. Hãy cùng 63Stravel.com tìm hiểu một số địa điểm nổi bật tại Nghệ An qua bài viết dưới đây.
Các di tích lịch sử ở Nghệ An là minh chứng sống động cho quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân nơi đây. Mỗi địa điểm không chỉ phản ánh sự kiên cường của người dân Nghệ An mà còn giúp du khách cảm nhận sâu sắc vai trò quan trọng của họ trong cuộc đấu tranh giành độc lập của dân tộc.
Địa chỉ: thuộc làng Đông Chữ, xã Nghi Trường, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An.
Đền Diên Cờ là công trình lịch sử được xây dựng để thờ các vị thần có công với đất nước, mang tên địa danh Diên Cờ. Đền thờ nhiều vị phúc thần bao gồm Cao Sơn, Đức Thánh Trần, Mẫu Liễu Hạnh và các nhân vật lịch sử như tiến sỹ Lê Văn Vận và lương y Đỗ Văn Sỹ.
Đền Diên Cờ - Một Di tích vừa được hồi sinh tại Nghệ An
Được xây dựng vào thời Lê Trung Hưng, đền nằm trên khuôn viên rộng 4 ha với ba toà Thượng, Trung, Hạ điện và là nơi chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử quan trọng trong các phong trào cách mạng. Mặc dù trải qua nhiều thăng trầm, đền đã được phục dựng vào năm 2011 và trở thành điểm đến văn hóa, tín ngưỡng với lễ hội lớn tổ chức hàng năm vào tháng Giêng.
Địa chỉ: Xã Nam An, Huyện Nam Đàn, Nghệ An.
Chùa Đại Tuệ tọa lạc trên đỉnh động Thăng Thiên của dãy núi Đại Huệ, với độ cao gần 500m, là điểm đến tĩnh lặng và hữu tình, mang lại không gian thư thái giữa thiên nhiên hùng vĩ. Từ đây, du khách có thể chiêm ngưỡng vẻ đẹp của dòng sông Lam uốn lượn và toàn cảnh các huyện Nghệ An - Hà Tĩnh.
Chùa Đại Tuệ Nghệ An - Ngôi chùa cổ hơn 600 năm tuổi
Đặc biệt, chùa là nơi duy nhất ở Việt Nam thờ Phật Bà Đại Tuệ cùng các vị vua lịch sử và những vị Phật khác. Khuôn viên chùa rộng 6.000m2, sở hữu nhiều công trình kiến trúc độc đáo, trong đó nổi bật là bảo tháp Đại Tuệ 9 tầng cao 32m. Đây cũng là nơi lưu giữ những tác phẩm thư pháp và câu đối bằng chữ Việt, tôn vinh giá trị văn hóa dân tộc. Ngoài ra, các công trình phụ cận như phiến đá "ngai vàng" và trụ đá tạo cổng thiên tạo cũng góp phần làm tăng thêm sự kỳ bí và linh thiêng cho nơi này.
Địa chỉ: làng Xuân Am, xã Hưng Thịnh, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An.
Đền Ông Hoàng Mười (hay còn gọi là đền Mỏ Hạc, đền Xuân Am) là một công trình lịch sử gắn liền với một vị thần cứu dân chúng, được xây dựng vào cuối thế kỷ 17 dưới thời Lê Trung Hưng. Hơn 400 năm qua, đền Ông Hoàng Mười vẫn đứng vững giữa bao thăng trầm, là nơi tôn thờ vị thần có công với dân.
Người dân địa phương vẫn gìn giữ những câu chuyện lịch sử về sự đóng góp của ông cho các nhân vật thực trong sử sách. Các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Việt Nam khẳng định Ông Hoàng Mười là một nhân vật có thật, đã được thần thánh hóa và tôn kính rộng rãi, đặc biệt tại Nghệ An.
Đền Ông Hoàng Mười nằm giữa cảnh quan thiên nhiên hữu tình, với sông Cồn Mộc uốn lượn bao quanh, mặt nước trong xanh phản chiếu bóng đền và những cánh đồng xanh ngát. Phía sau là núi Con Mèo, núi Dũng Quyết, tạo nên một không gian yên bình, hòa quyện giữa đất trời.
Được xây dựng từ năm 1634, đền từng trải qua một lần bị tàn phá. Nhưng vào năm 1995, đền đã được phục dựng và trở thành một trung tâm tín ngưỡng nổi tiếng của xứ Nghệ. Các công trình của đền hiện nay như tam quan, tắc môn, đài trung thiên, lầu cô, lầu cậu… đều được xây dựng theo lối kiến trúc truyền thống. Sử dụng vật liệu gỗ trạm trổ tinh xảo, với các họa tiết long, lân, quy, phụng – những biểu tượng quen thuộc trong văn hóa Việt.
Đền thờ Ông Hoàng Mười và các vị phúc thần như Lê Khôi, Quận công Trịnh Trung, Song Đồng Ngọc Nữ, cùng hệ thống đạo Mẫu Tứ Phủ, đứng đầu bởi Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Tất cả đều góp phần làm nên giá trị tinh thần và văn hóa sâu sắc, không chỉ đối với người dân Nghệ An mà còn đối với những tín đồ khắp mọi miền.
Địa chỉ: xã Yên Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An
Đền Đức Hoàng không chỉ là một thắng cảnh nổi bật của xứ Nghệ mà còn là nơi hội tụ hài hòa giữa vẻ đẹp thiên nhiên thanh bình và không gian tâm linh sâu sắc. Được biết đến như một trong “Đông Thành bát cảnh”, đền Đức Hoàng mang trong mình một giá trị văn hóa và tín ngưỡng đặc biệt, thu hút không chỉ những người dân địa phương mà còn du khách gần xa.
Ban đầu, đền chỉ là một ngôi miếu nhỏ thờ thần Rắn, biểu tượng của cư dân nông nghiệp lúa nước. Đến năm 1505, đền Đức Hoàng được trùng tu và mở rộng, đến năm 1882, trung điện được xây dựng và vào năm 1936, hạ điện tiếp tục được hoàn thiện.
Đền Đức Hoàng - Di tích lịch sử văn hóa quốc gia tại Nghệ An
Ngoài thần Rắn, đền còn thờ các vị thần quan trọng khác như Sát Hải Đại Vương Hoàng Tá Thốn - một vị tướng tài ba thời Trần, người đã góp công lớn trong trận thủy chiến Bạch Đằng năm 1288. Ông được phong tước và giao lãnh đạo thủy quân để bảo vệ bờ biển. Đền còn phối thờ Liễu Hạnh công chúa - một vị thần trong tín ngưỡng thờ Mẫu và Bạch Y công chúa - con gái Hồ Quý Ly, một nàng công chúa nhân hậu đã hy sinh để cứu dân.
Kiến trúc của đền Đức Hoàng mang đậm phong cách cổ kính với bố cục “Tam” (ba tòa điện), và được xây dựng theo hình thức tứ trụ. Đặc biệt, tòa hạ điện có thiết kế 3 gian, 4 vì với mái ngói âm dương và các chi tiết trang trí tinh xảo như hình tượng tứ linh và mặt trời.
Nhà trung điện thờ Liễu Hạnh công chúa, Đức Thánh Trần và các vị thần hợp tự, trong khi nhà thượng điện thờ Thần Rắn và Sát Hải Đại Vương Hoàng Tá Thốn. Đền cũng lưu giữ nhiều công trình phụ trợ như nghi môn, tắc môn, sân, vườn và giếng nước, tất cả đều mang vẻ đẹp giản dị mà linh thiêng.
Địa chỉ: Thôn Sa Nam, xã Đông Liệt, thị trấn Nam Đàn, Nghệ An.
Khu di tích lưu niệm cụ Phan Bội Châu là một điểm đến quan trọng, gắn liền với cuộc đời và sự nghiệp của một trong những danh nhân cách mạng vĩ đại của dân tộc. Với diện tích lên tới 2000m², khu di tích này không chỉ là nơi lưu giữ giá trị lịch sử mà còn là không gian mang đậm dấu ấn văn hóa và tinh thần của cụ Phan.
Mỗi khu vực trong khu di tích được thiết kế giản dị, phản ánh lối sống thanh bạch và giản đơn của cụ Phan Bội Châu. Những ngôi nhà tranh mái lá, sân vườn cổ kính và các công trình phục dựng mang đậm không khí làng quê xưa, tạo nên một không gian yên tĩnh, dễ chịu. Du khách khi đến thăm có thể cảm nhận được sự thanh bình và thư thái như được trở về với những năm tháng đầy ắp ký ức và hoài niệm.
Khu di tích lưu niệm Phan Bội Châu được công nhận điểm du lịch cấp tỉnh
Khu di tích được chia thành hai phần chính: khu quê nội và khu quê ngoại.
Khu quê nội bao gồm cổng, tường bao, sân vườn và nhà bia tưởng niệm.
Khu quê ngoại có không gian lưu niệm với sân vườn kiểu cổ và khu tưởng niệm.
Các công trình này được xây dựng và trùng tu một cách tinh tế, tái hiện lại không gian quê hương của cụ Phan với đầy đủ các yếu tố của một thời kỳ lịch sử đặc biệt.
Được công nhận là di tích Quốc gia đặc biệt từ năm 2016, khu di tích Phan Bội Châu không chỉ là một điểm tham quan hấp dẫn mà còn là nơi du khách tìm hiểu về cuộc đời và sự nghiệp của một nhân vật vĩ đại trong lịch sử dân tộc. Sự giản dị trong kiến trúc và không gian xung quanh càng làm nổi bật phẩm chất cao quý, tấm lòng yêu nước và sự hy sinh của cụ Phan, để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng mỗi người khi ghé thăm.
>> Đọc thêm: Đi du lịch tại Nghệ An thì mua gì về làm quà?
Địa chỉ: Nằm trên đỉnh núi Động Tranh, thuộc huyện Nam Đàn, Nghệ An.
Mộ bà Hoàng Thị Loan - mẹ của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nằm trên đỉnh núi Động Tranh, huyện Nam Đàn, Nghệ An, là một di tích lịch sử đặc biệt. Để thăm mộ, du khách sẽ vượt qua 269 bậc thang, mỗi bước đi như một trải nghiệm thú vị, giúp bạn thưởng ngoạn phong cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp và cảm nhận sự thanh tịnh của nơi này.
Khu mộ được xây dựng vào năm 1985 với ý nghĩa sâu sắc: 242 bậc thang tượng trưng cho năm 1942, khi hài cốt bà được đưa về an táng và 33 bậc dẫn lên sân bia là con số ứng với tuổi đời của bà. Mộ được chọn đặt ở vị trí lý tưởng, lưng tựa núi Đại Tuệ và chân đạp hồ nước lớn, mang ý nghĩa phong thủy tốt lành. Đây không chỉ là nơi tưởng niệm bà Hoàng Thị Loan mà còn là một biểu tượng của lòng kính trọng đối với người mẹ vĩ đại của dân tộc.
Địa chỉ: trên núi Dũng Quyết, phường Trung Đô, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An.
Ngày 28/4/1962, đền thờ vua Quang Trung nằm trên núi Dũng Quyết và Phượng Hoàng Trung Đô, được công nhận là Di tích Quốc gia để bảo tồn những giá trị lịch sử quan trọng về Hoàng đế Quang Trung. Để đến đền, du khách sẽ trải qua hành trình 1km leo núi, trên con đường uốn lượn giữa thiên nhiên tươi đẹp.
Đền thờ Hoàng đế Quang Trung - Điểm đến hấp dẫn ở Nghệ An
Được tọa lạc ở độ cao 97m, đền thờ nằm giữa rừng thông yên tĩnh, mang đến không gian linh thiêng. Đồng thời, đây là điểm đến tâm linh không thể bỏ qua khi đến Nghệ An.
Địa chỉ: Làng Sen tọa lạc tại xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, cách trung tâm TP. Vinh khoảng 16km.
Làng Sen (hay còn gọi là làng Kim Liên) là quê hương của Chủ tịch Hồ Chí Minh, một di tích lịch sử quan trọng không chỉ với người dân Nghệ An mà còn với cả nước. Nằm cách TP. Vinh khoảng 16km, làng Sen nổi bật với những ngôi nhà tranh giản dị, gắn liền với tuổi thơ của Bác.
Khi đến thăm, du khách sẽ được tìm hiểu về cuộc sống và con đường trưởng thành của Chủ tịch Hồ Chí Minh qua các hiện vật quý giá. Từ những chiếc bàn, ghế cổ đến các công trình di tích như nhà của cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc và Đền làng Sen. Làng Sen là điểm đến không thể bỏ qua, nơi du khách không chỉ tìm hiểu về lịch sử mà còn cảm nhận được không gian yên bình, trong lành của vùng quê nghèo đầy kỷ niệm.
Địa chỉ: xã Diễn Minh, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An.
Chùa Cổ Am là một viên ngọc quý trong quần thể di tích lịch sử văn hóa Lèn Hai Vai. Nằm giữa núi rừng hùng vĩ, chùa có kiến trúc độc đáo, hòa quyện giữa cổ kính và hiện đại.
Chùa Cổ Am - Ngôi chùa cổ linh thiêng bậc nhất Nghệ An
Khởi nguồn từ một am nhỏ trên núi đá Hổ Lĩnh cách đây 600 năm, chùa chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử, từ chiến trận Lê - Mạc đến kháng chiến chống Mỹ. Được phục hưng vào năm 2010, Chùa Cổ Am hiện nay không chỉ là điểm tham quan hấp dẫn mà còn là nơi tu học lý tưởng.
Hằng tháng, chùa tổ chức các buổi dạy giáo lý và tu niệm đồng thời phát triển các lớp võ và học hè cho giới trẻ. Kiến trúc chùa nổi bật với Đại Hùng Bảo Điện và những tượng Phật uy nghi, mang lại không gian tôn nghiêm và bình yên.
Địa chỉ: tọa lạc tại huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An.
Cột mốc số 0 đường Hồ Chí Minh là di tích lịch sử quan trọng ghi dấu sự bắt đầu của con đường huyền thoại. Vào năm 1964, lính công binh Trung đoàn 98 đã đặt nhát cuốc đầu tiên trên cánh đồng ven sông Con, mở ra hành trình xây dựng con đường huyền thoại qua Bắc Trung Bộ.
Di tích lịch sử Quốc gia đặc biệt Km0 - đường Hồ Chí Minh ở Nghệ An
Sự đóng góp của công binh, nhân dân và thanh niên xung phong từ nhiều tỉnh đã tạo nên tuyến đường chiến lược, tượng trưng cho tinh thần đoàn kết và ý chí kiên cường của dân tộc Việt Nam. Cột mốc số 0 không chỉ là địa điểm lịch sử mà còn là biểu tượng vinh danh những chiến công anh hùng của dân tộc.
Địa chỉ: Tuyến đường chiến lược 15A đi qua địa phận xã Mỹ Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An.
Truông Bồn Nghệ An là di tích lịch sử quốc gia, ghi dấu sự hy sinh anh dũng của quân và dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Nơi đây, từng là tuyến đường huyết mạch nối Bắc – Nam, đã chứng kiến biết bao hy sinh của các chiến sĩ thanh niên xung phong.
Từ năm 2010, khu di tích được xây dựng lại, trở thành điểm tham quan ý nghĩa, nơi du khách đến để tưởng nhớ và tri ân những anh hùng đã ngã xuống. Với các công trình tưởng niệm, khu mộ 13 liệt sĩ và những bức phù điêu sống động, Truông Bồn là nơi giáo dục truyền thống yêu nước cho thế hệ trẻ, là biểu tượng kiên cường của dân tộc Việt Nam.
Địa chỉ: số 10 đường Đào Tấn, thuộc địa phận thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An.
Bảo tàng Xô Viết Nghệ Tĩnh là một di tích lịch sử quan trọng, nơi lưu giữ những tư liệu quý giá về cuộc đấu tranh kiên cường của nhân dân Nghệ An - Hà Tĩnh trong phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh. Tại đây, du khách sẽ được khám phá những câu chuyện lịch sử đầy cảm hứng, những hiện vật sống động phản ánh truyền thống cách mạng, niềm tự hào dân tộc và tình yêu quê hương.
Bảo tàng Xô viết Nghệ Tĩnh - Địa chỉ đỏ trên vùng đất cách mạng ở Nghệ An
Trải qua 60 năm hình thành, bảo tàng không chỉ là nơi bảo tồn những giá trị lịch sử, mà còn là điểm đến giáo dục thế hệ trẻ về lòng yêu nước. Điều này góp phần khắc sâu vào tâm trí du khách những trang sử hào hùng của dân tộc.
>> Xem thêm: Tổng hợp những trải nghiệm đáng nhớ khi đi du lịch Việt Nam
Địa chỉ: Tọa lạc trên đường Đào Tấn, thuộc phường Cửa Nam, thành phố Vinh, Nghệ An.
Thành cổ Vinh là di tích lịch sử nổi bật từ thời vua Gia Long. Một minh chứng sống cho sức mạnh và sự kiên cường của dân tộc qua các thời kỳ. Được công nhận là di tích lịch sử Quốc gia từ năm 1998, thành cổ Vinh sở hữu kiến trúc độc đáo hình lục giác với các công trình vững chãi, đặc biệt là cổng Tiền Môn còn nguyên vẹn.
Thành cổ Vinh - Di tích quốc gia tiêu biểu của xứ Nghệ
Đây từng là công trình chiến lược quan trọng, chứng kiến bao chiến công oanh liệt. Giờ đây trở thành điểm tham quan hấp dẫn, nơi du khách không chỉ khám phá vẻ đẹp kiến trúc cổ kính mà còn hiểu thêm về tầm quan trọng của Nghệ An trong lịch sử đấu tranh giành độc lập.
Địa chỉ: Làng Miếu Đường, thuộc xã Bồi Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An.
Đền Quả Sơn tọa lạc tại Làng Đền Đường, xã Bối Sơn, huyện Đô Lương, Nghệ An, là một di tích lịch sử linh thiêng, nổi bật với phong cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp. Nằm trên đỉnh núi Quả, nhìn ra sông Lam, đền Quả Sơn là một trong bốn ngôi đền quan trọng nhất vùng đất Nghệ An, theo câu ngạn ngữ “Nhất Côn, nhì Quả, tam Bạch Mã, tứ Chiêu Trưng”.
Với kiến trúc cổ kính, đền gồm ba tòa điện: thượng, trung và hạ điện, cùng tượng Lý Nhật Quang khổng lồ. Được công nhận là di tích quốc gia từ 1998, đền Quả Sơn không chỉ thu hút du khách bởi sự linh thiêng mà còn bởi vẻ đẹp trữ tình của thiên nhiên nơi đây.
Địa chỉ: Được xây dựng trên núi Mộ Dạ, thuộc xã Diễn An, huyện Diễn Châu, Nghệ An.
Đền Cuông là nơi thờ An Dương Vương - vị vua huyền thoại chống quân xâm lược phương Bắc. Đền có kiến trúc độc đáo theo hình chữ "Tam", gồm ba phần: thượng điện, trung điện và hạ điện, với mái chồng diêm 8 mái vững chãi.
Đền Cuông Nghệ An - ngôi đền thiêng thờ An Dương Vương
Lễ hội đền Cuông được tổ chức vào ngày 14 tháng 2 âm lịch hàng năm, thu hút đông đảo du khách đến cầu tài lộc, bình an. Đền không chỉ là di tích lịch sử quan trọng mà còn nằm trong phong cảnh sơn thủy tuyệt đẹp, với biển Diễn Châu và núi Mụa bao quanh.
Qua bài viết trên, 63Stravel đã cùng nhau khám phá những di tích lịch sử tại Nghệ An nổi bật. Mỗi địa danh không chỉ mang giá trị văn hóa, lịch sử sâu sắc mà còn là điểm đến hấp dẫn cho những ai yêu thích khám phá quá khứ. Hy vọng rằng những thông tin này sẽ giúp bạn thêm phần hiểu biết về vùng đất này.
Nghệ An 5551 lượt xem
Ngày cập nhật : 14/11/2024
Biển Cửa Lò trực thuộc thị xã Cửa Lò, tỉnh Nghệ An. Nơi đây cách thành phố Vinh khoảng 16km về phía Đông, và cách thủ đô Hà Nội 340km. Xưa kia, Cửa Xá – Lạch Lò được biết đến như một vùng hiểm yếu, có vị trí quân sự mang tính chiến lược. Trải qua dâu bể thăng trầm, biển Cửa Lò mới chính thức được định danh và trở thành điểm nhấn nổi bật trong ngành du lịch ở miền Duyên hải Bắc Trung Bộ. Cửa Lò có nhiều núi nhỏ, đỏa cùng bán đảo, ngoài ra vẫn có địa hình đồng bằng bằng phẳng. Bao bọc xung quanh là sông Cấm và sông Lam xinh đẹp, tạo nên một bức tranh sơn thủy đẹp mắt. Du lịch biển Cửa Lò là lựa chọn lý tưởng cho mọi gia đình để thư giãn và giải nhiệt vào những ngày hè oi ả. Du lịch biển bao giờ cũng hấp dẫn hơn vào những ngày nắng nóng, bởi lúc này bạn có thể tận hưởng sự sảng khoái khi hòa mình vào làn nước mát lạnh. Thời điểm lý tưởng nhất đến đến biển Cửa Lò là từ tháng 5 đến hết tháng 10. Vì đây là lúc Cửa Lò hưởng trọn ánh nắng mặt trời, tiết trời ấm áp, thích hợp cho các hoạt động ngoài trời. Nếu bạn muốn chuyến đi được thoải mái và không quá nhiều người, hãy tránh đi vào những dịp Lễ lớn hoặc cuối tuần. Thế nhưng dù bạn đến vào bất kỳ thời gian nào, biển Cửa Lò vẫn rất đáng để trải nghiệm nhờ vẻ đẹp tuyệt vời cùng nhiều hoạt động thú vị. Bãi biển Cửa Lò được mệnh danh là một trong những nơi đẹp nhất Bắc Trung Bộ. Nơi đây thu hút nhiều tín đồ du lịch không chỉ bởi cảnh sắc thiên nhiên thơ mộng với biển xanh, cát trắng, nắng vàng. Mà còn ấn tượng bởi nhiều hoạt động văn hóa dân gian đặc sắc và tiết mục bắn pháo hoa mãn nhãn khi kết thúc mùa du lịch ( độ khoảng cuối tháng 9). Đến với Cửa Lò, bạn có thể thưởng thức các món ngon sau. Mọc cua bể: Món ăn không chỉ đánh thức khứu giác và vị giác của mọi thực khách mà còn chứa hàm lượng dinh dưỡng cao. Mọc cua được chế biến kỳ công từ thịt cua và nhiều loại gia vị đi kèm, đảm bảo ăn một lần là không thể quên. Ghẹ hấp me: Tuy là món hải sản phổ biến, nhưng ghẹ hấp me ở Cửa Lò lại hấp dẫn mọi người bởi hương vị đặc trưng. Nước me sền sệt thơm mùi gia vị cùng phần ghẹ đã chiên rồi đem hấp tạo nên hương vị hấp dẫn, sẵn sàng làm siêu lòng mọi thực khách. Cháo nghêu: Dù là món ăn khá bình dị song để nấu được nồi cháo ngon cần trải qua nhiều công đoạn phức tạp, Cháo nghêu khi ăn được trộn thêm với rau thơm để kích thích vị giác. Mực nhảy: Đây là món ăn đặc sản của Cửa Lò bởi độ tươi ngon của mực khi vừa được đánh bắt và chế biến ngay tại chỗ. Mực nhảy có thể hấp, nướng… dùng kèm nước chấm vô cùng hấp dẫn.
Nghệ An 3895 lượt xem
Tháng 5 đến tháng 10
Hang Thẩm Ồm đặt ở độ cao 15m so với mực nước biển, cửa hang ở hướng Đông Bắc. Nơi đây kỳ vĩ với những hóa thạch và huyền bí cần được khám phá. Hang Thẩm Ồm nằm ở huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An, cách đường 48 khoảng 7km. Nơi này được xem là chứa đựng nhiều hiện vật quý giá của người Việt cổ, lưu giữ nền văn hóa lâu đời. Đi tham quan Hang Thẩm Ồm không chỉ là dịp để tìm hiểu lịch sử mà còn trải nghiệm nền văn hóa cổ xưa. Hang miễn phí và hoạt động cả ngày, nên hãy dành thời gian tới đây để khám phá những điều thú vị tại địa điểm này. Năm 1975, Hang Thẩm Ồm được phát hiện và khai quật. Các nhà khảo cổ đã tìm thấy nhiều hiện vật quý giá, từ đồng, đá, tới xương răng động vật hóa thạch, phản ánh cuộc sống của người Việt cổ. Người Thẩm Ồm được coi là những con người hiện đại đầu tiên ở Việt Nam. Phiên âm tiếng Thái, “Thẩm Ồm” có nghĩa là hang lớn. Nơi đây thường thu hút nhiều du khách tới tham quan hàng năm. Hang Thẩm Ồm được xem như một tuyệt tác thiên nhiên độc đáo của Nghệ An. Hãy dành thời gian đến địa điểm này để tự mình khám phá, trải nghiệm và cảm nhận vào một ngày gần nhất. Khi đặt chân đến Hang Thẩm Ồm, Quỳ Châu, Nghệ An, bạn sẽ cảm nhận ngay vẻ đẹp hoang sơ và hùng vĩ của thiên nhiên rừng núi. Tiếng chim hót rộn ràng và không khí mát lành sẽ làm cho chuyến đi của bạn thêm phần hấp dẫn. Bên trong hang là hiện tượng đặc biệt của phong hóa do nước chảy xói mòn trên núi đá vôi. Mỗi bước di chuyển, bạn sẽ bắt gặp thạch nhũ, vách đá lớn, cùng với hình thù đa dạng, độc đáo. Tất cả tạo ra cảm giác như có sự ban tặng đặc biệt từ tạo hóa. Đến với hang này, bạn sẽ được thưởng thức những món ẩm thực dân dã như hoa chuối, quả nhâm, rau dún, măng, nhộng ong rừng, châu chấu thơm ngon đậm đà. Đừng quên mang theo những sản phẩm đặc sản Nghệ An làm quà biếu người thân sau chuyến du lịch nhé.
Nghệ An 3088 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Làng Hoàng Trù cách làng Kim Liên khoảng 2km, cùng thuộc xã Kim Liên (huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An), cách thành phố Vinh khoảng 15km. Nơi đây có cụm di tích Hoàng Trù rộng 3.500m2, gồm: Ngôi nhà của cụ Hoàng Đường - ông ngoại của Bác Hồ, ngôi nhà thờ chi nhánh họ Hoàng Xuân, ngôi nhà của ông Nguyễn Sinh Sắc và bà Hoàng Thị Loan - thân sinh Bác Hồ. Vào dịp Tết Mậu Dần năm 1878, cụ Hoàng Đường trên đường đi chúc Tết gặp một chú bé ngồi trên lưng trâu mải mê đọc sách. Chú bé đó tên là Nguyễn Sinh Sắc, vốn mồ côi cả cha lẫn mẹ từ năm 4 tuổi. Cảm thương hoàn cảnh và quý trọng đức hiếu học, cụ Hoàng Đường đã xin phép họ Nguyễn Sinh đưa Nguyễn Sinh Sắc về nuôi, cho ăn học. Khi đó Nguyễn Sinh Sắc tròn 15 tuổi. Được sự dạy bảo của cụ Hoàng Đường, Nguyễn Sinh Sắc càng học càng thông minh, nổi tiếng khắp vùng. Năm Nguyễn Sinh Sắc tròn 18 tuổi, hai cụ chọn ông làm con rể cho con gái đầu lòng Hoàng Thị Loan. Năm 1883, hai người thành hôn, ra ở riêng trong ngôi nhà nhỏ 3 gian mới dựng. Ngôi nhà là nơi chứng kiến người học trò Nguyễn Sinh Sắc miệt mài đèn sách, chứng kiến sự tần tảo, thủy chung của người vợ và sự ra đời của những người con. Tại kỳ thi Hương năm Giáp Ngọ 1894, ông Nguyễn Sinh Sắc đỗ cử nhân trường Nghệ, năm 1895, vào kinh đô Huế để ôn luyện và đưa cả vợ con theo. Sau khi sinh người con thứ tư (năm 1900), bà Hoàng Thị Loan qua đời trên đất Huế ở tuổi 33 (tháng 2-1901). Cha con ông Nguyễn Sinh Sắc đau buồn rời đất đế đô trở lại làng Hoàng Trù sinh sống. Tới kỳ thi Hội khoa Tân Sửu (1901), ông Nguyễn Sinh Sắc lại vào Huế dự thi và đậu Phó bảng, được vua Thành Thái ban cho tấm biển “Ân tứ ninh gia” (Ơn vua ban cho gia đình tốt). Theo truyền thống, ông Nguyễn Sinh Sắc cùng các con tạm biệt làng Hoàng Trù trở về quê nội - làng Kim Liên để vinh quy bái tổ. Khu di tích Hoàng Trù với ngôi nhà nhỏ ba gian là nơi cất tiếng khóc chào đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nơi đã gắn bó những năm tháng tuổi thơ đẹp đẽ và cũng đầy gian khó, nhọc nhằn của Người cùng ông bà, cha mẹ, các anh chị em. Cũng chính tại nơi đây, Người đã nhận được tình yêu thương của những người thân, của quê hương, được chứng kiến sự dạy dỗ tận tình của ông ngoại với cha mình. Những giá trị tinh thần ấy là khởi nguồn cho một khát vọng lớn lao, để cậu bé Nguyễn Sinh Cung trở thành Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hóa của đất nước Việt Nam và của nhân loại.
Nghệ An 2302 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Một trong những điểm nổi bật của bãi biển này chính là đường bờ cát dài và độ sâu dần đều, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tắm biển, thư giãn trên những bãi cát sạch trải dài bên bờ biển. Biển Cửa Lò Nghệ An cũng là nơi tập trung của nhiều hoạt động giải trí và thư giãn như chạy mô tô nước, bay khinh khí cầu, đi bộ dọc bãi biển, ngắm sao trên bãi biển, đi thuyền thúng câu mực về đêm và nhiều hoạt động khác. Điều này tạo điều kiện cho du khách có thể tận hưởng những khoảnh khắc thư giãn và giải trí đầy thú vị tại biển Cửa Lò - Nghệ An. Mùa hè (từ tháng 4 đến tháng 8) là thời điểm lý tưởng để đến tham quan Cửa Lò Nghệ An, đặc biệt là với những người thích tắm biển. Lúc này, thời tiết khô ráo, nắng đẹp, du khách có thể thoải mái đi theo lịch trình của mình và lưu giữ lại những khoảnh khắc tuyệt vời. Một trong những hoạt động mới được thêm vào chương trình du lịch tại biển Cửa Lò Nghệ An là bay khinh khí cầu ngắm biển. Với giá 200.000 VND một lượt, du khách sẽ được đưa lên độ cao tối đa 50m để ngắm nhìn vẻ đẹp của bãi biển Cửa Lò. Hoạt động này diễn ra trong các khung giờ từ 6h30 - 9h30 và 16h30 - 18h30. Lưu ý rằng hoạt động chỉ diễn ra trong một khoảng thời gian sự kiện nên du khách cần theo dõi lịch tổ chức để sắp xếp thời gian hợp lý cho chuyến đi của mình. Buổi sáng sớm là thời điểm lý tưởng để tắm biển và ngắm bình minh tại bãi biển Cửa Lò Nghệ An. Không khí trong lành và nước biển mát mẻ sẽ giúp du khách thư giãn và tận hưởng những khoảnh khắc đẹp tuyệt vời. Ngoài ra, bạn còn có thể tham gia nhiều hoạt động khác như lái mô tô nước, chèo thuyền kayak, đi bộ dọc bãi biển, chụp ảnh trên bãi biển.
Nghệ An 2226 lượt xem
Tháng 3 đến tháng 11
Cách Thành phố Vinh khoảng 16km, làng Sen (Kim Liên) thuộc xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An là quê nội của Bác. Đây là 1 trong 4 di tích quan trọng bậc nhất cả nước và cũng là niềm tự hào của người dân xứ Nghệ. Bạn có thể đến làng Sen vào bất cứ thời điểm nào trong năm, tuy nhiên thời gian thích hợp nhất đó là vào tháng 5. Đây là dịp mà những đầm sen nở rộ, tỏa hương thơm ngát, mang lại một cảm giác dễ chịu xua tan đi cái oi bức, ngột ngạt của nắng gió khắc nghiệt miền Trung. Di chuyển đến Nghệ An rất đơn giản, bạn có thể dễ dàng di chuyển bằng các phương tiện khác nhau. Từ Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh đều có các chuyến bay thẳng đến thành phố Vinh. Bạn cũng có thể di chuyển bằng tàu hỏa xuống ga Vinh hay đi bằng xe khách và xe máy. Từ thành phố Vinh, đi theo đường 49 đến cây số 13 rẽ vào con đường đất đỏ rợp bóng bạch đàn và những hàng phi lao xanh ngắt là đến làng Sen. Đầu làng có một hồ sen lớn, đi qua hồ sen là giếng Cốc. Nơi đây, thuở còn thơ ấu, Bác thường ra lấy nước, câu cá và vui chơi cùng bè bạn trong làng. Sau lũy tre rợp bóng xanh mát là ngôi nhà 5 gian lợp mái tranh đơn sơ, giản dị của gia đình cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, thân phụ của Bác Hồ. Sau khi đậu Phó bảng tại khoa thi hội năm Tân Sửu 1901, cụ Nguyễn Sinh Sắc cùng các con rời làng Chùa (Hoàng Trù) về sống tại làng Sen quê nội. Ngôi nhà này là do người dân làng Sen dùng quỹ công dựng lên mừng cụ đậu Phó bảng đem lại vinh dự cho cả làng. Trước nhà có 2 sân nhỏ và 1 thửa vườn được vây quanh bằng hàng rào râm bụt. Kế bên nhà là nhà ngang dùng làm bếp. Hai gian phía ngoài là nơi đặt bàn thờ và tiếp khách. Gian thứ ba là nơi ở của bà Nguyễn Thị Thanh – người chị cả của Bác. Hai gian còn lại là nơi nghỉ và sinh hoạt của gia đình. Gian thứ năm chỉ kê vỏn vẹn 1 bộ phản cũng là nơi nghỉ ngơi của ông Nguyễn Sinh Khiêm và Nguyễn Sinh Cung (Bác Hồ). Dù đỗ đạt cao nhưng những vật dụng trong nhà vẫn hết sức giản dị như bao căn nhà ở chốn thôn quê khác: tấm phản gỗ, chõng tre, chum sành đựng nước, chạn bát tre,… Phần nhiều những đồ vật này đều do dân làng tặng, những kỷ vật này vẫn còn được lưu giữ đến ngày nay. Bác đã gắn bó với ngôi nhà này trong những năm tháng ở tuổi thiếu niên từ cuối năm 1901 đến giữa những năm 1906. Ngôi nhà đã chứng kiến quá trình học tập, trưởng thành của Bác; là nơi ghi dấu những cảm xúc đầu tiên về lòng yêu nước và những nhận thức thời cuộc của Người. Sau 50 năm xa cách quê nhà, bôn ba đi tìm đường cứu nước cho dân tộc, làm cách mạng đưa đất nước thoát khỏi ách thống trị của Thực dân Pháp, Người đã trở về làng Sen 2 lần vào năm 1957 và năm 1961. Bạn có thể thăm những ngôi nhà hàng xóm thân thiết với gia đình Bác thời kỳ đó như lò rèn Cố Điền, nhà cụ cử Vương Thúc Quý, nhà cụ đồ nho, nhà cụ Nguyễn Sinh Nhậm – ông nội của Bác,…
Nghệ An 2343 lượt xem
Tháng 5 đến tháng 10
Làng Hoàng Trù cách làng Kim Liên khoảng 2km, cùng thuộc xã Kim Liên (huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An), cách thành phố Vinh khoảng 15km. Nơi đây có cụm di tích Hoàng Trù rộng 3.500m2, gồm: Ngôi nhà của cụ Hoàng Đường - ông ngoại của Bác Hồ, ngôi nhà thờ chi nhánh họ Hoàng Xuân, ngôi nhà của ông Nguyễn Sinh Sắc và bà Hoàng Thị Loan - thân sinh Bác Hồ. Vào dịp Tết Mậu Dần năm 1878, cụ Hoàng Đường trên đường đi chúc Tết gặp một chú bé ngồi trên lưng trâu mải mê đọc sách. Chú bé đó tên là Nguyễn Sinh Sắc, vốn mồ côi cả cha lẫn mẹ từ năm 4 tuổi. Cảm thương hoàn cảnh và quý trọng đức hiếu học, cụ Hoàng Đường đã xin phép họ Nguyễn Sinh đưa Nguyễn Sinh Sắc về nuôi, cho ăn học. Khi đó Nguyễn Sinh Sắc tròn 15 tuổi. Được sự dạy bảo của cụ Hoàng Đường, Nguyễn Sinh Sắc càng học càng thông minh, nổi tiếng khắp vùng. Năm Nguyễn Sinh Sắc tròn 18 tuổi, hai cụ chọn ông làm con rể cho con gái đầu lòng Hoàng Thị Loan. Năm 1883, hai người thành hôn, ra ở riêng trong ngôi nhà nhỏ 3 gian mới dựng. Ngôi nhà là nơi chứng kiến người học trò Nguyễn Sinh Sắc miệt mài đèn sách, chứng kiến sự tần tảo, thủy chung của người vợ và sự ra đời của những người con. Tại kỳ thi Hương năm Giáp Ngọ 1894, ông Nguyễn Sinh Sắc đỗ cử nhân trường Nghệ, năm 1895, vào kinh đô Huế để ôn luyện và đưa cả vợ con theo. Sau khi sinh người con thứ tư (năm 1900), bà Hoàng Thị Loan qua đời trên đất Huế ở tuổi 33 (tháng 2-1901). Cha con ông Nguyễn Sinh Sắc đau buồn rời đất đế đô trở lại làng Hoàng Trù sinh sống. Tới kỳ thi Hội khoa Tân Sửu (1901), ông Nguyễn Sinh Sắc lại vào Huế dự thi và đậu Phó bảng, được vua Thành Thái ban cho tấm biển “Ân tứ ninh gia” (Ơn vua ban cho gia đình tốt). Theo truyền thống, ông Nguyễn Sinh Sắc cùng các con tạm biệt làng Hoàng Trù trở về quê nội - làng Kim Liên để vinh quy bái tổ. Khu di tích Hoàng Trù với ngôi nhà nhỏ ba gian là nơi cất tiếng khóc chào đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nơi đã gắn bó những năm tháng tuổi thơ đẹp đẽ và cũng đầy gian khó, nhọc nhằn của Người cùng ông bà, cha mẹ, các anh chị em. Cũng chính tại nơi đây, Người đã nhận được tình yêu thương của những người thân, của quê hương, được chứng kiến sự dạy dỗ tận tình của ông ngoại với cha mình. Những giá trị tinh thần ấy là khởi nguồn cho một khát vọng lớn lao, để cậu bé Nguyễn Sinh Cung trở thành Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hóa của đất nước Việt Nam và của nhân loại.
Nghệ An 2581 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Thành phố Vinh - trái tim của Xứ Nghệ - mảnh đất có bề dày lịch sử hàng trăm năm, nơi từng được vua Quang Trung - Nguyễn Huệ chọn làm nơi xây dựng kinh đô vào năm 1788. Để từ đó còn có tên gọi là Phượng Hoàng Trung Đô. Thành Vinh ngày xưa thuộc xã Vĩnh Yên, phủ Yên Trường, tỉnh Nghệ An. Nay là địa phận phường Cửa Nam -Thành phố Vinh, tỉnh Nghệ an. Thành có tên gọi cũ là Thành nghệ An, trong dân gian còn có tên là Thành con rùa (thành quy hình). Sở dĩ được gọi là thành con rùa là bởi thành được xây theo hình 6 cạnh, đứng trên núi Quyết nhìn xuống trông giống như hình con rùa. Thành được xây dựng vào triều Nguyễn, đời vua Gia Long. Năm 1802, nhà Nguyễn giành được chính quyền từ vương triều Tây Sơn. Mặc dù rất thù ghét Nguyễn Huệ - Quang Trung, nhưng Gia Long không thể làm ngơ trước cái nhìn có tầm kiệt xuất của nhà quân sự thiên tài Quang Trung- Nguyễn Huệ rằng: núi Quyết, sông Vĩnh có tầm thế của một đế đô thì sao lại không đáng để xây trấn sở của một tỉnh. Chính vì vậy, năm 1804 Gia Long khởi công xây dựng thành. Tuy nhiên, do muốn xóa đi dấu vết triều Tây Sơn nên Gia Long không cho xây Thành ở núi Dũng Quyết mà xây ở địa phận 2 tức là Xã Vĩnh Yên thuộc phủ Yên Trường, chính là nơi mà dấu tích của thành vẫn còn mãi đến bây giờ. Thành được xây bằng đất.Triều đình vua Gia Long đã huy động 1.000 lính Thanh Hoá, 4.000 lính Nghệ An để xây thành. Đến đời vua Minh Mạng, năm 1831 thành được xây bằng đá ong với quy mô to lớn, kiên cố hơn. Đến thời Tự Đức, khi nâng cấp đã lấy 8.599 phiến đá sò từ Diễn Châu và đá ong từ Nam Đàn, 4.848 cân vôi, 155 cân mật mía, với tổng kinh phí là 3.688 quan tiền - một số tiền khổng lồ lúc bấy giờ để xây dựng. Như vậy là chúng ta có thể thấy được quy mô xây dựng thành và vị thế của thành là rất quan trọng. Thành được xây dựng chính bằng sức của nhân dân, thậm chí là bằng cả máu và nước mắt của nhân dân. Thành có cấu tạo hình lục giác, với diện tích khoảng 420.000m2 , chu vi là 2.520m. bao gồm 2 vòng thành: vòng thành trong và vòng thành ngoài. Cùng với hệ thống Thành cao là hệ thống hào sâu. Hào được đào sát bờ thành để lấy đất đắp lũy thành và cũng là hệ thống bảo vệ, tăng thêm sự khó khăn khi đối phương tấn công vào thành. Hệ thống hào hàng năm còn được thả sen để lấy hạt cống nạp triều đình. Thành có 3 cửa ra vào: cửa Tiền, cửa Tả, cửa Hữu. Cửa Tiền là cửa chính hướng về phía nam với ý thức hướng về kinh đô Huế, là cửa để vua ngự giá. Nhà vua được nghênh tiếp một cách long trọng tại đây, các quan trong lục bộ triều đình và tổng đốc ra vào cũng được nghênh đón tại đây. Cửa Tả mở về hướng đông. Chính giữa phía trên vòm cổng khắc hai chữ Hán: “Tả môn”. Phần móng của cổng nay đã bị lấp kín bởi đoạn đường này đã được rải nhựa năm 1990. Cửa Hữu được mở về hướng tây. Phần móng trung gian còn lộ ra những phiến đá xanh được mài nhẵn với nhiều kích thước khác nhau. So với cổng Tiền và cổng tả thì thân cồng Hữu vẫn còn nguyên vẹn hơn cả. Các cổng được thiết kế mái vòm. Đứng ở giữa cổng thành ta vừa có cảm giác như đứng ở giữa một ngôi nhà nhỏ kiên cố, lại vừa có cảm giác như đứng trong một lô cốt chắc chắn. Có thể nói, thành Nghệ An được thiết kế như một pháo đài quân sự, có khả năng phòng thủ cao. Trên đường vào các cổng thành, bắc qua hào sâu thì được xây cầu để đi lại. Cầu được xây theo kiểu vòm cuốn. Dưới phần móng xây bằng đá rất kiên cố. Cầu rộng 4,42 m, cao 2,5m lòng cầu rộng 3,5m thuyền có thể qua lại dưới vòm cầu dễ dàng. Vào thời Nguyễn, bên trong thành, công trình lớn nhất là hành cung. Cùng với đó là các cơ quan như dinh thống đốc, dinh bố chánh, lãnh binh, dinh đốc học, trại lính và nhà ngục. Toàn bộ thành được trang bị 65 khẩu thần công, 47 khẩu đặt ở các vọng gác, số còn lại tập trung ở hành cung và dinh thống đốc. Thành Vinh ra đời nhằm tạo ra một trung tâm chính trị, quân sự, vừa là một công trình phòng thủ của tỉnh Nghệ An. Năm 1885 Thực dân Pháp nổ súng xâm lược đất nước ta. Chế độ phong kiến nhà Nguyễn chống cự yếu ớt nên thành Vinh nhanh chóng rơi vào tay thực dân Pháp. Kể từ đó, Thành Vinh đã trở thành chứng tích của một thời kỳ bi thương mà hào hùng của nhân dân Nghệ An. Nơi đây chứng kiến sự đấu tranh dũng cảm của người chị gái thương yêu của Bác Hồ - bà Nguyễn Thị Thanh. Bà đã tổ chức lấy trộm súng của doanh trại để cho nghĩa quân có đủ vũ khí đánh úp thành, song việc bị bại lộ, bà bị bắt và bị giải vào nhà Lao Vinh, bị tra tấn giã man. Phiên tòa ngày 4/6/1918 đã xử bà chịu đánh 100 trượng và đày khổ sai 9 năm. Tiếp đó là thời kì sục sôi khí thế của cao trào cách mạng 30, 31. Thành Vinh trở thành nơi chứng kiến những cuộc đấu tranh vô cùng quyết liệt, chứng kiến tinh thần dũng cảm hy sinh của nhân dân xứ Nghệ để làm nên một đỉnh cao Xô Viết. Đến năm 1941, thành Vinh lại chứng kiến sự hy sinh của Đội Cung và những binh sỹ yêu nước đứng trong hàng ngũ quân đội Pháp. Trải qua quá trình lịch sử, lớp bụi thời gian và sự tàn phá của chiến tranh đã khiến Thành không còn được nguyên vẹn. Chỉ còn 3 cổng thành vẫn còn giữ được những kết cấu cơ bản, vẫn sừng sừng án ngự giữa những con đường vào thành nội. Thành cổ Vinh một dấu tích xưa, một công trình kiến trúc độc đáo có giá trị lịch sử - văn hóa vô cùng to lớn. Năm 1998, thành Vinh được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng là Di tích quốc gia. Nguồn: Ban quản lý di tích Nghệ An
Nghệ An 3021 lượt xem
Khu di tích lưu niệm Phan Bội Châu tại Nam Đàn gồm hai địa điểm, cách nhau khoảng 1,5km: quê nội thuộc xóm 2, xã Xuân Hòa, huyện Nam Đàn và quê ngoại thuộc thị trấn Nam Đàn, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Phan Bội Châu tên húy là Phan Văn San, hiệu Sào Nam, sinh ngày 26/12/1867 trong một gia đình hàn nho, thuộc làng Sa Nam, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An; là nhà văn hóa lớn và là người tiêu biểu cho phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX. Trong đêm trường nô lệ đen tối, trên hành trình đi tìm đường cứu nước với gần ba mươi năm hoạt động gian lao vất vả, bước chân Phan Bội Châu đã trải qua nhiều địa danh: khi tỉnh Quảng, lúc Hoan Đồn, khi Tuyên Quang, Đông Kinh, Thần Hộ, Thượng Hải, Quế Việt, khi ở Nhật Bản, khi ở Trung Quốc, lúc lại về Thái Lan… Các phong trào yêu nước do Cụ Phan phát động như Duy Tân hội, Đông Du, Việt Nam Quang phục hội, Việt Nam Quốc dân đảng... luôn được các tầng lớp nhân dân tham gia hưởng ứng. Đặc biệt là tầng lớp thanh niên, họ xem Phan Bội Châu như thần tượng, lý tưởng để phấn đấu vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Ngày 30/6/1925, Phan Bội Châu bị Thực dân Pháp bắt cóc ở Thượng Hải (Trung Quốc) giải về nước, đem xử ở tòa Đề hình Hà Nội, rồi đưa về an trí ở Huế. Sáng ngày 29/10/1940 (tức ngày 29 tháng Chín năm Canh Thìn), Cụ trút hơi thở cuối cùng tại căn nhà tranh ở dốc Bến Ngự (Huế). Khu di tích lưu niệm Phan Bội Châu tại Nam Đàn là nơi gắn bó với cuộc đời Phan Bội Châu từ khi cất tiếng khóc chào đời, cho đến lúc ra đi hoạt động tìm đường cứu nước. Nhà Cụ Phan Bội Châu từng là nơi hội tụ “anh hùng bốn phương” - là những văn thân, sĩ phu yêu nước, dư đảng Cần Vương, khách lục lâm vong mạng nghĩa hiệp... ở khắp mọi nơi cùng nhau luận bàn việc nước. Trong số đó có Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc - thân sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh. Những ngày còn thơ ấu theo cha đến thăm Cụ Phan, được nghe các bậc cha chú luận bàn việc nước, đã góp phần hình thành tư tưởng cứu nước, thương dân trong con người Hồ Chí Minh. Những năm hoạt động ở trong và ngoài nước cho đến khi bị bắt và đưa về giam lỏng ở Huế, Cụ Phan đã mấy lần về thăm quê hương và gia đình. Lần cuối cùng Cụ về thăm nhà là xuân năm Bính Dần - 1926. Khu di tích lưu niệm Phan Bội Châu là nơi giáo dục truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ, thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn của dân tộc. Các công trình được bố trí hài hòa, kiến trúc phù hợp, tạo thành một thể thống nhất vừa làm tốt chức năng lưu niệm, tri ân danh nhân, đồng thời toát lên sự thanh tao, nho nhã như cốt cách của cụ Phan. 1. Quê nội: nhà Cụ Phan tại quê nội nằm ở phía ngoài đê Tả Lam, nhìn ra xa là dãy Đại Huệ hùng vĩ, phía sau là dòng sông Lam. Phía Tây Bắc là rú Đụn uy nghi, từng là đại bản doanh của Mai Hắc Đế năm xưa. Hiện nay, khuôn viên di tích rộng 754m2, bao gồm các hạng mục: cổng, tường bao, nhà bia tưởng niệm, sân vườn... 2. Quê ngoại: là nơi chào đời và gắn liền với tuổi thơ ấu của Phan Bội Châu, tổng khuôn viên di tích là 4878m2, gồm 2 khu vực chính là: khu lưu niệm gồm ngôi nhà tranh và mảnh vườn của gia đình Cụ Phan Bội Châu; khu tưởng niệm gồm nhà trưng bày hiện vật liên quan đến cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Cụ Phan và các công trình phụ trợ. Hiện nay, tại di tích còn lưu giữ được 134 tài liệu, hiện vật (51 cổ vật, 83 di vật), bao gồm các chất liệu giấy, gỗ, đá, đồng, tre,... là những kỷ vật thiêng liêng gắn bó với cuộc đời và quá trình hoạt động cách mạng của Phan Bội Châu. Hàng năm, tại di tích diễn ra hai kỳ lễ trọng, đó là lễ kỷ niệm ngày mất của Phan Bội Châu ngày 29 tháng Chín Âm lịch và lễ kỷ niệm này sinh của cụ Phan Bội Châu vào ngày 26/12 dương lịch, thu hút đông đảo cán bộ, nhân dân địa phương, các cấp, các ngành tham dự. Ngoài ra những ngày lễ tiết, theo truyền thống địa phương như Tết Nguyên đán, Thượng nguyên, Trung nguyên... và ngày sóc vọng hàng tháng nhân dân địa phương đến dâng hương tưởng niệm rất đông. Với giá trị đặc biệt tiêu biểu, di tích lịch sử Khu lưu niệm Phan Bội Châu tại Nam Đàn được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là Di tích quốc gia đặc biệt ngày 22/12/2016). Nguồn: Cục di sản văn hoá
Nghệ An 2859 lượt xem
Bảo tàng Xô Viết Nghệ Tĩnh được thành lập ngày 15/ 1/1960, tọa lạc trong khu vực Thành cổ Nghệ An, tại số 10 đường Đào Tấn, phường Cửa Nam, Tp Vinh. Bảo tàng Xô Viết Nghệ Tĩnh được đặt trên nền nhà lao Vinh, nơi mà trước đây, năm 1929 đến 1931 đã giam cầm hàng ngàn chiến sỹ cách mạng tham gia trong phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp. Bảo tàng Xô Viết Nghệ Tĩnh là bảo tàng trưng bày chuyên đề về một sự kiện lịch sử tiêu biểu của dân tộc khi Đảng ta mới ra đời, đó là cao trào Xô viết Nghệ - Tĩnh 1930 - 1931. Đây cũng là một trong ba bảo tàng được thành lập sớm nhất trong hệ thống bảo tàng Việt Nam. Bảo tàng xây dựng 2 tầng, trên một khu đất rộng 2 hecta, bảo tàng Xô Viết Nghệ Tĩnh vừa có kiến trúc đẹp, cổ kính, vừa hiện đại vừa mang đậm nét bản sắc dân tộc. Đây là công trình văn hóa độc đáo lưu giữ trên 5.000 hiện vật gốc và các tư liệu cách mạng của nhân dân Nghệ An trong cao trào Xô Viết 1930 - 1931. Trong khuôn viên bảo tàng rộng hơn 15.000m2, ngoài nhà trưng bày thường trực, còn có 2 công trình văn hóa, tín ngưỡng, đó là: “Đài tưởng niệm các chiến sỹ yêu nước và cách mạng bị giam cầm tại nhà lao Vinh” và “Nhà tưởng niệm các liệt sỹ Xô Viết Nghệ Tĩnh 1930- 1931”. Nhà trưng bày thường trực gồm có 9 phòng giới thiệu toàn bộ tiến trình của phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh. Ngoài ra, bảo tàng còn có hai phòng trưng bày chuyên đề: Cuộc đời, sự nghiệp của lãnh tụ Lê nin; Chủ tịch Cay-Xỏn Phôm-Vi-Hản và tình hữu nghị Việt Nam – Lào. Phòng trưng bày số 1 là phòng khánh tiết Phòng trưng bày số 2 trưng bày, trang trí nhiều hiện vật liên quan đến phong trào Đông Du của cụ Phan Bội Châu, Phong Trào Cần Vương là hai phong trào tạo tiền đề cho Xô Viết – Nghệ Tĩnh diễn ra. Phòng trưng bày số 3 ghi lại quá trình thành lập, các hoạt động tiêu biểu của Đảng Bộ tỉnh Nghệ An. Phòng trưng bày số 4 có sa bàn mô phỏng lại cuộc đấu tranh Xô Viết – Nghệ Tĩnh cùng nhiều tranh ảnh cổ động có giá trị. Phòng trưng bày số 5 số 6, số 7 bao gồm các tranh tư liệu ghi lại diễn biến, quá trình đấu tranh chống lại sự khủng bố của kẻ thù và kết quả của phong trào Xô Viết – Nghệ Tĩnh trong từng các giai đoạn khác nhau. Phòng trưng bày số 8 là mô hình thu nhỏ của Nhà Lao Vinh – nơi giam cầm những người hoạt động trong phong trào Cần Vương, phong trào Xô Viết – Nghệ Tĩnh với nhiều dụng cụ tra tấn tàn bạo. Ngoài ra, cò có mô hình thu nhỏ của thành cổ Vinh. Phòng trưng bày số 9 gồm những tư liệu nói về sức ảnh hưởng của phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh. Trải qua hơn nửa thế kỷ hoạt động, Bảo tàng Xô Viết Nghệ Tĩnh đã phấn đấu không ngừng và trưởng thành về mọi mặt, trở thành một thiết chế văn hóa nổi bật trong họat động bảo tồn và phát huy di sản văn hóa xứ Nghệ. Bảo tàng Xô Viết Nghệ Tĩnh được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia năm 1997. Nguồn: Tổng hợp cổng thông tin điện tử tỉnh Nghệ An
Nghệ An 2740 lượt xem
Đền thờ Hoàng đế Quang Trung tọa lạc trên Núi Dũng Quyết - nơi được ví như viên ngọc xanh mà thiên nhiên đã ban tặng cho Nghệ An và thành phố Vinh. Núi Dũng Quyết có 4 chi: Long Thủ (đầu rồng), Phượng Dực (cánh Phượng), Quy Bôi (cồn Rùa) và Kỳ Lân. Người xưa gọi địa thế nơi đây là đất tứ linh, bởi có đủ Long, Ly, Quy Phượng. Đây được xem là vị trí yết hầu trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước trên con đường thiên lý xuyên việt. Sau khi tham vấn La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp, Nguyễn Huệ đã chọn vùng núi Dũng Quyết là nơi đắc địa, có khí tượng tươi sáng, hình thế rộng rãi để định đô tính kế lâu dài. Ngày 3 tháng 9 năm Mậu Thân (1/10/1788) Nguyễn Huệ Quang Trung đã xuống chiếu giao cho Trần Thủ Thận và La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp tổ chức xây dựng Phượng Hoàng Trung Đô ở vùng đất giữa núi Dũng Quyết và núi Kỳ Lân. Do đó, ngày 1/10/1788 được chọn là ngày kỷ niệm Phượng Hoàng Trung Đô. Để tuởng nhớ đến công lao to lớn của vị anh hùng áo vải, lưu giữ mối gắn bó keo sơn giữa Hoàng đế Quang Trung với quê cha đất tổ Nghệ An, ngày 15/8/2005 UBND tỉnh Nghệ An đã tiến hành khởi công xây dựng đền thờ Hoàng đế Quang Trung. Sau hơn 1000 ngày thi công, đền được khánh thành vào ngày 7/5/2008. Đền gồm có các công trình: Nghi môn tứ trụ được thiết kế theo kiến trúc hai tầng tám mái. Tiếp theo là các công trình phụ trợ: Nhà tả vu và hữu vu nơi đón tiếp đại biểu và nhà trưng bày hiện vật. Trung tâm toàn bộ kiến trúc ngôi đền là nhà tiền đường gồm có 3 gian nhà: hạ điện, trung điện, thượng điện, được thiết kế theo hình chữ Tam cao dần lên. Cả ba nhà được làm bằng gỗ lim, chạm khắc họa tiết theo phong cách thời Nguyễn. Nhà Hạ điện có khung thờ được bố trí theo tín ngưỡng thờ phụng của người Việt – Tiền phật hậu thánh. Nhà Trung điện gồm có ba gian thờ: Ở giữa bàn thờ Công đồng- thờ chung các quan lại tướng sỹ thời Tây Sơn; hai bên tả hữu thờ các quan văn và quan võ triều Tây Sơn. Nhà Thượng điện là nơi thờ Hoàng đế Quang Trung và thân phụ của Người - ông Hồ Phi Phúc và thân mẫu là bà Nguyễn Thị Đồng. Hàng năm, Thượng điện được mở vào hai dịp lễ lớn: Ngày 29 tháng 7 âm lịch - ngày giỗ của Hoàng đế Quang Trung và ngày 5 tháng 1- ngày kỷ niệm chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa. Đền thờ Hoàng đế Quang Trung và di tích Phượng Hoàng Trung Đô được UBND tỉnh Nghệ An công nhận là điểm du lịch ngày 21/12/2017. Nguồn: Cổng thông tin điện tử sở du lịch tỉnh Nghệ An
Nghệ An 2734 lượt xem
Cột mốc số 0 đường Hồ Chí Minh nằm cạnh bờ sông Con, dưới chân động Truông Dong, ẩn mình trong dãy đại ngàn Bồ Bồ - Ba Xanh, Động cầu ở Trại Lạt xưa, nay là thị trấn Lạt, thuộc huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An. Ngày 27/4/1990, Mốc Km số 0 được công nhận là Di tích lịch sử quốc gia. Xây dựng trong khuôn viên đẹp, có suối nước chảy quanh, trước mắt là con đường Trường Sơn cũ đi qua nghĩa trang liệt sĩ của huyện. Nhà truyền thống hiện đang trưng bày nhiều hiện vật quý: Cột mốc không số bằng đá granit được dựng đầu tiên, đến cột mốc bằng gỗ khắc chạm “Đường Hồ Chí Minh Km 0”. Nơi đây có những cái tên nghe đã thấy địa linh như: Động Thờ, Khe Thần, Trại Lạt, Tập Mã. Tiếp giáp với các huyện vùng bán sơn địa như Yên Thành, Đô Lương, Quỳnh Lưu, Diễn Châu, Anh Sơn. Mảnh đất ấy đã đi vào lịch sử dân tộc gắn với bao chiến công lẫy lừng của chủ tướng Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn mà như trong thơ Nguyễn Trãi đã viết: “Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay”. Miền thượng Trà Lân ấy ngày nay thuộc huyện Tân Kỳ và một phần của huyện Anh Sơn, tỉnh Nghệ An. Nơi mà kẻ thù vào đó sẽ tiến thoái lưỡng nan, bởi bốn bề là núi cao vực thẳm. Nghĩa quân Lam Sơn xưa đã chọn vùng đất này để lập trại (Trại Lạt); luyện tập binh mã (Tập Mã). Quân lương được đồn trú trong những thung lũng kín đáo (bản Đồn)... giàu nguồn tiếp tế. Họ đã lập ra những trại cây tự túc lương thực tại chỗ, chờ thời cơ đánh đuổi quân xâm lược. Đầu năm 1969, Tồng thống Ních-Xơn vừa mới lên nắm quyền đã bật tín hiệu tái diễn cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc Việt Nam cho mở “Chiến dịch cắt cổ” hòng ngăn chặn con đường mòn huyền thoại và các trục nhánh đi vào miền Nam. Trục đường 15 A - con đường chiến lược thượng đạo mà Nguyễn Huệ hành quân thần tốc ra Thăng Long xưa, nay là những trọng điểm đánh phá ác liệt của máy bay Mỹ, chúng oanh tạc ngày đêm, nhiều lần tập kích bằng không quân, pháo từ hạm đội 7 bắn vào các cửa tử như Bò Lăn, Dốc Lụi, Truông Én, Phà Sen, Truông Bồn, Phà Linh Cảm... Trước tình hình đó, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương quyết định phải đánh bại âm mưu, chiến lược của địch. Đại tướng - Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp trực tiếp chỉ đạo Bộ Tư lệnh Trường Sơn, Quân khu 4, Quân chủng Phòng không - Không quân hợp đồng tác chiến đập tan “Chiến dịch cắt cổ” của địch. Như mối lương duyên, Trại Lạt lại một lần nữa được chọn làm đại bản doanh để xuất binh giải phóng miền Nam. Ngày 5/2/1973, Thường vụ Quân uỷ Trung ương triệu tập Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên và Chính uỷ Đặng Tính giao nhiệm vụ cho Bộ đội Trường Sơn: Xây dựng hệ thống đường chiến lược, đặc biệt coi trọng xây dựng cơ bản đường Trường Sơn từ Tân Kỳ - Nghệ An đi Chơn Thành - Bình Phước thành con đường quốc lộ xuyên Bắc Nam...”. Sau Hiệp định Paris, tranh thủ thời cơ thuận lợi trên mặt trận ngoại giao, Bộ Tư lệnh 559 tập trung thực thi nhiệm vụ công tác khảo sát, thiết kế được coi trọng, cán bộ kỹ thuật cần có kiến thức, đơn vị có trang thiết bị hiện đại.Bốn sư đoàn công binh gồm F470, F472, F565, F473 trực tiếp thi công. Đường Trường Sơn sôi động thành một đại công trường với lực lượng trực tiếp thi công gồm công binh, thanh niên xung phong phối thuộc. Nhà nước Cu Ba giúp ta trang bị máy móc hiện đại thi công trị giá 6 triệu USD; cố vấn cho kiến trúc sư, kỹ sư, kỹ thuật viên từng li từng tí, Nhờ vậy, đường chiến lược đã áp sát các đồn bốt, cứ điểm các quân đoàn, quân khu của địch. Ngày 13/5/1973, Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên báo cáo với Thường trực Quân uỷ Trung ương, Bộ Quốc phòng và các Phó Thủ tướng" Đỗ Mười, Phan Trọng Tuệ về kế hoạch xây dựng tuyến đường Trường Sơn chạy suốt Bắc - Nam. Con đường mòn đi dưới tán rừng già, luồn lách trong lòng khe cạn để tránh bom thù. Một thung lũng rộng dài từ Đông Nam Phủ Quỳ chạy men bờ con sông Hiếu (hay còn gọi là sông Con) xuôi theo đường “15A mới” là điểm tập kết bí mật bất ngờ. Hàng vạn công binh, dân công hoả tuyến, thanh niên xung phong được điều động về đây để đào hầm hào cất giấu quân trang, quân dụng; cho xe vận tải, xe tăng, pháo, tên lửa trú ẩn, che chở cho hàng chục sư đoàn quân chủ lực. Khu rừng thiêng nước độc, dọc từ làng Ga, xã Nghĩa Bình xuống Động Thờ, Trại Lạt dài hơn 20km. Nơi đây có ba ngả đường, một ngả nối với đường 15B, một ngả là đường 15 A chạy về Đô Lương, một ngả chính là con đường vận tải chiến lược chạy vào miền Nam. Thiếu tướng Võ Sở Nguyên - Chủ nhiệm chính trị Đoàn 559 là người trực tiếp khảo sát và xây dựng điểm tập kết tại km số 0 này. Đây trở thành nơi trú quân lý tưởng của những binh đoàn chuẩn bị vào Nam chiến đấu. Cũng từ đây, con em miền Nam tập kết ra Bắc năm 1954, họ là những cán bộ, công nhân viên ở các nông trường quân đội quốc doanh: 1 tháng 5, Đông Hiếu, Tây Hiếu, Nông trường 3 tháng 2, sông Con... có nguyện vọng về quê chiến đấu; là lực lượng cán bộ chủ chốt cho cách mạng miền Nam. Và cũng từ đây, đại binh có thể tránh được những cửa tử như ga Si, cầu Cấm, ga Vinh, Truông Bồn, phà Bến Thuỷ, phà Linh Cảm, Ngã ba Đồng Lộc để hành quân theo đường ra trận, tránh được bom đạn đánh phá, tránh được những túi lửa khổng lồ suốt đêm ngày trên tuyến lửa Khu 4. Ngày nay đường Hồ Chí Minh đã được nâng cấp, mở rộng rải nhựa Asphalt phẳng. Cột mốc số 0 cũng đã được tôn tạo và công nhận là Di tích lịch sử đặc biệt cấp quốc gia. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Nghệ An
Nghệ An 2617 lượt xem
Đền Quả Sơn tọa lạc dưới chân núi Quả, nay thuộc xã Bồi Sơn (huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An) cách TP Vinh hơn 70km về phía tây bắc. Ngôi đền có tuổi thọ gần một ngàn năm, quy mô lớn, nổi tiếng linh thiêng này là nơi thờ Uy Minh Vương Lý Nhật Quang – Tri châu Nghệ An. Theo sử sách ghi lại, Lý Nhật Quang là con trai thứ 8 của vua Lý Công Uẩn (tức vua Lý Thái Tổ). Năm 1039, Lý Nhật Quang được nhà vua cử vào trông coi việc tô thuế ở vùng đất Nghệ An với tước hiệu “Uy Minh Thái tử”. Đến năm 1041, Lý Nhật Quang được bổ nhiệm làm tri châu Nghệ An với tước hiệu “Uy Minh Hầu Lý Nhật Quang”. Đây là dấu mốc quan trọng khẳng định vai trò và ảnh hưởng to lớn của Lý Nhật Quang với vùng đất Nghệ An. 3 năm sau, vua Lý Thái Tông đã phong cho Lý Nhật Quang từ tước “Hầu” lên tước “Vương” thành Uy Minh Vương Lý Nhật Quang và ban cho ông quyền “Tiết Việt” (tức có quyền thay mặt nhà vua, được vua tin cậy và ủy thác quyền được định đoạt mọi chuyện chính sự tại Nghệ An). Suốt 16 năm làm Tri Châu ở Nghệ An, Lý Nhật Quang đã thể hiện tài kinh bang tế thế. Với đường lối Vương đạo, thân dân, ông là người có công rất lớn trong việc củng cố, xây dựng Nghệ An từ một vùng đất “biên viễn”, “phên dậu” trở thành một trọng trấn, pháo đài kiên cố cả về quân sự, kinh tế, văn hóa không chỉ đối với nhà Lý mà cả với các triều đại về sau. Trong thời gian trị nhậm ở đây, Ngài đã có nhiều chiến công lớn lao về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng như: Lập nên trại Bà Hòa, cung cấp quân lương cho vua Thái Tông đi mở cõi phương Nam, làm đường, đào kênh, đắp đê, mở thêm 52 châu, 22 trại, 56 sách, giúp nhân dân ổn định đời sống, biên giới được giữ vững, các nước láng giềng kính phục. Năm 1057, Uy Minh Vương Lý Nhật Quang quy hóa và hiển thánh ngay dưới chân núi Quả và được nhân dân xứ Nghệ lập đền thờ gọi là đền Quả Sơn. Chuyện còn ghi lại, sau khi quy hoá, Lý Nhật Quang đã hiển thánh và luôn phù hộ cho triều đình đánh thắng nhiều kẻ thù xâm lược, nên các triều đại về sau, mỗi khi xuất quân đánh giặc đều về đền Quả Sơn thắp hương cầu ngài phù hộ và sau khi thắng trận thì quay về đền thắp hương tạ lễ báo công. Vì thế, người dân nói, Lý Nhật Quang sống đánh giặc, chết hiển linh đánh giặc. Hiện, ngôi mộ linh thiêng của Ngài tại di tích đền Quả Sơn luôn được nhân dân chăm sóc, phụng thờ, hương khói. Đền Quả Sơn được xây dựng từ đầu thế kỷ XI, được liệt vào hàng “quốc tế, quốc tạo”, sau đó được trùng tu nhiều lần vào thời Hậu Lê, Nguyễn. Đến đầu thế kỷ 20, đền trở thành một quần thể có quy mô lớn, gồm bảy tòa, là một trong “tứ đại thắng tích” của xứ Nghệ. Đền Quả Sơn là một công trình kiến trúc cổ, đồ sộ, là công trình hội tụ tư duy sáng tạo, mới mẻ: Bộ khung của các công trình trong đền được lấy từ các nơi đưa về và dựng lại. Đền bao gồm nhiều hạng mục, điển hình như: Tòa nhà hình chữ công gồm Thượng điện, Trung điện và Hạ điện nối liên tiếp với nhau – thờ Uy Minh Vương Lý Nhật Quang, Tả vu thờ Đông Chính Vương, Hữu vu thờ Dực Thánh Vương, phần mộ Uy Minh Vương Lý Nhật Quang, nhà bia, nhà ngựa và ông ngựa… Trải qua bao biến cố, thăng trầm của lịch sử, do thời gian và chiến tranh, đền Quả Sơn ngày nay không còn lưu giữ được quy mô và tầm vóc như xưa. Năm 1952, bom đạn đã làm cho đền bị phá hoại nghiêm trọng. Đền chỉ còn lại tấm bia đá cổ và ngôi mộ của Ngài. Đến năm 1996, thực hiện chủ trương bảo tồn, phục hồi và tôn tạo các di tích lịch sử, văn hóa dân tộc, ngôi đền được chính quyền và nhân dân trung tu. Ngày 12/02/1999, đền Quả Sơn được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng “Di tích lịch sử văn hóa” cấp quốc gia. Năm 2019 Lễ hội đền Quả Sơn được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia, điểm du lịch của tỉnh Nghệ An. Nguồn: Cổng thông tin điện tử huyện Đô Lương Nghệ An
Nghệ An 2581 lượt xem
Khối 2, Quốc Lộ 7, Huyện Con Cuông, Nghệ An, Việt Nam
Hiệp hội du lịch Nghệ An
Chỉ từ : Liên hệ
Giảm giá 0% Travelviet VIP
Giá cuối cùng : Liên hệ
212, Bình Minh, Thị Xã Cửa Lò, Nghệ An, Việt Nam
Hiệp hội du lịch Nghệ An
Chỉ từ : Liên hệ
Giảm giá 0% Travelviet VIP
Giá cuối cùng : Liên hệ