Di tích lịch sử

Việt nam

Thám hoa Giang Văn Minh – Sứ giả kiên cường trên mặt trận đối ngoại

Thám hoa Giang Văn Minh – Sứ giả kiên cường trên mặt trận đối ngoại Làng cổ Đường lâm được mệnh danh là vùng đất “Địa linh nhân kiệt ”, nơi sản sinh ra những vị anh hùng dân tộc, danh nhân, khoa bảng, hiền tài. Họ là những người đã có đóng góp xuất sắc cho sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc. Thám hoa Giang Văn Minh - vị sứ thần tài ba là một trong những người con ưu tú ấy của quê hương Đường Lâm. Giang Văn Minh sinh năm 1573 tại Ấp Mông Phụ. Ông thi đỗ Thám hoa khoá Mậu Thìn, đời Vua Lê Thần Tông năm 1628. Khoa thi này không có người đỗ danh hiệu Trạng nguyên hay Bảng nhãn chỉ có danh hiệu Thám hoa. Ông là người học rộng, tài cao, là nhà ngoại giao uyên bác, khảng khái, dũng cảm. Sau một thời gian được Triều đình cử đi trấn thủ ở vùng đất Nghệ An đến năm 1637. Vua Lê cử Thám hoa Giang Văn Minh dẫn đầu đoàn đi sứ Trung Hoa. Trải qua một quãng đường hành trình vất vả, đoàn đi sứ đã đến được Bắc Kinh. Ông và những người tháp tùng phải ở lại dịch xá một thời gian dài. Nhờ vào tài thao lược thông minh nên ông mới được vào yết kiến vua Minh. Khi vào yết kiến, Vua Minh có ý thử tài sứ thần nước Việt nên ra một vế đối: “Đồng trụ chí kim đài dĩ lục” (Dịch nghĩa: Cột đồng đến nay đã phủ kín rêu phong). Vế đối của Vua Minh có ý ngạo mạn, nhắc đến việc Mã Viện xưa sang xâm lược nước ta, sau khi đàn áp cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng đã cho dựng cột đồng khắc 6 chữ “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” (nghĩa là: cột đồng mà gãy thì dân Giao Chỉ diệt vong) như một lời nguyền nhân dân ta. Nghe xong, Thám hoa Giang Văn Minh rất căm giận nhưng ông vẫn bình tĩnh đối lại: “Đằng giang tự cổ huyết do hồng” (Dịch nghĩa: Sông Bạch Đằng từ ngàn xưa máu vẫn còn đỏ). Vế đối đanh thép, tỏ rõ khí phách anh hùng và lòng tự hào dân tộc, nhắc cho Vua Minh nhớ lại ba lần sông Bạch Đằng nhuốm máu quân xâm lược phương Bắc: Chiến thắng quân Nam Hán của Ngô Quyền (năm 938), chiến thắng quân Tống của Lê Đại Hành (năm 981) và chiến thắng quân Nguyên Mông của Trần Hưng Đạo (năm 1288). Tưởng làm nhục được sứ thần nước Việt, ngờ đâu bị Giang Văn Minh làm nhục. Bất chấp luật lệ bang giao, vua Minh đã hèn hạ sai quân lính mổ bụng ông xem “Sứ thần An Nam to gan lớn mật thế nào”. Sau khi giết hại ông, vua Minh lại khen ông là người tiết tháo, bèn sai lấy thủy ngân ướp xác, cho ngậm nhân sâm và cho vào quan tài đóng kín giao cho phái bộ nước Nam chuyển thi hài ông về nước. Được tin Thám hoa Giang Văn Minh chết một cách anh dũng, Vua Lê và Chúa Trịnh vô cùng thương tiếc. Đích thân vua đã về quê ông ở làng Mông Phụ (Đường Lâm) dự lễ an táng và tặng ông mấy chữ: Sứ bất nhục quân mệnh, khả vi thiên cổ anh hùng có nghĩa là “Đi sứ mà chẳng làm nhục mệnh vua, xứng đáng là bậc anh hùng thiên cổ” và truy phong cho ông chức “Công bộ Tả thị lang, tước Vinh quận công”. Hiện nay, ngôi mộ của Thám hoa Giang Văn Minh vẫn được họ tộc chăm chút cẩn thận tại xứ đồng Gò Đống - thôn Mông Phụ, được xây bệ gạch tay ngai, xung quanh có tường hoa bảo vệ. Còn ngôi quán, nơi làm lễ an táng ông, được nhân dân địa phương gọi là quán Giang để ghi nhớ sự tích của vị sứ thần khảng khái đã làm vẻ vang cho đất nước. Năm 1845, nhân dân trong vùng lập nhà thờ Thám hoa Giang Văn Minh để tưởng nhớ công lao của ông. Khu nhà thờ có diện tích khoảng 400 m2, được kiến trúc theo kiểu chữ nhị gồm tiền đường và hậu đường. Các tòa nhà đều xây gạch, lợp ngói cổ; phần mái bằng gỗ bào trơn, đóng bén, không trạm khắc cầu kỳ. Cổng nhà thờ kiểu mặt bia, xây bằng gạch, trên đắp nổi dòng chữ Hán “Giang Thám hoa công từ” (Nhà thờ Công bộ Tả thị lang Thám hoa Giang Văn Minh). Hậu Đường là nơi thờ chính, 3 gian đều có bệ thờ với các đồ thờ được sơn son thếp vàng đẹp đẽ. Trong nhà thờ còn lưu giữ một số di vật quý như: 4 bức hoành phi, 20 đôi câu đối chữ Hán (10 đôi viết trên gỗ sơn son thếp vàng, 10 đôi viết trên cột tường), 3 tấm bia đá. Nhà thờ Thám hoa Giang Văn Minh được xếp hạng Di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia năm 1991, là nơi linh thiêng ghi công trạng của Thám hoa và cũng là nơi giáo dục truyền thống yêu nước cho thế hệ trẻ. Tại nhà thờ này, ngoài là nơi tôn vinh tri ân công đức của Thám hoa cũng là nơi tôn thờ, vinh danh nhiều vị họ Giang quá cố qua các thời kỳ đã đỗ khoa bảng được bổ nhiệm làm quan lại và giữ các vị trí quan trọng có nhiều công lao lớn cho các triều đại phong kiến. Lần gần đây nhất Nhà thờ đã được tu sửa tổng thể bằng nguồn vốn của Nhà nước, công trình được thi công hoàn thành dưới sự giúp đỡ về kỹ thuật của các chuyên gia và tình nguyện viên thuộc cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản tại Việt Nam (JICA), công trình tu bổ này cũng vinh dự được nhận giải thưởng về kỹ thuật thi công chất liệu gỗ của Ủy ban UNESCO Châu Á – Thái Bình Dương trao tặng vào năm 2013. Ngày lễ tưởng niệm ngày mất của Sứ thần, ngoài những phần nghi thức trang nghiêm, thành kính về sự hy sinh cao cả của ông, thì dòng họ còn tổ chức buổi lễ khuyến học nhằm tôn vinh và động viên các con cháu họ Giang đỗ đạt và giành các giải cao thuộc các cấp học. Nằm ở vị trí trung tâm làng cổ Mông Phụ gần với đình làng và UBND xã, hiện nay nhà thờ họ Giang đang là điểm tham quan thu hút đông đảo du khách trong và ngoài nước.

Hà Nội 9 lượt xem

Xếp hạng : Đang cập nhật Mở cửa

GIẾNG CỔ ĐÁ ONG Ở ĐƯỜNG LÂM

GIẾNG CỔ ĐÁ ONG Ở ĐƯỜNG LÂM Trong hệ thống tổ chức làng xã tại Việt Nam, nhất là ở khu vực đồng bằng Bắc Bộ, giếng cổ đã trở thành một công trình thiết yếu, gắn bó hữu cơ mật thiết với cộng đồng dân cư có đời sống chính là sản xuất nông nghiệp. Cùng với hình bóng của cây đa cổ thụ, khoảng sân đình hút gió thoáng đãng, giếng làng và hình ảnh giá trị của nó đã ăn sâu vào ký ức của mọi người, mọi nhà. Giếng là một người bạn không thể thiếu tại mỗi công trình tâm linh của đình làng. “Bộ ba di sản văn hóa” này luôn được nhân dân đặt ở những vị trí thuận lợi giúp cho việc quy tụ, tập hợp mọi người trong làng một cách dễ dàng. Vùng đồng bằng Bắc Bộ có nhiều ngôi làng gắn liền với đó là những giếng cổ. Nhắc đến những địa danh ấy, người ta không thể không nhắc đến Làng cổ ở Đường Lâm (Sơn Tây, Hà Nội). Ở đó, ngoài những công trình giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể nổi tiếng quý báu trong đó có những giếng cổ đá ong nổi tiếng một thời, luôn tạo ra những ký ức không thể nhạt phai của các thế hệ dân làng, những kỷ niệm vui buồn, niềm kiêu hãnh, tự hào về quê hương, xứ sở địa linh nhân kiệt cổ kính. Giếng đá ong ở Làng cổ Đường Lâm được phân bố ở khắp mọi nơi: nơi tín ngưỡng tâm linh (đình, đền, chùa, miếu, nhà thờ), nơi ở của các hộ gia đình. Tùy từng vị trí mà người ta thăm dò và cho đào giếng. Các mạch nước được phun qua những vỉa đá ong tạo độ trong, sạch, mát, lược bỏ được các tạp chất gây hại. Những viên đá ong được đào lên từ lòng đất, đào đến đâu thì đá cứng đến đó (không vỡ hay bị méo hình tròn của giếng khi những thớ đất đã đào xong). Chính vì thế, đào giếng ở Đường Lâm không phải kè thành, xây tang giếng tròn sẵn rồi thả xuống gắn kết vít mạch (như các vùng chiêm trũng hay trung du Bắc Bộ). Giếng của đình hay chỗ tâm linh thường rộng từ 3 – 5m, sâu 7 – 10m; miệng giếng được đặt những viên đá ong to nguyên khối hoặc từng tảng ghép lại vừa bền, chắc, sạch. Giếng tại gia đình thì có đường kính nhỏ hơn, chỉ từ 1,2 – 1,5m, độ sâu cũng tùy thuộc 5 – 7 – 9m. Giếng ở nơi công cộng như: đầu làng, xóm thì không có gầu múc, ai muốn sử dụng phải mang theo gầu. Giếng tại gia đình lúc chưa có tời kéo thì người ta phải dùng sức người kéo gầu (cũng mất nhiều sức). Sau này, khi có các ròng rọc dây cáp mềm thì nước được múc với năng suất cao hơn, mà người dân lại đỡ tốn sức. Giếng xuất hiện ở nơi công cộng hay di tích thường được đặt tên gắn với địa điểm này như: giếng Đình, giếng Đồng, giếng Chùa. Giếng khơi, có một số tên giếng gắn với các xóm như: ở thôn Mông Phụ có giếng xóm Đình, xóm Sui, xóm Sải, xóm Giang. Riêng giếng ở hai bên ngách đình Mông Phụ được ví như hai mắt rồng thiêng, giếng xóm Giang nổi tiếng là trong mát, pha chè ngon, uống ngọt “Nước giếng xóm Giang, khoai lang đồng Bường”. Giếng nằm ở trước cửa đình, chùa, miếu làm minh đường cho di tích theo thuyết phong thủy của đạo Nho, xung quanh thường được trồng một số cây cổ thụ như: đa, gạo, muỗm. Xung quanh tang giếng hình tròn, phần nhô lên mặt đất, trải qua thời gian, mặt đá ong phủ bóng rêu phong cũng là môi trường tốt để cho loài cây dây leo có tên là cỏ bíu (cây vẩy ốc, vẩy rồng) phát triển, tạo ra hệ thống thân rễ chằng chịt, bám chắc vào mặt tường đá ong. Có những giếng xưa đào hình vuông (tượng trưng cho đất mẹ luôn nuôi nấng, thương yêu đàn con và in bóng những công trình cổ) và giếng hình tròn (giống hình mặt trời) có ý nghĩa ngày ngày luôn soi rọi ánh dương tỏa chiếu hòa khí âm dương. Việc đào giếng được người dân trong làng xem xét, bàn bạc rất kỹ, như phải xem vị trí địa lý, phong thủy nơi đặt thấu đáo để chọn được mạch nước trong mát, ngọt ngào, không đục, không hôi, không mặn; mạch nước phải đảm bảo tuôn chảy quanh năm, suốt tháng. Đầu năm, người ta có phong tục tát giếng để tiếp nhận sinh khí, thịnh vượng mới và cũng vào sáng sớm mồng 1 Tết, nhiều nhà ra giếng làng gánh nước đổ đầy các bể, chum, vại, thùng dự trữ để hy vọng vào một năm gia đình, dòng họ có thật nhiều phúc đức, đại lộc, vì theo phong tục tín ngưỡng của làng thì giếng làng là nơi sâu nhất, nơi hội tụ, chứa đựng sức sống, tài lộc (mạch nước ngầm chảy mãi). Theo tâm sự của nhiều cụ già thì lòng giếng là tấm lòng của con người , của dân làng, cũng như bản chất là: con người bao dung, nhân ái, giếng làng không chất chứa thù hận với những gì đã trải qua. Ở làng cổ còn có một giếng cổ vô cùng nổi tiếng và đã đi vào huyền thoại của biết bao thế hệ dân làng và những vùng lân cận, đó là giếng Sữa hay còn gọi là giếng Chuông Sa ở thôn Cam Lâm, gần khu vực đền – lăng thờ Vua Ngô Quyền. Đó là một giếng nhỏ và nông, đường kính rộng 0,7 – 0,8m, sâu hơn 1m, lòng giếng được kè bằng những viên gạch đá ong. Nước trong giếng Sữa có vị ngọt mát lành hết sức đặc biệt. Nước trong vắt bốn mùa và có thể nhìn thấu đáy. Nói đến giếng Sữa là người ta hồi tưởng đến một câu chuyện truyền thuyết rất ly kỳ về một em bé mới chào đời bị bỏ rơi và một bà lão có tấm lòng nhân hậu, bao dung. Khi gặp em bé này, bà bế đứa trẻ với tiếng khóc như xé lòng, đang nhớ về dòng sữa mẹ. Hai bà cháu đi tìm nhà dân ven đường để xin nước và đi mãi cũng không thấy bóng nhà, bóng người. Tới một thung lũng dưới chân đồi Cấm, hai bà cháu tìm được một mạch nước róc rách chảy từ hang đá, bé đã được bà mớm cho miếng nước trong, bé ngưng khóc và ngủ ngon trên tay bà. Từ ấy, bà dựng lều tại đây nuôi cháu. Khi bà mất, người dân trong vùng lập miếu thờ bà, người ta gọi là Miếu Mẹ bên mạch nước thiêng gọi là giếng Sữa. Khi vào mùa khô, tất cả giếng làng, giếng nhà đều cạn nước thì mạch nước giếng sữa vẫn đầy tràn, dân làng đã đến xin nước ở đây về ăn, uống, sinh hoạt. Ngày nay, giếng Sữa còn được nhiều người mẹ đang thời cho con bú biết đến với phép màu, kỳ lạ đó là mỗi khi người mẹ chảng may bị mất sữa thì nhờ người thân đến đây làm lễ và xin nước mang về uống, ắt nguồn sữa của các bà mẹ lại được hồi phục kỳ lạ. Lối xuống xóm Sải (thôn Mông Phụ) có giếng cổ gần nhà thờ họ Hà, phía trước có một bia đá khắc 4 chữ Hán cổ “Nhất phiến băng tâm”, bia nằm trên lưng một con rùa, và ghi niên đại 1933. Hay giếng Nghè ở thôn Cam Lâm (Nước giếng Nghè, chè Cam Lâm Nước giếng Giang, khoai lang đồng Bường) Đây là hai giếng nổi tiếng là trong, sạch, mát, uống ngon, ngọt Giếng đá ong ở Làng cổ tuy không còn nhiều và được sử dụng thường xuyên nhưng vẫn còn đó các giếng cổ ở những điểm tâm linh tín ngưỡng quý giá và một số khuôn viên các nhà cổ, gia đình truyền thống. Một số giếng còn được nhân dân làm cây hương thờ cúng. Giếng trong các gia đình vẫn được bơm lên sử dụng hàng ngày (tuy không còn nhô lên mặt đất để lộ cái tang giếng tròn bằng đá ong, do muốn tiết kiệm diện tích nên giếng vẫn còn nằm chìm, được che đậy bằng nắp bê tông, lấy nước lên bằng đường ống máy bơm hút chân không). Tuy không có những giếng mới được đào nhưng mỗi lần về thăm di sản văn hóa Làng cổ ở Đường Lâm, nhất là vào dịp mùa hè, thu, sau khi có chuyến tham quan quanh làng, lưu chân tại nhà cổ, không ai có thể bỏ qua phút giây cảm nhận nguồn nước giếng đá ong trong mát từ những chum nước do gia chủ để sẵn phục vụ du khách (rửa mặt mũi, tay chân, thậm chí là uống một ngụm nước giếng đá ong). Chắc chắn du khách sẽ cảm nhận được vị ngọt ngào, mộc mạc, cao quý của mạch nước trong mát, mãi tuôn chảy giống như truyền thống cần cù, hiếu khách, chịu thương, chịu khó của người dân quê hương.

Hà Nội 1 lượt xem

Xếp hạng : Đang cập nhật Mở cửa

Bảo tồn “giếng sữa” ở Đường Lâm

Bảo tồn “giếng sữa” ở Đường Lâm Trong không gian văn hóa Làng cổ ở Đường Lâm, giếng làng là bộ phận không thể thiếu của di sản văn hóa vật thể, tạo nên nét đặc sắc rất riêng trong đời sống người dân nơi đây. “Giếng sữa” ở thôn Cam Lâm xã Đường Lâm được nhiều người biết đến bởi đây là chiếc giếng thiêng, đã mang lại điều kì diệu cho những người phụ nữ đang nuôi con nhỏ bị tắc sữa hoặc mất sữa. “Giếng sữa” là cách gọi dân gian, còn người dân nơi đây vẫn gọi là giếng Chuông Sa. Tương truyền, vào thời loạn lạc, khi nơi đây vẫn là vùng núi hoang sơ không bóng người, một em bé mới chào đời bị bỏ rơi khát sữa khóc ngằn ngặt dưới chân đồi. Một bà lão đi ngang qua chứng kiến nhưng không biết làm thế nào để cháu bé nín. Bà chỉ biết bế cháu bé trên tay đi dọc đường với hy vọng tìm được nhà dân để xin nước. Đi mãi cũng không thấy bóng người, tới một thung lũng dưới chân đồi Cấm, bà thấy một mạch nước róc rách chảy từ trong hang đá bèn mớm miếng nước cho cháu bé uống. Đứa bé bỗng nhiên ngừng khóc và thiếp ngủ trên tay bà. Từ đó, bà dựng lều ở tại đây nuôi đứa trẻ. Khi mất, người dân trong vùng lập miếu thờ bà và gọi là “miếu mẹ” bên mạch nước thiêng gọi là “giếng sữa”. Mạch nước sau đó trở nên thiêng liêng và được nhiều người biết đến. Khi vào mùa khô, tất cả giếng làng đều bị cạn trơ đáy thì thấy mạch nước vẫn đầy ăm ắp, trong vắt. Họ cùng nhau ra gánh nước về ăn, càng lấy nước càng trong càng đầy. Giếng Chuông Sa nằm dưới chân núi Cấm. Tương truyền đây là vùng đất của vua Ngô Quyền nên không ai dám làm nhà trên đất của vua, vì vậy nơi này vẫn còn nguyên vẹn sự cổ kính, rậm rạp. Giếng sữa nằm cạnh con đường mòn dưới chân đồi Nghẽn và núi Cấm thuộc thôn Cam Lâm. Để đến được “giếng sữa” phải đi qua đền thờ Phùng Hưng và lăng Ngô Quyền. Cách vài trăm mét từ Lăng Ngô Quyền theo hướng Nam, vào sâu con đường đất đỏ sẽ bắt gặp “giếng sữa”. Trên thực tế, chiếc “giếng thiêng” này cũng không khác gì những chiếc giếng cổ ở những vùng quê khác. Đó là một giếng nhỏ và nông, khẩu giếng khá hẹp với đường kính rộng ước chừng 70 - 80cm, sâu hơn 1m, lòng giếng được kè bằng đá ong. Đặc biệt, nước trong “giếng sữa” có vị ngọt mát lành hết sức đặc biệt. Nước trong vắt suốt bốn mùa và có thể nhìn thấu đáy có một tảng đá ong cổ đã bạc màu. Ngày nay “giếng sữa” thôn Cam Lâm được nhiều người biết đến bởi nước giếng có khả năng chữa được bệnh mất sữa cho sản phụ mới sinh. Người tới xin sữa chỉ cần thành tâm đọc rõ tên tuổi, địa chỉ bố mẹ và cháu bé thiếu sữa kèm theo thẻ hương trái oản và vài đồng tiền lẻ. Ông bố thì để lại 7 đồng, bà mẹ thì để lại 9 đồng tiền lẻ tại miếu và ra giếng tự tay múc nước cho vào chai. Lễ sau khi cúng không ai được mang về. Các bậc cao niên trong làng chia sẻ: mọi người tuân thủ qui ước này với suy nghĩ rằng lộc được thụ hưởng sau khi làm lễ phải được “tán” cho lũ trẻ quanh vùng. Có như vậy, lời nguyện cầu của họ mới được linh ứng. Nước xin ở “giếng sữa” mang về rót một lần ra cốc cho sản phụ uống hết không được đổ bỏ. Số còn lại mang đi nấu cháo hoặc đun lên cho sản phụ dùng. Một hai ngày sau, sữa mẹ sẽ về. Chuyện giếng Chuông Sa giúp sản phụ có sữa khiến nhiều người về thăm Đường Lâm đều tò mò và muốn đến tận nơi chiêm ngưỡng di tích này. Có thể vì điều này mà bất cứ ai đứng trước chiếc giếng cổ ở Cam Lâm đều có cảm giác khác hẳn với những giếng khác ở làng cổ Đường Lâm. Trong khung cảnh âm u, tĩnh mịch, mỗi người đều tự ý thức cần nói năng nhẹ nhàng nơi bờ giếng. Trong quần thể di tích ở vùng đất hai vua, giếng Chuông Sa như là một bảo vật của làng. Những giọt nước mát lành từ chiếc “giếng sữa” này đã đem lại sự bình yên trong tâm hồn của những người mẹ trẻ, giúp họ cân bằng cuộc sống và ở góc độ nào đó, đã đạt được ước nguyện của mình. Với người dân Đường Lâm, giếng làng lại là bộ phận không thể thiếu của di sản văn hóa vật thể của làng cổ, tạo nên nét đặc sắc rất riêng trong đời sống người dân nơi đây. Thiết nghĩ, việc gìn giữ và bảo tồn hình ảnh những chiếc giếng cổ sẽ làm tăng thêm giá trị di sản của ngôi làng Việt cổ Đường Lâm. Điều này đòi hỏi quyết tâm cùng sự chung tay nỗ lực của người dân cùng chính quyền địa phương để giếng cổ - nét độc đáo của văn hóa Đoài sẽ tồn tại mãi với thời gian.

Hà Nội 13 lượt xem

Xếp hạng : Đang cập nhật Mở cửa

Nét độc đáo kiến trúc nhà cổ ở Đường Lâm

Nét độc đáo kiến trúc nhà cổ ở Đường Lâm Đến thăm quần thể di tích làng cổ ở Đường Lâm, ngoài việc được chiêm ngưỡng tìm hiểu các loại hình di tích lịch sử văn hóa kiến trúc nghệ thuật quý báu như: đình, đền, chùa, miếu, lăng, quán, điếm, văn chỉ, võ chỉ…, hòa mình trong các lễ hội làng linh thiêng, rộn rã hay thưởng thức các món ăn văn hóa ẩm thực độc đáo thì du khách còn không thể bỏ qua việc đến tham quan các ngôi nhà cổ tiêu biểu đang tồn tại trong ngôi làng cổ tiêu biểu của vùng đồng bằng Bắc Bộ này. Nhà cổ ở Đường Lâm được xây cất bằng các loại truyền thống đặc trưng của vùng xứ Đoài bao gồm đá ong, gỗ, tre, nứa, rơm rạ, bùn non, đất sét mịn, mùn cưa, trấu, gạch nung các loại. Đá ong là loại vật liệu chính để xây các bước tường, đầu hồi, cổng hay tường rào, ngoài dùng để xây nhà ở, loại đá ong này còn được dùng để xây các công trình công cộng, văn hóa tín ngưỡng như: cổng làng, đình, chùa, miếu, điếm, quán, giếng cổ… Với đặc điểm là nhà xây xong bảo đảm khí hậu thông thoáng, ấm áp về mùa đông, mát mẻ về mùa hạ, chính vì thế người ta còn gọi ngôi làng này là “làng Việt cổ đá ong”. Gỗ để làm nhà nếu xưa là nhà có kinh tế, vai vế trong làng thì họ cất bằng loại tứ thiết (đinh, lim, sến , táu). Còn thông thường những nhà có kinh tế vừa phải thì làm bằng gỗ xoan là chính. Xoan được trồng ở gò đồi. Tre, vầu cũng được trồng ở gần rạch, mương, rãnh; thường là loại tre gai già, không gãy ngọn. Gỗ xoan – tre thường được ngân dưới đáy ao hồ thành bè, nơi đáy ao hồ có nhiều bùn nhằm chống lại sự gặm nhấm xâm hại của mọt. Việc ngâm thường diễn ra càng lâu càng tốt, 6 – 8 tháng hay 1 năm, lúc vớt lên bóc vỏ xoan để phơi chúng ra nắng ráo cùng với tre nó bốc mùi rất khó chịu mới được coi là ngâm kỹ bảo đảm. Mái nhà được lợp bằng các loại ngói như mũi ri, mũi hài, vảy cá, thông thường là người ta lợp một lớp ngói lót trước (còn gọi là gạch lót) và lợp từ dưới giọt gianh lợp lên. Loại ngói này xưa thường được mua qua thuyền bè chở ngược sông Hồng từ các địa phận làm gốm nổi tiếng như: Bát Tràng (Hà Nội), Chu Đậu (Hải Dương), Giếng Đáy (Đông Triều – Quảng Ninh), Phù Lãng (Bắc Ninh). Các loại vật liệu như tre được làm đòn tay dui mè, cũng có nhà làm bằng gỗ xoan, hay gỗ pha từ các tấm lớn. Đinh chốt các điểm mấu quan trọng cũng làm bằng cột tre già, phía mặt đằng trước nhà trên cùng giáp cửa là hàng con tiện có thể làm vuông, tròn… Nhà cổ thường quay mặt về hướng Nam, thiết kế theo kiểu 5 gian 2 dĩ, hay 7 gian 2 dĩ, được bố trí nhiều cửa quay vào trong. Cửa được làm chủ yếu 2 loại là bức bàn và cảnh phố. Loại kiểu bức bàn tạo cảnh tiện lợi khi nhà có việc lớn cần không gian thì gia chủ thường nhấc ra cho rộng rãi thêm và đặt cửa xuống làm phản ngồi, ăn cỗ. Nhà được bố trí 5 – 7 hàng chân, 2 cột cái và cái cột quân. Mỗi cột được đứng trên bệ kê đá xanh, phía giáp đất có hình vuông, phía đỡ cột có hình tròn (tượng trưng cho tư duy của người Á Đông – trời tròn đất vuông). Một số nhà cổ nhìn lên trần nhà cái dui, mè, đòn tay và kèo, xà nóc hay ngả màu, bồ hóng đen ấy là do xưa kia các nhà thường đốt lửa bằng bếp củi để sưởi ấm cho mùa đông, nhất là những dịp có người sinh nở, hay cụ già yếu, ốm… Nền nhà thường sử dụng chính là nền đất được nện, đầm cho chắc chắn. Một số nhà dùng sỉ vôi sau đó họ chặt đôi những hạt trám đóng xuống nền theo các ô hình tứ giác, bình hành, ngách cửa để thông cách ô cho thoáng nhà, cũng như dễ quan sát phòng bị khi có kẻ trộm (nhìn thấy chân của chúng) muốn đột nhập vào nhà. Gian giữa là nơi đặt các ban thờ người cao nhất trong 3 đời, 2 gian bên cạnh cũng đặt các ban thờ người quá cố trong dòng họ xếp theo thứ bậc (nếu là vị trưởng họ). Ban thờ có thể có nhiều bát hương và nhân vật hơn dưới bàn thờ các bộ sập hay phản bằng gỗ lim loại to bản, dày, 2 gian trái phải thường được kê các bộ trường kỷ: 1 bàn 2 ghế dài để tiếp khách bằng ấm trà pha chè xanh, thường là tích nước ủ vào hũ kèm 6 cái bát xứ nâu xỉn, bình vôi, ăn trầu, cái điếu bát, ống đựng đóm. Phía dưới bàn là một vài thứ như cơi trầu, chén phụ, ấm pha trà tàu (chè búp khô), bình đựng vôi nhỏ, điếu bát hay một thùng gỗ nhỏ dựng chiếc điếu cày được làm bằng dóng tre giữ lại cái mấu. Hai gian buồng dành cho con gái hoặc con dâu, ngoài ra cũng là kho đựng thóc, nồi niêu, bát đũa, hòm rương nhỏ. Ngoài hiên nhà có đặt 1 hay 2 chõng tre (một vài nhà hiện còn giữ chiếc hòm gian kê ngay dưới bàn thờ chính). Hòm này xưa đựng 1 vài thứ quý, tư trang dụng cụ đắt tiền, nông sản giống (thóc nếp, tẻ, lạc đỗ…) tránh được chuột bọ xâm nhập. Các công trình khác liên quan đến nhà cổ cũng không thể không kể đến là nhà ngang, bếp, giếng nước, sân, vườn, bình phong, chuồng trại nuôi gia súc gia cầm, cổng vào, cây hương. Trong đó, bình phong và cây hương cũng có vai trò tâm linh quan trọng trong gia đình. Bình phong đắp ở bờ tường, đối diện gian thờ - cửa chính, có thể bằng khảm trai hai vỏ trứng, đồ sành sứ nổi men ngọc bóng. Cây hương được xây ở góc sân hay chếch với gian đầu, cuối nhà, giếng nước đá ong xưa cũng có vai trò không nhỏ trong sinh hoạt của gia đình và chăn nuôi gia súc, gia cầm. Giếng được đào khá sâu. Ở những thôn có vị trí cao như Mông Phụ, Cam Lâm, mạch nước được thẩm thấu qua các vỉa đá ong nên đã khử lọc được các tạp chất độc hại, đạt độ trong sạch, không gây hại cho sức khỏe của con người. Việc lấy nước từ giếng lên cũng trải qua nhiều thời kỳ, bằng các dụng cụ khác nhau (vì giếng phải đào sâu). Lúc đầu, người dân dùng gầu và dây thừng múc từng gầu. Sau cải tiến, dùng tời quay bằng dây cáp bôi mỡ công nghiệp (loại dây nhỏ). Lúc này, gầu được thiết kế to và cong suất vì thế cũng tăng lên, không hao tổn sức người nhiều như trước nữa. Rồi khi có điện và khoa học phát triển tiến bộ, mọi nhà dùng máy bơm hút chân không, xây bể lọc nên nước được dự trữ, tách lọc qua cát sỏi hay than hoạt tính, càng bảo đảm hơn. Ngày nay, tuy đã có hệ thống nước máy bao phủ nhưng nhiều gia đình vẫn còn giữ lại giếng đá ong nhưng là giếng chìm (không để nhô tang giếng lên bề mặt để tiết kiệm diện tích và thay thế bằng nắp bê tông kiên cố phủ kín bề mặt). Giếng nước vẫn được sử dụng, là nguyên liệu quý để làm tương, pha trà… Riêng cổng được làm 2 mái, lập ngói vẩy cá, có hai cách quay vào trong, mỗi cách có 1 tay nắm hình trọn được chế tác bằng gỗ mộc. Trong nhà cổ mỗi gia đình còn lưu giữ được nhiều hiện vật quý như: gia phả, tài liệu Hán Nôm, đồ thờ, hiện vật liên quan đến cuộc sống sinh hoạt của mỗi thành viên như: đám cưới xưa, trang phục, tranh ảnh, dụng cụ sản xuất. Đặc biệt trên mái nhà hầu như nhà nào cũng có thước lỗ ban gác trang trọng ở gian giữa, ngoài vườn luôn xanh mát 4 mùa bởi những cây ăn trái lâu năm mùa nào thức ấy như lựu, doi, hồng xiêm, ổi, mít, bưởi, chanh, nhãn, vải, chuối… Nhiều nhà rộng hơn còn có cả ao, góc sân có để một số chum vại sành để ủ tương bần. Những chum tương ấy được ví như cái “tủ lạnh” quý khi xưa sau mỗi ngày gia chủ có sự kiện như tiệc, giỗ, cưới, chay. Họ thường ủ vào đó những khẩu thịt lợn luộc gần chín tới (khi không dùng hết) hay những quả cà bát. Lúc mang ra ăn chất lượng của nó càng ngon và hấp dẫn hơn. Những quả cà bát to ủ trong đó ngấm thấu hết những cái ngon tinh túy của tương bần, gắp ra xé phay nó ngả màu hổ phách, thêm vào tý dấm, đường, tỏi là ăn thay thức ăn được. Các dòng họ trong làng cổ thường hẹn nhau xum họp ngày chạp tổ, thông thường nó diễn ra vào dịp cuối năm, hay Tết đến xuân về, hội đình làng hay Tết Thanh minh. Ở Đường Lâm có những họ nổi tiếng như họ Phan, Hà, Giang, Đỗ, Kiều, Cao. Người trong khu vực làng cổ thường có quan hệ khăng khít với nhau. Họ thường dùng tên con trưởng (con trai đầu) để gọi thay tên cho bố mẹ đẻ, nhà ai có người mất phải có lệ mời anh em họ hàng đến thăm viếng, và viếng xong phải ra mâm ăn cơm chia buồn với gia đình. Bà cụ cao tuổi trong nhà còn được gọi là “gổ”. Mỗi di tích trong làng thường cử ra một người có uy tín trông coi còn gọi là cụ từ. Cụ này phải là người có uy tín trong làng (con cháu nếp tẻ đầy đủ, gia đình gương mẫu, không ai vi phạm pháp luật hay tệ nạn xã hội). Ông chủ tế của đình – đền phải là người có đủ tiêu chuẩn trên, nếu đang làm nhiệm vụ mà cụ từ có anh em trong 3 đời mất (người ta gọi là có cớ, có bụi) phải dừng và trả lại nhiệm vụ cho làng ngay. Bữa tiệc của đình, làng, xóm hay họ, gia đình thường phải có đủ các món như xôi, thịt gà trống, chè kho, bánh gai… Riêng ở làng Đông Sàng có tiếng là nơi nấu cỗ ngon, bày trang trí mâm cỗ đẹp. Những sản vật trong làng thì có vừng trồng ở Lồ Cang, khoai lang Đồng Bường, kẹo lạc dồi ở Đông Sàng, gà Mía, bánh rán nước, xôi đồ chim ngói mùa tháng 9 âm lịch, cá kho tương, tương bần làng Mông Phụ… Nhà cổ thường chia quyền sở hữu cho các cho các con trai trong nhà tùy theo nhà có từ 2, 3 hay 4…Có những nhà chỉ có duy nhất một anh con trai, còn lại toàn các chị em gái thì vai trò của anh này càng lớn. Các cháu nội ngoại dù đông bao nhiêu nhưng vai trò của cháu nội, là nam luôn được chú ý đề cao và nhấn mạnh. Nên một trong những người này muốn lấy lại phải thương thảo với những người kia (do bố mất để lại di chúc) nên một số nhà cổ hiện nay mặc dù chỉ có một gia đình ở nhưng lại là quyền sở hữu của vài người anh em ruột. Mỗi ngôi nhà lại có những nét kiến trúc cổ, lối bố trí không gian trong và ngoài khác nhau như: nhà ông Nguyễn Văn Hùng khác nhà ông Hà Hữu Thể, nhà bà Lan khác với nhà ông Hà Nguyên Huyến, nhà ông Hà Vĩnh, nhà ông Nguyễn Văn Vững, dáng dấp cả phương Đông lẫn Tây Âu (Pháp), kiến trúc nội tự ngoại khách…Trong vườn nhà khi chưa phải chia cho các con là lúc lập gia đình, sinh con thì đó cũng là môi trường tốt để cho gia đình trồng các loại cây hoa, ăn quả như: xoài, nhãn, ổi, mít, chuối, na, thị, vải, lựu, bưởi, khế, quất….Các loại hoa như: mộc, giấy, đỗ quyên, quỳnh, nhài, ngâu, sói,…các loại gia vị như: hành, tỏi, ớt, hẹ, gừng, giềng,….tạo màu sắc xanh tươi, mùi thơm bốn mùa trong không gian nhà cổ như: dịp đông xuân là mùi thơm thoang thoảng, dịu ngọt của hoa mộc, đầu thu là mùi quả thị, hương lá nếp, mùa hè là sắc đỏ của những chùm vải, chùm quất đen bóng dưới cái nắng đặc trưng của vùng xứ Đoài ấp cổ. Trong số lượng nhà cổ 97 cái còn tồn tại ở di tích làng cổ thì có 2 thôn là có số lượng nhà cổ nhiều nhất là Mông Phụ và Đông Sàng. Một số hộ gia đình đang sở hữu nhà cổ đã biết tận dụng lợi thế để khai thác đón khách tham quan, tạo ra các sản phẩm dịch vụ phục vụ nhu cầu của khách trong và ngoài nước đã mang lại kết quả khá cao. Họ giữ nguyên hiện trạng không gian cổ kính, hình thành các khu dịch vụ ra bên cạnh nhưng cách lắp ghép, xây dựng cũng phù hợp với cảnh quan chung, tự sưu tầm bổ sung những hiện vật có niên đại liên quan đến phong tục, tín ngưỡng tập quán để trưng bày trong không gian nhà cổ. Điều đó càng làm tăng thêm sự hấp dẫn và thu hút khách mỗi khi đến thăm. Tuy nhiên trong số đó vẫn còn nhiều nhà cổ đã trải qua niên đại lâu đời chịu sự tác động của khí hậu, côn trùng, nên các cấu kiện bằng gỗ, các hạng mục khác đều bị mai một xuống cấp rất cần sự bảo tồn phục dựng hỗ trợ của các cấp lãnh đạo chính quyền cũng như sự chủ động của nhân dân – qua đó góp phần vào công tác bảo tồn và phát huy các giá trị của di tích làng cổ ở Đường Lâm một cách bền vững hiệu quả.

Hà Nội 4 lượt xem

Xếp hạng : Đang cập nhật Mở cửa

ĐÌNH ĐOÀI GIÁP

ĐÌNH ĐOÀI GIÁP – DI SẢN VĂN HÓA QUÝ TRONG LÀNG CỔ Ở ĐƯỜNG LÂM Theo dân gian truyền thống cũng như một số nguồn sử liệu thì đình Đoài Giáp được cất dựng từ thời vua Ngô Quyền thế kỷ thứ X, khi đó di tích chỉ là một ngôi miếu nhỏ do nhân dân trong làng dựng lên để tưởng nhớ công đức của Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng và suy tôn ông là vị Thành Hoàng làng của cả làng. Ngoài tên gọi là đình Đoài Giáp, đình còn có tên gọi khác là “Đoài Giáp từ” – chữ Hán Nôm (đền Đoài Giáp). Đình được tọa lạc trên một thế đất đẹp, thoáng đãng giữa trung tâm làng, phía trước mặt đình là một hồ nước rộng hình tứ giác, quay mặt ra hướng Tây Nam, người xưa rất khéo khi chọn không gian cảnh quan, phong thủy hợp với tâm linh tín ngưỡng và ý nguyện của dân làng phía sau đình là khu vườn rộng để nhân dân trồng cây ăn trái, 2 bên đầu trái phải của đình là 2 giếng nước được dân làng đào và xây các thành giếng bằng đá ong (loại vật liệu đặc trưng của vùng xứ Đoài), nước ở giếng được dân làng sử dụng sinh hoạt hàng ngày và quanh năm không bao giờ cạn, dân làng xưa vẫn quen gọi đây là “giếng mắt rồng”, đầu rồng hướng về hướng đông “xóm Hớm”, đuôi rồng hướng về hướng Bắc (đường liên thôn), phía xung quanh là một số ngôi nhà cổ có niên đại hàng mấy thế kỷ với mái ngói rêu phong cổ kính trầm mặc. Dù trải qua thời gian dài chịu sự tác động không nhỏ của những yếu tố như: chiến tranh, khí hậu, sự xâm hại của côn trùng mối mọt nhưng trong các hạng mục kiến trúc kết cấu của Đình vẫn giữ lại được những nét chạm trổ, điêu khắc cổ mang đậm dấu ấn của những ngôi đình làng cổ Việt Nam. Đình gồm những hạng mục công trình như “Tiền tế”, “Hậu cung” bố trí song song theo hình chữ “nhị” ngăn cách nhau bằng một sân rộng có chiều dài 7,2m, được lát bằng gạch Bát Tràng, 2 hạng mục trên có độ cao gần bằng nhau, song hậu cung có kích thước rộng hơn nhà tiền tế, hậu cung gồm 3 gian, bộ vì có kết cấu “chuồng rường giá chiêng”. Tường đốc giá ngoài xây kiểu bổ trục giật tam cấp, các hệ thống cột quân, cột cái, cửa khám, cửa ra vào hậu cung đều được làm bằng gỗ (loại tứ thiết) vững chắc, bờ nóc là cột trục biểu vuông đầu đắp đèn lồng và “đôi Nghê” chầu cách điệu, linh vật “Nghê” có đôi mắt tròn, lồi, mũi sư tử, khoằm miệng mở rộng nhìn xuống, lông chân sau là những vằn xoắn lớn. Theo quan niệm của người Việt xưa, Nghê biểu hiện cho sức mạnh của thiên nhiên, phần bờ dải, bờ guột đắp nổi hình “dơi vũ cách” và đề tài “Phúc – Lộc – Thọ” mang nhiều ý nghĩa tâm linh sâu sắc, mái đình dốc ngắn được lợp ngói mũi hài nay như trên mình lớp rêu phong cổ kính, tàu mái hơi vuốt cong được cài then con sỏ vào xà hạ với chiều dài 9,6 m, lòng nhà 8 m, cao 5,2 m và nền nhà hậu cung cao hơn sân trong sân ngoài gần 1m. Ngoài đôi trục tay ngai còn có 4 trụ vuông tạo sự vững vàng, trên các mặt trụ vuông có những câu đối bằng chữ Hán, sơn son thiếp vàng tăng vẻ cổ kính và giá trị của di tích, hệ thống thờ tự trong đình được bài trí rất quy mô, cân xứng, đảm bảo tôn nghiêm trang trọng. Gian bên trái Đình là ban thờ : “Bản thần thổ đất” (Thần Đất), nơi đây được bài trí một số đồ thờ quý được chế tác bằng các chất liệu như: đồng, gỗ, gốm, vải, giấy, nổi bật là bộ lư hương đồng được đúc tỉ mỉ công phu hình “đôi sư tử quả địa cầu” thể hiện ước mơ, tài năng sáng tạo của các nghệ nhân xưa, niên đại của cổ vật này có cách đây 2 thế kỷ, gian bên phải là ban thờ “Bộ hạ thần vị”, 2 bên ban trang trí hình “Rùa đội hạc”, mỏ hạc ngậm hoa sen gợi lên vẻ đẹp thanh tao nơi cửa thánh hiền, các đồ thờ khác ở đây cũng rất đa dạng, độc đáo, đáng lưu ý là bát hương được làm bằng gốm sành đất ở giữa ban thờ, giữa trán bát hương đắp nổi hình linh vật “lưỡng long chầu nguyệt” (2 linh vật rồng chầu mặt nguyệt) ở giữa bát hương có hình chữ “thọ” biểu hiện sự trường tồn vĩnh cửu với thời gian, bát nhang này có niên đại vào giữa thế kỷ XVIII. Nổi bật nhất giữa hậu cung là khám thờ Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng. Khám thuộc loại lớn được chạm trổ công phu với nhiều linh vật quý, thiêng, trong khám có đặt bài vị, trên đỉnh khám treo một dòng chữ Hán cổ sơn son thiếp vàng là “Thánh cung vạn tuế” khẳng định người sống mãi trong tâm khảm của mỗi người dân trong làng. Bộ khám này được chế tác vào khoảng đầu thế kỷ XVIII, các đồ thờ trong khám cũng rất phong phú, bằng các chất liệu khác nhau có niên đại cuối đời nhà Lê đầu nhà Nguyễn. Nhà tiền tế đã được sửa chữa lại vài lần, lần bị hư hỏng nặng nhất là trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Trong Đình hiện còn lưu giữ 1 quả chuông đồng đề 4 chữ Hán “Đoài Giáp từ chung” (chuông đình Đoài Giáp) đúc năm Tự Đức thứ 13 – 1861. Ngoài ra trong đình hiện còn lưu giữ được 6 đạo sắc phong quý có niên đại từ đời vua Minh Mệnh đến Khải Định (Đây là di tích rất tiêu biểu của vùng còn lưu giữ được các sắc phong), một số bia đá được tạc đời Hồng Đức thứ 4 (1474) ghi lại tiểu sử và công trạng của vua Phùng Hưng, long ngai bài vị, giá văn (thế kỷ XVIII), kiệu bát cống… đó là những nguồn sử liệu vô giá để cho các thế hệ sau này nghiên cứu và minh chứng về công lao của người với dân với nước. Điều hiếm thấy ở các di tích không có được là nóc nhà hậu cung là nơi trú ngụ của hàng trăm con dơi (cũng là loại động vật quý). Dơi gắn liền với ngũ phúc là “phú – quý – thọ - khang – ninh”. Với những giá trị văn hóa lịch sử tiêu biểu, đình Đoài Giáp đã được Nhà nước xếp hạng vào năm 2001, lễ hội của Đình diễn ra trong 2 ngày 7 và 8/1 âm lịch. Nhà văn hóa của thôn gần với Đình nên rất thuận tiện cho việc tổ chức các nội dung như lễ hội, hội họp tọa đàm cộng đồng, tuyên truyền, thu hút nhan dân và du khách đến tham dự (do Đình nằm ở vị trí trục đường thuận lợi; dịp lễ hội của Đình luôn thu hút đông đảo nhân dân ở trong và ngoài địa phương tham dự, là ngày hội, là niềm tự hào vinh dự của mỗi người con trong làng. Hiện tại Ban lãnh đạo địa phương cũng cắt cử các cụ cao niên trong làng ra trông coi, dọn dẹp, quản lý di tích, thường xuyên phục vụ nhu cầu hành lễ của bà con trong làng và du khách. Hiện tại, di tích đã được Nhà nước đầu tư kinh phí để tôn tạo, tu bổ lại các hạng mục cũng như: khuôn viên, không gian, cảnh quan bên ngoài, đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu của nhân dân và du khách.

Hà Nội 10 lượt xem

Xếp hạng : Đang cập nhật Mở cửa

ĐÌNH CAM THỊNH

ĐÌNH CAM THỊNH Đình tọa lạc theo hướng Đông Nam thuộc khu vực thôn Cam Thịnh (một trong năm thôn hợp thành di tích Làng cổ ở Đường lâm, thị xã Sơn Tây, Hà Nội). Đình thờ Đức Thành hoàng Bản thổ Kỳ Đại vương và Đức gia hậu Thượng tướng quân Cao Phúc Diễn cùng phu nhân là bà Giang Thị Thắng – người chị gái của sứ thần tài ba Giang Văn Minh. Đình được dựng vào thời vua Lê Thần Tông (1649 – 1662) với phần công đức lớn của vợ chồng tướng quân Phù Việt Hầu (là người làng Cam Thịnh đã có công giúp nước về nội trị và ngoại giao dưới thời vua Lê Trung Hưng). Đến nay, ngôi đình đã được tu bổ 3 lần, lần cuối vào năm Bính Thìn (1916). Ngoài ra còn có một số lần tu sửa nhỏ do nhân dân trong làng tự nguyện làm. Đình Cam Thịnh mang nhiều nét đặc trưng của kiến trúc nghệ thuật thời Nguyễn. Kết cấu kiến trúc của đình gồm 3 phần: Nghi môn, Tả mạc, Đại đình. Ngoài cùng là một Nghi môn trụ có niên đại vào thế kỷ XX. Đây là những trục thông linh, hai trụ giữa lớn hơn ở trên đỉnh là “tứ phượng” và hai trụ nhỏ hơn ở trên đỉnh là đôi lân trong thế ngồi nhìn xuống. Bước qua nghi môn là là một sân rộng, ở phía bên trái là dãy nhà tả mạc 4 gian kiểu “tường hồi bít đốc”. Đại đình Cam Thịnh được làm theo kết cấu chữ Đinh, với tòa Đại bái gồm 3 gian 2 dĩ, mặt bằng 4 hướng chân cột gỗ, 4 bộ. Nối liền với gian giữa Đại bái là một chuôi vồ 3 gian bằng hệ thống kẻ suốt chạy từ nóc xuống mái, bộ vì ngoài cùng của Hậu cung được bưng kín và làm hệ thống cửa ngăn cách Đại bái với cung cấm, bộ vì bên trong được làm theo kiểu “chồng rường” với kỹ thuật bào trươn đóng bén. Cung cấm được bưng kín mặt trên một sàn gác lửng cao 1.8 m, phía trước cung cấm là bộ cửa khảm gỗ có diềm gỗ chạm lộng. Bên ngoài cửa cung cấm là một sàn lửng bài trí đồ tế tự. Đình được xây dựng ở nửa sau thế kỷ XVII nên dấu tích xưa nhất trong điêu khắc đình còn đọng lại ở một số rường nách của các bộ vì đỡ hai mái hồi và 3 đầu dư kìm hình rồng ở 2 nách bộ vì chính. Những đầu rồng này tuy đã bị rụng, hỏng, mất nhiều chi tiết đao mác, chân…nhưng còn nhận rõ những dáng vẻ và điệu bộ như: mũi hếch, trán rô, mắt lồi, tai dơi… Đây alf dạng đặc trưng của điêu khắc cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII. Các xà nách của đình chủ yếu được bào trơn soi chỉ, duy có một số đầu xà, rường được điểm hình hoa lá cách điệu, ở các thân bẩy, các cành, hoa, lá trang trí được cách điệu thành các hình tượng lá hóa rồng, lân một cách tinh tế. Những mảng chạm này măng đặc trưng của điêu khắc thế kỷ XIX. Trong đình hiện còn lưu giữ một số di vật quý như 5 đạo sắc phong có niên đại sớm nhất mang niên hiệu Cảnh Hưng thứ 28 (1767), 1 tấm bia đá dựng năm Vĩnh Thịnh thứ 8 (1712), cao 132 cm, rộng 80 cm, dày 4 cm có 2 mặt khắc chữ, một bộ kiệu luyện tạo tác ở thế kỷ XVIII. Các đòn cái được cách điệu thành hình rồng, đòn cái dài 4m, đòn ngang dài 2.1 m và mui luyện uốn cong, một bộ long ngai bài vị thờ Đức bản thổ kỳ Đại vương. Đây là tác phẩm điêu khắc cuối thế kỷ XVIII. Lễ hội của đình làng được dân làng và chính quyền tổ chức vào ngày 11, 12 tháng giêng âm lịch. Mọi người con của thôn quê và ở các nơi tụ hội về đình để tưởng nhớ đến công đức của vị Thành hoàng làng, Đức Thánh gia hậu cùng thầy dạy của ông. Trong các ngày này còn diễn ra các trò chơi truyền thống, sinh hoạt văn hóa dân gian như: tế lễ thành hoàng, múa sen, múa sinh tiền, rước kiệu thánh, rước kiệu lễ vật, bịt mắt bắt dê, đấu vật, chơi đu, chọi gà…Đình Cam Thịnh đã được Nhà nước xếp hạng là Di tích lịch sử văn hóa vào năm 2000, nằm trong vùng đất cổ có nhiều di sản văn hóa quý và truyền thống của làng văn hóa tiêu biểu cấp tỉnh. Di tích đình Cam Thịnh cùng một số nhà cổ ở thôn đã trở thành điểm tham quan thu hút đông đảo du khách trong và ngoài nước. Tuy nhiên, trải qua thời gian dài do tác động của người dân và khách tham quan, hiện tại các hạng mục của đình đã được Nhà nước tu bổ, tôn tạo, đáp ứng nhu cầu tham quan tìm hiểu của du khách và Nhân dân.

Hà Nội 10 lượt xem

Xếp hạng : Đang cập nhật Mở cửa

Chùa Ón (Ôn Hòa Tự)

Chùa Ón (Ôn Hòa Tự) Ngôi chùa độc đáo của Di tích Làng cổ ở Đường Lâm Chùa Ón nằm ở khu vực giữa cánh đồng, cách cổng làng Mông Phụ vài trăm mét. Nhìn vào tổng thể của di tích này chỉ giống một ngôi nhà nhỏ với mái ngói mũi ri rêu phong cổ kính, tường được xây bằng gạch chỉ mỏng, nung thủ công. Các vật liệu khác cũng được cất dựng bằng các loại vật liệu truyền thống của vùng bán sơn địa. Tên chữ Nôm của chùa được mọi người quen gọi là Ôn Hòa Tự. Cũng không có nguồn tài liệu nào khẳng định mốc thời gian cụ thể mà dân làng gọi tên chùa Ón, và cũng có nhiều câu hỏi đặt ra là Tại sao gọi là chùa mà không có một vị tượng Phật hay hiện vật quý nào được yên vị để thờ phụng. Vào ngày rằm, mùng 1 đầu tháng cũng hiếm khi thấy có người mang lễ vật ra cúng bái, hành hương (chỉ trừ ngày 3/3 và 1/4 âm lịch hàng năm). Dù đã trải qua một vài lần tu bổ, trong đó lần được thực hiện gần đây nhất là vào năm 2010, với sự giám sát của các chuyên gia thuộc cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản tại Việt Nam (JICA). Trong quá trình tu bổ, các nhà khoa học Nhật Bản và cán bộ theo dõi thi công, giám sát của cơ quan đã thực hiện thành công gia cố bức tường bị nghiêng của chùa đang ở mức nguy hiểm trở về hiện trạng an toàn. Các hạng mục của chùa Ón được tu bổ tổng thể. Giai đoạn vài năm trở lại đây, dân làng cũng gia cố thêm một số hạng mục phụ cận khác như: đường vào, trồng cây xanh ở xung quanh, mở rộng sân trước của Chùa. Mỗi khi đến thăm nơi này, du khách thường được dân làng kể lại một giai thoại liên quan đến Chùa rằng: Ôn Hòa là tên một vị tướng người Tàu (Trung Hoa cổ đại), khi mãn hạn làm quan ở Việt Nam, ông dành chút thời gian để đi vi hành đến đất Đường Lâm thì thấy cảnh đẹp. Ông bèn xin dân làng cho ở lại khai khẩn, trồng cấy nuôi thân. Sau nhiều năm chịu thương chịu khó tích lũy có bát ăn bát để, ông bèn dựng một ngôi nhà để trấn yểm long mạch cho làng. Vì xuất thân là một võ tướng, có tài võ nghệ nên vào những ngày rảnh rỗi, ông thường mời gọi thanh niên trai tráng trong làng ra để dạy truyền võ nghệ. Ngoài mục đích rèn luyện sức khỏe, còn là để đề phòng giặc giã, cướp bóc đến xâm hại làng xóm. Trước khi lâm chung, ông đã cho đúc quả chuông đồng khắc 4 chữ “Hồng chung ôn hòa”. Tương truyền, dân làng Mông Phụ vẫn lưu giữ đến ngày nay. Ngoài ra, trên 2 câu đầu của chùa, hiện vẫn còn lưu giữ những dòng chữ Hán Nom, tạm đọc là “Khởi tạo Bính Dần niên, Quý xuân, Nhâm Tý nhật, Mão khắc động thổ, Bính cơ, Ất Mão nhật, Dậu thời, thu trụ thương lượng cát. Tạm dịch là: chùa được khởi công năm Bính Thân, cuối mùa xuân, ngày Nhâm Tý, giờ Dậu bắc nóc và phú quý thọ khang (giàu sang, sống lâu, khỏe mạnh).Lễ hội ngày 3/3 tại Chùa Ón. Hội chùa diễn ra vào ngày 3/3 âm lịch hàng năm, cũng trùng với ngày tết Hàn thực của người dân nói chung ở các làng quê đồng bằng Bắc Bộ. Ngoài lễ vật được dân làng sửa soạn cũng lễ, bao gồm: xôi, gà thiến, oản quả, hương hoa thì nhất định trai làng phải khiêng quả chuông nặng 145kg từ trong đình Mông Phụ ra đây để đánh 3 hồi 9 tiếng (nhưng tổng cộng phải là 99 tiếng). Người nào được dân làng tín nhiệm sử đánh chuông phải dốc sức tâm niệm mà hoàn thành, nếu không là có lỗi với thánh thần. Sau khi cúng lễ xong, Ban tổ chức tiến hành các thủ tục để khai hội vật chàu Ón. Gọi là “hội” nhưng quãng thời gian tồn tại sôi nổi của nó chỉ kéo dài vài ba tiếng đồng hồ, từ 15h đến lúc xẩm tối là kết thúc. Thông thường, có nhiều người tham gia đấu vật, chủ yếu là trai làng và các vùng lân cận. Theo các cụ kể lại thì những năm đất nước còn chiến tranh thì xới vật vắng bóng trai tráng, chỉ có tầng lớp người cao tuổi và đám trẻ nhỏ. Thời hòa bình, hội vật được tổ chức sôi nổi và có những keo vật hồi hộp hơn, mang lại cảm xúc cho nhiều người xem, thể hiện ý chỉ, sức khỏe. Giải thưởng vì thế cũng được tăng dần. Nguồn phí trao thưởng và tổ chức cũng được nhiều tổ chức, cá nhân trong và ngoài làng tình nguyện ủng hộ thông qua những pha ghì kìm đối thủ, mẹo lừa miếng, kết liễu đối thủ… Vào ngày 1/4 âm lịch, ở nhiều nơi khác, dân làng cũng tổ chức lễ vào hạ tại các di tích, tại làng Mông Phụ, song song với việc tổ chức cúng lễ trong đình Mông Phụ, có món lễ vật là cháo cũng được mang ra đây để dâng quan Thần Ôn. Cháo được múc ra những cái gọi là bù đài lá đa, cầm dọc từ chùa Ón ra đến đường cái chính. Xưa kia, mỗi dịp vào hè, khu vực làng quê thường phải gánh chịu những nạn dịch, sâu bệnh, gây nên thất thu hoa màu, thời tiết nóng bức dễ sinh bệnh, ảnh hưởng đến sức khỏe con người. Thế nên, cũng lễ ở ngày này cũng thể hiện ý nghĩa là cầu mát (một mùa hè ít nóng nực) và cầu an (một mùa hạ an lành). Mỗi lần du khách hành hương về thăm di sản văn hóa Làng cổ ở Đường Lâm, nếu một lần ghé thăm ngôi chùa cổ độc đáo này còn được các cụ cao niên trong làng kể cho nghe một vài giai thoại hấp dẫn khác. Tuy di tích đơn sơ, nhỏ bé nhưng là tài sản văn hóa quý của dân làng, đã được bao thế hệ người dân gây dựng, gìn giữ, trải qua những giai đoạn lịch sử, di sản nay vẫn tồn tại giữa cánh đồng với màu sắc trầm mặc rêu phong cổ kính, di sản ấy đã chứng kiến biết bao đổi thay của cuộc sống, con người làng quê truyền thống, văn hiến.

Hà Nội 13 lượt xem

Xếp hạng : Đang cập nhật Mở cửa

Đình Vĩnh Phong

Đình Vĩnh Phong là ngôi đình cổ của làng Vĩnh Phong, nay thuộc thị trấn Thủ Thừa có từ đầu thế kỷ thứ XIX. Đình Vĩnh Phong, nơi lưu niệm ông Mai Tự Thừa, người đã có công khai cơ lập làng, lập chợ tạo nên sự phồn thịnh của Thị trấn Thủ Thừa ngày nay. Khoảng cuối thế kỷ XVIII, ông Mai Tự Thừa đến làng Bình Lương Tây khai khẩn một dây đất 4 mẩu dọc theo kinh Trà Cú (kinh Thủ Thừa) và cất một ngôi quán nhỏ ở bờ kinh để buôn bán. Do quán của ông ở ngay giáp nước kinh Trà Cú nên ghe thương hồ tụ hội mua bán, trao đổi rất đông, dân cư tìm đến sinh sống ngày một nhiều. Vì thế ông Mai Tự Thừa đã đắp đường, làm bến ghe và lập một cái chợ bằng lá để có nơi mua bán, đó chính là chợ Thủ Thừa ngày nay. Dần dần, dân số xung quanh khu vực chợ phát triển, ông Mai Tự Thừa liền làm đơn xin tách khỏi làng Bình Lương Tây, lập làng mới lấy tên là làng Bình Thạnh. Ông còn hiến một khoảnh đất để cất đình làng - đó chính là tiền thân của đình Vĩnh Phong ngày nay. Tương truyền, ông Mai Tự Thừa đã đóng góp nhiều công của trong việc nạo vét kinh Trà Cú vào năm 1829 và tham gia vào cuộc khởi nghĩa của Lê Văn Khôi rồi mất tích. Vì thế, tài sản của ông gồm cái chợ và ruộng đất bị triều đình sung công và phát mãi, vợ con ông cũng bị lưu đày. Làng Bình Thạnh do ông lập cũng bị đổi tên thành làng Vĩnh Phong, đình làng cũng bị dời đi nơi khác. Mãi sau này khi Thực dân Pháp chiếm Nam Bộ, Triều Nguyễn không còn thế lực ở phương Nam nên đồng bào quanh chợ Thủ Thừa mới quyên tiền xây cất lại đình Vĩnh Phong năm 1886 và đưa bài vị ông Mai Tự Thừa vào thờ với 7 chử hán: ''Tiền hiền Mai Tự Thừa – Chủ thị''. Qua nhiều lần trùng tu, gần nhất vào năm 1998, đình Vĩnh Phong vẫn còn giữ được phong cách kiến trúc cuối thời Nguyễn. Hiện tại đình Vĩnh Phong nằm trong khuôn viên 1132m2 với 3 lớp nhà: võ ca, võ quy, chánh điện trông ra kinh Thủ Thừa. Chánh điện đình Vĩnh Phong được xây dựng theo lối cổ với kết cấu cột tứ trụ, mái lợp ngói âm dương, trên nóc có đôi rồng bằng sành trong tư thế lưỡng long tranh châu. Bên trong chánh điện được bài trí rất trang nghiêm với 2 lớp bao lam, 3 bàn thờ, Long Đình và Lỗ Bộ. Bao lam bên ngoài là tuyệt tác của cánh thợ Thủ Dầu Một có niên đại Mậu Ngọ (1918). Các nghệ nhân đã thể hiện trên bao lam này các đề tài truyền thống như Tứ linh (Long, Lân, Quy, Phụng), Tứ hữu (Mai, Lan, Cúc, Trúc), Bá điểu quy sào. Bên trên bao lam có những khung gỗ kết cấu theo kiểu ô hộc chạm long hình tượng Long Mã, Mai Lộc, Cuốn thư, Cá hóa Long, Dơi, hết sức tinh xảo. Trước bàn thờ chính là bộ bao lam cổ có niên đại Bính Tuất (1886). Vẫn là đề tài tứ hữu, nhưng các chi tiết trên bộ bao lam này được tạo dáng to khỏe mang phong cách cuối thế kỷ XIX. Nét đặc biệt ở bao lam này là nghệ thuật sơn son thếp vàng hết sức tinh xảo. Trải qua thời gian hơn 100 năm mà bộ bao lam này vẫn còn nguyên vẻ rực rở như buổi ban đầu. Chánh điện đình Vĩnh Phong hiện còn 2 bức hoành phi cổ cùng 8 cặp liễn đối có giá trị niên đại Bính Tuất (1886) và Bính Thìn (1916). Đa số các câu đối đều viết theo lối quán thủ (2 chữ đầu của 2 câu đối ghép lại thành tên Đình hoặc tên Thủ Thừa). Đặc biệt cặp liển ở bàn thờ ông Mai Tự Thừa đã nêu bật được công lao to lớn của ông và tấm lòng tri ân sâu sắc của nhân dân Thủ Thừa đối với ông. Chính vì lẽ đó mà ngày nay hàng loạt địa danh ở Long An được đặt là Thủ Thừa như kinh Thủ Thừa (kinh Trà Cú), chợ Thủ Thừa, quận Thủ Thừa (có từ năm 1922). Trên mảnh đất ngày xưa ông Mai Tự Thừa đã quy dân, lập chợ, lập làng, vét kinh, đắp lộ, ngày nay là một thị trấn dân cư đông đúc, kinh tế thịnh vượng, đình Vĩnh Phong vẫn còn đó như nhắc nhở cho chúng ta về một thời đã qua. Đến với đình Vĩnh Phong, chúng ta được chiêm ngưỡng nghệ thuật chạm trổ tài hoa của những nghệ nhân thời trước, hiểu thêm về những đóng góp lớn lao của ông Mai Tự Thừa trong quá trình khai phá đất đai của cha ông chúng ta. Với ý nghĩa ấy, đình Vĩnh Phong đã được Bộ Văn Hóa Thông Tinh ra quyết định xếp hạng là di tích Quốc gia vào ngày 31/8/1998. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Long An ​

Tây Ninh 1396 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đồn Long Khốt

Khu di tích lịch sử (KDTLS) Quốc gia Khu vực đồn Long Khốt là nơi lưu dấu những cống hiến, hy sinh to lớn của cán bộ, chiến sĩ (CBCS) Sư đoàn 5; các đơn vị phối hợp trong giai đoạn 1972-1975 và chiến công 43 ngày đêm của Bộ đội Biên phòng Long An trong bảo vệ biên giới Tây Nam năm 1978. Hiện Khu di tích được đầu tư nâng cấp, một ngày không xa, nơi đây sẽ là điểm đến giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ. Long Khốt là địa danh thuộc xã Thái Bình Trung, huyện Vĩnh Hưng, giáp biên giới Việt Nam - Campuchia. Trong 2 cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, Long Khốt là trọng điểm tranh chấp quyết liệt giữa ta và địch. Từ tháng 6/1972 đến ngày 30/4/1975, Sư đoàn 5 đã phối hợp lực lượng địa phương Kiến Tường liên tục tấn công địch với nhiều trận đánh ác liệt, chịu nhiều mất mát, hy sinh để giải phóng bằng được tuyến ngăn chặn địch ở Đồng Tháp Mười. Trong đó, tiêu biểu là 2 trận tấn công quy mô vào Chi khu Long Khốt (tháng 6/1972 và 4/1974) làm cho địch thiệt hại nặng. Riêng trận đánh vào chi khu năm 1974 thắng lợi, giải phóng hoàn toàn chi khu, khai thông tuyến hành lang biên giới. Hàng trăm Cán Bộ Chiến Sĩ của Trung đoàn 174, Sư đoàn 5 và các đơn vị phối hợp đã nằm lại nơi đây. Kháng chiến chống Mỹ kết thúc, mảnh đất vùng biên này chưa hưởng trọn vẹn niềm vui thống nhất thì cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam nổ ra. Cứ điểm Long Khốt (nay là Đồn Biên phòng Long Khốt) thêm một lần nữa là điểm giao tranh rất ác liệt. Bọn Pol Pot đã tập trung lực lượng để chiếm cho được Long Khốt làm bàn đạp tấn công sâu vào hậu phương của ta. Cán bộ, chiến sĩ đồn Long Khốt kiên trì bám trụ, khắc phục khó khăn, phối hợp các lực lượng vũ trang địa phương chiến đấu ngoan cường, dũng cảm, ngăn chặn các mũi tiến công của địch, giữ vững từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân. Trải qua 43 ngày đêm, từ 14/01 đến 27/02/1978, đồn Long Khốt đã đánh lùi 21 đợt tiến công của địch, chiến đấu 28 trận, tiêu diệt 55 tên địch và làm hàng chục tên khác bị thương. Trong đợt chiến đấu ngoan cường này, với lực lượng mỏng, quân ta đã hy sinh 26 người (10 Cán Bộ Chiến Sĩ của đồn, 16 đồng chí đơn vị bạn) và 20 người bị thương. Cuộc chiến đấu anh dũng và sự hy sinh cao cả của các anh hùng liệt sĩ góp phần quan trọng vào thắng lợi chung của sự nghiệp giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc. Với những thành tích vẻ vang đó, ngày 20/12/1979, Đồn Biên phòng Long Khốt vinh dự được Đảng, Nhà nước tuyên dương danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Trong quá trình sưu tầm, thống kê (chưa đầy đủ), giai đoạn 1972-1975, Sư đoàn 5 có 1.110 Cán Bộ Chiến Sĩ hy sinh trên chiến trường Long Khốt; trong đó, Trung đoàn 174 có gần 800 cán bộ chiến sĩ . Ngày 19/5 hàng năm, tại di tích Đồn Long Khốt đều duy trì Lễ tri ân anh hùng liệt sĩ hòa quyện cùng lễ Giỗ hội dân gian (hay giỗ liệt sĩ) thành một lễ hội văn hóa – tâm linh truyền thống tốt đẹp của địa phương. Là nơi hội tụ quan trọng trong việc gắn kết cộng đồng, gìn giữ truyền thống văn hóa, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tâm linh của thân nhân liệt sĩ và đông đảo nhân dân gần, xa. Di tích lịch sử Khu vực Đồn Long Khốt chứa đựng những giá trị lịch sử, an ninh quốc phòng, văn hóa và nhân văn sâu sắc. Với những giá trị đó, di tích đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ban hành Quyết định số 1792/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao Du Lịch, xếp hạng Khu vực đồn Long Khốt là Di tích cấp quốc gia. Đây là cơ sở quan trọng xác định những cống hiến, hy sinh to lớn của Sư đoàn bộ binh 5, quân và dân Long An trong chiến đấu chống ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc, là điều kiện thuận lợi để quy hoạch xây dựng Di tích trở thành công trình lịch sử, văn hóa, quốc phòng xứng tầm với những giá trị quý báu, đồng thời là nơi tôn kính, trang nghiêm cho các thế hệ con cháu hôm nay và mai sau đến dâng nén hương tưởng nhớ, tri ân các anh hùng liệt sĩ. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Long An.

Tây Ninh 1317 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Khu lưu niệm Luật sư Nguyễn Hữu Thọ

Khu lưu niệm (KLN) Luật sư Nguyễn Hữu Thọ được xếp hạng Di tích văn hóa - lịch sử cấp Quốc gia vào năm 2015. Từ đó đến nay, khu di tích trở thành địa chỉ đỏ giáo dục truyền thống, đặc biệt là cho thế hệ trẻ trong và ngoài tỉnh. Cuộc đời và sự nghiệp của cố luật sư Nguyễn Hữu Thọ là tấm gương sáng về lòng yêu nước, giúp thế hệ hôm nay và mai sau có động lực nuôi dưỡng niềm tin, hoài bão. Khu lưu niệm Luật sư Nguyễn Hữu Thọ tại thị trấn Bến Lức, huyện Bến Lức, tỉnh Long An có diện tích 10.000m2, gồm các hạng mục như đền tưởng niệm, khối phòng họp - khu trưng bày - thư viện, khu công viên cây xanh, thảm cỏ, nơi trồng cây lưu niệm và các hạng mục phụ trợ khác. Luật sư Nguyễn Hữu Thọ là người con ưu tú của Long An. Ông sinh ngày 10/7/1910 tại làng Long Phú, tổng Long Hưng Hạ, quận Trung Quận, tỉnh Chợ Lớn (nay thuộc thị trấn Bến Lức, huyện Bến Lức, tỉnh Long An). Ông tham gia cách mạng năm 1947, nhiều lần bị địch bắt, tù đày nhưng điều đó không ngăn được ông đi theo con đường giải phóng dân tộc. Sau khi đất nước thống nhất, ông có nhiều đóng góp to lớn cho nước nhà, được bầu giữ nhiều chức vụ quan trọng: Phó Chủ tịch nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam; quyền Chủ tịch nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam; Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước; Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mật Trận Tổ Quốc Việt Nam. Ông được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao vàng và nhiều huân, huy chương cao quý khác cả trong và ngoài nước. Phòng trưng bày cuộc đời, sự nghiệp luật sư Nguyễn Hữu Thọ có đầy đủ thông tin, hình ảnh và hiện vật về luật sư Nguyễn Hữu Thọ và được chia thành từng giai đoạn khác nhau. Đặc biệt, phòng trưng bày có một số hiện vật quý, gắn bó với luật sư lúc sinh thời do gia đình hiến tặng như bộ quần áo, cây gậy của luật sư, chiếc radio mà luật sư hay mang theo bên mình để nghe tin tức,... Tất cả tái hiện một cách rõ nét về quá trình lớn lên, học tập và tham gia cách mạng của người con ưu tú đất Long An và để lại ấn tượng mạnh mẽ trong lòng người viếng thăm, tìm hiểu về luật sư Nguyễn Hữu Thọ. Đền tưởng niệm là nơi thể hiện lòng tôn kính, tưởng nhớ đến cố Luật sư Nguyễn Hữu Thọ, nguyên quyền Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Không gian đền tưởng niệm được thiết kế mang đậm bản sắc văn hóa phương Nam, toát lên sự tôn nghiêm với những màu thâm trầm làm chủ đạo như nâu, vàng kem, màu gỗ và màu của những bức sơn mài, hoành phi câu đối được sơn son thiếp vàng. Tượng Luật sư Nguyễn Hữu Thọ với chất liệu đồng được đặt trang trọng ở vị trí trung tâm trong đền cùng với hai bàn thờ được chạm trổ công phu. Bên trong đền trang trí nhiều hình tượng rồng theo đúng truyền thống văn hoá, tâm linh người Việt. Trong khuôn viên Khu lưu niệm còn có Phòng trưng bày thân thế và sự nghiệp của Luật sư Nguyễn Hữu Thọ. Với những hiện vật, hình ảnh tư liệu, bản đồ, tranh, mô hình, biểu bảng… phòng trưng bày giới thiệu về quê hương, đất nước con người và phần thân thế sự nghiệp của Luật sư Nguyễn Hữu Thọ. Bên cạnh đó, các hiện vật tiêu biểu gắn liền với Luật sư Nguyễn Hữu Thọ cũng được trưng bày. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Long An.

Tây Ninh 1269 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Căn cứ Bình Thành

Bình Thành là một vùng đất trũng thấp có nhiều bưng trấp xen lẫn với những giồng đất cao tạo nên một địa hình khá phức tạp thuộc huyện Đức Huệ, tỉnh Long An. Khu vực này nằm ở vị trí tiếp giáp giữa miền Đông và miền Tây Nam Bộ, gần với Sài Gòn và dựa lưng vào nước bạn Campuchia. Với những điều kiện ấy, Bình Thành đã trở thành một căn cứ bưng biền độc đáo trong 2 cuộc kháng chiến chống Thực dân Pháp và Đế quốc Mỹ. Từ sau khởi nghĩa Nam Kỳ (23/11/1940), đã có hơn 100 nghĩa quân Tân An-Chợ Lớn dưới sự lãnh đạo của các đồng chí Lưu Dự Châu, Lê Văn Tưởng đến khu vực Bình Thành lập nên căn cứ Mớp Xanh. Căn cứ này chỉ tồn tại được 8 tháng thì có lệnh giải tán của Xứ ủy, vì không có điều kiện khởi nghĩa lần 2. Tuy nhiên căn cứ Mớp Xanh đã tạo tiền đề cho sự hình thành và phát triển của căn cứ Tỉnh ủy sau này. Trong kháng chiến chống Pháp, khu vực Bình Thành là căn cứ của Tỉnh ủy Chợ Lớn và Khu 7 với tên gọi “Quân khu Đông Thành”. Các cơ quan cấp Nam Bộ như văn phòng Bộ Tư lệnh Nam Bộ, các sở trực thuộc Ủy ban kháng chiến hành chánh Nam Bộ cũng có thời gian đóng quân ở Quân khu Đông Thành. Sau hiệp định Giơnevơ 1954, chính quyền Ngô Đình Diệm đã thẳng tay đàn áp các lực lượng cách mạng. Để bảo toàn lực lượng, một số cán bộ, đảng viên của hai tỉnh Tân An- Chợ Lớn đã rút lên Bình Thành. Trong điều kiện Trung ương chưa cho phép đấu tranh vũ trang, những chiến sĩ cách mạng đóng tại Bình Thành đã lợi dụng danh nghĩa quân giáo phái để thành lập nên Bộ tư lệnh Trung Nam Bộ- lực lượng vũ trang đầu tiên của Khu 8 và Nam Bộ sau 1954. Tháng 7/1957, Xứ ủy thành lập tỉnh Long An trên cơ sở sát nhập 2 tỉnh Tân An và Chợ Lớn. Với kinh nghiệm từ cuộc kháng chiến chống Pháp, Tỉnh ủy Long An đã chọn Bình Thành làm căn cứ địa để lãnh đạo nhân dân kháng chiến chống Mỹ. Trong từng thời kỳ với những điều kiện khó khăn và thuận lợi khác nhau, Tỉnh ủy Long An đã linh hoạt, cơ động trong khu vực Bình Thành, có lúc phải tạm lánh sang Ba Thu, có lúc phát triển về Đức Hòa, Bến Lức và vùng hạ. Tuy nhiên nơi mà Tỉnh ủy Long An và các cơ quan trực thuộc đứng chân hoạt động lâu nhất chính là Giồng Ông Bạn thuộc khu vực Bình Thành trong thời gian mở đầu và kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ(1960-1961)-(1973-1975). Từ căn cứ Bình Thành, Tỉnh ủy đã kịp thời chỉ đạo, đề ra những chủ trương, nghị quyết, lãnh đạo phong trào cách mạng ở tỉnh nhà cho đến ngày thắng lợi hoàn toàn. Với một diện tích không rộng, địa hình tuy có hiểm trở nhưng không thể hoàn toàn dựa vào đó để tồn tại và chống lại những phương tiện chiến tranh hiện đại của địch nhưng căn cứ Bình Thành vẫn kiên gan thách thức với kẻ thù. Đó là nhờ tấm lòng thương yêu đùm bọc của nhân dân, sự linh động, sáng tạo của Tỉnh ủy. Có thể nói căn cứ Bình Thành là căn cứ của lòng dân. Với tinh thần uống nước nhớ nguồn, năm 1996 Tỉnh ủy và các đồng chí lãnh đạo tỉnh Long An các thời kỳ đã về lại Bình Thành, xác định những điểm mà Tỉnh ủy từng hoạt động năm xưa. Ban quản lý dự án xây dựng khu di tích lịch sử cách mạng cũng được thành lập với nhiệm vụ phục hồi tôn tạo lại di tích lịch sử căn cứ Bình Thành với quy mô ban đầu là 93 ha tại xã Bình Hòa Hưng-Đức Huệ. Năm 1998, Bộ Văn Hóa Thông Tin đã ra quyết định xếp hạng Căn cứ Bình Thành là di tích lịch sử cấp quốc gia. Một dự án xây dựng các công trình tưởng niệm như đền thờ, bia, đài...và tái tạo các di tích gốc được vạch ra và từng bước thực hiện để trong tương lai khách tham quan có thể phần nào hiểu được hoàn cảnh sống, chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ và nhân dân ta thời kỳ kháng chiến. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Long An.

Tây Ninh 1476 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

CỤM NHÀ CỔ THANH PHÚ LONG

Cụm nhà cổ Thanh Phú Long được xây dựng vào cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX bởi dòng họ Nguyễn, tầng lớp thượng lưu giàu có tại vùng đất này. Với biệt danh "Xóm Nhà Giàu", các ngôi nhà ở đây không chỉ gây ấn tượng bởi quy mô đồ sộ mà còn bởi vẻ đẹp tinh xảo trong từng chi tiết kiến trúc. Cụm di tích bao gồm ba ngôi nhà lớn, mỗi ngôi nhà rộng 528m², nằm trên khu đất rộng 15.000m². Kiến trúc nhà rội (nhà trước) và nhà xuyên trính (nhà sau) mang đậm phong cách miền Trung, được thiết kế theo hình chữ Khẩu, kết hợp khéo léo với các yếu tố phương Tây tại phần mặt tiền. Điểm nổi bật của cụm nhà cổ này là nghệ thuật chạm khắc gỗ vô cùng tinh tế và phong phú. Các hoa văn được khắc họa sinh động với các đề tài truyền thống như "Tứ linh", "Bát bửu", hay các hình ảnh gần gũi với đời sống Nam Bộ như "chim ăn xoài", "cua cốm", "sen le". Nhiều hiện vật quý hiếm như tủ thờ cẩn ốc xà cừ, bộ lư đồng, hoành phi sơn son thếp vàng và đồ gốm cổ từ thế kỷ XIX vẫn được lưu giữ nguyên vẹn, phản ánh sự phồn thịnh của tầng lớp thượng lưu thời kỳ đó. Về nghệ thuật trang trí khá phong phú và đa dạng trong cách thể hiện. Ngoài các đề tài truyền thống, cảnh vật thiên nhiên Nam Bộ được các nghệ nhân đưa vào tác phẩm một cách hài hòa, sáng tạo. Về kỹ thuật chạm khắc gỗ trên các công trình kiến trúc, đã thể hiện bề dạy kinh nghiệm, tài năng của các nghệ nhân; sự phối hợp đa dạng, nhuần nhị các kỹ thuật với thủ pháp điêu luyện, chắc tay. Những công trình kiến trúc gỗ, những tác phẩm nghệ thuật của Cụm Nhà cổ Thanh Phú Long cho thấy một trình độ bậc thầy của những người thợ mộc miền Trung, của những thợ chạm gỗ Nam Bộ trong xử lý kết cấu kiến trúc, xử lý kỹ thuật, bố cục đề tài, trang trí đa dạng, hấp dẫn. Với những giá trị nêu trên, năm 2007, cụm nhà cổ đã được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng di tích quốc gia. Nguồn Trang thông tin điện tử xã Thanh Phú Long, huyện Châu Thành, tỉnh Long An.

Tây Ninh 1417 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Chùa Ngọc Hoàng( Điện Ngọc Hoàng)

Chùa Ngọc Hoàng là tên thường gọi của Điện Ngọc Hoàng, tên chữ là Phước Hải Tự (người Pháp thì gọi là chùa Đa Kao); hiện tọa lạc tại số 73 đường Mai Thị Lựu, phường Đa Kao, quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh. Ngôi chùa vốn là điện thờ Ngọc Hoàng Thượng đế do một người tên Lưu Minh (pháp danh là Lưu Đạo Nguyên, người Quảng Đông, Trung Quốc) xây dựng vào khoảng đầu thế kỷ 20. Năm 1982, Hòa thượng Thích Vĩnh Khương đến tiếp quản điện thờ. Kể từ đó điện thờ này thuộc về Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Đến năm 1984, thì điện Ngọc Hoàng được đổi tên là "Phước Hải Tự". Chùa Ngọc Hoàng là một ngôi chùa cổ, làm theo kiểu đền chùa Trung Hoa với mô típ trang trí rực rỡ. Chùa xây gạch, mái lợp ngói âm dương, trang trí bờ nóc, góc mái bằng nhiều tượng gốm màu. Trong chùa có nhiều tác phẩm nghệ thuật: tranh thờ, tượng thờ, bao lam, liễn đối, hương án... bằng các chất liệu: gỗ, gốm, giấy bồi. Khuôn viên chùa rộng khoảng 2.300 m2. Phía trước có ngôi miếu nhỏ đặt tượng Hộ pháp. Cổng tam quan nổi bật với những đường nét uốn lượn hình sóng nước của hai con rồng theo tư thế "tranh châu". Chính điện thờ Ngọc Hoàng Thượng đế, Huyền Thiên Bắc Đế với các thiên binh, thiên tướng. Có phối thờ Quan Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát và một số thần linh quen thuộc trong tín ngưỡng của người Hoa như: thần Thiên Lôi, thần Môn Quan (thần giữ cửa), thần Thổ Địa (thần đất đai), thần Táo Quân (thần lò bếp), thần Hà Bá (thần sông nước), Văn Xương và thần Lã Động Tân (thần văn chương), Thái Tuế (sao giải hạn), Lỗ Ban (thầy dạy nghề), Nữ Oa Thánh Mẫu, 12 bà mụ, 13 đức thầy...Ngoài ra, chùa còn thờ thần Thành hoàng...Nhìn chung, các pho tượng thờ trong điện thờ đều là những tác phẩm điêu khắc gỗ đẹp. Hàng ngày khách trong và ngoài nước đến chiêm bái chùa rất đông. Lễ hội lớn nhất là Vía Ngọc Hoàng diễn ra ngày 9 tháng Giêng (âm lịch) hàng năm, tương truyền là ngày sinh của Ngọc Hoàng Thượng đế. Ngày 15 tháng 10 năm 1994, chùa Ngọc Hoàng được công nhận là một di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận 1, thành phố Hồ Chí Minh.

TP Hồ Chí Minh 1325 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Chùa sắc tứ Trường Thọ

Chùa Sắc từ Trường Thọ là ngôi chùa cổ thuộc dòng Lâm Tế, được kiến tạo vào năm 1720 với tên gọi Chùa Vĩnh Trường tọa lạc thôn Hòa Mỹ thuộc Tổng Bình Trị - Huyện Bình Dương – Phủ Tân Bình – Thành Gia Định. Trải qua bao năm tháng thăng trầm của lịch sử vẫn trường tồn cùng đất nước, ngôi cổ tự Vĩnh Trường khẳng định vị trí của mình trên đất Gia Định với 2 lần Sắc phong: Năm Canh Tuất (1802), Vua Gia Long Sắc phong “Sắc tứ Pháp Vũ tự”; Năm Canh Ngọ (1870), Vua Tự Đức Sắc phong “Sắc tứ Trường Thọ”. Năm 2000, Chùa được Bộ văn hóa thông tin (nay là Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch ban hành Quyết định công nhận Di tích kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia. Chùa đã trải qua 7 đời Chư vị Tổ sư tiền bối. Hiện nay, Đại đức Thích Huệ Quang đương nhiệm trụ trì (chính thức được bổ nhiệm từ năm 2013), luôn tích cực cùng chư tăng và bổn tự tham gia các hoạt động Phật sự của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, tiếp tăng độ chúng và thường xuyên vận động tổ chức các hoạt động thiện nguyện, sống tốt đời đẹp đạo, cùng góp sức xây dựng địa phương an lạc, phồn vinh. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh.

TP Hồ Chí Minh 1237 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đình Thông Tây Hội

Đình thần Thông Tây Hội (phường 11, quận Gò Vấp, Tp. Hồ Chí Minh) từ lâu đã nổi tiếng là ngôi đình lâu đời nhất không chỉ ở Sài thành mà cả vùng đất phương Nam. Đình Thông Tây Hội được xây dựng khoảng năm 1698, đến nay có tuổi đời hơn 300 năm. Đình thờ Thành Hoàng theo tục thờ thần của người Việt Nam. Vị thần chính được thờ trong đình là Đông Chinh Vương và Dực Thánh Vương là Hoàng tử con vua Lý Thái Tổ. Đình Thông Tây Hội, trước năm 1944 có tên đình làng Hạnh Thông Tây là một ngôi đình cổ ở quận Gò Vấp. Đình được xây dựng vào khoảng năm 1679, ngày nay được biết tới như là ngôi đình cổ nhất của vùng đất Gia Định xưa và của cả miền đất phương Nam còn tồn tại. Đình Thông Tây Hội là ngôi đình có cấu trúc thuộc dạng đình cổ ở miền Nam thế kỷ 19. Đình hiện vẫn gìn giữ được gần như nguyên vẹn cấu trúc và vật liệu xây dựng của ngôi đình cổ. Toàn bộ khu đình tọa lạc trên một khu đất rộng 5.188m2. Do bị dân lấn chiếm một phần đất để ở nên hiện nay chỉ còn khoảng 1.500m2. Đình quay về hướng Đông. Cổng đình xây theo kiểu tam quan. Sân Đình rộng, có một số cây cao khoảng 10m. Mặt bằng kiến trúc của đình tạo thành hai trục song song với nhau: một trục dài (trục chính) gồm võ ca, chánh điện; một trục ngắn (trục phụ) là nhà hội sở. Kiểu mặt bằng kiến trúc này rất phổ biến đối với công trình kiến trúc tôn giáo ở miền Nam thế kỷ thứ 18 - 19. Võ ca có kích thước: ngang 14m, sâu 17,5m, cao 4m là nơi xây chầu, hát bội gồm 7 nếp nhà và 52 cột gỗ, không có tường bao xung quanh. Chánh điện gồm: 2 nếp nhà ghép trùng nhau theo kiểu "trùng thiềm điệp ốc". Mái của hai nếp nhà cạnh sát nhau. Tất cả có 48 cột, chia thành 8 dãy cột, mỗi dãy có 6 cột. Bốn cột giữa cao nhất là 4,5m; có đường kính là 30 cm (thường được gọi là "tứ tượng") là nơi quan trọng nhất, linh thiêng nhất - nơi đặt bàn thờ các vị thần. Các chân cột ở chánh điện được có khắc hình lăng trụ thắt ở giữa. Trên nóc chánh điện có tượng lưỡng long tranh châu bằng gốm men xanh, quanh chánh điện có tường gạch. Nhà hội sở là văn phòng ban trị sự, nơi tiếp khách và chuẩn bị tế lễ, có kích thước ngang 12m, dài 19m, cao 4,2m; có 56 cột, chân cột kê đá xanh, có 3 nếp nhà "trùng thiềm điệp ốc"; có vách ván ngăn phòng làm việc với nhà kho. Toàn bộ ngôi đình lợp ngói âm dương, bộ vì kèo chịu lực bằng gỗ, nền lót gạch tàu (30 cm x 30 cm). Trang trí của đình Thông Tây Hội, phần đặc sắc nhất tập trung tại chánh điện. Ở đây các đầu kèo, trính đều được chạm khắc đầu rồng và cành mai. Có 3 bao lam: bao lam ở giữa chạm theo đề tài lân - ly - quy - phụng, hai bao lam hai bên chạm theo đề tài mẫu đơn - trĩ. Tác phẩm chạm khắc đặc sắc nhất là trang thờ thần, được chạm khắc tinh xảo theo đề tài lưỡng long triều nguyệt và lân - ly - quy - phụng. Ngoài ra còn có hai trang thờ tả ban, bức hoành "chung linh lưu tú", hai cặp câu đối bằng thân cây dừa ở chánh điện đều là những tác phẩm nghệ thuật có giá trị. Trong di tích đình Thông Tây Hội còn giữ 37 hiện vật quý. Các hiện vật là tác phẩm chạm khắc nghệ thuật như bao lam, hoành phi, câu đối, trang thờ đều giữ được đường nét, màu sắc sơn son thếp vàng của hiện vật cổ, không bị phết lên những lớp son mới như một số ngôi đình khác thường làm. Với giá trị kiến trúc nghệ thuật, lịch sử, xã hội, đình được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật văn hóa lịch sử cấp quốc gia năm 1998. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh.

TP Hồ Chí Minh 1394 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Lăng Tả quân Lê Văn Duyệt (Lăng Ông Bà Chiểu)

Tả quân Lê Văn Duyệt sinh ngày 6 tháng 9 năm Giáp Thân (1764), tại thôn Long Hưng, Tổng Kiến Hưng, Định Tường. Tả quân Lê Văn Duyệt quê gốc tại làng Bồ Đề, huyện Chương Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đến đời ông nội là Lê Văn Hiếu vào Nam sinh sống tại làng Hòa Khánh, tỉnh Định Tường. Năm 1765, cha là Lê Văn Toại đưa gia đình đến sống tại Rạch Gầm, tổng Long Hưng, Mỹ Tho (nay là xã Long Hưng, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang). Thuở nhỏ Ông sống cùng cha mẹ, phụ giúp việc nông gia, lúc rảnh rỗi thì tập luyện võ với bạn bè. Ông có tư chất thông minh, lanh lẹ, có sức khỏe hơn người, thích võ nghệ hơn văn chương; rất thích chơi chọi gà và xem hát bội. Năm 15 tuổi, Lê Văn Duyệt đã sớm bộc lộ ý chí “Sinh ở đời loạn, không hay dụng cờ trống Đại Tướng, chép công danh vào sách sử không phải là trượng phu”. Trong cuộc đời làm quan Ông rất mực thanh liêm, cương trực, thưởng, phạt nghiêm minh, lấy đức an dân, lấy dân làm gốc, có ý thức kết hợp kinh tế với quốc phòng, mở rộng giao thông thương mại làm cho nền kinh tế cả miền thịnh vượng, đoàn kết các dân tộc và tôn giáo, tận tình giúp đỡ lương dân khi gặp hoạn nạn nên nhân dân và các nước lân bang rất kính nể. Có công lao lớn trong việc khai phá, mở rộng và phát triển vùng đất Nam bộ. Năm Canh Tý (1780), theo phò Chúa Nguyễn Ánh được tuyển vào làm Thái giám Nội đình, sau đó được phong làm Thuộc Nội Vệ Úy, Ông 2 lần hộ giá Chúa Nguyễn chạy nạn ra Phú Quốc và sang Xiêm. Năm Canh Thân và Tân Dậu (1800 – 1801): Ông lập được nhiều chiến công, đặc biệt là thu phục thành Qui Nhơn (Bình Định) và thắng lớn ở cửa Bể Đầm Thị Nại. Năm 1802, Ông được phong tước Quận Công (hàng chánh nhất phẩm), chức Khâm Sai Chưởng Tả Dinh Bình Tây Đại Tướng Quân. Ông hai lần làm Tổng trấn thành Gia Định (các giai đoạn 1812 - 1816 và 1820 - 1832), Tả quân Lê Văn Duyệt đã có công lớn giúp an định và phát triển vùng đất phương Nam, đặc biệt để lại dấu ấn đậm nét trong lòng người dân Nam bộ, được truyền đời đến nay, là những cải cách khai mở, phát triển kinh tế, chăm lo đời sống người dân và bài trừ tham nhũng. Sau khi ông mất, người dân trong vùng đã lập lăng miếu thờ, nay gọi là Lăng Lê Văn Duyệt hay còn gọi là Lăng Ông Bà Chiểu. Hằng năm ngày 30/7 đến ngày 1/8 âm lịch là Lễ giỗ Đức thượng công Tả quân Lê Văn Duyệt nhằm ghi nhớ công lao vị quan thanh liêm đã chăm lo tốt đời sống nhân dân. Lăng Ông rộng 18.501 m² trên một gò đất cao, nằm giữa bốn con đường: Lê Văn Duyệt, Phan Đăng Lưu, Trịnh Hoài Đức và Vũ Tùng. Chung quanh khu lăng có bức tường bao bọc dài 500m, cao 1,2 m được trổ bốn cổng ra vào theo bốn hướng, được xây dựng vào năm 1948. Năm sau, cổng Tam quan cũng được xây. Cổng có hàng đại tự nổi bằng chữ Hán Thượng Công Miếu, được đặt ở hướng Nam, mở ra đường Vũ Tùng. Trước năm 1975, cổng này đã từng được chọn là biểu tượng của vùng Sài Gòn-Gia Định xưa. Khu lăng được xây dựng trên một trục đường chính. Từ cổng Tam quan ở phía nam vào qua một khu vườn cảnh là: Nhà bia nơi đặt bia đá ghi công đức Tả quân Mộ Tả quân và vợ, có bình phong và tường hoa bao quanh Miếu thờ Với những giá trị đó , ngày 6 tháng 12 năm 1989, toàn bộ khu lăng được Bộ Văn hóa công nhận là di tích Lịch sử Văn hóa cấp quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh.

TP Hồ Chí Minh 1529 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Địa đạo Phú Thọ Hòa

Địa đạo Phú Thọ Hòa là địa đạo đầu tiên ở phía Tây Sài Gòn (xây dựng vào năm 1947, trước Địa đạo Củ Chi), được đào trong những năm kháng chiến chống Pháp và được duy trì cho đến hơn mười năm đánh Mỹ, nằm lọt giữa nhiều đồn bốt dày đặc của kẻ thù, nhưng là vùng đất quân sự có nhiều chiến lũy phòng thủ chống quân xâm lược (Lũy Ông Dầm, Lũy Bán Bích, Lũy Chí Hòa,…), nơi có nhiều phong trào yêu nước (“Thiên địa hội”, “Hội kín Nguyễn An Ninh”,….) đã góp phần vào những chiến công vang dội trong suốt chặng đường kháng chiến chống giặc ngoại xâm của quân và dân ta như là chặn đánh địch suốt 6 ngày đêm tại cầu Tham Lương (tháng 10/1945), trận chống càn ở Gò Đậu - Bình Long (năm 1948), trận đánh kho bom Bảy Hiền (ngày 29/3/1948), nhiều lần đánh vào sân bay Tân Sơn Nhất (tháng 12/1949), tấn công vào kho bom Phú Thọ (năm 1952 và 1954), làm tiêu hao nhiều lực lượng của địch ở trận tiêu diệt đồn Phú Thọ Hoà, đồn Phạm Văn Tụng (đêm 31/5 rạng sáng ngày 01/6/1954),... hỗ trợ cho chiến trường Điện Biên Phủ, gây được tiếng vang trong nước và trên thế giới. Ngày nay, Địa đạo Phú Thọ Hòa là Khu di tích lịch sử để Nhân dân và bạn bè quốc tế đến tham quan, tìm hiểu, khám phá, học, nghiên cứu lịch sử kháng chiến chống giặc và là một trong những điểm đến du lịch nổi bật của quận Tân Phú. Địa chỉ số 139 đường Phú Thọ Hòa, phường Phú Thọ Hòa, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh. Địa đạo Phú Thọ Hòa đầu tiên chỉ là những chiếc hầm ếch (chỉ vừa một người chui, loại hầm ngõ cụt khó thoát), sau dần cải tiến thành đường hầm xe lửa 2 ngăn và tiếp tục phát triển thành hệ thống địa đạo liên xã kéo dài trên 10 cây số. Địa đạo có 2 tầng được đào sâu dưới lòng đất những 3 đến 4 mét; có 3 hầm đào rộng ra, để có thể ngồi đến 7 người hoặc chứa lương thực, vũ khí; lòng địa đạo cao 1 mét, rộng 0,6 đến 0,8 mét, dài gần 700 mét, hai bên có nhiều ngách đi sang nhiều hướng khác nhau. Gọi hầm xe lửa vì cứ khoảng 20 mét thì có 1 vách ngăn, ở giữa có khoét 1 lỗ đường kính 0,5 mét, vừa một người chui qua (hình thức này tương tự như từng toa xe lửa) và cứ thế nối tiếp nhau đi từ ấp này sang ấp khác, cách bố trí vách ngăn này để phòng ngừa khi địch phát hiện hầm địa đạo thì ta chui qua hầm kế tiếp rồi bít cửa lại, ngụy trang cẩn thận để địch tưởng đây là đường cùng, hết lối. Cách thức đào hầm từ 2 điểm ở đầu, hai tổ đào thẳng về điểm trung tâm. Điều đặc biệt thú vị là từ 2 đầu làm sao mà định hướng cho đúng để đào cho đúng đến điểm trung tâm mà cái thời không hề có công nghệ định hướng hỗ trợ. Đây là câu trả lời về cách vô cùng sáng tạo của cha ông ta để định hướng chính xác như sau: người ngồi sau cầm đèn để ở một khoảng cách nhất định mà rọi bóng người ngồi trước lên vách. Người ngồi trước cầm cuốc, cuốc vào cái bóng của mình, bao giờ bóng ngay thẳng tròn trịa là lòng hầm đúng ni tấc và phương hướng. Ngoài ra, cũng còn phối hợp kiểm tra trên bề mặt đất, người ở trên áp tai vào mặt đất, người ở dưới vỗ mạnh vào trần hầm sao cho trên dưới đều nghe rõ ám hiệu là được. Địa đạo Phú Thọ Hòa nằm trọn vẹn trong đất của dân, đã được phục chế, tôn tạo, đã được Bộ Văn hóa - Thông tin cấp bằng công nhận là “Di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia” tại Quyết định số 1460-Quyết Định /Văn Hóa ngày 28/6/1996 và được xây dựng, chỉnh trang, nâng cấp khang trang, sạch đẹp như lời Đồng chí Nguyễn Văn Linh, Cố Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (khi còn là Bí thư Thành ủy Hồ Chí Minh) đã chỉ đạo khôi phục lại khu di tích này, để giáo dục cho thế hệ trẻ: “Làm lại tất cả các di tích này cốt không chỉ để ca ngợi những cái đã qua, mà chính là để truyền lại tinh thần đoàn kết yêu nước, tinh thần chiến đấu anh dũng cho thế hệ thanh niên ở thành phố chúng ta, đất nước chúng ta. Nguồn Trang thông tin điện tử quận Tân Phú , thành phố Hồ Chí Minh.

TP Hồ Chí Minh 1440 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Chùa Giác Lâm

Tọa lạc ở địa chỉ số 565 đường Lạc Long Quân, phường 10, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh. “Chùa ở trên gò Cẩm Sơn, cách phía Tây lũy Bán bích ba dặm...Cây cao như rừng, hoa nở tựa gấm, sáng chiều mây khói nổi bay quanh quất, địa thế tua nhỏ mà nhã thú...” (Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí). Chùa Giác Lâm được xem là tổ đình của phái Lâm Tế, thiền sư Viên Quang (đời thứ 36) là vị trụ trì đầu tiên. Chùa được xây dựng từ năm 1744, từ đó đến nay dù đã trải qua 4 lần trùng tu lớn vào các năm 1798 – 1804, 1900 – 1909, 1939 – 1945, 1992 – 1994, tuy nhiên đến nay hệ thống cổ vật vẫn được bảo tồn gần như nguyên vẹn. Bửu Pháp Xá Lợi cao bảy tầng thờ viên ngọc Xá Lợi Phật được đại đức Narada từ Sri-Lanka tặng cho Giáo hội Phật giáo cổ truyền là địa điểm thu hút nhiều du khách. Vườn chùa có 38 tháp thờ các vị tăng sĩ và khu tháp các vị tổ của chùa. Rảo bước vào bên trong, ngôi chánh điện nép mình khiêm tốn dưới hàng cây cổ thụ xanh mát. Mang phong cách kiến trúc chữ tam truyền thống của chùa cổ Nam Bộ, chùa Giác Lâm gồm ba dãy nhà ngang nối liền nhau gồm chính điện, giảng đường và nhà trai, mái chùa dạng bánh ít đặc trưng, trên đỉnh mái là hình ảnh “lưỡng long tranh châu” quen thuộc trong văn hóa Việt Nam. Mái ngói, màu tường nâu vàng trầm ấm cùng các họa tiết sành sứ được trang trí cực kì tỉ mỉ và điêu luyện. Với hơn 7.000 đĩa trang trí, chùa Giác Lâm hiện sở hữu kỷ lục ngôi chùa có số lượng đĩa kiểu trang trí nhiều nhất Việt Nam. Chính điện bài trí 113 pho tượng cổ bằng gỗ mít, 5 pho tượng bằng đồng, 86 câu đối chữ Hán được chạm khắc vô cùng sống động, tinh xảo, thể hiện sự tài hoa đáng ngưỡng mộ của các nghệ nhân xưa. 2 bộ tượng La Hán bằng gỗ thếp vàng, bộ nhỏ có niên đại thế kỷ 18,19 với trang phục nhà Phật giản dị, ánh mắt vô ưu, cử chỉ thân thiện và khuôn miệng như chuẩn bị nở nụ cười, tạo cho du khách cảm giác gần gũi như đang đứng trước những con người Nam Bộ thân quen bình dị mà ta có thể bắt gặp đâu đó trong cuộc sống đời thường. Hệ thống bao lam, hoành phi, phù điêu, câu đối, liễn...được thếp vàng, chạm khắc tinh xảo, trang trí thêm các đường viền hoa lá, kỉ hà với các biểu tượng phong phú tiêu biểu cho văn hóa Nam Bộ và chủ đề quen thuộc trong Phật giáo như “lưỡng long triều nguyệt”, “lưỡng long tranh châu”, các đề tài thực vật, động vật thân thuộc: tùng hạc, trúc tước, mai điểu, cúc điệp, sóc nho, mai, lan cúc, trúc, trái bí, trái bầu, trái mãng cầu… Một số môtip có cẩn ốc xà cừ, ô hộc thể hiện phong cách nghệ thuật triều Nguyễn. Trải qua thời gian của chiều dài lịch sử, với những giá trị văn hóa đặc sắc, Chùa Giác Lâm được Bộ Văn hóa (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng là Di tích Kiến trúc Nghệ thuật Quốc gia theo Quyết định số 1288-Văn Hóa /Quyết Định ngày 16 tháng 11 năm 1988. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh.

TP Hồ Chí Minh 1336 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Khu lưu niệm mộ Cụ Phan Châu Trinh

Phan Châu Trinh là nhà cách mạng xã hội có tư tưởng dân chủ sớm nhất trong số các nhà nho yêu nước tiến bộ đầu thế kỷ XX. Cuộc đời và sự nghiệp hoạt động cách mạng của Ông đã để lại nhiều bài học lớn cho thế hệ hôm nay. Phan Châu Trinh, hiệu là Phan Tây Hồ, sinh ngày 09/9/1872 tại huyện Tiên Phước, phủ Tam Kỳ nay thuộc huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam, trong một gia đình quan võ triều Nguyễn. Thân sinh ông từng tham gia phong trào Cần Vương trong tỉnh. Năm 1892, ông đi học và nổi tiếng học giỏi. Bạn cùng học với ông là Huỳnh Thúc Kháng. Năm 1900, ông đỗ Cử nhân. Năm 1901, ông đỗ Phó bảng, đồng khoa với tiến sĩ Ngô Đức Kế và Nguyễn Sinh Sắc. Năm 1902, ông vào học Trường Hậu bổ, sau ra làm Thừa biện Bộ Lễ. Ít lâu sau ông từ quan, tham gia hoạt động cứu nước. Ông kết giao với nhiều sĩ phu yêu nước như Huỳnh Thúc Kháng và Phan Bội Châu. Ông cùng các bạn đi khắp Việt Nam cổ vũ đấu tranh và liên kết trí thức, văn sĩ yêu nước. Năm 1905 và 1911, Phan Châu Trinh sang Nhật Bản rồi sang Pháp để học hỏi, tìm con đường thoát khỏi ách cai trị của người Pháp. Nhà yêu nước Phan Châu Trinh hoạt động tích cực, sôi nổi trong phong trào Duy Tân giai đoạn đầu thế kỷ XX, ông chọn con đường dấn thân đấu tranh nhưng ôn hòa, bất bạo động, coi dân chủ cấp bách hơn độc lập và coi việc dùng pháp luật, cai trị quy củ có thể quét sách hủ bại phong kiến. Các năm 1906, 1919 và 1920, Phan Châu Trinh ba lần gửi một bức thư yêu cầu nhà cầm quyền Pháp phải thay đổi chính sách cai trị ở Việt Nam và Đông Dương. Năm 1908, ông bị thực dân Pháp bắt và đày đi Côn Đảo. Giữa năm 1910 ông được thả và về an trí ở Mỹ Tho. Tháng 4 năm 1911, ông xuống tàu sang Pháp, tiếp tục đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ, gióng lên tiếng nói tố cáo chế độ thuộc địa, đánh động dư luận Pháp. Tại đây, ông lại bị Pháp bắt giam lần thứ 2 trong 10 tháng, từ tháng 9 năm 1914 đến tháng 7 năm 1915. Ngày 16/7/1915, Phan Châu Trinh được tuyên bố trắng án và trả tự do. Sau đó, ông chuyển sang tiếp tục hoạt động bí mật trong các nhóm Việt kiều yêu nước, thích nghi với hoàn cảnh mới tại Pháp. Sau 14 năm, ngày 26/6/1925 Phan Châu Trinh về đến Tổ quốc, với mục tiêu và khẩu hiệu “Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”. “Khai dân trí” là: bỏ lối học tầm chương trích cú, mở trường dạy chữ Quốc ngữ, kiến thức khoa học thực dụng, bài trừ hủ tục xa hoa.“Chấn dân khí” là: thức tỉnh tinh thần tự lực tự cường, mọi người giác ngộ được quyền lợi của mình, giải thoát được nọc độc chuyên chế. “Hậu dân sinh” là: phát triển kinh tế, cho dân khai hoang làm vườn, lập hội buôn, sản xuất hàng nội hóa... Ông công bố chủ trương đường lối "Trước tiên cần phát triển giáo dục, nâng cao trình độ nhân dân về ý thức dân chủ tự cường và phát triển xã hội, kinh tế" với mục tiêu cuối cùng là giành lại độc lập dân tộc. Phan Châu Trinh yêu cầu chính quyền thuộc địa sửa đổi chính sách cai trị hiện hành để có thể giúp nhân dân Việt Nam từng bước tiến đến văn minh. Ông đề cao phương châm "Tự lực khai hóa", vận động những người cùng chí hướng thức tỉnh dân chúng, tuyên truyền tư tưởng dân quyền. Ngày 24/3/1926 ông qua đời, trên miệng còn kịp mỉm cười chào người bạn tâm giao Huỳnh Thúc Kháng và lời trăn trối "Độc lập dân tộc sở cậy Nguyễn Ái Quốc". Di tích khu lưu niệm mộ Cụ Phan Châu Trinh mang giá trị văn hóa lịch sử của giai đoạn đầu thời kỳ kháng chiến chống Pháp trước khi có Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo, góp phần tô thắm thêm trang sử vàng truyền thống cách mạng của dân tộc Việt Nam. Là chứng cứ lịch sử giáo dục lòng yêu nước, niềm tự hào về tấm gương cách mạng sáng ngời của bậc tiền nhân cho các thế hệ chúng ta noi theo. Bia mộ của Người là công trình công phu, ghi lại thân thế và sự nghiệp của Người do Huỳnh Thúc Kháng soạn thảo. Ngoài ra, khu lưu niệm còn trưng bày lưu giữ những hiện vật, bút tích trong quá trình hoạt động cách mạng của Nhà yêu nước Phan Châu Trinh. Với những giá trị quý báu trên, ngày 12/12/1994 nơi an nghỉ của Người đã vinh dự được Nhà nước công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Vào ngày 24/3 hằng năm, Quận ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và nhân dân quận Tân Bình tụ họp về đây trang trọng tổ chức Lễ tưởng niệm nhà chí sỹ yêu nước, một đời nặng nợ với mục tiêu “Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”. Lễ dâng hương tưởng niệm ngày mất nhà chí sỹ yêu nước Phan Châu Trinh trở thành hoạt động thường niên của Quận. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh.

TP Hồ Chí Minh 1483 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Lăng Võ Di Nguy

Khu vực gò đất cao từ Bà Chiểu tới Phú Nhuận là nơi có nhiều lăng mộ của các công thần thời Trung Hưng nhà Nguyễn, từ Tổng trấn Gia Định Lê Văn Duyệt, Phan Tấn Huỳnh, Phó Tổng trấn Trương Tấn Bửu tới các vị tướng như Võ Tánh, Võ Di Nguy; những người này tuy không sinh ra ở Gia Định nhưng sự nghiệp lại gắn liền với vùng đất này. Lăng Võ Di Nguy với kiểu kiến trúc chỉ dành cho bậc đại công thần được chia làm hai khu: khu đền thờ phía trước và khu mộ phía sau. Ngôi mộ được xây bằng hợp chất cổ và được coi là tiêu biểu cho nghệ thuật xây cất lăng mộ dành cho các công thần ở Nam bộ. Với kiến trúc gồm bình phong trước, bình phong sau, vòng tường bao xung quanh cùng các trụ cột là những thành phần che chắn, bảo vệ cho phần mộ ở giữa. Mộ được xây dựng có dạng hình chữ nhật vuông xung quanh khắc các đường trang trí và hình tượng “dây lá hóa rồng” đang bay lượn. Toàn bộ khu mộ được đắp nổi nhiều hình tượng và trang trí nhiều mô típ hoa văn độc đáo, sống động: búp sen, kỳ lân, rồng, hổ, rái cá; tùng lộc, lộc bình, hoa điểu, hoa cúc dây… cùng nhiều bài thơ ghi công đức của ông và phu nhân. Đền thờ có từ khi xây cất xong khu mộ, kiến trúc hiện nay của khu đền thờ là kiến trúc được xây dựng lại trong đợt trùng tu vào năm 1972; với kiến trúc chính điện là ngôi nhà tứ trụ truyền thống Nam bộ cùng hai dãy nhà phía Đông và phía Tây hai bên. Bên trong, tại Chính điện có bàn thờ Hội đồng ở giữa, phía trong là các án thờ Võ Di Nguy và người cháu ruột là Võ Di Thái được phong tước Bình Giang Bá, riêng án thờ Võ Di Nguy có bài vị khắc chữ Thần thếp vàng. Trong chính điện còn treo các bức hoành phi, liễn đối bằng chữ Nho thể hiện công trang của Võ Di Nguy. Đền thờ và mộ Võ Di Nguy là một công trình kiến trúc nghệ thuật có liên quan tới nhân vật lịch sử thời chúa Nguyễn. Đây là kiến trúc lăng mộ có tính chất uy nghi, độc đáo vào bậc nhất của các công thần thời Nguyễn ở Nam bộ. Công chúng tới đây có thể nhận thấy nhiều điều thú vị về cuộc sống và xã hội của con người trong quá khứ một thời ở đất Gia Định xưa. Lăng Võ Di Nguy được Bộ Văn hóa – Thông tin xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia theo Quyết định số 43-Văn Hóa /Quyết Định ngày 07 tháng 01 năm 1993. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh.

TP Hồ Chí Minh 1385 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

LĂNG TRƯƠNG TẤN BỬU

Lăng Trương Tấn Bửu là nơi yên nghỉ của Long Vân Hầu Trương Tấn Bửu, một danh tướng của triều Nguyễn. Lăng được xây dựng tại ấp Phú Thành, xã Phú Nhuận, tỉnh Gia Định nên còn được gọi là lăng Phú Thành, hội quí tế lo việc cúng tế, trông coi lăng mang tên Hội Phú Thành. Trương Tấn Bửu là một trong năm vị tướng nổi danh của thành Gia Định (gồm Nguyễn Văn Trương, Nguyễn Văn Nhân, Lê Văn Duyệt, Nguyễn Huỳnh Đức, Trương Tấn Bửu). Ông theo phò Nguyễn Ánh từ năm 1787, giữ nhiều trọng trách trong quân đội, được phong tước hiệu là Long Vân Hầu. Năm 1808, vua Gia Long phân định lại bờ cõi, đổi “Gia Định trấn” thành “Gia Định thành” bao gồm Bình Thuận, Phiên An, Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Thanh, và Hà Tiên. Tổng trấn đầu tiên của Gia Định thành là Nguyễn Văn Nhân, Phó Tổng trấn là Trương Tấn Bửu. Từ đây đến cuối đời ông giữ nhiều trọng trách: Tổng trấn Gia Định thành; Tổng trấn Bắc thành; Phó Tổng trấn Gia Định thành dưới quyền Tổng trấn Lê Văn Duyệt; Tiền quân Phó tướng; Trung quân kiêm Tả quân Phó tướng; trông coi xây dựng Thái miếu; đắp thành Châu Đốc; đào kênh Vĩnh Tế…Ông mất năm 1827, vua Minh Mạng ban cho hai ngàn quan tiền và năm cây gấm tống cẩm để giúp làm việc tang lễ. Đích thân tả quân Lê Văn Duyệt coi lo việc chôn cất Long Vân Hầu Trương Tấn Bửu và xin cấp tự điền (ruộng đất để thờ tự) và người giữ mộ. Ông mất năm 1827, vua Minh Mạng ban cho hai ngàn quan tiền và năm cây gấm tống cẩm để giúp làm việc tang lễ. Đích thân tả quân Lê Văn Duyệt coi lo việc chôn cất Long Vân Hầu Trương Tấn Bửu và xin cấp tự điền (ruộng đất để thờ tự) và người giữ mộ. Lăng Trương Tấn Bửu gồm ngôi mộ và một đền thờ trong khuôn viên rộng hơn 2300m2 có tường rào bao bọc. Mộ Trương Tấn Bửu dài hơn 3m, chiều ngang khoảng 2m, cao hơn 2m. được xây bằng ô dước (hợp chất gồm vôi, cát giấy do, than hoạt tính, mật đường). Cách xa mộ gần 2m có tường thành bao thành hình chữ nhật (được gọi là khuông thành). Tường được xây bằng ô dước và gạch thức (gạch có đóng dấu). Đầu mộ, cuối mộ có xây bình phong. Trên khuông thành và binh phong trang trí hình kỳ lân, búp sen, phù điêu hình cây tùng và chin hạc, các cặp liễn đối. Bên phải ngôi mộ là đền thờ Trương Tấn Bửu. Đền thờ gồm có tiền điện và chính điện. Tiền điện được xây theo dạng nhà tứ trụ, vì kèo bằng gỗ, mái lợp ngói ống (ngói âm dương tiểu đại). Chính điện cũng có dạng nhà tứ trụ nhưng được xây bằng bê-tông, tường gạch, mái lợp tôn xi măng. Khám thờ Trương Tấn Bửu được đặt ở chính điện, hai bên có bàn thờ Tả Ban và Hữu Ban. Năm 1943, với sự đóng góp của Hội Thượng công quí tế lăng Lê Văn Duyệt, Hội Phú Thành đã trùng tu đền thờ. Năm 1959, Hội Phú Thành xây một hội quán bên phải đền thờ. Lăng Trương Tấn Bửu là công trình tiêu biểu của kiến trúc lăng mộ đầu thế kỉ 19 ở Gia Định, do đích thân Lê Văn Duyệt đốc xuất xây dựng làm nơi yên nghỉ cho một vị tướng tài, có công bình định an dân ở miền Nam, dẹp nạn thổ phỉ ở miền Bắc. Trước Cách mạng tháng Tám và trong những ngày đầu Nam bộ kháng chiến, lăng Trương Tấn Bửu là cơ sở của đội Cảm tử quân Phú Nhuận. Lăng Trương Tấn Bửu đã được Bộ Văn hóa – Thông tin xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia theo Quyết định số 101/2004/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thông Tin ngày 15 tháng 12 năm 2004. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh.

TP Hồ Chí Minh 1345 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đình Phú Nhuận

Đình Phú Nhuận được xây dựng khoảng năm 1818 ở xóm Kinh, sát kinh Nhiêu Lộc, đến năm 1852 được xây lại trên địa điểm hiện nay. Ngày 29 tháng 11 năm Nhâm Tý (tức ngày 08 tháng 01 năm 1853), vua Tự Đức đã ban sắc phong cho Thần Thành Hoàng của đình. Đình trải qua nhiều lần trùng tu vào các năm 1930, 1966, 1989 và 1998, nhưng vẫn giữ được nét độc đáo kiến trúc cổ của đình Nam bộ thế kỷ 19. Từ cổng đình bước vào, ta gặp miếu “Nhị Vị Công Tử” thờ hai người con trai của nữ thần Po Nagar của người Chăm ở bên phải; miếu thờ “Ngũ Hành Nương Nương” bên trái. Mặt tiền là bức bình phong đắp nổi hình Bạch Hổ. Phía sau bức bình phong là dấu vết bệ thờ Thần Nông. Nhìn tổng thể, đình có hình L ngược, có hai trục: trục chính nằm ở phía bên phải (tính từ trong ra ngoài), nhà võ ca, võ quy, chính diện. Trục phụ gồm: sân đình, nhà thảo bạt, nhà túc, sân thiên tỉnh, nhà bếp và nhà kho. Mái đình thẳng lợp ngói âm dương, trên đỉnh có trang trí “ lưỡng long tranh châu” bằng gốm. Bên trong đình có bộ cột và vì kèo làm bằng gỗ, cấu trúc theo kiểu kẻ chuyền. Chính diện xây theo kiểu nhà tứ tượng, hình vuông (một gian hai chái) với cột gỗ, kèo gỗ, trạm hình đuôi rồng, được xây dựng năm 1920. Các bàn thờ được xếp thành ba dãy, dãy giữa gồm các bàn thờ Thần, hai bên là bàn thờ Tả Ban và Hữu Ban. Bàn thờ Thần bằng gỗ chạm hoa văn “lưỡng long triều nguyệt”, trên đặt sắc Thần do vua Tự Đức ban cho vị Thần Thành Hoàng của đình Phú Nhuận đựng trong chiếc hộp. Trên bàn thờ Thần ở chính điện có lư hương bằng gốm cổ, men xanh lam và một lư hương bằng đồng. Chính điện có bốn cặp câu đối và ba bức hoành phi được chạm khắc tinh sảo. Đặc biệt có cặp câu đối cổ viết bằng chữ Hán “Hộ quốc tý dân” (dịch là: Giúp nước cứu dân) niên đại 1860, và “Hộ quốc bảo dân” (dịch là: Giúp nước bảo vệ dân) niên đại 1901. Ngoài ra, đình còn lưu giữ 33 hiện vật và sắc phong của vua Tự Đức nói trên. Đình Phú Nhuận thờ Thần Thành Hoàng theo tục thờ Thần của người Việt. Ngày lễ lớn nhất của đình Phú Nhuận là lễ Kỳ Yên, được tổ chức vào ngày 16, 17, 18 tháng Giêng. Lễ vật chính cúng Thần là con heo đen. Ngày 16 tháng Giêng là ngày lễ chính. Đình Phú Nhuận được Bộ Văn hóa – Thông tin xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia theo Quyết định số 3744/Quyết Định -Văn Hóa Thông Tin ngày 29 tháng 01 năm 1997. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh.

TP Hồ Chí Minh 1282 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đình Bình Hòa

Đình Bình Hòa tọa lạc ở phường 12, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh. Năm 1818, thôn Bình Hòa được thành lập và ngôi đình cũng được dựng vào năm ấy. Năm 1853, được vua nhà Nguyễn là Tự Đức sắc phong. Đình được xây dựng trên gò đất cao, quay về hướng đông. Theo trục chính từ ngoài vào là nhà võ ca, tiền điện, trung điện và chính điện. Nhà võ ca mới được xây dựng thêm vào năm 1972, dài 20,7m, rộng 13,49m. Tiền điện hình chữ nhật dài 13,49m, rộng 9,56m, gồm ba gian hai chái, nhà có kiểu như nhà ở thông thường, có bốn hàng cột, đường kính từ 0,35m đến 0,40m, cao 6m. Trung điện hình chữ nhật dài 12,48m, rộng 9,57m. Mái lợp ba lớp ngói, kiến trúc theo kiểu chồng diêm đầu hồi bịt đốc, trên bờ nóc gắn tượng lưỡng long tranh châu (lưỡng long triều nguyệt). Trung điện làm theo kiểu tứ tượng, gồm bốn cột chính rồi phát triển ra chung quanh. Chính điện hình chữ nhật dài 11,03m, rộng 9,57m, cũng được xây theo kiểu tứ tượng, chỉ có một tầng mái, các xà kẻ gỗ ở tường hồi không có thanh kẻ chéo góc. Nhà túc dài 16,48m, rộng 8m, ngoài ra còn có nhà kho và nhà bếp. Tiền điện có ba ban thờ : hồi đồng ngoại, tả ban chư vị, hữu ban chư vị. Các bàn thờ, khám thờ, hoành phi, câu đối đều được chạm trổ tinh vi, ba mặt bàn đều được chạm trổ, bốn góc bàn chạm bốn đầu rồng, bốn chân bàn chạm bốn chân rồng. Đặc biệt, trên đường diềm bàn thờ tiền điện có chạm hình lưỡng long tranh châu, thân rồng được cách điệu bằng cành mai. Đường diềm trên bàn thờ tiền điện với hoa văn mai dơi cũng rất đáng chú ý. Ngoài ra còn các hoa văn nho, sóc, phượng, hoa sen. Đình thờ bốn vị thành hoàng và thần Nam Hải. Lễ kỳ yên hằng năm là lễ lớn nhất từ ngày 11 đến 14 tháng 9 âm lịch. Vị thần được thờ chính tại đình Bình Hòa là Thành hoàng Bổn cảnh, được vua Tự Đức sắc phong vào năm Quý Sửu (1853). Ngoài bộ cột quý, trong đình hiện còn lưu giữ 39 hiện vật có giá trị khác. Đáng chú ý là 5 bàn thờ bằng gỗ được chạm trổ tinh xảo; hai bát nhang gốm Sài Gòn xưa, sắc phong của vua Tự Đức, v.v… Ngày 7 tháng 1 năm 1993, ngôi đình đã được Bộ Văn hóa-Thông tin công nhận là di tích Kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia theo Quyết định số 43 Văn Hóa /Quyết Định. Nguồn Trang thông tin điện tử phường 12, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh.

TP Hồ Chí Minh 1169 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Chùa Phụng Sơn(Tổ Đình Phụng Sơn)

Chùa Phụng Sơn, tên chữ là Phụng Sơn Tự, còn có tên là chùa Gò, tọa lạc ở số 1408 Đường 3 tháng 2, phường 2, quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. Ngôi cổ tự này đã được xếp hạng là "Di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia" vào ngày 16 tháng 11 năm 1988. Chùa Phụng Sơn được thiền sư Liễu Thông (1754-1840) tạo lập vào đầu thế kỷ 19, dưới triều vua Gia Long trên nền của một ngôi chùa Chân Lạp cổ, giống các chùa Giác Lâm và chùa Cây Mai, nằm trên một đồi nhỏ bao quanh là ao Bàu Chuông có trồng sen. Năm 1904, am lá được xây cất lại. Và kể từ đó cho đến nay, chùa có hai lần trùng tu lớn, đó là vào thời hòa thượng Huệ Minh trụ trì (1904 -1915) và vào năm 1960. Năm 1963, hòa thượng Thích Phước Quang cho xây lại cổng tam quan, do kiến trúc sư Nguyễn Bá Lăng vẽ kiểu. Tuy được trùng tu lại vài lần, nhưng chùa vẫn theo kiến trúc cổ với bộ khung gỗ và mái ngói âm dương. Chùa Phụng Sơn xây theo kiểu chữ "quốc" (chữ Hán), dài trên 40 m, rộng gần 20 m, có hàng hiên chạy quanh bốn phía. Bên trong chùa chia ra hai khu rõ rệt, phía trước là chính điện, cách một sân lộ thiên, phía sau là nhà giảng. Hai bên sân lộ thiên có đông lang và tây lang, nối liền hai nơi. Sân lộ thiên có hòn non bộ, tượng Quan Âm và cây cảnh, nhờ có khoảng sân này nên chùa được thoáng đãng, sáng sủa. Nơi chính điện, các cột đều làm bằng gỗ tốt, lâu ngày đã trở nên đen bóng. Chùa thờ kiểu "tiền Phật, hậu Tổ". Điện Phật có nhiều tượng Phật xưa bằng gỗ, thiếp vàng chạm trổ mỹ thuật. Tổng cộng chùa có khoảng 40 pho tượng thờ. Nhiều tượng thờ do nhóm thợ từ Sa Đéc, do hòa thượng Huệ Minh mời đến chùa để tạo tác vào những năm đầu thế kỷ 20. Có nhiều pho tượng quý như bộ Di Đà Tam Tôn, bộ Ngũ Hiền thượng kỳ thú, pho tượng Phật bằng đá, tượng Tiêu Diện... Chùa Phụng Sơn là một trong những ngôi chùa cổ, còn in đậm nét sự có mặt của tín ngưỡng dân gian, Như bên hành lang chánh điện thờ Linh Sơn Thánh Mẫu, một trong những vị nữ thần được tôn kính và thờ tự phổ biến ở miền Nam. Dấu vết của quá trình sinh sống và cộng cư của nhiều dân tộc tại vùng đất này còn được thể hiện qua hình ảnh ngôi miếu nhỏ thờ Ông Tà (Neak Tà) trong khuôn viên chùa, bên những ngôi tháp Tổ. Đó là dạng tín ngưỡng, là một nét văn hóa phổ biến của cư dân Khmer. Là một trong những ngôi chùa cổ còn lưu lại đậm nét về địa thế, kiến trúc, nghệ thuật tạc tượng, cách bày trí và thờ cúng, chùa Phụng Sơn đã góp phần mang lại một giá trị văn hóa - nghệ thuật phong phú, đa dạng trong dòng phát triển của văn hóa Phật giáo tại Nam Bộ. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận 11, thành phố Hồ Chí Minh.

TP Hồ Chí Minh 1396 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đình Chí Hoà

Hiện tọa lạc trong con hẻm 475 Cách Mạng Tháng Tám, Phường 13, Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh. Không rõ năm lập Đình Chí Hòa, chỉ biết rằng đình có sau khi Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam kinh lược (1698), và thiết lập làng xã cho lưu dân người Việt. Ban đầu, đình Chí Hòa được dựng khá đơn sơ theo kiểu chữ "tam" (三), với vách ván và mái lợp ngói âm dương. Sau khi được vua Tự Đức ban sắc phong (16 tháng 2 Âm lịch năm Nhâm Tý, 1852), ngôi đình mới được xây dựng kiên cố và được tu bổ vài lần về sau. Khi xưa, khuôn viên đình rộng trên một mẫu (hecta), hiện nay đã bị thu hẹp vì bị lấn chiếm. Ngay cả cây đa to trước đình, gốc đến ba người ôm, rễ phụ mọc tua tủa từ thân xuống...cũng bị đốn hạ vào năm 1980, khiến cảnh quan đình bị thay đổi nhiều... Đây là ngôi đình thuộc hàng cổ nhất tại thành phố và đã được Bộ Văn hóa cấp bằng công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia theo quyết định số 1460 - Quyết Định /Văn Hóa ký ngày 28 tháng 6 năm 1996. Nguồn Trang thông tin điện tử phường 13, quận 10, thành phố Hồ Chí Minh.

TP Hồ Chí Minh 1374 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đình Bình Đông

Đình Bình Đông được xây dựng trên cù lao ngay nhánh rẽ của dòng Kinh Đôi, thuộc phường 7 quận 8 thành phố Hồ Chí Minh. Theo “Gia Định thành thông chí” của Trịnh Hoài Đức, thôn Bình Đông thuộc tổng Tân Phong, huyện Tân Long, phủ Tân Bình (1818). Đình có sắc phong Tự Đức ngũ niên (1853). Như vậy đình Bình Đông phải được xây dựng trước năm 1853, tức trước năm nhận được sắc. Sắc phong cho Thần "Thành hoàng bổn cảnh" của thôn Bình Đông, huyện Tân Long ghi ngày 29 tháng 11 âm lịch năm Nhâm Tý (08/01/1853). Theo các bô lão thì đình Bình Đông có từ xưa. Lúc đầu, kiến trúc của đình chỉ là ngôi nhà lá, dùng làm nhà làng cho dân cư quanh vùng tới hội họp và cúng bái. Đến năm 1922 được trùng tu bằng mái ngói, vách ván, cột kèo gỗ theo dạng đình Nam Bộ với võ ca và chánh điện nằm giữa, hai bên có Đông và Tây lang, bên cạnh lại có nhà Nghĩa Từ. Đến năm 1930, đình xuống cấp nên được sửa chữa lớn, mái ngói được thay bằng ngói đại ống 2 lớp, vách trét ô dước, nền gạch tàu. Năm 1968, trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân, đình bị bom đánh sập một phần võ ca, chánh điện và nghĩa từ. Mãi đến năm 1991, đình được xây dựng lại với kết cấu bằng nguyên vật liệu nặng (bêtông - cốt sắt) nhưng kiến trúc tổng thể vẫn giữ nguyên. Lần xây dựng này có thêm nhà Truyền Thống. Tuy toàn bộ cảnh quan không thay đổi nhưng kết cấu không còn nét xưa. Nổi bật còn lại vẫn là các hiện vật bên trong chánh điện như toàn bộ khám thờ thần, Tả Hữu ban, Hội đồng đều chạm thủng viền quanh với rồng vờn châu, từng lộc, tứ linh rất nghệ thuật. Trên bàn thờ Thần có khánh đựng mão thần, bộ bát bửu bằng đồng, lư hương bình hoa bằng gốm quí. Trước bàn thờ bố trí bộ lỗ bộ đầu bịt đồng rất quí. Cặp liễng treo hai bên bàn thờ Thần. Chung quanh cặp liễn có chạm các hoa văn rất nghệ thuật. Ngoài ra còn có 4 cặp liễn khác cùng kích cỡ, cùng mang tính nghệ thuật chạm trổ với nội dung ca ngợi công đức Thần được treo tuần tự theo cung cách thờ cúng. Trong chánh điện còn phải kể đến bao lam chạm trổ hình dáng: mai, lan, cúc, trúc, mẫu đơn, sóc, giác trên các loại gỗ quí. Các hoành phi đáng kể như Bình Đông Đình có ghi niên đại 1870 treo trên cửa chánh điện và bức "Diệu - Diệu anh linh" niên đại 1850. Trong nhà nghĩa từ bài trí hai bàn Tiền và Hậu hiền với đầy đủ hiện vật thờ cúng. Cạnh có bàn Tiên - Sư cũng được chưng dọn rất nghiêm túc. Riêng nhà Truyền Thống nằm cạnh là nơi trưng bày một số hình ảnh minh họa thời gian cụ Tôn Đức Thắng hoạt động tại Sài Gòn và tại đình Bình Đông. Nhìn tổng thể còn có miếu Ngũ Hành, bàn thờ Thần Nông, miếu Ông Tà bố trí theo tục lệ trước mặt võ ca (gần cổng Tam quan). Sân khấu thiết kế nằm trong võ ca nhằm phục vụ hát xướng ngày đại lễ. Đình Bình Đông không chỉ nổi tiếng là đình cổ, linh thiêng mà nơi đây còn mang ý nghĩa quan trọng của sự kiện lịch sử cách mạng. Năm 1920, Tôn Đức Thắng (nguyên Chủ tịch nước) từ hải ngoại trở về Sài Gòn và bí mật thành lập Công hội đỏ phát triển mạnh trong đội ngũ công nhân nhằm đoàn kết chống tư bản đế quốc. Lúc này ông Ka Hiêm là hội viên đình Bình Đông nên biến đình thành cơ sở của Công hội đỏ. Năm 1925, là lãnh đạo tổ Công hội đỏ thuộc Nhà đèn Chợ Quán, ông Ka Hiêm tổ chức nhiều cuộc họp tại đình và các tài liệu đều được cất giấu dưới khám thờ. Theo ông Dương Quang Đông (Nguyên thường vụ Xứ ủy Nam kỳ) - Chủ tịch câu lạc bộ hưu trí TP. Hồ Chí Minh và ông Ka Hiêm thì Chủ tịch Tôn Đức Thắng đã đến dự nhiều lần những cuộc họp quan trọng tại đình Bình Đông trong khoảng thời gian từ 1925 - 1928. Những lần đó Bác Tôn đã thuyết giảng về chủ nghĩa Mác, lòng yêu nước cho các công nhân nòng cốt của Hội. Thời gian hoạt động của Công hội đỏ diễn ra từ 1925 - 1928, không hề bị lộ bí mật. Chính tại chánh điện, các mật thư của Nguyễn Ái Quốc được chuyển từ nước ngoài về cũng như các sách báo tuyên truyền cho chủ nghĩa Mác đều được cất giấu cẩn thận và an toàn tại đình Bình Đông. Thời kỳ chống Mỹ, đình Bình Đông là nơi liên lạc, chuyển vũ khí vào nội thành và cũng là nơi bộ đội miền Nam đặt súng bắn vào Tòa hành chánh quận 7 của chế độ cũ năm 1968. Đình Bình Đông là một di tích văn hóa và lịch sử, được Bộ Văn hóa cấp bằng công nhận di tích theo quyết định số 2890 - Văn Hóa /Quyết Định ký ngày 27/09/1997. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận 8, thành phố Hồ Chí Minh.

TP Hồ Chí Minh 1404 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đình Minh Hương Gia Thạnh

Đình Minh Hương Gia Thạnh hội quán tọa lạc tại 380 đường Trần Hưng Đạo, phường 11, quận 5, thành phố Hồ Chí Minh. Đình là nhà việc của xã Minh Hương, một xã được thành lập vào năm 1698, tập hợp con cháu người Hoa ở dinh Phiên Trấn. Năm 1808, vua Gia Long ban cho tên “Gia Thạnh đường” nên đình còn có tên Minh Hương Gia Thạnh. Năm 1867, chính quyền thuộc địa thay đổi cơ cấu hành chính, đình không còn là nhà việc của xã và trở thành hội quán của hội Minh Hương Gia Thạnh. Đình được xây dựng năm 1797, trùng tu vào các năm 1839, 1901 và 1962. Lần trùng tu cuối sử dụng một số vật liệu hiện đại và xây thêm tầng lầu trên chính diện. Kiến trúc đình theo kiểu nhà năm gian, vì kèo gỗ, mái lợp ngói ống, tường gạch. Nội thất đình bao gồm võ ca, chính điện và hậu điện. Bên phải võ ca có miếu Ngũ Hành. Đứng trước cổng có thể nhìn rõ trên mái đình các trang trí hình lưỡng long tranh châu, cá hóa long, tượng ông Nhật bà Nguyệt, phù điêu trích tuồng tích của Trung Quốc … do lò gốm Đồng Hòa sản xuất năm Tân Sửu 1901. Bộ khung gỗ kết cấu kiểu kẻ chuyền và các cột gỗ kê trên chân đế bằng đá tạo cho đình thêm nét cổ kính. Trên cột và các đà ngang treo nhiều hoành phi, câu đối, phần lớn được làm từ đầu và giữa thế kỷ XIX. Có tất cả 38 hoành phi và 22 câu đối, tập chạm bốn chữ “Thiện tục khả phong” (Tục tốt đáng khen) do vua Tự Đức ban cho năm 1863 và câu đối của Trịnh Hoài Đức làm năm Minh Mạng thứ 2 (1821). Chính điện đình xây trên nền cao, phía trước trang trí ba bao lam chạm lộng các đề tài tùng – hạc, mai – điểu, liên – áp, giỏ cua, giỏ trái cây … Cuối chính điện là ba khám thờ lớn bằng gỗ đặt trên bệ gạch, được chạm viền chung quanh lưỡng long tranh châu, lân, phụng, dây hoa …Khám thờ thần đặt ở giữa với bài vị: Ngũ thổ tôn thần – Ngũ cốc tôn thần, Đông trù tư mệnh -Bốn cảnh thành hoàng. Trước khám thờ có một lư trầm bằng đá và hai tượng Ngô Nhân Tịnh, Trịnh Hoài Đức cũng bằng đá đặt hai bên. Bên trái là khám thờ Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh và Đô đốc tướng quân Trần Thắng Tài, hai vị quan tướng có công lớn, được triều Nguyễn phong là Thượng đẳng thần. Khám bên phải thờ Trịnh Hoài Đức và Ngô Nhân Tịnh, hai người Minh Hương làm quan đến chức Thượng thư, (cùng với Lê Quang Định hợp thành “Gia Định tam gia”, một nhóm nổi tiếng về văn học và sử học). Góc trái chính điện có một chuông đồng. Quai chuông là một con rồng hai đầu, bốn chân. Thân chuông đúc nổi 2 hàng chữ “Gia Định thành Minh Hương xã công tạo“, “Long tập Quí Mùi thu nguyệt” (chuông do xã Minh Hương thành Gia định làm năm Quí Mùi – 1823). Hậu điện cách chính điện một sân thiên tỉnh nhỏ. Ở đây cũng có ba khám thờ trang trí giống nhau. Các vị tiền hiền khai sáng ra làng được thờ ở khám thờ chính giữa. Bên trái là khám thờ các hương chức và phu nhân có công, vợ chồng ông Trương Công Sĩ, người đã tặng đất cho xã. Những viên chức nhỏ có công và vợ được thờ ở khám bên phải. Miếu Ngũ Hành thờ Ngũ Hành Nương Nương và Chúa Sinh Nương Nương (người chuyên lo giúp việc sinh đẻ). Trong khám thờ có tượng Bà mẹ Sinh. Trước tượng Bà là tượng hai hầu và mười hai bà mụ bồng đứa trẻ trên tay. Phúc đức chính thần (Thổ Địa) và Bạch Mã Thái giám cũng được thờ ở miếu. Góc trái miếu có một chuông đồng đúc năm Tự Đức thứ 2 (1849). Ngoài những hiện vật đã kể, trong đình còn nhiều hiện vật quí khác như: bia lập năm 1839 ghi tên những người Minh Hương làm quan có tiếng dưới triều Nguyễn; một số hoành phi câu đối, đặc biệt là đôi câu đối làm cong theo thân cột, chạm nổi long, lân, qui, phụng … với đầu rồng được chạm cao hơn bề mặt câu đối gần một tấc, hai đỉnh gang làm năm 1842; bộ ghế chạm rồng, phượng; bộ thập bát binh khí …Đình Minh Hương là một trong những ngôi đình xưa ở thành phố Hồ Chí Minh. Ngoài ý nghĩa là một di tích của xã Minh Hương, nơi thờ tự hương hỏa của người Minh Hương, đình còn có giá trị về nghệ thuật thư pháp, nghệ thuật chạm khắc gỗ mang phong cách Việt Nam thế kỷ 19. Đình Minh Hương đã được Bộ Văn hóa ra quyết định số 43-Văn Hóa /Quyết Định ngày 07/01/1993 công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận 5, thành phố Hồ Chí Minh.

TP Hồ Chí Minh 1465 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đình Nghĩa Nhuận(Miếu Ông Quan Đế - Hội Quán Nghĩa Nhuận)

Đình Nghĩa Nhuận tọa lạc tại 27 đường Phan Văn Khỏe, phường 13, quận 5, thành phố Hồ Chí Minh. Đình Nghĩa Nhuận nguyên là đình thôn Tân Nhuận thuộc tổng Tân Phong, huyện Tân Long, phủ Tân Bình, một thôn đã được Trịnh Hoài Đức nhắc đến trong Gia Định thành thông chí. Từ năm 1836 thôn Tân Nhuận thuộc tổng Tân Phong Trung, huyện Tân Long, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định. Năm 1853, Thần Thành Hoàng bổn cảnh của làng được vua Tự Đức ban tặng sắc phong. Sau, đình trở thành hội quán của Hội Nghĩa Nhuận, thờ Quan Công là vị thần chính nên còn có tên là miếu Quan Đế. Theo Vương Hồng Sến, hội quán Nghĩa Nhuận được thành lập năm 1872 và trùng tu vào các năm 1879, 1894, 1906 và 1911. Đình gồm hai khu nhà riêng biệt trên khuôn viên khoảng hai ngàn mét vuông. Phần trước gồm các điện thờ, thiên tỉnh và hai dãy nhà phụ hai bên. Phía sau là nghĩa từ và các khu nhà phụ. Năm 1993, đình được xây thêm tam quan và hai dãy nhà dọc hai bên sân để thờ Thái Tuế thiên quân, Văn Xương đế quân, Thần Tài đại hắc thiên ở phía bên trái và thờ Di Lặc tôn Phật, Quan Âm Bồ Tát, Địa Tạng vương Bồ Tát ở bên phải. Hai bên cửa đình, ngoài hai sư tử đá chầu hai bên, còn có tượng Di Đà Hộ Pháp và Vương Đại thiên quân. Tiền điện đình có bàn thờ Tả Thần môn và ngựa Xích Thố bài trí đối xứng với bàn thờ Hữu Thần môn và Chiến sĩ trận vong. Từ tiền điện qua sân thiên tỉnh thì vào chính điện. Giữa chính điện có khám thờ Quan Đế với tượng quan Đế bằng gỗ cao khoảng 80cm, ngồi trên ngai. Hầu trước khám thờ là tượng Quan Bình và Châu Xương bằng gỗ cao 180cm đặt trong tủ kính đối mặt nhau. Bên trái khám thờ Quan Đế là gian thờ Thần Thành Hoàng bổn cảnh. Sắc phong của vua Tự Đức đặt trong một tủ kính lớn. Sắc ban cho Thần làng Thanh Bình, huyện Bình Dương, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định cũng được đặt chung ở đây. Khám thờ Bà Thiên Hậu ở góc bên phải. Trong khám thờ có tượng Bà Thiên Hậu bằng gỗ cao khoảng 70cm, ngồi trên ghế chạm. Nghĩa từ thờ các bậc tiền hiền, hậu hiền có công với làng. Nét nổi bật của đình là nghệ thuật chạm gỗ mang phong cách Việt Nam nửa cuối thế kỷ 19 và nửa đầu thế kỷ XX. Hầu như có thể nhìn thấy các tác phẩm chạm gỗ ở khắp nơi trong đình: trên tất cả các vì kèo, bao lam cửa, bao lam khám thờ, hương án, câu đối ... với các mô típ mới lạ như trái đào lộn hột, măng cụt, chim đậu trên chùm mận ... Bên cạnh các đề tài quen thuộc. Được nhắc đến nhiều là tượng ngựa Xích Thố, một trong những tượng ngựa Xích Thố đẹp nhất ở thành phố Hồ Chí Minh; 3 bức phù điêu trước ba hương án ở chính điện chạm nổi "Lục quốc phong tướng", "Trưng Nữ Vương khởi nghĩa" và "Lê Thái Tổ khởi nghĩa" được đánh giá là đỉnh cao về nghệ thuật chạm nổi và đổi mới về đề tài; bức bình phong sơn son thếp vàng, chạm nổi hai mặt các đề tài Bát Tiên quá hải, cầm kỳ thi họa, mai điểu, nho sóc ... viền chung quanh là lưỡng long tranh châu, phụng hoàng, chân đỡ bình phong là 4 kỳ lân ở góc và 2 con rùa ở bên dưới tạo cho bình phong vẻ sinh động. Nghệ thuật chạm khắc đá cũng được thể hiện đặc sắc qua hai cột đá chạm rồng trước cửa đình, cặp sư tử chầu hai bên cửa, các cột đá chạm nổi câu đối, chân kê cột hình bát giác chạm mai, trúc, bầu rượu, túi thơ... Ngoài ra còn có một sô hiện vật giá trị như lư trầm bằng đồng đúc ba con rồng nâng quả cầu, bộ binh khí, cặp hạc đứng trên lưng rùa ...Đình Nghĩa Nhuận không chỉ là di tích của làng Tân Nhuận xưa mà còn thể hiện sự giao lưu văn hóa Hoa - Việt ở vùng đất đông đảo đồng bào Hoa - Việt chung sống. Tuy có vài thay đổi qua những lần trùng tu, đình vẫn giữ được vẽ cổ kính với những tác phẩm chạm gỗ, chạm đá giá trị. Đình đã được công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật theo quyết định số 43-Văn Hóa /Quyết Định ký ngày 07/01/1993. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận 5, thành phố Hồ Chí Minh.

TP Hồ Chí Minh 1379 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Hội quán Ôn Lăng (chùa Quan Âm)

HỘI QUÁN ÔN LĂNG tọa lạc tại số 12 đường Lão Tử, Phường 11, Quận 5 Hội quán Ôn Lăng, còn được gọi là chùa Quan Âm. Hội quán Ôn Lăng, còn được gọi là chùa Quan Âm, là trụ sở của hội đồng hương những di dân người Hoa nguyên quán ở phủ Tuyền Châu, tỉnh Phước Kiến (Trung Hoa). Hội quán được xây dựng vào khoảng nửa cuối thế kỷ thứ 18 và đã được trùng tu vào các năm 1828, 1867, 1897, 1993, 1995. Năm 1809, Ban Quản trị hội quán đã xây thêm một hồ phóng sinh trước hội quán, để “trấn mạch tụ khí” cho miếu thờ được linh thiêng. Ngoài Thiên Hậu Thánh Mẫu là vị thần được thờ ở gian giũa chính điện, hội quán Ôn Lăng còn thờ các vị Ngọc Hoàng Thượng Đế, Bà Chúa Sinh, Phúc Đức Chính Thần (Thần Thổ Địa), Quan Đế, Bao Công, Văn Xương Đế Quân (vị Thần ban phước lộc), Mã Tướng Quân, Thần Thành Hoàng Bổn Cảnh, Phật Thích Ca, Phật Di Đà, Thiên Phụ Địa Mẫu, Tử Vi, Hoa Quang Đại Đế (Thần Tài), Tề Thiên Đại Thánh. Đặc biệt, án thờ Bồ Tát Quan Thế Âm được đặt trong sân phía sau chính điện với tượng thờ Quan Âm cao gần hai mét đứng trên tòa sen, hai bên có Kim Đồng, Ngọc Nữ theo hầu. Mặt bằng tổng thể của hội quán gồm một khoảng sân nhỏ phía trước, một khối nhà hình chữ nhật ở giữa (gồm tiền điện, sân thiên tỉnh, trung điện, chính điện) và ba khối nhà vuông góc nhau tạo thành hình chữ U bao bọc khối nhà này, khoảng giữa các khối nhà là lối đi khá rộng rãi. Hội quán được xây dựng và trang trí theo phong cách đặc trưng của đền miếu Phước Kiến với kiểu kiến trúc “tứ hợp diện”, mái lợp ngói ống, đầu các xà gồ dưới mái hiên được chạm trổ hình bông sen…Giá trị nghệ thuật của hội quán thể hiện qua các phù điêu hình hai con rồng tranh viên ngọc, chim phượng hoàng và các mô hình thành quách, người, thú… bằng gốm được trang trí trên mái ngói; cặp tượng kỳ lân bằng đá chầu hai bên cửa gồm tượng lân giáo tử (lân mẹ đang dạy lân con) và tượng lân hàm châu (lân ngậm ngọc trong miệng); những mảng phù điêu bằng gỗ chạm trổ tinh xảo trang trí ở mặt tiền và trên các vì kèo; các bao lam cửa, bao lam khám thờ chạm trổ tinh tế hình mai – điểu (hoa mai – chim sẻ), trúc – tước (cây trúc – chim tước), ngô đồng – phượng (cây ngô đồng và chim phượng), 16 cặp liễn, 23 hoành phi (có niên đại từ năm 1826 đến năm 1908), chuông đồng đúc năm Ất Dậu (1885) và tượng các vị thần thánh được tạo tác chân phương, gần gũi với đời thường. Thiên Hậu Thánh Mẫu là vị thần được thờ chính nhưng về sau việc thờ Quan Âm được coi trọng hơn nên hàng năm lễ hội Quan Âm được tổ chức rất long trọng trong ba ngày 17 tháng 6 âm lịch. Ngoài việc tế lễ, Ban Quản trị còn phát lộc cho người đến tham dự. Hội quán Ôn Lăng đã được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia theo Quyết định số 39/2002/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thông Tin ngày 30 tháng 12 năm 2002. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận 5, thành phố Hồ Chí Minh.

TP Hồ Chí Minh 1328 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Điểm di tích nổi bật