Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch Travelviet
Tải ứng dụng Travelviet
Khu căn cứ kháng chiến tỉnh Đắk Lắk (1965 - 1975) là nơi ghi dấu những sự kiện lịch sử quan trọng trong truyền thống đấu tranh dựng nước và giữ nước của nhân dân các dân tộc tỉnh Đắk Lắk. Nơi đây không chỉ là đường dây liên lạc thông tin, chuyển tiếp tế từ miền Bắc vào hậu phương tại miền Trung đến các tỉnh miền Nam mà còn là nơi Tỉnh ủy Đắk Lắk cùng các đơn vị ban ngành trong tỉnh chọn làm căn cứ, sống làm việc và hoạt động cách mạng. Đặc biệt, Khu căn cứ còn là nơi diễn ra 3 lần Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk: lần thứ III (năm 1966), lần thứ IV (6/1969), lần thứ 5 (11/1971); là hành lang để đưa đón cán bộ tăng cường cho chiến trường Tây Nguyên trong những năm 1968 -1973. Ngày 29/12/2023, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ban hành Quyết định số 4241/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao Du Lịch về việc xếp hạng di tích quốc gia đối với Di tích lịch sử Các điểm di tích bổ sung vào Khu căn cứ kháng chiến tỉnh Đắk Lắk (1965-1975), các xã Hòa Lễ, Hòa Phong, Cư Pui, Yang Mao và Cư Đrăm, gồm 39 địa điểm. Theo lãnh đạo Sở Văn Hóa Thể Thao & Du Lịch cho biết, Di tích lịch sử Các điểm di tích bổ sung vào Khu căn cứ kháng chiến tỉnh Đắk Lắk (1965-1975), các xã Hòa Lễ, Hòa Phong, Cư Pui, Yang Mao và Cư Đrăm là một trong 43 di tích được xếp hạng di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh của tỉnh, có giá trị và ý nghĩa to lớn về lịch sử, văn hóa, khoa học; thể hiện lòng tri ân đến các thế hệ cha anh đã hy sinh vì sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc; góp phần giáo dục truyền thống cách mạng, lòng yêu nước, tự hào dân tộc của nhân dân, đặc biệt là đối với thế hệ trẻ. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Đắk Lắk
Đắk Lắk 266 lượt xem
Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia.
Khu di tích Láng Le Bàu Cò tọa lạc tại xã Tân Nhựt, huyện Bình Chánh, Tp HCM. Láng Le Bàu Cò gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược vào năm 1948 với những trận đánh lớn đi vào lịch sử. Di tích Láng Le Bàu Cò được công nhận là di tích lịch sử cấp thành phố vào năm 2003. Sở dĩ được gọi tên là khu di tích Láng Le Bàu Cò vì Tên gọi của khu di tích Láng Le Bàu Cò là do người dân địa phương đặt ra. Xóm làng được thành lập cạnh những con kênh rạch chằng chịt và dòng sông. Láng Le Bàu Cò có vị trí nằm ở bên trong cánh đồng có diện tích rộng lớn và có rất nhiều tôm, cua, cá. Cùng với nhiều loài chim như vịt trời, cò, con le le, cúm núm, cồng cộc, đa đa, diệc, đỏ nách tới kiếm ăn tại đây. Vì vậy, người dân Tân Nhựt gọi với cái tên thân thuộc và mộc mạc đó là Láng Le Bàu Cò. Di tích Láng Le Bàu Cò được xem là cửa ngõ để di chuyển tới trung tâm căn cứ Vườn Thơm và tấn công cơ quan đầu não của quân địch tại Sài Gòn. Trước đây khu di tích Láng Le Bàu Cò vốn là cánh đồng lau sậy mọc um tùm. Vào ngày 15/4/1948 thực dân Pháp đưa 3 nghìn quân lính cùng nhiều vũ khí hiện đại đồng loạt tấn công khu vực Láng Le Bàu Cò nhằm tiêu diệt căn cứ Vườn Thơm. Khi đó lực lượng vũ trang cách mạng ở Láng Le - Bàu vì lực lượng nhỏ và vũ khí thô sơ tuy nhiên được sự giúp đỡ của người dân địa phương cùng với lợi thế về địa hình. Chỉ sau hơn nửa ngày đấu tranh đã chuyển sang tấn công khiến quân Pháp bị thương vong với số lượng lớn. Chiến thắng Láng Le Bàu Cò đã tiêu diệt 300 tên địch và bắt sống 30 lính đánh thuê cùng phá hủy nhiều máy móc, xe nhà binh, súng các loại của quân giặc. Tuy nhiên, về phía ta có nhiều cán bộ chiến sĩ đã anh dũng hy sinh với tuổi đời còn rất trẻ. Ngày 14/10/1966 tại Láng Le tiểu đoàn biệt động quân Việt Nam Cộng Hòa bị dân quân du khách tiêu diệt. Khu di tích Láng Le Bàu Cò có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với người dân Sài Gòn nói riêng và cả nước nói chung. Trước lòng căm thù thực dân Pháp, quân dân Láng Le Bàu Cò đã có cuộc chiến vang lừng lịch sử và có ý nghĩa to lớn mở đầu cho phía ta và phía địch. Đối với phía ta trận đánh mở đầu cho sự anh dũng trong tư thế kháng chiến vững mạnh. Còn với quân địch đã phải lùi vào thế bỏ chiến lược và bị tiêu diệt. Thực dân Pháp không còn định hình được chiến lược đánh bại Việt Minh. Hơn thế, tại căn cứ Vườn Thơm, Láng Le Bàu Cò còn diễn ra trận chiến quyết tâm bảo vệ căn cứ của ta và đập tan mọi kế hoạch phá hoại của quân giặc. Khu di tích Láng Le Bàu Cò sau phong trào Đồng Khởi vào năm 1960 còn là hậu cần, bàn đạp của lực lượng vũ trang để giải phóng Long An - Sài Gòn - Gia Định. Để tưởng nhớ sự hy sinh của đồng bào và các chiến sĩ của ta, vào năm 1988 huyện Bình Chánh đã xây dựng công trình lịch sử tại vùng đất Láng Le Bàu Cò với diện tích rộng 1000m2. Nguồn: Báo thông tin điện tử TP Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 8602 lượt xem
Nhà lao Tân Hiệp còn có tên là "Trung tâm cải huấn Tân Hiệp" tọa lạc ở khu phố 6, phường Tân Tiến, TP Biên Hòa. Di tích Nhà lao Tân Hiệp đã được Bộ Văn Hoá Thể Thao xếp hạng là di tích cấp quốc gia ngày 15-1-1994. Nhà lao Tân Hiệp là một trong sáu nhà tù lớn nhất miền Nam Việt Nam và là nhà tù lớn nhất vùng Đông Nam bộ, được xây dựng ở vị trí quân sự quan trọng, án ngữ phía đông bắc thị xã Biên Hòa. Phía trước là quốc lộ 1; phía sau là đường xe lửa Bắc - Nam. Đây là vị trí biệt lập, thuận tiện trong giao thông, dễ dàng cho việc bảo vệ, canh gác, nhận tù từ nơi khác đến và chuyển tù đi Côn Đảo, Phú Quốc... Nhà lao Tân Hiệp có diện tích 46.520m2 với 8 trại giam, trong đó có 5 trại giam những người tù cộng sản, người yêu nước. Xung quanh nhà tù được bao bọc bởi 4 lớp kẽm gai bùng nhùng với 9 lô cốt, 3 tháp canh cùng đội lính bảo vệ và hệ thống báo động tối tân. Mang tên "Trung tâm cải huấn" nhưng thực chất bên trong là kho súng, phòng xét hỏi, tra tấn với những dụng cụ hiện đại bậc nhất. Mỗi trại giam chỉ có diện tích gần 200m2 nhưng giam giữ từ 300-400 người, có lúc lên đến cả ngàn người. Đặc biệt ở đây có các phòng "cải hối", "chuồng cọp" rất nhỏ hẹp và điều kiện sinh hoạt cực kỳ khắc nghiệt, tù nhân sống chẳng khác gì trong lò thiêu xác. Chế độ ăn uống cực kỳ mất vệ sinh, bọn cai ngục mua gạo mục, cá thối dùng để bón ruộng, chiên bằng dầu luyn cho tù nhân ăn dẫn đến nhiều người bị ngộ độc. Với quyết tâm thoát khỏi nhà tù đế quốc, trở về với Đảng, với nhân dân để tiếp tục chiến đấu, giải phóng dân tộc, ngày 2-12-1956, được sự nhất trí của Liên Tỉnh ủy miền Đông, những chiến sĩ cộng sản bị "câu lưu" trong nhà lao Tân Hiệp dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Trọng Tâm (Bảy Tâm) - phụ trách Đảng ủy nhà tù và một số đồng chí khác đã bất thần làm một cuộc phá xiềng tập thể giải thoát gần 500 đồng chí, đồng bào yêu nước. Sự kiện này đã làm xôn xao cả Lầu Năm Góc. Mỹ - Diệm vội vã huy động cả quân chủ lực lẫn bảo an, dân vệ đang trấn thủ 3 tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một và hai biệt đoàn biệt động quân đến bủa lưới bao vây, truy bắt đoàn tù nhưng đều thất bại. Các đồng chí, đồng bào của ta thoát khỏi nhà lao Tân Hiệp đã được sự giúp đỡ, che chở của các cơ sở địa phương, trở về căn cứ an toàn. Trong số tù nhân vượt ngục có các đồng chí: Bảy Tâm, Hai Thông, Lý Văn Sâm... đã trở thành những hạt nhân nòng cốt cho phong trào Đồng Khởi sau này. Năm 2001, để tái hiện phần nào tội ác của Mỹ - Diệm đối với các đồng chí, đồng bào ta bị giam cầm tại nhà lao Tân Hiệp và diễn tả lại toàn bộ cuộc nổi dậy phá khám Tân Hiệp ngày 2-12-1956, Bảo tàng Đồng Nai đã tiến hành sưu tầm hình ảnh, tài liệu, hiện vật trưng bày tại di tích và làm một sa bàn để phục vụ nhu cầu nghiên cứu, tham quan của mọi tầng lớp nhân dân. Hàng ngày, di tích luôn mở cửa đón khách tham quan. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 8007 lượt xem
Di tích chiến thắng La Ngà (tại km số 104-112 trên quốc lộ 20 đi Đà Lạt, thuộc xã Phú Ngọc, huyện Định Quán) được Bộ Văn hóa xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 12-12-1986. Để cổ vũ cho chiến thắng Việt Bắc thu - đông 1947 và cũng để giáng cho kẻ thù một đòn chí mạng, Ban chỉ huy chi đội 10 đã quyết định phải tổ chức một trận đánh lớn, để quân giặc thấy rằng dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam không dễ dàng chịu khuất phục trước bất kì một kẻ thù nào; Bằng tinh thần quả cảm và sự khôn khéo sau gần nửa năm chuẩn bị, nghiên cứu địa hình, chọn địa điểm: vào lúc 15 giờ 12 phút ngày 1/3/1948 trận chiến phục kích La Ngà bắt đầu và kết thúc vào lúc 15 giờ 57 phút cùng ngày, chỉ trong vòng 45 phút. Chiến thắng La Ngà đã làm nức lòng nhân dân Định Quán nói riêng, quân dân Đồng Nai nói chung. Đây là chiến thắng thể hiện sự mưu trí, dũng cảm của quân và dân ta làm cho địch một phen kinh hồn, bạt phía. Từ chiến thắng này lực lượng ta ngày càng thêm lớn mạnh, góp phần đánh bại kế hoạch đánh nhanh, thắng nhanh của địch, buộc chúng phải rơi vào thế bị động. Quần thể danh thắng đá Chồng, Thác Mai, sông La Ngà và Tượng đài chiến thắng La Ngà là một quần thể du lịch kì thú của Định Quán. Vẻ đẹp kỳ thú của Hòn Ba Chồng, Núi Đá Voi, Hòn Dĩa, cùng với ngôi chùa thiên nhiên dưới chân núi đá là những cụm tiêu biểu tạo thành cảnh đẹp hài hòa cho khu danh thắng Đá Chồng. Quần thể Đá Chồng Định Quán còn là nơi lưu lại những dấu tích của cuộc sống người tiền sử. Tại đây dưới các mái đá, ven các khe suối và cả các sườn dốc ven thung lũng đã phát hiện nhiều công cụ sản xuất, sinh hoạt của người xưa bằng đá, đồng, đất nung. Trong suốt cuộc kháng chiến dài 30 năm. Định Quán là một phần quan trọng của Chiến khu Đ. Đá Chồng đã chứng kiến sự hình thành, phát triển, trú quân, triển khai chiến đấu của lực lượng cách mạng. Ngày nay, một phần đất của khu danh thắng Đá Chồng Định Quán đã được sử dụng, xây dựng thành khu Trung tâm văn hóa thể thao huyện Định Quán. Tương lai không xa khu danh thắng Đá Chồng Định Quán sẽ được đầu tư tôn tạo góp phần làm cho cảnh quan thiên nhiên ngày càng tươi đẹp, là địa điểm du lịch sinh thái hấp dẫn. Nguồn: Uỷ Ban Nhân Dân Huyện Định Quán
Đồng Nai 6023 lượt xem
Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh còn gọi là đình Bình Kính tọa lạc bên tả ngạn sông Đồng Nai, xưa kia thuộc ấp Bình Kính, thôn Bình Hoành, tổng Trấn Biên, nay là ấp Nhị Hòa, xã Hiệp Hòa, TP Biên Hòa, đã được Bộ Văn Hoá – Thông Tin – Thể Thao & Du Lịch xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 25-3-1991. Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ 18, ban đầu ngôi đền có qui mô nhỏ, vách làm bằng ván, mái ngói âm dương, cách ngôi đền hiện tại khoảng 400m về hướng Nam. Các tư liệu cho biết: ngôi đền được xây dựng lại lần đầu tiên vào năm Tự Đức thứ tư (1851); đến năm 1923, đền được tái thiết lại ở địa điểm hiện nay. Nguyễn Hữu Cảnh sinh vào năm 1650 tại Gia Miêu, huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa trong một gia đình có nhiều bậc danh tướng đương triều. Ông là người văn võ song toàn, lập được nhiều chiến công lớn và được chúa Nguyễn tin yêu, trọng vọng. Mùa Xuân năm Mậu Dần (1698), ông vâng lệnh chúa Nguyễn vào kinh lược xứ Đàng Trong khi ấy còn rất hoang vu. Đến đất Đồng Nai, ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố (nay là xã Hiệp Hòa); lấy đất Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn, đất đai mở mang ngàn dặm. Ông chiêu mộ lưu dân đến lập nghiệp, tổ chức bộ máy hành chính từng bước có qui củ, khuyến khích khai hoang, thúc đẩy Cù lao Phố phát triển thành một trong những cảng thị sầm uất, năng động nhất đàng Trong suốt thế kỷ 18 và chính thức sáp nhập vùng đất mới phương Nam vào bản đồ Đại Việt. Sau khi kinh lược phương Nam trở về, năm sau ông lại phụng mệnh chúa Nguyễn Phúc Chu thống lĩnh đại binh dẹp vua Chân Lạp giữ vững miền biên ải phương Nam. Tháng 4 năm Canh Thìn (1700), sau khi hoàn thành sứ mệnh, trên đường trở về đến Rạch Gầm (Tiền Giang) thì ông thọ bệnh qua đời nhằm ngày 16 tháng 5 âm lịch, thọ 51 tuổi. Trên đường di quan ông về quê an táng, quan tài của ông được đình lại khu đất khi xưa ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố để cho nhân dân địa phương có dịp bái biệt ông lần cuối. Nơi đình quan đã được nhân dân địa phương xây một ngôi mộ vọng để ghi nhớ sự kiện này. Khi hay tin Nguyễn Hữu Cảnh mất, Chúa Nguyễn vô cùng thương tiếc đã phong tặng ông là Thượng đẳng công thần đặc Trấn phủ Chưởng cơ với tước: Lễ Thành Hầu và đưa bài vị của ông vào thờ tại Thái miếu. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 5930 lượt xem
Di tích tòa Đại sứ Mỹ còn được gọi "Nhà trắng phương Đông" là nơi xuất phát các âm mưu thâm độc về quân sự lẫn chính trị nhằm thôn tính lâu dài đất nước Việt Nam, địa điểm di tích là tòa nhà 5 tầng xây dựng theo kiến trúc hiện đại, tọa lạc tại góc đường Mạc Đĩnh Chi - Lê Duẩn, Phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, trên một mảnh đất rộng gần 5.000m2. Trước đó, tòa đại sứ Mỹ nằm tại số 39 đường Hàm Nghi. Khoảng 10 giờ sáng ngày 30/3/1963, tòa đại sứ Mỹ trên đường Hàm Nghi đã bị đội Biệt động F21 đánh chất nổ làm sập 3 tầng lầu: 1, 2, 3 do đó Mỹ đã quyết định xây lại. Tòa nhà được khởi công xây dựng vào năm 1965, hầu hết vật liệu cũng như máy móc xây dựng đều được chở từ Mỹ sang, dưới sự điều khiển của kỹ sư người Mỹ. Theo thiết kế, tòa nhà bao bọc bởi 7.800 viên đá Taredo có khả năng chống đỡ mìn, đạn pháo. Cửa chính trang bị bằng thép dầy, những cửa khác chắn bởi lớp kín dầy đặc biệt chống đạn. Tất cả cửa sử dụng hệ thống tự động kể cả cửa sắt chắn lối lên các tầng lầu. Bên trong tòa nhà gồm 140 phòng với 200 nhân viên phục vụ ngày đêm ngoài ra bên cạnh tòa nhà còn được xây thêm một dãy nhà phụ gọi là khu "Norodom" dành riêng cho nhân viên C.I.A. Khi khánh thành, tòa nhà chỉ có 3 tầng. Cuối năm 1966 xây thêm 2 tầng và 1 sân thượng dùng làm nơi hạ cánh cho máy bay lên thẳng. Bao quanh tòa nhà là bức tường cao 3m, hai đầu tường sát đường Lê Duẩn xây 2 lô - cốt cao, canh gác ngày đêm. Tòa Đại sứ hoàn thành tháng 9/1967 với một hệ thống phòng thủ như là một pháo đài có 60 lính gác, một hầm tránh bom, một hệ thống màn hình ra-đa nhằm kiểm soát mặt tiền. Ngay sau khi tòa nhà hoàn tất, ngày 24/9/1967, hàng ngàn sinh viên, học sinh kéo đến trước cổng Đại sứ quán Mỹ đấu tranh đòi "Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc", "Mỹ cút về nước" và ra thông báo tố cáo Mỹ "chà đạp và vi phạm nghiêm trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam". Nhưng sự kiện nổi bật xảy ra tại Tòa Đại sứ Mỹ là trận đánh của Biệt động thành trong Tổng Tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968. Mục tiêu đánh Đại sứ quán Mỹ được bổ sung ngày 24/ 1/1968 do Ngô Thành Vân phụ trách chung. Đội Biệt động 11 nhận lãnh nhiệm vụ quan trọng này gồm đội trưởng Út Nhỏ (đội trưởng trinh sát quân khu) và các chiến sĩ: Bảy Truyền, Tước, Thanh, Chức, Trần Thế Ninh, Chính, Tài, Văn, Đực, Cao Hoài Vinh, Mang, Sáu và 2 lái xe: Trần Sĩ Hùng và Ngô Văn Thuận. Một sự kiện khác cũng không kém phần tủi nhục cho Toà Đại sứ Mỹ là cảnh hỗn loạn tháo chạy xảy ra trong 2 ngày 29 và 30/04/1975 của Mỹ và đồng bọn. Trước sức tấn công thần tốc của quân và dân Việt Nam trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, trên 1.000 người Mỹ và hơn 5.000 người Việt thân Mỹ đã chen lấn, xô đẩy, đạp nhau để tranh giành một chỗ trên sân thượng của toà nhà hòng được trực thăng cứu thoát. Di tích này đã được cấp bằng công nhận của Bộ Văn hoá ngày 25/6/1976. Hiện nay, toà nhà Đại Sứ Mỹ đã bị phá bỏ, xây mới thành lãnh sự quán tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng cạnh đó một bia tưởng niệm ghi nhớ mãi chiến công của các chiến sĩ biệt động đã hy sinh trong trận đánh. Nguồn: Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 4802 lượt xem
Thời kỳ nhà Mạc đóng đô ở Cao Bằng, để phòng bị quân nhà Lê tiến đánh, nhà Mạc đã tu bổ, sửa chữa thành Na Lữ (nay thuộc xã Hoàng Tung, Hòa An) và thành Bản Phủ (nay thuộc xã Hưng Đạo), thành Phục Hòa, ngoài ra còn xây dựng nhiều thành lũy khác ở Cao Bằng, làm cho Cao Bằng trở thành một trung tâm chính trị và quân sự ở vùng biên viễn Đông Bắc thời bấy giờ. Thành Na Lữ và thành Phục Hoà là hai thành được xây dựng từ trước. Theo ghi chép của Bế Hựu Cung trong Cao Bằng thực lục, thành Na Lữ và thành Phục Hòa mở đầu từ đời Đường Ý Tông năm Giáp Thân, niên hiệu Hàm Thông thứ 5 (874). Căn cứ vào sự hiện diện của nhiều ngôi mộ cổ có đá khắc ghi bia mộ tên, địa chỉ, quê quán những người phu dịch xây thành chết ở đây từ thời Hàm Thông có thể khẳng định hai thành này xây từ đời Đường. Thành Na Lữ được xây qua nhiều triều đại khác nhau. Khi nhà Mạc lên Cao Bằng đã cho xây lại bằng gạch. Thành Na Lữ có hình gần chữ nhật, có tổng diện tích khoảng 37,5 ha, chiều dài khoảng 800 m, chiều rộng khoảng 600 m, thành có 4 cửa. Thành Bản Phủ tại kinh đô Nam Bình, nước Nam Cương của Thục Phán khi xưa ở Cao Bình (Cao Bằng), nhà Mạc đã tu bổ thành Vương phủ tại vòng trong của kinh đô cũ Nam Bình và được gọi là thành Bản Phủ hay Vương phủ. Tại kinh đô Nam Bình xưa của nước Nam Cương và của nhà Mạc, thành Bản Phủ vẫn còn dấu tích khá rõ nét. Kinh đô Nam Bình gồm có hai vòng thành, để bảo vệ kinh thành, vòng ngoài có chu vi khoảng 5 km, gồm cả một vùng gò đồi thấp, quanh chân đồi được bạt dựng đứng như một bức tường thành, thuận lợi cho việc xây dựng phòng tuyến bảo vệ. Bờ thành phía Tây chạy song song với bờ sông Bằng đến đầu làng Bó Mạ, nối bờ thành Đông Nam chảy qua trước mặt Bản Phủ theo chân đồi ra gặp quốc lộ 4, phía Đông Bắc chạy theo chân đồi sát phía ngoài quốc lộ 4, lên đến Đầu gò là phía Tây Bắc tiếp tục chạy theo chân đồi, ra đến bờ sông gặp bờ thành phía Tây tạo thành một vòng thành khép kín. Khi nhà Mạc lên đóng đô đã tu sửa lại và xây dựng thêm một số công trình, trong đó thành Bản Phủ (thành nội - nơi của vua làm việc) được xây lên cao hơn trên các tường thành cũ từ thời kỳ Thục Phán, thành nằm trên một khu đất bằng phẳng. Cùng với việc xây dựng lại kinh thành, nhà Mạc còn xây dựng một hệ thống đồn bốt, thành lũy khá dày xung quanh kinh đô và một số điểm biên giới quan trọng, tạo thành một hệ thống bảo vệ kinh thành và bảo vệ biên giới. Thành Phục Hòa (huyện Phục Hoà) được xây theo kiểu hình vuông, mỗi chiều khoảng 400 m, gồm hai vòng thành, khoảng cách giữa hai vòng là 80 m. Hiện nay, tường thành phía Nam đã bị phá huỷ hoàn toàn. Thành Phục Hòa có 2 cổng chính: Cổng phía Bắc được mở thông ra quốc lộ đi Cửa khẩu Tà Lùng ngày nay, nhân dân thường gọi là Pác Cổng, cổng này được xây theo kiểu hình chữ nhật, rộng 8 m, cao 5 m, gồm hai cánh cổng làm bằng gỗ nghiến dày rất chắc chắn; cổng thứ hai ở phía Nam, mở thông ra bờ sông. Cả hai cổng đều bị san phẳng từ lâu, hiện nay không còn vết tích. Gần thành, tại phía Tây Bắc ngoại thành dọc bờ sông còn có nhiều vết tích lò nung gạch, nhân dân cho biết trong quá trình lao động, khai phá đã tìm thấy ở khu vực này nhiều lò gạch còn nguyên vẹn. Qua nghiên cứu, khảo sát cho thấy, tại Cao Bằng, nhà Mạc đã tu bổ, tôn tạo và xây dựng thêm nhiều thành, đồn luỹ, trong đó tu bổ, tôn tạo xây lại thành Bản Phủ, thành Na Lữ, thành Phục Hoà. Các đồn luỹ này đã tạo thành một hệ thống liên hoàn bảo vệ kinh thành khá vững chắc. Đến nay, những thành cổ nhà Mạc xây dựng thời kỳ đóng đô ở Cao Bằng, một số thành xây dựng bằng đất chỉ còn vết tích, nhưng các thành được xây bằng đá vẫn còn rất rõ. Nguồn: Báo Cao Bằng điện tử
Cao Bằng 4724 lượt xem
Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt, tọa lạc ấp Xóm Tháp, xã Tân Phong, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử - văn hóa ngày 23 tháng 7 năm 1993. Đồng thời là một trong ba công trình tháp cổ cuối cùng còn lại ở miền Nam nước ta. Trải qua nhiều lần trùng tu vào các năm 1938, 2003 và gần đây nhất là vào năm 2013. Mặc dù trải qua các đợt trùng tu tôn tạo, nhưng khu di tích tháp cổ Chót Mạt đã mang cho mình một diện mạo mới nhưng vẫn giữ nguyên được tinh thần kiến trúc cổ. Toàn bộ tòa Tháp được xây dựng bằng gạch và đá phiến với phần đỉnh tháp nhọn dần lên, từ mặt đất lên nơi cao nhất của đỉnh tháp được ước tính là 10m. Ngoài ra, ngọn tháp cổ này nằm trên gò đất cao giữa cánh đồng nên nhìn từ xa nó tựa như ngọn bút đang vươn lên cao dần. Năm 2003 Uỷ ban nhân dân tỉnh Tây Ninh quyết định phê duyệt dự án đầu tư trùng tu tôn tạo bảo tồn di tích tháp Chót Mạt và được tiến hành triển khai trùng tu tôn tạo phục hồi, trưng bày mở hố khai quật năm 2003 đưa vào sử dụng. Ngày 27/11/2019 UBND tỉnh ban hành Quyết định Quy định về phân cấp quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. Quyết định giao UBND huyện Tân Biên trực tiếp quản lý 4 di tích, trong đó có di tích cấp Quốc gia di tích Lịch sử- văn Hóa Tháp Chót Mạt. Đặc biệt Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt trên địa bàn xã Tân Phong, huyện Tân Biên được chọn nằm trong chũi liên kết phát triển du lịch của Tỉnh Tây Ninh. Đây là một địa điểm tham quan rất đáng để khám phá, góp phần phát triển du lịch trên địa bàn xã Tân Phong nói riêng và huyện Tân Biên nói chung. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Tây Ninh
Tây Ninh 4425 lượt xem
Di tích Ngã Ba Giồng là di tích lịch sử cách mạng thuộc Ấp 5, xã Xuân Thới Thượng, huyện Hóc Môn. Được bao quanh bởi ba con đường: Phan Văn Hớn, Nguyễn Văn Bứa và tỉnh lộ 19. Khu di tích Ngã Ba Giồng là khu tưởng niệm về những sự kiện lịch sử trong hai cuộc khácg chiến chống ngoại xâm. Được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia vào năm 2002. Ngã ba Giòng (còn có tên gọi đầy đủ là Ngã ba Giòng Bằng Lăng) nằm trên địa phận thôn Xuân Thới Tây thuộc 18 thôn vườn trầu xưa được hình thành từ những năm 1698 đến năm 1731. Từ lâu đời, Ngã ba Giồng là 1 địa danh có tên gọi dân gian đã đi vào lịch sử của quê hương 18 thôn vườn trầu Hóc Môn – Bà Điểm. Tục truyền rằng xưa kia nơi đây là 1 vùng đất giồng tương đối cao ráo và là nơi mọc nhiều cây bằng lăng nên địa danh này có tên gọi từ đó. Sau khi cuộc khởi nghĩa Nam kỳ (23/11/1940) bị thất bại, thực dân Pháp đã tăng cường đàn áp, khủng bố khốc liệt phong trào cách mạng vùng Hóc Môn – Bà Điểm. Chúng đã lập ra ở Hóc Môn 3 trường bắn để giết hại các đồng chí lãnh đạo Đảng, các đồng chí đồng bào yêu nước của quê hương Hóc Môn và các vùng lân cận. Ngã ba Giồng là trường bắn thứ ba ghi lại tội ác tày trời của giặc pháp và bọn tay sai đối với nhân dân Hóc Môn. Rút kinh nghiệm từ 2 trường bắn trước (1 tại rạp hát cũ trung tâm Quận lỵ Hóc Môn, 1 cạnh giếng nước sau Bệnh viện Hóc Môn ngày nay), chúng xử bắn công khai, bắt nhân dân đến xem nhằm mục đích uy hiếp tinh thần cách mạng của nhân dân Hóc Môn. Nhưng cách xử bắn đó đã phản tác dụng, nhân dân Hóc Môn đã tận mắt chứng kiến sự tàn ác của thực dân Pháp, sự hy sinh cao cả của các chiến sĩ cộng sản nên ngọn lửa yêu nước của họ càng bùng lên mãnh liệt. Trường bắn thứ 3 này, chúng không dám xây dựng gần trung tâm Quận lỵ nữa mà đưa ra khu vực Ngã ba Giồng là vùng hoang vắng, thưa dân để tránh sự phản kháng của nhân dân. Tại đây, chúng xây dựng thành 1 trường bắn có mô đất kiên cố dài 12m, cao 2,2m, phía trước có trồng 6 cột bắn, mỗi cột cao 1.7m, hướng bắn quay về phía đồng ruộng (bưng Tràm Lạc). Vào năm 1941, tại đây chúng lén lúc xử bắn rất nhiều lần, không cho nhân dân xem, hàng trăm chiến sĩ cộng sản và đồng bào yêu nước bị chúng giết hại. Với ý nghĩa lịch sử vô cùng thiêng liêng của Ngã ba Giồng, nơi ghi dấu tội ác dã man của giặc Pháp, nơi thể hiện ý chí chiến đấu bất khuất kiên cường và sự hy sinh cao cả của đồng chí và đồng bào ta sau cuộc khởi nghĩa Nam kỳ (23/11/1940); sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (30/4/1975), huyện Hóc Môn đã nhanh chóng khôi phục và tôn tạo khu di tích lịch sử cách mạng Ngã ba Giồng nhằm giáo dục truyền thống cho các thế hệ thanh thiếu niên. Nơi đây đã trở thành điểm tham quan, nơi tổ chức lễ hội truyền thống trong những ngày lễ lớn hàng năm của huyện Hóc Môn và thành phố đặc biệt là lễ kỷ niệm ngày Nam kỳ Khởi nghĩa (23/11). Hiện nay được sự nhất trí của thành phố, huyện đang tiến hành tôn tạo xây dựng Ngã ba Giồng thành “Khu tưởng niệm liệt sĩ Ngã ba Giồng”. Nguồn: Cổng thông tin điện tử Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 4406 lượt xem
Dinh Quận Hóc Môn tọa lạc tại số 1, đường Lý Nam Đế, thị trấn Hóc Môn, (cạnh trụ sở UBND huyện) là nơi để lại nhiều sự kiện đấu tranh nổi bật suốt chặng đường dài lịch sử từ 1885 đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng của Nhân dân 18 Thôn vườn trầu. Sau khi hạ được Đại đồn Chí Hòa, thực dân Pháp xây dựng tại nơi đây một ngôi nhà gỗ cao 3 tầng dùng làm Đồn binh. Khi tên Trần Tử Ca về nhậm chức Đốc Phủ, dùng Đồn làm Dinh huyện Bình Long. Vốn là một tay say quỷ quyệt của thực dân Pháp, Trần Tử Ca bị nhóm do các ông Phan Văn Hớn (Quản Hớn) và Nguyễn Văn Quá (Chánh Lãnh Binh) cầm đầu gần 1.000 nghĩa quân tiến về đốt Dinh Quận, bắt và cắt đầu bêu giữa chợ. Đó là ngày 8/2/1885 Tết Ất Dậu. Sau đó, Dinh Quận Hóc Môn được xây dựng lại với nền móng đá xanh, tường gạch, có hệ thống phòng thủ từ lầu cao đến tận vòng rào. Lối kiến trúc y như Đồn binh nên người địa phương gọi là Đồn Hóc Môn. Trấn nhậm thay Trần Tử Ca là Đốc phủ Ngôn, đến Quận Trà rồi Quận Thọ. Đây là khoảng thời gian dài người dân vùng Hóc Môn hứng chịu bao cảnh tham tàn, bỉ ổi của thực dân Pháp và bọn tay sai đầu sỏ kể trên. Với truyền thống kiên cường bất khuất của Nhân dân Hóc Môn. Ngày 4/6/1930, khoảng 6 giờ sáng trước Dinh Quận, hàng trăm bà con Hóc Môn kéo biểu tình đòi “bãi bỏ thuế thân, giảm các thuế môn bài và thuế chợ, cấp đất cho dân cày nghèo”. Quận Trà cho mời những người cầm đầu vào Dinh thương lượng, nhưng chúng xảo quyệt bắt giữ họ trong đó có ông Lê Văn Uôi (Bí thư xã Tân Thới Nhì), là người cầm đầu cuộc biểu tình. Mọi người không nao núng, quyết liệt đòi hỏi Quận Trà phải thả những người bị cầm giữ. Đoàn biểu tình càng lúc càng đông, khí thế đấu tranh có phần lan rộng, khiến Quận Trà nhượng bộ. Một mặt chúng thả những người bị giữ, mặc khác chúng gọi điện cho quan thầy ở Sài Gòn cứu viện. 2 giờ sau, cuộc đấu tranh bị 2 tên Blachôlê và Nobbot chỉ huy bắn xối xả vào đoàn biểu tình, gây thương vong nhiều người. Nhưng sự kiện lịch sử gây ấn tượng nhất tại Dinh Quận Hóc Môn là cuộc khởi nghĩa Nam kỳ ngày 23/11/1940. Đồn Hóc Môn rất kiên cố, xây bằng đá xanh như là một pháo đài, cao khoảng 15 thước, có ụ súng và hệ thống phòng thủ lỗ châu mai do một trung đội lính khố xanh trấn giữ. Ngày 22/11/1940, Pháp tăng cường thêm 1 trung đội để đối phó với tình hình. Chiều 22/11/1940, cánh quân của ông Đỗ Văn Cội đột nhập vào thị trấn, giả dạng thường dân, phục kích sau lưng Đồn chờ lệnh cướp Đồn. Một cánh quân khác có nhiệm vụ phá cầu, đốn cây ngăn lộ, đánh chiếm các công sở, nhà việc... Cánh quân từ Phước Vĩnh An, Tân Thông, Tân An Hội, Tân Phú Trung do ông Phạm Văn Sáng và Đặng Công Bỉnh chỉ huy, xuất phát từ ấp Bến Đò, đánh chiếm nhà việc, diệt 1 tên, thu 4 súng, làm chủ tình hình tại đây (Tân Phú trung). Liền đó cánh quân này được lệnh kéo về Hóc Môn. Cánh quân Long Tuy Thượng do ông Bùi Văn Hoạt chỉ huy. Cánh quân thuộc Tổng Long Tuy Trung do ông Đỗ Văn Dậy và Lê Bình Đẳng chỉ huy. Khoảng 24 giờ đêm ngày 22/11/1940, vẫn chưa nghe thấy tiếng pháo lệnh ở Sài Gòn. Sau khi hội ý, các vị chỉ huy những cánh quân thống nhất tấn công Đồn giặc. Lập tức các cánh quân tiến thẳng về Đồn Hóc Môn, nơi trú ngụ của tên Quận trưởng Bùi Ngọc Thọ. 2 nghĩa quân tên Nghé và Kinh xung phong vào cổng trước, hy sinh. Nghĩa quân bốn phía xông vào Đồn như nước vỡ bờ. Trước sức mạnh của nghĩa quân và quần chúng, bọn lính trong Đồn không còn tinh thần kháng cự, bỏ chạy tán loạn. Nghĩa quân chiếm lĩnh hoàn toàn bên trong Đồn nhưng trên lầu, địch vẫn ngoan cố dùng súng bắn tẻ, cùng lúc gọi điện về Sài Gòn, Thủ Dầu Một cấp cứu. Vì nóng lòng bắt cho được tên Quận Thọ nên đồng chí Đỗ Văn Dậy bám ống máng nước để leo lên tầng trên Đồn. Đến lưng chừng bị trúng đạn, đồng chí bị rơi xuống và hy sinh sau đó. Cuộc chiến đấu đang thế giằng co thì viện binh địch đến. Không thể cầm cự, nghĩa quân rút khỏi thị trấn, phân tán về các làng, lực lượng vũ trang rút về ấp Bến Đò (Tân Phú Trung) rồi di chuyển sang ấp Mỹ Hạnh (Đức Hòa). Cuộc tiến công Đồn Hóc Môn (sau gọi là Dinh Quận Hóc Môn) tuy thất bại nhưng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng mọi người dân sự khâm phục lòng dũng cảm của các chiến sĩ cách mạng trong cuộc chiến đấu chống thực dân cướp nước. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, 7 giờ sáng ngày 30/4/1975, thị trấn Hóc Môn hoàn toàn được giải phóng, lá cờ Tổ quốc phất phới bay trên Dinh Quận, nơi tên Quận trưởng Nguyễn Như Sang và bọn tay sai đã chạy trốn từ tối đêm trước. Ngày nay Dinh Quận Hóc Môn được chọn làm Bảo tàng huyện, nơi đây tập trung nhiều tư liệu trưng bày, minh họa các giai đoạn lịch sử thăng trầm cũng như khí thế đấu tranh cách mạng của quân và dân trong huyện Hóc Môn qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Một Tượng đài đặt trước di tích Dinh Quận Hóc Môn thể hiện gương hy sinh bất khuất của quân và dân 18 Thôn Vườn trầu, được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn: Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 4371 lượt xem
Mai Xuân Thưởng là người lãnh đạo phong trào Cần Vương chống Pháp cuối thế kỷ XIX ở Bình Định. Mai Xuân Thưởng sinh năm Canh Thân 1860, mất năm Đinh Hợi 1887 người thôn Phú Lạc, tổng Phú phong, huyện Tuy Viễn, tỉnh Bình Định (nay là thôn Phú Lạc, xã Bình Thành, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Cha là Mai Xuân Tín làm Bố chánh ở Cao Bằng, mẹ là Huỳnh Thị Nguyệt con của một nhà quyền quý trong làng. Mai Xuân Thưởng vốn là người thông minh, ham học. Năm 18 tuổi (1878) ông đỗ Tú tài tại Trường thi Bình Định. năm 25 tuổi (1885) thi đỗ cử nhân. Hưởng ứng chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi, Mai Xuân Thưởng về quê Phú Lạc, chiêu mộ nghĩa binh, lập căn cứ ở hòn Sưng dựng cờ cần vương chống Pháp, sau đó Mai Xuân Thưởng đã đem lực lượng của mình gia nhập vào nghĩa quân do Đào Doãn Địch lãnh đạo và được Đào Doãn Địch phong giữ chức Tán lương quân vụ (phụ trách về lương thực của nghĩa quân). Kể từ đó cho đến năm 1887, phong trào cần vương ở Bình Định phát triển mạnh mẽ và lan ra đến Quảng Ngãi, Phú Yên...thu hút hàng chục ngàn người thuộc mọi tầng lớp tham gia. Ngày 20/9/1885 Đào Doãn Địch mất, giao toàn bộ lực lượng cho Mai Xuân Thưởng. Ông chọn vùng núi Lộc Đổng (nay thuộc xã Bình Tường, huyện Tây Sơn) làm đại bản doanh và tổ chức lễ tế cờ , truyền hịch kêu gọi sỹ phu, văn thân, nhân dân tham gia phong trào cần Vương chống Pháp. Trong buổi lễ ấy, nghĩa quân nhiều vùng trong tỉnh Bình Định đã nhất trí suy tôn ông làm Nguyên soái lãnh đạo cuộc khởi nghĩa và nêu cao khẩu hiệu: “Tiền sát tả, hậu đả Tây”. Đầu năm 1887, quân Pháp dưới sự chỉ huy của Trung tá Cherrean và quân triều đình do Trần Bá Lộc chỉ huy cùng với Công sứ Trira đã mở cuộc tấn công lớn lên căn cứ đại bản doanh của phong trào Cần Vương Bình Định, trận giao chiến giữa lực lượng nghĩa quân với giặc Pháp diễn ra vô cùng ác liệt, cuộc chiến đấu không cân sức, cuối cùng lực lượng khởi nghĩa bị đẩy lùi. Tháng 3 năm 1887, sau trận ác chiến ở Bàu Sấu (thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định), Mai Xuân Thưởng bị thương nặng, nghĩa quân rút về Mật khu Linh Ðổng. Ngày 21 tháng 4 năm 1887, Trần Bá Lộc bao vây đánh chiếm căn cứ mật khu Linh Đổng và bắt được một số nghĩa quân, trong đó có thân mẫu Mai Nguyên Soái. Đêm 30 tháng 4 năm 1887, Mai Xuân Thưởng đã cử một đội quân cảm tử đột nhập doanh trại Trần Bá Lộc, giải vây cho những người bị bắt, ông cùng đoàn thuộc hạ gồm 50 người vượt núi vào Phú Yên, tiếp tục kháng chiến, nhưng khi đến đèo Phú Quý (ranh giới giữa Bình Định và Phú Yên) thị bị phục binh Trần Bá Lộc bắt và đưa ra xử trảm tại Gò Chàm (Phía đông Thành Bình Định). Di tích Lăng mộ nhà yêu nước Mai Xuân Thưởng tọa lạc trên ngọn đồi cao của dãy núi Ngang (thuộc thôn Hòa Sơn, xã Bình Tường, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định) cách thành phố Quy Nhơn khoảng 50km về hướng Tây Bắc; Lăng mộ được xây dựng trên khu đất rộng 1988m2, khánh thành ngày 22 tháng 1 năm 1961.Về tổng thể, Lăng được thiết kế theo kiểu lăng mộ cổ, xung quanh có thành thấp bao bọc. Cổng Lăng (tam quan) là 4 trụ vuông, phía trên thắt lại theo kiểu bầu lọ mang dáng dấp kiến trúc cổng đình, miếu cuối thế kỷ XIX. Giữa nhà Lăng là mộ phần Mai Xuân Thưởng hình khối chữ nhật theo hướng Đông - Tây; Phía đầu mộ dựng tấm Bia đá khắc bài ký ghi tiểu sử và sự nghiệp của Mai Xuân Thưởng: Di tích được Bộ Văn hóa Thông tin quyết định xếp hạng cấp Quốc Gia ngày 20 tháng 4 năm 1995. Nguồn: UBND Huyện Tây Sơn tỉnh Bình Định
Bình Định 4337 lượt xem
Nhắc đến Buôn Đôn xưa, người ta vẫn còn lưu truyền những câu chuyện về vị tù trưởng N’Thu K’Nul với nghệ thuật săn voi điêu luyện, đã săn được hàng trăm con voi. Ông đã đem tặng Hoàng gia Thái Lan bấy giờ một con voi màu trắng do mình săn được. Vua Thái cảm phục tài năng của ông nên đã phong tặng danh hiệu Khunjunop (có nghĩa là vua săn voi). Buôn Đôn ngày nay có đầy đủ các điều kiện thuận lợi để phát triển về du lịch sinh thái. Đến với khu du lịch này, du khách sẽ được hòa mình vào thiên nhiên với những trải nghiệm rất thú vị. Từ trung tâm huyện đi vào bạn sẽ bắt gặp những chiếc cầu treo vắt ngang dòng sông Sêrêpôk, chiêm ngưỡng vẻ đẹp hùng vĩ của thác nước 7 nhánh và những ngôi nhà dài hàng trăm mét của đồng bào vùng Tây Nguyên. Nếu là người yêu thích sự khám phá, trải nghiệm hoạt động cưỡi voi tham quan cuộc sống thường nhật của người dân trong buôn làng hoặc cưỡi voi vượt sông Sêrêpôk khám phá Vườn quốc gia Yok Đôn sẽ khiên bạn cảm thấy thích thú. Ngoài ra, bạn cũng có thể ngồi thuyền độc mộc để câu cá, ngắm sen hồ Lăk hay xuôi dòng Sêrêpôk huyền thoại để khám phá ốc đảo Ea Nô. Hay tham gia vào các trò chơi dân gian như đi cà kheo, bịt mắt đập niêu đất,… Còn nếu là người yêu thích tìm hiểu lịch sử, văn hóa thì hoạt động tham quan các nhà trưng bày sẽ giúp bạn hiểu hơn về đời sống văn hóa, phong tục tập quán, lối sinh hoạt thường ngày của nhiều dân tộc Tây nguyên. Tại đây, bạn sẽ được nghe thuyết minh về lịch sử của Buôn Đôn, những câu chuyện về vị vua săn voi Khunjunop với kỹ thuật săn bắt voi điêu nghệ. Bên cạnh đó, bạn còn được thưởng thức các đặc sản nơi đây như rượu cần, cơm lam, canh chua cá sông,… cũng như tham gia giao lưu văn hóa cồng chiêng với người dân trong buôn làng. Không gian núi rừng hùng vĩ với nền văn hóa mang đậm bản sắc vùng đại ngàn Tây Nguyên chắc chắn sẽ để lại những ấn tượng khó phai trong lòng du khách khi đặt chân đến vùng đất này.
Đắk Lắk 2302 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Với địa hình được chia làm nhiều sườn dốc, Vườn quốc gia Chư Yang Sin là nơi du lịch dành cho những tín đồ yêu thích du lịch mạo hiểm. Nơi đây được đánh giá là một vùng đất bí ẩn với rất nhiều trải nghiệm thú vị, mang đến cho bạn một chuyến đi đáng nhớ trong chuyến hành trình du lịch tại thành phố Buôn Ma Thuột của mình. Tọa độ của Vườn quốc gia Chư Yang Sin nằm tại trên địa phận thành phố Buôn Ma Thuột, thuộc hai huyện Lăk và Krông Bông của tỉnh Đắk Lắk. Từ đây, mất khoảng 60km đi về hướng đông để đi đến thành phố Buôn Ma Thuột. Hiện nay, Chư Yang Sin đang là một địa điểm du lịch sinh thái được nhiều người yêu thích bởi tập trung nhiều sông suối lớn nhỏ, có nhiều cảnh quan ấn tượng. Vườn quốc gia Chư Yang Sin được biết đến với hệ sinh thái vô cùng đa dạng, bao gồm 9 kiểu rừng khác nhau, trải rộng hơn 589 km2 ở các xã Cư Drăm, Yang Mao, Hòa Phong, Hòa Sơn, Hòa Lễ, Khuê Ngọc Điền. Vì thế, tại đây có đến 487 loài động vật (203 loài chim và 46 loài thú) cùng với hàng ngàn loài thực vật khác nhau. Khi tham quan Vườn quốc gia Chư Yang Sin, đi dọc Vườn, bạn sẽ được ngắm nhìn hệ sinh thái đa dạng này. Lắng nghe tiếng lá cây xào xạc, âm thanh của những ngọn suối chảy róc rách hay tiếng chim muôn đang cất âm thanh hoan ca thì còn gì tuyệt vời hơn phải không nào? Trải nghiệm cắm trại trong rừng là một điều bạn nên thử tại đây. Mang theo thức ăn và lều trại, cùng bạn bè ngủ lại qua đêm sẽ là một trong những trải nghiệm đáng nhớ được nhiều du khách yêu thích trong hành trình tham quan và khám phá Chư Yang Sin. Tuy nhiên, cần lưu ý không tự ý đốt lửa trại trong rừng để đảm bảo an toàn bạn nhé. Khám phá Vườn quốc gia Chư Yang Sin, bạn cũng có thể đến thác Krông Kmar nằm sâu bên trong núi rừng và trải nghiệm tắm thác. Ngọn thác tuy không quá lớn và cao nhưng nước lại vô cùng trong, phiến đá bằng phẳng nên rất lý tưởng để bạn có thể thỏa thích đắm mình trong làn nước mát lạnh, xua tan cái mệt mỏi sau khi đi bộ một đoạn đường dài. Đã đến với Chư Yang Sin thì bạn không thể nào không dành thời gian để chinh phục đỉnh núi Chư Yang Sin đâu đấy nhé. Có thể nói, đây cũng là trải nghiệm được nhiều phượt thủ yêu thích nhất khi đến với khu Vườn quốc gia này. Núi Chư Yang Sin có độ cao lên đến 2500 mét so với mực nước biển và được xem như nóc nhà của Tây Nguyên. Vì thế, ngọn núi này đã trở thành một mục tiêu hấp dẫn đối với du khách đặt chân đến với Vườn quốc gia Chư Yang Sin. Để leo được đến đỉnh núi thì bạn cần phải có sức khỏe thật tốt bởi đường đi tương đối khó khăn. Tuy nhiên, bù lại với sự khó khăn này thì bạn sẽ thấy công sức của mình được bù đắp vô cùng xứng đáng bởi từ đỉnh núi, bạn có thể phóng tầm mắt và chiêm ngưỡng toàn cảnh rừng núi hoang sơ, hùng vĩ. Nếu bạn đã quá chán khung cảnh những tòa nhà cao chọc trời hay đường phố với xe cộ tấp nập thì khung cảnh nơi đây sẽ “bù đắp" tinh thần cho bạn rất nhiều đấy. Vì Vườn quốc gia Chư Yang Sin vẫn còn rất hoang sơ, chưa được khai thác du lịch nhiều nên bạn sẽ không thể tìm thấy các cửa hàng bán thức ăn ở trước cổng Vườn quốc gia hay dọc theo đường mòn vào trong rừng. Vì thế, kinh nghiệm cho bạn chính là nên chuẩn bị trước nước uống và một ít thức ăn để mang theo bạn nhé. Tuy nhiên, tốt nhất bạn cũng chỉ nên mang vừa đủ ăn. Việc mang quá nhiều đồ ăn sẽ khiến bạn dễ bị mệt do mang vác nhiều, từ đó ảnh hưởng đến những trải nghiệm của bạn trong quá trình di chuyển và khám phá Vườn quốc gia Chư Yang Sin. Ngoài ra, bạn cũng nên lưu ý dọn dẹp vệ sinh và mang rác ra ngoài để vứt, không để rác lại Chư Yang Sin để bảo vệ môi trường thiên nhiên nơi đây.
Đắk Lắk 2309 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Nói đến cao nguyên hùng vĩ của núi rừng Tây Nguyên, ắt hẳn cái tên Dak Lak là một cái tên thú vị không thể nào bỏ qua. Nơi đây được thiên nhiên ưu đãi cho nhiều cảnh quan đẹp, thú vị và hấp dẫn cái nhìn của du khách, hơn thế nữa là nó còn mang một nét đẹp văn hóa rất riêng. Một cảnh quan đẹp khi đến với Dak Lak mà có lẽ được nhiều du khách quan tâm đó là Thác Dray Sáp (thác Chồng) và thác Dray Nur ( thác Vợ). Hai thác nước hùng vĩ của tự nhiên, là đặc trưng cho cảnh quan tuyệt vời của cao nguyên lộng gió này. Một nơi tuyệt vời để tham quan, chụp hình và có những phút giây thư giãn. Thác Dray Sáp và thác Dray Nur là hai thác nước trên dòng sông Serepok. Thác Dray Sáp còn gọi là thác chồng và thác Dray Nur còn gọi là thác Vợ. Thác Dray Sáp tọa lạc tại xã Nam Hà, huyện Krong K nô, tỉnh Đắc Nông và thác Dray Nur cách thác Dray Sáp không xa, thuộc địa phận tỉnh Dak Lak. Hai thác nằm cách trung tâm thành phố Buôn Mê Thuật tầm 30 km. Thác Dray Sáp và thác Dray Nur là hai thác nước hùng vĩ mà thiên nhiên ban tặng cho núi rừng Tây Nguyên. Thác mang vẻ đẹp tự nhiên với dòng nước tuôn trào từng đợt, tạo thành khối như khói sương mờ ảo. Hai thác nước này còn mang trong mình một câu chuyện truyền thuyết thú vị mà ít người biết đến. Chuyện kể rằng, xưa kia ở dòng Serepok là một dòng sông hiền hòa, nước chảy êm đềm quanh buôn làng. Ở dòng chảy ấy, phía hai bên bờ có một cặp nam nữ yêu nhau, nhưng họ bị ngăn cách bởi dòng sông, rồi bị ngăn cấm bởi gia đình, họ đau khổ và cùng nhau nhảy xuống sông. CŨng thời gian đó, cơn thịnh nộ từ đâu, chia tách Serepok thành 2 nhánh riêng biệt. Nhánh sông đực tạo ra thác Dray Sáp, và nhánh sông Cái tạo ra thác Dray Nur. Hai thác nước này nước đều chảy mạnh, tuôn trào từng đợt, mạnh mẽ và dứt khoát. Nó là vẻ đẹp của thác nước tự nhiên, hùng vĩ nhưng đầy lôi cuốn và bí ẩn. Nó là một thắng cảnh đẹp tuyệt vời giữa chốn rừng thiêng. Thác Dray Sáp (thác Chồng) và thác Dray Nur (thác Vợ) là tạo hóa của tự nhiên, nó đẹp và đầy lôi cuốn. Nó là một bức tranh thiên nhiên hài hòa giữa sông, núi, hồ và những cánh rừng bạt ngàn. Hơn nữa, ẩn sâu bên trong là những câu chuyện thật thú vị, đáng để tìm hiểu. Bạn hãy thử trỉa nghiệm để có những cảm giác tuyệt vời tại nơi này nhé.
Đắk Lắk 2178 lượt xem
Tháng 11 đến tháng 4
Thác Gia Long nằm trong khu vực 3 ngọn thác nổi tiếng của vùng cao nguyên, toạ lạc tại điểm giao nhau giữa 2 xã Dray Sap, thuộc huyện Krông Ana, tỉnh Đắk Lắk với xã Đắk Sor, thuộc huyện Krông K'nô, tỉnh Đắk Nông. Nơi này cách trung tâm thành phố Buôn Ma Thuột hơn 30km và cách hồ thủy điện Buôn Kuốp tầm 2km. Nằm trong cụm 3 thác được công nhận là di sản văn hoá thắng cảnh quốc gia, thác Gia Long trở thành điểm đến hấp dẫn của du khách khi đến Đắk Lắk, trở thành niềm tự hào của người dân xứ núi, với một địa điểm vừa hoang sơ, hùng vĩ nhưng cũng rất đỗi thơ mộng. Rộng khoảng 100m và cao hơn 30 Gia Long là dòng thác nhỏ nhất trọng cụm thác Tây Nguyên, dòng thác được dội thẳng xuống quanh năm tung bọt trắng xóa. Dưới chân dòng thác là hồ nước trong veo, êm đềm, rải rác những ghềnh đá với nhiều hình dáng khác nhau, tựa như những ốc đảo hoang sơ giữa đại dương bao la. Được bao bọc bởi một cánh rừng nguyên sinh kỳ vĩ, tạo nên một nét đẹp hoang dại cho dòng thác. Theo truyền thuyết kể rằng đây từng là nơi được vua Gia Long trú ngự khi chạy trốn khỏi quân nhà Tây Sơn, và cũng là điểm thưởng ngoạn thường xuyên của ông. Với vẻ đẹp như tranh thuỷ mặc ông đã quyết định dùng tên mình để đặt tên cho dòng thác vùng Tây Nguyên này. Thành phố Buôn Ma Thuột mang khí hậu đặc trưng của vùng đất đỏ Tây Nguyên, thời tiết được chia làm hai mùa rõ rệt mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 10. Vào mỗi thời điểm dòng thác sẽ mang một vẻ đẹp riêng khi huyền bí, khi hùng vĩ. Mùa mưa là thời điểm lý tưởng để những tín đồ yêu thiên nhiên thưởng thức cái đẹp hùng vĩ của dòng thác, tuy nhiên lúc này dòng chảy khá lớn chỉ thích hợp ngắm cảnh, các hoạt động thể thao dưới nước sẽ rất dễ gặp nguy hiểm khi tham gia. Mùa khô tại thác Gia Long Đắk Lắk là lúc nước sông cạn, mọi thứ hơi “khô khan”, nhưng đây là khoảng thời gian thích hợp cho những chuyến dã ngoại vào rừng, cũng khá thú vị cho những chuyến xả hơi cuối tuần. Có lẽ điều mà du khách sẽ cảm nhận nhiều nhất khi đến với Thác Gia Long là sẽ có cơ hội khám phá những cảnh quan thiên nhiên đầy kỳ thú. Bạn sẽ được chứng kiến những khung cảnh hiếm gặp, khi từ trên cao nhìn xuống sẽ thấy sự biến đổi hai dòng nước màu trắng và xanh, như tạo thành 2 không gian riêng biệt thật lý thú. Tại dòng thác Gia Long, mỗi thời điểm sẽ mang một vẻ đẹp một sắc màu riêng. Nếu mùa khô dòng nước hiền dịu, e ấp như cô gái mới lớn trông thật yên bình. Thì mùa mưa sẽ là một bức tranh kỳ vĩ, với dòng thác ào ào dữ dội, nước tung bọt cả một góc trời tạo nên những màn sương mờ ảo, thật hùng vĩ và mạnh mẽ. Một điểm trưng khiến nhiều du khách thích mê khi đến nơi đây là kiểu địa chất magma có nguồn gốc từ núi lửa phun trào cách đây hàng triệu năm. Với nhiều khối đá hình trụ tròn xếp chồng lên nhau, tạo nên những hình thù cực lạ mắt, bạn sẽ trông khá giống với Gành Đá Đĩa tại Phú Yên. Hệ sinh thái trong khu vực tham quan cũng vô cùng phong phú với vô số những cây cổ thụ trăm tuổi, với những chiếc rễ to, sừng sững đan xen vào nhau, hay những cây bạch tùng, chò xót, kền kền,..quý hiếm, cùng nhiều loại động vật hoang dã khác. Khi đã đặt chân đến thác Gia Long, bạn nhất định không thể bỏ qua các món ăn đậm hương vị ẩm thực Tây Nguyên. Gần khu vực thác Gia Long là các buôn làng Kuốp, Tua, Nui của đồng bào Êđê, không những có nền văn hoá ấn tượng mà nơi đây còn có nền ẩm thực độc đáo. Vì thế, sau khi tham quan và trải nghiệm những hoạt động lý thú tại dòng thác hùng vĩ, đừng quên thưởng thức những món ngon đậm chất vùng Tây Nguyên như: Rượu cần, Gà nướng cơm lam ống tre, Thịt nướng tẩm gia vị, Rau rừng xào, Cá lăng nướng muối ớt. Khi đến thăm con thác nổi tiếng này, bạn hãy ghi lại những mẹo vi vu dưới đây để có chuyền hành trình trọn vẹn nhất. Lên kế hoạch cho chuyến khám phá thác Gia Long sớm để có được một hành trình thuận lợi và trọn vẹn. Khu tham quan mở cửa từ 7h00 đến 18h00 hằng ngày và không mất phí vé. Trong quá trình tham quan khu du lịch bạn tuyệt đối không được xả rác, cần giữ gìn vệ sinh xanh sạch đẹp cho nơi này. Trong quá trình vui chơi cần đảm bảo an toàn, không đùa giỡn tại những vị trí trơn trượt nguy hiểm.
Đắk Lắk 2225 lượt xem
Tháng 11 đến tháng 4
Thác Thủy Tiên nằm ở phía Đông Bắc, cách Thành phố Buôn Ma Thuột khoảng 56 km, và cách trung tâm xã Tam Giang – Huyện Krông Năng khoảng 7km. Đường vào thác Thủy Tiên là những con đường đèo uốn cong, băng qua những cánh đồng cà phê, cao su bao la bát ngát. Khung cảnh núi rừng dần hiện ra khi bạn bắt đầu hành trình vào rừng. Một khung cảnh rộng lớn, ẩn hiện đâu đó là những con suối đang giấu mình sau những mảng lá rừng, yên bình, thanh thản. Tiếng chim hót líu lo. Màu xanh bạt ngàn của núi đồi, tiếng suối róc rách như những bản tình ca. Tất cả tạo nên cái âm hưởng du dương, như gọi mời, như thôi thúc. Thấp thoáng đâu đó giữa khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ của núi đồi. Dòng thác Thủy Tiên uốn lượn vắt ngang rừng, như một nét chấm phá độc đáo trên bức tranh thủy mặc. Thời gian lý tưởng để trekking Thác Thủy Tiên là Tháng 12 Đến Tháng 3. Bởi thời gian này là thời gian hoa dã quỳ nở rực cả vùng núi Tây Nguyên, hoa cà phê nở trắng núi đồi và cũng là khoảng thời gian diễn ra nhiều lễ hội lớn nhất. Đặc biệt, thời gian này đường đi sẽ khô ráo và dễ dàng hơn khi đến với Thác Thủy Tiên. Chắc chắn sẽ mang cho bạn những trải nghiệm vô cùng thú vị. Thác Thủy Tiên mang trong mình vẻ đẹp hoang sơ. Điểm nhấn giữa núi rừng với vô vàn những tảng đá nằm gối chồng lên nhau và những rễ cây rừng đan kín trông rất lạ mắt. Từ xa nghe tiếng nước chảy rì rào như kêu gọi, nhưng muốn xuống thác bạn phải cuốc bộ thêm khoảng hơn 100 bậc thang. Để rồi reo lên ngạc nhiên khi chứng kiến vẻ đẹp dịu dàng của dòng thác với các tảng đá ngộ nghĩnh gối chồng lên nhau. Tầng thứ nhất có độ dốc thấp lên xuống đơn giản, lòng thác bé dại, nước chảy êm ắng. Hai bên có khá nhiều rễ cây rủ xuống đong đưa như những chiếc võng phân thành một bức tranh thiên nhiên đẹp lung linh. Không dừng lại ở đó, dòng nước lại liên tục ào ạt trút xuống những bậc đá lớn chia thành tầng thứ hai với nhiều vũng nước xanh mát mẻ. Ở đây, bạn có thể ngâm mình dưới các bể nước lớn mát giá buốt. Tầng Thứ Ba nước từ trên cao đổ xuống một mặt hồ rộng và sâu, tung bọt trắng xóa rồi trở về lại với dòng chảy hiền hòa, uốn lượn giữa đại ngàn xanh thẳm. Khi Treckking Thác Thủy Tiên, bạn cần đi giày thể thao, tốt nhất là loại giày chống trơn. Vì địa hình ở đây khá khó đi và có nhiều đá bị bám rêu. Chuẩn bị kem chống nắng, thuốc bôi ngoài da. Thuốc chống muỗi và các dụng cụ y tế cần thiết để phòng trường hợp bất trắc. Mang theo đồ ăn nhẹ và nước uống để bạn có một sức khỏe tốt nhất. Để chinh phục chuyến hành trình tại đây. Không nên ở lại qua đêm hay về quá muộn vì rừng rậm khá nguy hiểm.
Đắk Lắk 2310 lượt xem
Tháng 12 Đến Tháng 3 năm sau
Thác Krông Kmar DakLak nằm tại thị trấn Krong Kmar, huyện Krông Bông, tỉnh Đăk Lăk là một trong những điểm tham quan nổi tiếng tại Buôn Ma Thuột. Theo Hướng dẫn đường đi đến thác Krong Kmar DakLak, dòng thác xinh đẹp này bắt nguồn từ con sông Sêrêpốk và khoác lên mình vẻ đẹp thiên nhiên hoang sơ, kỳ vĩ. Nằm nép mình dưới chân dãy núi Chư Yang Sin - Một trong những dãy núi được mệnh danh là nóc nhà của Tây Nguyên - Thác Krong Kmar DakLak là điểm đến cực kỳ thích hợp cho những ai đang kiếm tìm một không gian xanh, yên tĩnh để thư giãn. Khí hậu tại Buôn Ma Thuột phân chia thành hai mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa khô. Trong đó, mùa khô sẽ bắt đầu từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau và mùa mưa sẽ nằm trong khoảng tháng 5 đến tháng 11. Theo Hướng dẫn đường đi đến thác Krong Kmar DakLak, thời điểm lý tưởng nhất để bạn di chuyển đến đây là vào mùa khô vì lúc này trời ít mưa, nắng nhiều nên đường đi đến thác không quá trơn trượt, gây khó khăn. Nếu đến đây tham quan từ tháng 5 đến tháng 11 thì bạn cần cẩn thận khi di chuyển trên các phiến đá ngay thác nước. Để đến được thác Krong Kmar DakLak, trước tiên bạn cần phải đặt chân tới được thành phố Buôn Ma Thuột. Có rất nhiều phương tiện để bạn lựa chọn di chuyển đến thành phố này như máy bay, xe khách, xe máy hoặc ô tô cá nhân. Trong đó, máy bay chính là phương tiện lý tưởng nhất để bạn di chuyển từ Sài Gòn hoặc Hà Nội đến phố núi đại ngàn này. Giá vé máy bay thì cao hơn so với các phương tiện khác, dao động từ 650.000 VNĐ đến 1.600.000 VNĐ tùy vào địa điểm mà bạn xuất phát. Trong khi đó giá vé xe khách chỉ từ 180.000 VNĐ đến 800.000 VNĐ nhưng quãng đường và thời gian di chuyển cũng lâu hơn. Theo Hướng dẫn đường đi đến thác Krong Kmar DakLak, đường đi đến thác tuy không quá khó khăn nhưng vào mùa mưa khá trơn trượt, ẩm ướt. Vì vậy bạn nên tránh đi vào mùa mưa hoặc nếu đã lỡ đi thì nên đưa cho người có kinh nghiệm cầm lái. Con đường men dọc theo thác Krong Kmar thường có những phiến đá để bạn dừng chân sống ảo hoặc nghỉ ngơi, thư giãn. Tuy nhiên vẫn nên cẩn thận nếu đi trên đó vì rất dễ té ngã. Giá vé vào đây là miễn phí nên bạn chỉ cần đem theo đồ ăn, thức uống là đã có thể dành cả ngày tham quan tại đây. Sau khi ăn thì dọn dẹp sạch sẽ, giữ gìn mỹ quan thiên nhiên trong lành. Ngoài xe máy, bạn cũng có thể di chuyển bằng ô tô để đến đây khám phá. Theo Hướng dẫn đường đi đến thác Krong Kmar DakLak, di chuyển bằng ô tô sẽ chở được nhiều người hơn và dễ dàng để bạn mang theo đồ đạc.
Đắk Lắk 2275 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12