GIẾNG CỔ ĐÁ ONG Ở ĐƯỜNG LÂM

GIẾNG CỔ ĐÁ ONG Ở ĐƯỜNG LÂM

GIẾNG CỔ ĐÁ ONG Ở ĐƯỜNG LÂM Trong hệ thống tổ chức làng xã tại Việt Nam, nhất là ở khu vực đồng bằng Bắc Bộ, giếng cổ đã trở thành một công trình thiết yếu, gắn bó hữu cơ mật thiết với cộng đồng dân cư có đời sống chính là sản xuất nông nghiệp. Cùng với hình bóng của cây đa cổ thụ, khoảng sân đình hút gió thoáng đãng, giếng làng và hình ảnh giá trị của nó đã ăn sâu vào ký ức của mọi người, mọi nhà. Giếng là một người bạn không thể thiếu tại mỗi công trình tâm linh của đình làng. “Bộ ba di sản văn hóa” này luôn được nhân dân đặt ở những vị trí thuận lợi giúp cho việc quy tụ, tập hợp mọi người trong làng một cách dễ dàng. Vùng đồng bằng Bắc Bộ có nhiều ngôi làng gắn liền với đó là những giếng cổ. Nhắc đến những địa danh ấy, người ta không thể không nhắc đến Làng cổ ở Đường Lâm (Sơn Tây, Hà Nội). Ở đó, ngoài những công trình giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể nổi tiếng quý báu trong đó có những giếng cổ đá ong nổi tiếng một thời, luôn tạo ra những ký ức không thể nhạt phai của các thế hệ dân làng, những kỷ niệm vui buồn, niềm kiêu hãnh, tự hào về quê hương, xứ sở địa linh nhân kiệt cổ kính. Giếng đá ong ở Làng cổ Đường Lâm được phân bố ở khắp mọi nơi: nơi tín ngưỡng tâm linh (đình, đền, chùa, miếu, nhà thờ), nơi ở của các hộ gia đình. Tùy từng vị trí mà người ta thăm dò và cho đào giếng. Các mạch nước được phun qua những vỉa đá ong tạo độ trong, sạch, mát, lược bỏ được các tạp chất gây hại. Những viên đá ong được đào lên từ lòng đất, đào đến đâu thì đá cứng đến đó (không vỡ hay bị méo hình tròn của giếng khi những thớ đất đã đào xong). Chính vì thế, đào giếng ở Đường Lâm không phải kè thành, xây tang giếng tròn sẵn rồi thả xuống gắn kết vít mạch (như các vùng chiêm trũng hay trung du Bắc Bộ). Giếng của đình hay chỗ tâm linh thường rộng từ 3 – 5m, sâu 7 – 10m; miệng giếng được đặt những viên đá ong to nguyên khối hoặc từng tảng ghép lại vừa bền, chắc, sạch. Giếng tại gia đình thì có đường kính nhỏ hơn, chỉ từ 1,2 – 1,5m, độ sâu cũng tùy thuộc 5 – 7 – 9m. Giếng ở nơi công cộng như: đầu làng, xóm thì không có gầu múc, ai muốn sử dụng phải mang theo gầu. Giếng tại gia đình lúc chưa có tời kéo thì người ta phải dùng sức người kéo gầu (cũng mất nhiều sức). Sau này, khi có các ròng rọc dây cáp mềm thì nước được múc với năng suất cao hơn, mà người dân lại đỡ tốn sức. Giếng xuất hiện ở nơi công cộng hay di tích thường được đặt tên gắn với địa điểm này như: giếng Đình, giếng Đồng, giếng Chùa. Giếng khơi, có một số tên giếng gắn với các xóm như: ở thôn Mông Phụ có giếng xóm Đình, xóm Sui, xóm Sải, xóm Giang. Riêng giếng ở hai bên ngách đình Mông Phụ được ví như hai mắt rồng thiêng, giếng xóm Giang nổi tiếng là trong mát, pha chè ngon, uống ngọt “Nước giếng xóm Giang, khoai lang đồng Bường”. Giếng nằm ở trước cửa đình, chùa, miếu làm minh đường cho di tích theo thuyết phong thủy của đạo Nho, xung quanh thường được trồng một số cây cổ thụ như: đa, gạo, muỗm. Xung quanh tang giếng hình tròn, phần nhô lên mặt đất, trải qua thời gian, mặt đá ong phủ bóng rêu phong cũng là môi trường tốt để cho loài cây dây leo có tên là cỏ bíu (cây vẩy ốc, vẩy rồng) phát triển, tạo ra hệ thống thân rễ chằng chịt, bám chắc vào mặt tường đá ong. Có những giếng xưa đào hình vuông (tượng trưng cho đất mẹ luôn nuôi nấng, thương yêu đàn con và in bóng những công trình cổ) và giếng hình tròn (giống hình mặt trời) có ý nghĩa ngày ngày luôn soi rọi ánh dương tỏa chiếu hòa khí âm dương. Việc đào giếng được người dân trong làng xem xét, bàn bạc rất kỹ, như phải xem vị trí địa lý, phong thủy nơi đặt thấu đáo để chọn được mạch nước trong mát, ngọt ngào, không đục, không hôi, không mặn; mạch nước phải đảm bảo tuôn chảy quanh năm, suốt tháng. Đầu năm, người ta có phong tục tát giếng để tiếp nhận sinh khí, thịnh vượng mới và cũng vào sáng sớm mồng 1 Tết, nhiều nhà ra giếng làng gánh nước đổ đầy các bể, chum, vại, thùng dự trữ để hy vọng vào một năm gia đình, dòng họ có thật nhiều phúc đức, đại lộc, vì theo phong tục tín ngưỡng của làng thì giếng làng là nơi sâu nhất, nơi hội tụ, chứa đựng sức sống, tài lộc (mạch nước ngầm chảy mãi). Theo tâm sự của nhiều cụ già thì lòng giếng là tấm lòng của con người , của dân làng, cũng như bản chất là: con người bao dung, nhân ái, giếng làng không chất chứa thù hận với những gì đã trải qua. Ở làng cổ còn có một giếng cổ vô cùng nổi tiếng và đã đi vào huyền thoại của biết bao thế hệ dân làng và những vùng lân cận, đó là giếng Sữa hay còn gọi là giếng Chuông Sa ở thôn Cam Lâm, gần khu vực đền – lăng thờ Vua Ngô Quyền. Đó là một giếng nhỏ và nông, đường kính rộng 0,7 – 0,8m, sâu hơn 1m, lòng giếng được kè bằng những viên gạch đá ong. Nước trong giếng Sữa có vị ngọt mát lành hết sức đặc biệt. Nước trong vắt bốn mùa và có thể nhìn thấu đáy. Nói đến giếng Sữa là người ta hồi tưởng đến một câu chuyện truyền thuyết rất ly kỳ về một em bé mới chào đời bị bỏ rơi và một bà lão có tấm lòng nhân hậu, bao dung. Khi gặp em bé này, bà bế đứa trẻ với tiếng khóc như xé lòng, đang nhớ về dòng sữa mẹ. Hai bà cháu đi tìm nhà dân ven đường để xin nước và đi mãi cũng không thấy bóng nhà, bóng người. Tới một thung lũng dưới chân đồi Cấm, hai bà cháu tìm được một mạch nước róc rách chảy từ hang đá, bé đã được bà mớm cho miếng nước trong, bé ngưng khóc và ngủ ngon trên tay bà. Từ ấy, bà dựng lều tại đây nuôi cháu. Khi bà mất, người dân trong vùng lập miếu thờ bà, người ta gọi là Miếu Mẹ bên mạch nước thiêng gọi là giếng Sữa. Khi vào mùa khô, tất cả giếng làng, giếng nhà đều cạn nước thì mạch nước giếng sữa vẫn đầy tràn, dân làng đã đến xin nước ở đây về ăn, uống, sinh hoạt. Ngày nay, giếng Sữa còn được nhiều người mẹ đang thời cho con bú biết đến với phép màu, kỳ lạ đó là mỗi khi người mẹ chảng may bị mất sữa thì nhờ người thân đến đây làm lễ và xin nước mang về uống, ắt nguồn sữa của các bà mẹ lại được hồi phục kỳ lạ. Lối xuống xóm Sải (thôn Mông Phụ) có giếng cổ gần nhà thờ họ Hà, phía trước có một bia đá khắc 4 chữ Hán cổ “Nhất phiến băng tâm”, bia nằm trên lưng một con rùa, và ghi niên đại 1933. Hay giếng Nghè ở thôn Cam Lâm (Nước giếng Nghè, chè Cam Lâm Nước giếng Giang, khoai lang đồng Bường) Đây là hai giếng nổi tiếng là trong, sạch, mát, uống ngon, ngọt Giếng đá ong ở Làng cổ tuy không còn nhiều và được sử dụng thường xuyên nhưng vẫn còn đó các giếng cổ ở những điểm tâm linh tín ngưỡng quý giá và một số khuôn viên các nhà cổ, gia đình truyền thống. Một số giếng còn được nhân dân làm cây hương thờ cúng. Giếng trong các gia đình vẫn được bơm lên sử dụng hàng ngày (tuy không còn nhô lên mặt đất để lộ cái tang giếng tròn bằng đá ong, do muốn tiết kiệm diện tích nên giếng vẫn còn nằm chìm, được che đậy bằng nắp bê tông, lấy nước lên bằng đường ống máy bơm hút chân không). Tuy không có những giếng mới được đào nhưng mỗi lần về thăm di sản văn hóa Làng cổ ở Đường Lâm, nhất là vào dịp mùa hè, thu, sau khi có chuyến tham quan quanh làng, lưu chân tại nhà cổ, không ai có thể bỏ qua phút giây cảm nhận nguồn nước giếng đá ong trong mát từ những chum nước do gia chủ để sẵn phục vụ du khách (rửa mặt mũi, tay chân, thậm chí là uống một ngụm nước giếng đá ong). Chắc chắn du khách sẽ cảm nhận được vị ngọt ngào, mộc mạc, cao quý của mạch nước trong mát, mãi tuôn chảy giống như truyền thống cần cù, hiếu khách, chịu thương, chịu khó của người dân quê hương.

Hà Nội 22 lượt xem

Xếp hạng : Đang cập nhật

Mở cửa

Điểm di tích nổi bật

Điểm du lịch gần

Khách sạn gần

Nhà hàng gần

Vé vui chơi tại Hà Nội