Nét độc đáo kiến trúc nhà cổ ở Đường Lâm

Nét độc đáo kiến trúc nhà cổ ở Đường Lâm

Nét độc đáo kiến trúc nhà cổ ở Đường Lâm Đến thăm quần thể di tích làng cổ ở Đường Lâm, ngoài việc được chiêm ngưỡng tìm hiểu các loại hình di tích lịch sử văn hóa kiến trúc nghệ thuật quý báu như: đình, đền, chùa, miếu, lăng, quán, điếm, văn chỉ, võ chỉ…, hòa mình trong các lễ hội làng linh thiêng, rộn rã hay thưởng thức các món ăn văn hóa ẩm thực độc đáo thì du khách còn không thể bỏ qua việc đến tham quan các ngôi nhà cổ tiêu biểu đang tồn tại trong ngôi làng cổ tiêu biểu của vùng đồng bằng Bắc Bộ này. Nhà cổ ở Đường Lâm được xây cất bằng các loại truyền thống đặc trưng của vùng xứ Đoài bao gồm đá ong, gỗ, tre, nứa, rơm rạ, bùn non, đất sét mịn, mùn cưa, trấu, gạch nung các loại. Đá ong là loại vật liệu chính để xây các bước tường, đầu hồi, cổng hay tường rào, ngoài dùng để xây nhà ở, loại đá ong này còn được dùng để xây các công trình công cộng, văn hóa tín ngưỡng như: cổng làng, đình, chùa, miếu, điếm, quán, giếng cổ… Với đặc điểm là nhà xây xong bảo đảm khí hậu thông thoáng, ấm áp về mùa đông, mát mẻ về mùa hạ, chính vì thế người ta còn gọi ngôi làng này là “làng Việt cổ đá ong”. Gỗ để làm nhà nếu xưa là nhà có kinh tế, vai vế trong làng thì họ cất bằng loại tứ thiết (đinh, lim, sến , táu). Còn thông thường những nhà có kinh tế vừa phải thì làm bằng gỗ xoan là chính. Xoan được trồng ở gò đồi. Tre, vầu cũng được trồng ở gần rạch, mương, rãnh; thường là loại tre gai già, không gãy ngọn. Gỗ xoan – tre thường được ngân dưới đáy ao hồ thành bè, nơi đáy ao hồ có nhiều bùn nhằm chống lại sự gặm nhấm xâm hại của mọt. Việc ngâm thường diễn ra càng lâu càng tốt, 6 – 8 tháng hay 1 năm, lúc vớt lên bóc vỏ xoan để phơi chúng ra nắng ráo cùng với tre nó bốc mùi rất khó chịu mới được coi là ngâm kỹ bảo đảm. Mái nhà được lợp bằng các loại ngói như mũi ri, mũi hài, vảy cá, thông thường là người ta lợp một lớp ngói lót trước (còn gọi là gạch lót) và lợp từ dưới giọt gianh lợp lên. Loại ngói này xưa thường được mua qua thuyền bè chở ngược sông Hồng từ các địa phận làm gốm nổi tiếng như: Bát Tràng (Hà Nội), Chu Đậu (Hải Dương), Giếng Đáy (Đông Triều – Quảng Ninh), Phù Lãng (Bắc Ninh). Các loại vật liệu như tre được làm đòn tay dui mè, cũng có nhà làm bằng gỗ xoan, hay gỗ pha từ các tấm lớn. Đinh chốt các điểm mấu quan trọng cũng làm bằng cột tre già, phía mặt đằng trước nhà trên cùng giáp cửa là hàng con tiện có thể làm vuông, tròn… Nhà cổ thường quay mặt về hướng Nam, thiết kế theo kiểu 5 gian 2 dĩ, hay 7 gian 2 dĩ, được bố trí nhiều cửa quay vào trong. Cửa được làm chủ yếu 2 loại là bức bàn và cảnh phố. Loại kiểu bức bàn tạo cảnh tiện lợi khi nhà có việc lớn cần không gian thì gia chủ thường nhấc ra cho rộng rãi thêm và đặt cửa xuống làm phản ngồi, ăn cỗ. Nhà được bố trí 5 – 7 hàng chân, 2 cột cái và cái cột quân. Mỗi cột được đứng trên bệ kê đá xanh, phía giáp đất có hình vuông, phía đỡ cột có hình tròn (tượng trưng cho tư duy của người Á Đông – trời tròn đất vuông). Một số nhà cổ nhìn lên trần nhà cái dui, mè, đòn tay và kèo, xà nóc hay ngả màu, bồ hóng đen ấy là do xưa kia các nhà thường đốt lửa bằng bếp củi để sưởi ấm cho mùa đông, nhất là những dịp có người sinh nở, hay cụ già yếu, ốm… Nền nhà thường sử dụng chính là nền đất được nện, đầm cho chắc chắn. Một số nhà dùng sỉ vôi sau đó họ chặt đôi những hạt trám đóng xuống nền theo các ô hình tứ giác, bình hành, ngách cửa để thông cách ô cho thoáng nhà, cũng như dễ quan sát phòng bị khi có kẻ trộm (nhìn thấy chân của chúng) muốn đột nhập vào nhà. Gian giữa là nơi đặt các ban thờ người cao nhất trong 3 đời, 2 gian bên cạnh cũng đặt các ban thờ người quá cố trong dòng họ xếp theo thứ bậc (nếu là vị trưởng họ). Ban thờ có thể có nhiều bát hương và nhân vật hơn dưới bàn thờ các bộ sập hay phản bằng gỗ lim loại to bản, dày, 2 gian trái phải thường được kê các bộ trường kỷ: 1 bàn 2 ghế dài để tiếp khách bằng ấm trà pha chè xanh, thường là tích nước ủ vào hũ kèm 6 cái bát xứ nâu xỉn, bình vôi, ăn trầu, cái điếu bát, ống đựng đóm. Phía dưới bàn là một vài thứ như cơi trầu, chén phụ, ấm pha trà tàu (chè búp khô), bình đựng vôi nhỏ, điếu bát hay một thùng gỗ nhỏ dựng chiếc điếu cày được làm bằng dóng tre giữ lại cái mấu. Hai gian buồng dành cho con gái hoặc con dâu, ngoài ra cũng là kho đựng thóc, nồi niêu, bát đũa, hòm rương nhỏ. Ngoài hiên nhà có đặt 1 hay 2 chõng tre (một vài nhà hiện còn giữ chiếc hòm gian kê ngay dưới bàn thờ chính). Hòm này xưa đựng 1 vài thứ quý, tư trang dụng cụ đắt tiền, nông sản giống (thóc nếp, tẻ, lạc đỗ…) tránh được chuột bọ xâm nhập. Các công trình khác liên quan đến nhà cổ cũng không thể không kể đến là nhà ngang, bếp, giếng nước, sân, vườn, bình phong, chuồng trại nuôi gia súc gia cầm, cổng vào, cây hương. Trong đó, bình phong và cây hương cũng có vai trò tâm linh quan trọng trong gia đình. Bình phong đắp ở bờ tường, đối diện gian thờ - cửa chính, có thể bằng khảm trai hai vỏ trứng, đồ sành sứ nổi men ngọc bóng. Cây hương được xây ở góc sân hay chếch với gian đầu, cuối nhà, giếng nước đá ong xưa cũng có vai trò không nhỏ trong sinh hoạt của gia đình và chăn nuôi gia súc, gia cầm. Giếng được đào khá sâu. Ở những thôn có vị trí cao như Mông Phụ, Cam Lâm, mạch nước được thẩm thấu qua các vỉa đá ong nên đã khử lọc được các tạp chất độc hại, đạt độ trong sạch, không gây hại cho sức khỏe của con người. Việc lấy nước từ giếng lên cũng trải qua nhiều thời kỳ, bằng các dụng cụ khác nhau (vì giếng phải đào sâu). Lúc đầu, người dân dùng gầu và dây thừng múc từng gầu. Sau cải tiến, dùng tời quay bằng dây cáp bôi mỡ công nghiệp (loại dây nhỏ). Lúc này, gầu được thiết kế to và cong suất vì thế cũng tăng lên, không hao tổn sức người nhiều như trước nữa. Rồi khi có điện và khoa học phát triển tiến bộ, mọi nhà dùng máy bơm hút chân không, xây bể lọc nên nước được dự trữ, tách lọc qua cát sỏi hay than hoạt tính, càng bảo đảm hơn. Ngày nay, tuy đã có hệ thống nước máy bao phủ nhưng nhiều gia đình vẫn còn giữ lại giếng đá ong nhưng là giếng chìm (không để nhô tang giếng lên bề mặt để tiết kiệm diện tích và thay thế bằng nắp bê tông kiên cố phủ kín bề mặt). Giếng nước vẫn được sử dụng, là nguyên liệu quý để làm tương, pha trà… Riêng cổng được làm 2 mái, lập ngói vẩy cá, có hai cách quay vào trong, mỗi cách có 1 tay nắm hình trọn được chế tác bằng gỗ mộc. Trong nhà cổ mỗi gia đình còn lưu giữ được nhiều hiện vật quý như: gia phả, tài liệu Hán Nôm, đồ thờ, hiện vật liên quan đến cuộc sống sinh hoạt của mỗi thành viên như: đám cưới xưa, trang phục, tranh ảnh, dụng cụ sản xuất. Đặc biệt trên mái nhà hầu như nhà nào cũng có thước lỗ ban gác trang trọng ở gian giữa, ngoài vườn luôn xanh mát 4 mùa bởi những cây ăn trái lâu năm mùa nào thức ấy như lựu, doi, hồng xiêm, ổi, mít, bưởi, chanh, nhãn, vải, chuối… Nhiều nhà rộng hơn còn có cả ao, góc sân có để một số chum vại sành để ủ tương bần. Những chum tương ấy được ví như cái “tủ lạnh” quý khi xưa sau mỗi ngày gia chủ có sự kiện như tiệc, giỗ, cưới, chay. Họ thường ủ vào đó những khẩu thịt lợn luộc gần chín tới (khi không dùng hết) hay những quả cà bát. Lúc mang ra ăn chất lượng của nó càng ngon và hấp dẫn hơn. Những quả cà bát to ủ trong đó ngấm thấu hết những cái ngon tinh túy của tương bần, gắp ra xé phay nó ngả màu hổ phách, thêm vào tý dấm, đường, tỏi là ăn thay thức ăn được. Các dòng họ trong làng cổ thường hẹn nhau xum họp ngày chạp tổ, thông thường nó diễn ra vào dịp cuối năm, hay Tết đến xuân về, hội đình làng hay Tết Thanh minh. Ở Đường Lâm có những họ nổi tiếng như họ Phan, Hà, Giang, Đỗ, Kiều, Cao. Người trong khu vực làng cổ thường có quan hệ khăng khít với nhau. Họ thường dùng tên con trưởng (con trai đầu) để gọi thay tên cho bố mẹ đẻ, nhà ai có người mất phải có lệ mời anh em họ hàng đến thăm viếng, và viếng xong phải ra mâm ăn cơm chia buồn với gia đình. Bà cụ cao tuổi trong nhà còn được gọi là “gổ”. Mỗi di tích trong làng thường cử ra một người có uy tín trông coi còn gọi là cụ từ. Cụ này phải là người có uy tín trong làng (con cháu nếp tẻ đầy đủ, gia đình gương mẫu, không ai vi phạm pháp luật hay tệ nạn xã hội). Ông chủ tế của đình – đền phải là người có đủ tiêu chuẩn trên, nếu đang làm nhiệm vụ mà cụ từ có anh em trong 3 đời mất (người ta gọi là có cớ, có bụi) phải dừng và trả lại nhiệm vụ cho làng ngay. Bữa tiệc của đình, làng, xóm hay họ, gia đình thường phải có đủ các món như xôi, thịt gà trống, chè kho, bánh gai… Riêng ở làng Đông Sàng có tiếng là nơi nấu cỗ ngon, bày trang trí mâm cỗ đẹp. Những sản vật trong làng thì có vừng trồng ở Lồ Cang, khoai lang Đồng Bường, kẹo lạc dồi ở Đông Sàng, gà Mía, bánh rán nước, xôi đồ chim ngói mùa tháng 9 âm lịch, cá kho tương, tương bần làng Mông Phụ… Nhà cổ thường chia quyền sở hữu cho các cho các con trai trong nhà tùy theo nhà có từ 2, 3 hay 4…Có những nhà chỉ có duy nhất một anh con trai, còn lại toàn các chị em gái thì vai trò của anh này càng lớn. Các cháu nội ngoại dù đông bao nhiêu nhưng vai trò của cháu nội, là nam luôn được chú ý đề cao và nhấn mạnh. Nên một trong những người này muốn lấy lại phải thương thảo với những người kia (do bố mất để lại di chúc) nên một số nhà cổ hiện nay mặc dù chỉ có một gia đình ở nhưng lại là quyền sở hữu của vài người anh em ruột. Mỗi ngôi nhà lại có những nét kiến trúc cổ, lối bố trí không gian trong và ngoài khác nhau như: nhà ông Nguyễn Văn Hùng khác nhà ông Hà Hữu Thể, nhà bà Lan khác với nhà ông Hà Nguyên Huyến, nhà ông Hà Vĩnh, nhà ông Nguyễn Văn Vững, dáng dấp cả phương Đông lẫn Tây Âu (Pháp), kiến trúc nội tự ngoại khách…Trong vườn nhà khi chưa phải chia cho các con là lúc lập gia đình, sinh con thì đó cũng là môi trường tốt để cho gia đình trồng các loại cây hoa, ăn quả như: xoài, nhãn, ổi, mít, chuối, na, thị, vải, lựu, bưởi, khế, quất….Các loại hoa như: mộc, giấy, đỗ quyên, quỳnh, nhài, ngâu, sói,…các loại gia vị như: hành, tỏi, ớt, hẹ, gừng, giềng,….tạo màu sắc xanh tươi, mùi thơm bốn mùa trong không gian nhà cổ như: dịp đông xuân là mùi thơm thoang thoảng, dịu ngọt của hoa mộc, đầu thu là mùi quả thị, hương lá nếp, mùa hè là sắc đỏ của những chùm vải, chùm quất đen bóng dưới cái nắng đặc trưng của vùng xứ Đoài ấp cổ. Trong số lượng nhà cổ 97 cái còn tồn tại ở di tích làng cổ thì có 2 thôn là có số lượng nhà cổ nhiều nhất là Mông Phụ và Đông Sàng. Một số hộ gia đình đang sở hữu nhà cổ đã biết tận dụng lợi thế để khai thác đón khách tham quan, tạo ra các sản phẩm dịch vụ phục vụ nhu cầu của khách trong và ngoài nước đã mang lại kết quả khá cao. Họ giữ nguyên hiện trạng không gian cổ kính, hình thành các khu dịch vụ ra bên cạnh nhưng cách lắp ghép, xây dựng cũng phù hợp với cảnh quan chung, tự sưu tầm bổ sung những hiện vật có niên đại liên quan đến phong tục, tín ngưỡng tập quán để trưng bày trong không gian nhà cổ. Điều đó càng làm tăng thêm sự hấp dẫn và thu hút khách mỗi khi đến thăm. Tuy nhiên trong số đó vẫn còn nhiều nhà cổ đã trải qua niên đại lâu đời chịu sự tác động của khí hậu, côn trùng, nên các cấu kiện bằng gỗ, các hạng mục khác đều bị mai một xuống cấp rất cần sự bảo tồn phục dựng hỗ trợ của các cấp lãnh đạo chính quyền cũng như sự chủ động của nhân dân – qua đó góp phần vào công tác bảo tồn và phát huy các giá trị của di tích làng cổ ở Đường Lâm một cách bền vững hiệu quả.

Hà Nội 19 lượt xem

Xếp hạng : Đang cập nhật

Mở cửa

Điểm di tích nổi bật

Điểm du lịch gần

Khách sạn gần

Nhà hàng gần

Vé vui chơi tại Hà Nội