Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch Travelviet
Tải ứng dụng Travelviet
Khu du lịch sinh thái Măng Đen nằm ở thị trấn Măng Đen, huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum. Măng Đen là cụm cứ điểm của địch, án ngữ trên đường 5 từ Kon Tum đi Quảng Ngãi, nay là quốc lộ 24, cách thành phố Kon Tum khoảng 55 km về phía Đông Bắc. Đây là cụm cứ điểm của địch nằm sâu trong vùng giải phóng của ta. Bao quanh cứ điểm là hệ thống các vật cản phức tạp dày đặc với 10 lớp kẽm gai và 2 lớp rào. Xen kẽ các lớp hàng rào là mìn chống bộ binh, xe tăng và tuyến hào hình lòng máng rộng 4m, sâu 2,5m, cắm chông dày đặc. Bên trong xây dựng hàng trăm lô cốt bằng bê tông cốt thép, gỗ đất, có đường hầm nối liền các công sự và ba góc có ba lô cốt mẹ bằng bê tông cốt thép kiên cố. Vào giữa năm 1974, Tỉnh ủy Kon Tum và Bộ Tư lệnh B3 đã chủ trương tấn công tiêu diệt các cứ điểm của địch nhằm mở rộng vùng giải phóng, tạo đà tiến về vùng tạm chiếm Kon Tum. Sau thời gian chuẩn bị, đúng 5 giờ 30 phút sáng ngày 3 tháng 10 năm 1974, Trung đoàn trưởng Trung đoàn Bộ binh 28, Sư đoàn 10, Quân đoàn 3 ra lệnh nổ súng tấn công sở chỉ huy địch. 7 giờ 55 phút hoả lực của ta đồng loạt bắn vào các mục tiêu. Sau thời gian ngắn phát triển tấn công, lúc 10h45′ ta làm chủ hoàn toàn chốt điểm M12. Trước sức mạnh tấn công của lực lượng H16, H29, cùng bộ đội chủ lực Trung đoàn Bộ binh 28 và một số binh chủng kỹ thuật của ta, ngày 12 tháng 10 năm 1974, cứ điểm cuối cùng của địch nằm sâu trong vùng giải phóng phía Đông Bắc Kon Tum đã bị xoá sổ hoàn toàn. Chiến thắng Măng Đen tháng 10 năm 1974, quân ta đã đập tan cứ điểm cuối cùng của địch nằm sâu trong vùng giải phóng của ta, phá vỡ tuyến hành lang an toàn của địch ở phía Bắc thị xã Kon Tum, làm cho quân địch ở chiến trường Bắc Tây Nguyên bị uy hiếp mạnh. Chiến thắng này đã giải phóng hàng ngàn người dân với một vùng đất rộng lớn là một niềm cổ vũ lớn lao thúc đẩy hành động cách mạng của nhân dân, nhất là đồng bào các dân tộc ít người; đồng thời, củng cố xây dựng chính quyền và lực lượng vũ trang địa phương phát triển vững mạnh. Trên đà thắng lợi, lực lượng vũ trang đã bao vây quận lỵ Măng Bút, giải phóng toàn bộ nhân dân trong vùng. Cùng với thắng lợi tại các cứ điểm Đăk Pét, Măng Bút, chiến thắng Măng Đen đã góp phần mở rộng vùng giải phóng đến sát thị xã Kon Tum, tạo thế và lực mới cho chiến dịch Tây Nguyên, mở đường giải phóng Sài Gòn, kết thúc thắng lợi chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, thống nhất đất nước. Khu di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh Măng Đen đã được công nhận là Di tích Lịch sử – Danh thắng cấp quốc gia vào ngày 13 tháng 4 năm 2002. Nguồn:Du lịch Kon Tum
Kon Tum 2606 lượt xem
Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia
Khu di tích Láng Le Bàu Cò tọa lạc tại xã Tân Nhựt, huyện Bình Chánh, Tp HCM. Láng Le Bàu Cò gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược vào năm 1948 với những trận đánh lớn đi vào lịch sử. Di tích Láng Le Bàu Cò được công nhận là di tích lịch sử cấp thành phố vào năm 2003. Sở dĩ được gọi tên là khu di tích Láng Le Bàu Cò vì Tên gọi của khu di tích Láng Le Bàu Cò là do người dân địa phương đặt ra. Xóm làng được thành lập cạnh những con kênh rạch chằng chịt và dòng sông. Láng Le Bàu Cò có vị trí nằm ở bên trong cánh đồng có diện tích rộng lớn và có rất nhiều tôm, cua, cá. Cùng với nhiều loài chim như vịt trời, cò, con le le, cúm núm, cồng cộc, đa đa, diệc, đỏ nách tới kiếm ăn tại đây. Vì vậy, người dân Tân Nhựt gọi với cái tên thân thuộc và mộc mạc đó là Láng Le Bàu Cò. Di tích Láng Le Bàu Cò được xem là cửa ngõ để di chuyển tới trung tâm căn cứ Vườn Thơm và tấn công cơ quan đầu não của quân địch tại Sài Gòn. Trước đây khu di tích Láng Le Bàu Cò vốn là cánh đồng lau sậy mọc um tùm. Vào ngày 15/4/1948 thực dân Pháp đưa 3 nghìn quân lính cùng nhiều vũ khí hiện đại đồng loạt tấn công khu vực Láng Le Bàu Cò nhằm tiêu diệt căn cứ Vườn Thơm. Khi đó lực lượng vũ trang cách mạng ở Láng Le - Bàu vì lực lượng nhỏ và vũ khí thô sơ tuy nhiên được sự giúp đỡ của người dân địa phương cùng với lợi thế về địa hình. Chỉ sau hơn nửa ngày đấu tranh đã chuyển sang tấn công khiến quân Pháp bị thương vong với số lượng lớn. Chiến thắng Láng Le Bàu Cò đã tiêu diệt 300 tên địch và bắt sống 30 lính đánh thuê cùng phá hủy nhiều máy móc, xe nhà binh, súng các loại của quân giặc. Tuy nhiên, về phía ta có nhiều cán bộ chiến sĩ đã anh dũng hy sinh với tuổi đời còn rất trẻ. Ngày 14/10/1966 tại Láng Le tiểu đoàn biệt động quân Việt Nam Cộng Hòa bị dân quân du khách tiêu diệt. Khu di tích Láng Le Bàu Cò có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với người dân Sài Gòn nói riêng và cả nước nói chung. Trước lòng căm thù thực dân Pháp, quân dân Láng Le Bàu Cò đã có cuộc chiến vang lừng lịch sử và có ý nghĩa to lớn mở đầu cho phía ta và phía địch. Đối với phía ta trận đánh mở đầu cho sự anh dũng trong tư thế kháng chiến vững mạnh. Còn với quân địch đã phải lùi vào thế bỏ chiến lược và bị tiêu diệt. Thực dân Pháp không còn định hình được chiến lược đánh bại Việt Minh. Hơn thế, tại căn cứ Vườn Thơm, Láng Le Bàu Cò còn diễn ra trận chiến quyết tâm bảo vệ căn cứ của ta và đập tan mọi kế hoạch phá hoại của quân giặc. Khu di tích Láng Le Bàu Cò sau phong trào Đồng Khởi vào năm 1960 còn là hậu cần, bàn đạp của lực lượng vũ trang để giải phóng Long An - Sài Gòn - Gia Định. Để tưởng nhớ sự hy sinh của đồng bào và các chiến sĩ của ta, vào năm 1988 huyện Bình Chánh đã xây dựng công trình lịch sử tại vùng đất Láng Le Bàu Cò với diện tích rộng 1000m2. Nguồn: Báo thông tin điện tử TP Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 8605 lượt xem
Nhà lao Tân Hiệp còn có tên là "Trung tâm cải huấn Tân Hiệp" tọa lạc ở khu phố 6, phường Tân Tiến, TP Biên Hòa. Di tích Nhà lao Tân Hiệp đã được Bộ Văn Hoá Thể Thao xếp hạng là di tích cấp quốc gia ngày 15-1-1994. Nhà lao Tân Hiệp là một trong sáu nhà tù lớn nhất miền Nam Việt Nam và là nhà tù lớn nhất vùng Đông Nam bộ, được xây dựng ở vị trí quân sự quan trọng, án ngữ phía đông bắc thị xã Biên Hòa. Phía trước là quốc lộ 1; phía sau là đường xe lửa Bắc - Nam. Đây là vị trí biệt lập, thuận tiện trong giao thông, dễ dàng cho việc bảo vệ, canh gác, nhận tù từ nơi khác đến và chuyển tù đi Côn Đảo, Phú Quốc... Nhà lao Tân Hiệp có diện tích 46.520m2 với 8 trại giam, trong đó có 5 trại giam những người tù cộng sản, người yêu nước. Xung quanh nhà tù được bao bọc bởi 4 lớp kẽm gai bùng nhùng với 9 lô cốt, 3 tháp canh cùng đội lính bảo vệ và hệ thống báo động tối tân. Mang tên "Trung tâm cải huấn" nhưng thực chất bên trong là kho súng, phòng xét hỏi, tra tấn với những dụng cụ hiện đại bậc nhất. Mỗi trại giam chỉ có diện tích gần 200m2 nhưng giam giữ từ 300-400 người, có lúc lên đến cả ngàn người. Đặc biệt ở đây có các phòng "cải hối", "chuồng cọp" rất nhỏ hẹp và điều kiện sinh hoạt cực kỳ khắc nghiệt, tù nhân sống chẳng khác gì trong lò thiêu xác. Chế độ ăn uống cực kỳ mất vệ sinh, bọn cai ngục mua gạo mục, cá thối dùng để bón ruộng, chiên bằng dầu luyn cho tù nhân ăn dẫn đến nhiều người bị ngộ độc. Với quyết tâm thoát khỏi nhà tù đế quốc, trở về với Đảng, với nhân dân để tiếp tục chiến đấu, giải phóng dân tộc, ngày 2-12-1956, được sự nhất trí của Liên Tỉnh ủy miền Đông, những chiến sĩ cộng sản bị "câu lưu" trong nhà lao Tân Hiệp dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Trọng Tâm (Bảy Tâm) - phụ trách Đảng ủy nhà tù và một số đồng chí khác đã bất thần làm một cuộc phá xiềng tập thể giải thoát gần 500 đồng chí, đồng bào yêu nước. Sự kiện này đã làm xôn xao cả Lầu Năm Góc. Mỹ - Diệm vội vã huy động cả quân chủ lực lẫn bảo an, dân vệ đang trấn thủ 3 tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một và hai biệt đoàn biệt động quân đến bủa lưới bao vây, truy bắt đoàn tù nhưng đều thất bại. Các đồng chí, đồng bào của ta thoát khỏi nhà lao Tân Hiệp đã được sự giúp đỡ, che chở của các cơ sở địa phương, trở về căn cứ an toàn. Trong số tù nhân vượt ngục có các đồng chí: Bảy Tâm, Hai Thông, Lý Văn Sâm... đã trở thành những hạt nhân nòng cốt cho phong trào Đồng Khởi sau này. Năm 2001, để tái hiện phần nào tội ác của Mỹ - Diệm đối với các đồng chí, đồng bào ta bị giam cầm tại nhà lao Tân Hiệp và diễn tả lại toàn bộ cuộc nổi dậy phá khám Tân Hiệp ngày 2-12-1956, Bảo tàng Đồng Nai đã tiến hành sưu tầm hình ảnh, tài liệu, hiện vật trưng bày tại di tích và làm một sa bàn để phục vụ nhu cầu nghiên cứu, tham quan của mọi tầng lớp nhân dân. Hàng ngày, di tích luôn mở cửa đón khách tham quan. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 8009 lượt xem
Di tích chiến thắng La Ngà (tại km số 104-112 trên quốc lộ 20 đi Đà Lạt, thuộc xã Phú Ngọc, huyện Định Quán) được Bộ Văn hóa xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 12-12-1986. Để cổ vũ cho chiến thắng Việt Bắc thu - đông 1947 và cũng để giáng cho kẻ thù một đòn chí mạng, Ban chỉ huy chi đội 10 đã quyết định phải tổ chức một trận đánh lớn, để quân giặc thấy rằng dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam không dễ dàng chịu khuất phục trước bất kì một kẻ thù nào; Bằng tinh thần quả cảm và sự khôn khéo sau gần nửa năm chuẩn bị, nghiên cứu địa hình, chọn địa điểm: vào lúc 15 giờ 12 phút ngày 1/3/1948 trận chiến phục kích La Ngà bắt đầu và kết thúc vào lúc 15 giờ 57 phút cùng ngày, chỉ trong vòng 45 phút. Chiến thắng La Ngà đã làm nức lòng nhân dân Định Quán nói riêng, quân dân Đồng Nai nói chung. Đây là chiến thắng thể hiện sự mưu trí, dũng cảm của quân và dân ta làm cho địch một phen kinh hồn, bạt phía. Từ chiến thắng này lực lượng ta ngày càng thêm lớn mạnh, góp phần đánh bại kế hoạch đánh nhanh, thắng nhanh của địch, buộc chúng phải rơi vào thế bị động. Quần thể danh thắng đá Chồng, Thác Mai, sông La Ngà và Tượng đài chiến thắng La Ngà là một quần thể du lịch kì thú của Định Quán. Vẻ đẹp kỳ thú của Hòn Ba Chồng, Núi Đá Voi, Hòn Dĩa, cùng với ngôi chùa thiên nhiên dưới chân núi đá là những cụm tiêu biểu tạo thành cảnh đẹp hài hòa cho khu danh thắng Đá Chồng. Quần thể Đá Chồng Định Quán còn là nơi lưu lại những dấu tích của cuộc sống người tiền sử. Tại đây dưới các mái đá, ven các khe suối và cả các sườn dốc ven thung lũng đã phát hiện nhiều công cụ sản xuất, sinh hoạt của người xưa bằng đá, đồng, đất nung. Trong suốt cuộc kháng chiến dài 30 năm. Định Quán là một phần quan trọng của Chiến khu Đ. Đá Chồng đã chứng kiến sự hình thành, phát triển, trú quân, triển khai chiến đấu của lực lượng cách mạng. Ngày nay, một phần đất của khu danh thắng Đá Chồng Định Quán đã được sử dụng, xây dựng thành khu Trung tâm văn hóa thể thao huyện Định Quán. Tương lai không xa khu danh thắng Đá Chồng Định Quán sẽ được đầu tư tôn tạo góp phần làm cho cảnh quan thiên nhiên ngày càng tươi đẹp, là địa điểm du lịch sinh thái hấp dẫn. Nguồn: Uỷ Ban Nhân Dân Huyện Định Quán
Đồng Nai 6024 lượt xem
Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh còn gọi là đình Bình Kính tọa lạc bên tả ngạn sông Đồng Nai, xưa kia thuộc ấp Bình Kính, thôn Bình Hoành, tổng Trấn Biên, nay là ấp Nhị Hòa, xã Hiệp Hòa, TP Biên Hòa, đã được Bộ Văn Hoá – Thông Tin – Thể Thao & Du Lịch xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 25-3-1991. Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ 18, ban đầu ngôi đền có qui mô nhỏ, vách làm bằng ván, mái ngói âm dương, cách ngôi đền hiện tại khoảng 400m về hướng Nam. Các tư liệu cho biết: ngôi đền được xây dựng lại lần đầu tiên vào năm Tự Đức thứ tư (1851); đến năm 1923, đền được tái thiết lại ở địa điểm hiện nay. Nguyễn Hữu Cảnh sinh vào năm 1650 tại Gia Miêu, huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa trong một gia đình có nhiều bậc danh tướng đương triều. Ông là người văn võ song toàn, lập được nhiều chiến công lớn và được chúa Nguyễn tin yêu, trọng vọng. Mùa Xuân năm Mậu Dần (1698), ông vâng lệnh chúa Nguyễn vào kinh lược xứ Đàng Trong khi ấy còn rất hoang vu. Đến đất Đồng Nai, ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố (nay là xã Hiệp Hòa); lấy đất Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn, đất đai mở mang ngàn dặm. Ông chiêu mộ lưu dân đến lập nghiệp, tổ chức bộ máy hành chính từng bước có qui củ, khuyến khích khai hoang, thúc đẩy Cù lao Phố phát triển thành một trong những cảng thị sầm uất, năng động nhất đàng Trong suốt thế kỷ 18 và chính thức sáp nhập vùng đất mới phương Nam vào bản đồ Đại Việt. Sau khi kinh lược phương Nam trở về, năm sau ông lại phụng mệnh chúa Nguyễn Phúc Chu thống lĩnh đại binh dẹp vua Chân Lạp giữ vững miền biên ải phương Nam. Tháng 4 năm Canh Thìn (1700), sau khi hoàn thành sứ mệnh, trên đường trở về đến Rạch Gầm (Tiền Giang) thì ông thọ bệnh qua đời nhằm ngày 16 tháng 5 âm lịch, thọ 51 tuổi. Trên đường di quan ông về quê an táng, quan tài của ông được đình lại khu đất khi xưa ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố để cho nhân dân địa phương có dịp bái biệt ông lần cuối. Nơi đình quan đã được nhân dân địa phương xây một ngôi mộ vọng để ghi nhớ sự kiện này. Khi hay tin Nguyễn Hữu Cảnh mất, Chúa Nguyễn vô cùng thương tiếc đã phong tặng ông là Thượng đẳng công thần đặc Trấn phủ Chưởng cơ với tước: Lễ Thành Hầu và đưa bài vị của ông vào thờ tại Thái miếu. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 5931 lượt xem
Di tích tòa Đại sứ Mỹ còn được gọi "Nhà trắng phương Đông" là nơi xuất phát các âm mưu thâm độc về quân sự lẫn chính trị nhằm thôn tính lâu dài đất nước Việt Nam, địa điểm di tích là tòa nhà 5 tầng xây dựng theo kiến trúc hiện đại, tọa lạc tại góc đường Mạc Đĩnh Chi - Lê Duẩn, Phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, trên một mảnh đất rộng gần 5.000m2. Trước đó, tòa đại sứ Mỹ nằm tại số 39 đường Hàm Nghi. Khoảng 10 giờ sáng ngày 30/3/1963, tòa đại sứ Mỹ trên đường Hàm Nghi đã bị đội Biệt động F21 đánh chất nổ làm sập 3 tầng lầu: 1, 2, 3 do đó Mỹ đã quyết định xây lại. Tòa nhà được khởi công xây dựng vào năm 1965, hầu hết vật liệu cũng như máy móc xây dựng đều được chở từ Mỹ sang, dưới sự điều khiển của kỹ sư người Mỹ. Theo thiết kế, tòa nhà bao bọc bởi 7.800 viên đá Taredo có khả năng chống đỡ mìn, đạn pháo. Cửa chính trang bị bằng thép dầy, những cửa khác chắn bởi lớp kín dầy đặc biệt chống đạn. Tất cả cửa sử dụng hệ thống tự động kể cả cửa sắt chắn lối lên các tầng lầu. Bên trong tòa nhà gồm 140 phòng với 200 nhân viên phục vụ ngày đêm ngoài ra bên cạnh tòa nhà còn được xây thêm một dãy nhà phụ gọi là khu "Norodom" dành riêng cho nhân viên C.I.A. Khi khánh thành, tòa nhà chỉ có 3 tầng. Cuối năm 1966 xây thêm 2 tầng và 1 sân thượng dùng làm nơi hạ cánh cho máy bay lên thẳng. Bao quanh tòa nhà là bức tường cao 3m, hai đầu tường sát đường Lê Duẩn xây 2 lô - cốt cao, canh gác ngày đêm. Tòa Đại sứ hoàn thành tháng 9/1967 với một hệ thống phòng thủ như là một pháo đài có 60 lính gác, một hầm tránh bom, một hệ thống màn hình ra-đa nhằm kiểm soát mặt tiền. Ngay sau khi tòa nhà hoàn tất, ngày 24/9/1967, hàng ngàn sinh viên, học sinh kéo đến trước cổng Đại sứ quán Mỹ đấu tranh đòi "Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc", "Mỹ cút về nước" và ra thông báo tố cáo Mỹ "chà đạp và vi phạm nghiêm trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam". Nhưng sự kiện nổi bật xảy ra tại Tòa Đại sứ Mỹ là trận đánh của Biệt động thành trong Tổng Tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968. Mục tiêu đánh Đại sứ quán Mỹ được bổ sung ngày 24/ 1/1968 do Ngô Thành Vân phụ trách chung. Đội Biệt động 11 nhận lãnh nhiệm vụ quan trọng này gồm đội trưởng Út Nhỏ (đội trưởng trinh sát quân khu) và các chiến sĩ: Bảy Truyền, Tước, Thanh, Chức, Trần Thế Ninh, Chính, Tài, Văn, Đực, Cao Hoài Vinh, Mang, Sáu và 2 lái xe: Trần Sĩ Hùng và Ngô Văn Thuận. Một sự kiện khác cũng không kém phần tủi nhục cho Toà Đại sứ Mỹ là cảnh hỗn loạn tháo chạy xảy ra trong 2 ngày 29 và 30/04/1975 của Mỹ và đồng bọn. Trước sức tấn công thần tốc của quân và dân Việt Nam trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, trên 1.000 người Mỹ và hơn 5.000 người Việt thân Mỹ đã chen lấn, xô đẩy, đạp nhau để tranh giành một chỗ trên sân thượng của toà nhà hòng được trực thăng cứu thoát. Di tích này đã được cấp bằng công nhận của Bộ Văn hoá ngày 25/6/1976. Hiện nay, toà nhà Đại Sứ Mỹ đã bị phá bỏ, xây mới thành lãnh sự quán tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng cạnh đó một bia tưởng niệm ghi nhớ mãi chiến công của các chiến sĩ biệt động đã hy sinh trong trận đánh. Nguồn: Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 4802 lượt xem
Thời kỳ nhà Mạc đóng đô ở Cao Bằng, để phòng bị quân nhà Lê tiến đánh, nhà Mạc đã tu bổ, sửa chữa thành Na Lữ (nay thuộc xã Hoàng Tung, Hòa An) và thành Bản Phủ (nay thuộc xã Hưng Đạo), thành Phục Hòa, ngoài ra còn xây dựng nhiều thành lũy khác ở Cao Bằng, làm cho Cao Bằng trở thành một trung tâm chính trị và quân sự ở vùng biên viễn Đông Bắc thời bấy giờ. Thành Na Lữ và thành Phục Hoà là hai thành được xây dựng từ trước. Theo ghi chép của Bế Hựu Cung trong Cao Bằng thực lục, thành Na Lữ và thành Phục Hòa mở đầu từ đời Đường Ý Tông năm Giáp Thân, niên hiệu Hàm Thông thứ 5 (874). Căn cứ vào sự hiện diện của nhiều ngôi mộ cổ có đá khắc ghi bia mộ tên, địa chỉ, quê quán những người phu dịch xây thành chết ở đây từ thời Hàm Thông có thể khẳng định hai thành này xây từ đời Đường. Thành Na Lữ được xây qua nhiều triều đại khác nhau. Khi nhà Mạc lên Cao Bằng đã cho xây lại bằng gạch. Thành Na Lữ có hình gần chữ nhật, có tổng diện tích khoảng 37,5 ha, chiều dài khoảng 800 m, chiều rộng khoảng 600 m, thành có 4 cửa. Thành Bản Phủ tại kinh đô Nam Bình, nước Nam Cương của Thục Phán khi xưa ở Cao Bình (Cao Bằng), nhà Mạc đã tu bổ thành Vương phủ tại vòng trong của kinh đô cũ Nam Bình và được gọi là thành Bản Phủ hay Vương phủ. Tại kinh đô Nam Bình xưa của nước Nam Cương và của nhà Mạc, thành Bản Phủ vẫn còn dấu tích khá rõ nét. Kinh đô Nam Bình gồm có hai vòng thành, để bảo vệ kinh thành, vòng ngoài có chu vi khoảng 5 km, gồm cả một vùng gò đồi thấp, quanh chân đồi được bạt dựng đứng như một bức tường thành, thuận lợi cho việc xây dựng phòng tuyến bảo vệ. Bờ thành phía Tây chạy song song với bờ sông Bằng đến đầu làng Bó Mạ, nối bờ thành Đông Nam chảy qua trước mặt Bản Phủ theo chân đồi ra gặp quốc lộ 4, phía Đông Bắc chạy theo chân đồi sát phía ngoài quốc lộ 4, lên đến Đầu gò là phía Tây Bắc tiếp tục chạy theo chân đồi, ra đến bờ sông gặp bờ thành phía Tây tạo thành một vòng thành khép kín. Khi nhà Mạc lên đóng đô đã tu sửa lại và xây dựng thêm một số công trình, trong đó thành Bản Phủ (thành nội - nơi của vua làm việc) được xây lên cao hơn trên các tường thành cũ từ thời kỳ Thục Phán, thành nằm trên một khu đất bằng phẳng. Cùng với việc xây dựng lại kinh thành, nhà Mạc còn xây dựng một hệ thống đồn bốt, thành lũy khá dày xung quanh kinh đô và một số điểm biên giới quan trọng, tạo thành một hệ thống bảo vệ kinh thành và bảo vệ biên giới. Thành Phục Hòa (huyện Phục Hoà) được xây theo kiểu hình vuông, mỗi chiều khoảng 400 m, gồm hai vòng thành, khoảng cách giữa hai vòng là 80 m. Hiện nay, tường thành phía Nam đã bị phá huỷ hoàn toàn. Thành Phục Hòa có 2 cổng chính: Cổng phía Bắc được mở thông ra quốc lộ đi Cửa khẩu Tà Lùng ngày nay, nhân dân thường gọi là Pác Cổng, cổng này được xây theo kiểu hình chữ nhật, rộng 8 m, cao 5 m, gồm hai cánh cổng làm bằng gỗ nghiến dày rất chắc chắn; cổng thứ hai ở phía Nam, mở thông ra bờ sông. Cả hai cổng đều bị san phẳng từ lâu, hiện nay không còn vết tích. Gần thành, tại phía Tây Bắc ngoại thành dọc bờ sông còn có nhiều vết tích lò nung gạch, nhân dân cho biết trong quá trình lao động, khai phá đã tìm thấy ở khu vực này nhiều lò gạch còn nguyên vẹn. Qua nghiên cứu, khảo sát cho thấy, tại Cao Bằng, nhà Mạc đã tu bổ, tôn tạo và xây dựng thêm nhiều thành, đồn luỹ, trong đó tu bổ, tôn tạo xây lại thành Bản Phủ, thành Na Lữ, thành Phục Hoà. Các đồn luỹ này đã tạo thành một hệ thống liên hoàn bảo vệ kinh thành khá vững chắc. Đến nay, những thành cổ nhà Mạc xây dựng thời kỳ đóng đô ở Cao Bằng, một số thành xây dựng bằng đất chỉ còn vết tích, nhưng các thành được xây bằng đá vẫn còn rất rõ. Nguồn: Báo Cao Bằng điện tử
Cao Bằng 4725 lượt xem
Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt, tọa lạc ấp Xóm Tháp, xã Tân Phong, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử - văn hóa ngày 23 tháng 7 năm 1993. Đồng thời là một trong ba công trình tháp cổ cuối cùng còn lại ở miền Nam nước ta. Trải qua nhiều lần trùng tu vào các năm 1938, 2003 và gần đây nhất là vào năm 2013. Mặc dù trải qua các đợt trùng tu tôn tạo, nhưng khu di tích tháp cổ Chót Mạt đã mang cho mình một diện mạo mới nhưng vẫn giữ nguyên được tinh thần kiến trúc cổ. Toàn bộ tòa Tháp được xây dựng bằng gạch và đá phiến với phần đỉnh tháp nhọn dần lên, từ mặt đất lên nơi cao nhất của đỉnh tháp được ước tính là 10m. Ngoài ra, ngọn tháp cổ này nằm trên gò đất cao giữa cánh đồng nên nhìn từ xa nó tựa như ngọn bút đang vươn lên cao dần. Năm 2003 Uỷ ban nhân dân tỉnh Tây Ninh quyết định phê duyệt dự án đầu tư trùng tu tôn tạo bảo tồn di tích tháp Chót Mạt và được tiến hành triển khai trùng tu tôn tạo phục hồi, trưng bày mở hố khai quật năm 2003 đưa vào sử dụng. Ngày 27/11/2019 UBND tỉnh ban hành Quyết định Quy định về phân cấp quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. Quyết định giao UBND huyện Tân Biên trực tiếp quản lý 4 di tích, trong đó có di tích cấp Quốc gia di tích Lịch sử- văn Hóa Tháp Chót Mạt. Đặc biệt Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt trên địa bàn xã Tân Phong, huyện Tân Biên được chọn nằm trong chũi liên kết phát triển du lịch của Tỉnh Tây Ninh. Đây là một địa điểm tham quan rất đáng để khám phá, góp phần phát triển du lịch trên địa bàn xã Tân Phong nói riêng và huyện Tân Biên nói chung. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Tây Ninh
Tây Ninh 4426 lượt xem
Di tích Ngã Ba Giồng là di tích lịch sử cách mạng thuộc Ấp 5, xã Xuân Thới Thượng, huyện Hóc Môn. Được bao quanh bởi ba con đường: Phan Văn Hớn, Nguyễn Văn Bứa và tỉnh lộ 19. Khu di tích Ngã Ba Giồng là khu tưởng niệm về những sự kiện lịch sử trong hai cuộc khácg chiến chống ngoại xâm. Được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia vào năm 2002. Ngã ba Giòng (còn có tên gọi đầy đủ là Ngã ba Giòng Bằng Lăng) nằm trên địa phận thôn Xuân Thới Tây thuộc 18 thôn vườn trầu xưa được hình thành từ những năm 1698 đến năm 1731. Từ lâu đời, Ngã ba Giồng là 1 địa danh có tên gọi dân gian đã đi vào lịch sử của quê hương 18 thôn vườn trầu Hóc Môn – Bà Điểm. Tục truyền rằng xưa kia nơi đây là 1 vùng đất giồng tương đối cao ráo và là nơi mọc nhiều cây bằng lăng nên địa danh này có tên gọi từ đó. Sau khi cuộc khởi nghĩa Nam kỳ (23/11/1940) bị thất bại, thực dân Pháp đã tăng cường đàn áp, khủng bố khốc liệt phong trào cách mạng vùng Hóc Môn – Bà Điểm. Chúng đã lập ra ở Hóc Môn 3 trường bắn để giết hại các đồng chí lãnh đạo Đảng, các đồng chí đồng bào yêu nước của quê hương Hóc Môn và các vùng lân cận. Ngã ba Giồng là trường bắn thứ ba ghi lại tội ác tày trời của giặc pháp và bọn tay sai đối với nhân dân Hóc Môn. Rút kinh nghiệm từ 2 trường bắn trước (1 tại rạp hát cũ trung tâm Quận lỵ Hóc Môn, 1 cạnh giếng nước sau Bệnh viện Hóc Môn ngày nay), chúng xử bắn công khai, bắt nhân dân đến xem nhằm mục đích uy hiếp tinh thần cách mạng của nhân dân Hóc Môn. Nhưng cách xử bắn đó đã phản tác dụng, nhân dân Hóc Môn đã tận mắt chứng kiến sự tàn ác của thực dân Pháp, sự hy sinh cao cả của các chiến sĩ cộng sản nên ngọn lửa yêu nước của họ càng bùng lên mãnh liệt. Trường bắn thứ 3 này, chúng không dám xây dựng gần trung tâm Quận lỵ nữa mà đưa ra khu vực Ngã ba Giồng là vùng hoang vắng, thưa dân để tránh sự phản kháng của nhân dân. Tại đây, chúng xây dựng thành 1 trường bắn có mô đất kiên cố dài 12m, cao 2,2m, phía trước có trồng 6 cột bắn, mỗi cột cao 1.7m, hướng bắn quay về phía đồng ruộng (bưng Tràm Lạc). Vào năm 1941, tại đây chúng lén lúc xử bắn rất nhiều lần, không cho nhân dân xem, hàng trăm chiến sĩ cộng sản và đồng bào yêu nước bị chúng giết hại. Với ý nghĩa lịch sử vô cùng thiêng liêng của Ngã ba Giồng, nơi ghi dấu tội ác dã man của giặc Pháp, nơi thể hiện ý chí chiến đấu bất khuất kiên cường và sự hy sinh cao cả của đồng chí và đồng bào ta sau cuộc khởi nghĩa Nam kỳ (23/11/1940); sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (30/4/1975), huyện Hóc Môn đã nhanh chóng khôi phục và tôn tạo khu di tích lịch sử cách mạng Ngã ba Giồng nhằm giáo dục truyền thống cho các thế hệ thanh thiếu niên. Nơi đây đã trở thành điểm tham quan, nơi tổ chức lễ hội truyền thống trong những ngày lễ lớn hàng năm của huyện Hóc Môn và thành phố đặc biệt là lễ kỷ niệm ngày Nam kỳ Khởi nghĩa (23/11). Hiện nay được sự nhất trí của thành phố, huyện đang tiến hành tôn tạo xây dựng Ngã ba Giồng thành “Khu tưởng niệm liệt sĩ Ngã ba Giồng”. Nguồn: Cổng thông tin điện tử Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 4407 lượt xem
Dinh Quận Hóc Môn tọa lạc tại số 1, đường Lý Nam Đế, thị trấn Hóc Môn, (cạnh trụ sở UBND huyện) là nơi để lại nhiều sự kiện đấu tranh nổi bật suốt chặng đường dài lịch sử từ 1885 đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng của Nhân dân 18 Thôn vườn trầu. Sau khi hạ được Đại đồn Chí Hòa, thực dân Pháp xây dựng tại nơi đây một ngôi nhà gỗ cao 3 tầng dùng làm Đồn binh. Khi tên Trần Tử Ca về nhậm chức Đốc Phủ, dùng Đồn làm Dinh huyện Bình Long. Vốn là một tay say quỷ quyệt của thực dân Pháp, Trần Tử Ca bị nhóm do các ông Phan Văn Hớn (Quản Hớn) và Nguyễn Văn Quá (Chánh Lãnh Binh) cầm đầu gần 1.000 nghĩa quân tiến về đốt Dinh Quận, bắt và cắt đầu bêu giữa chợ. Đó là ngày 8/2/1885 Tết Ất Dậu. Sau đó, Dinh Quận Hóc Môn được xây dựng lại với nền móng đá xanh, tường gạch, có hệ thống phòng thủ từ lầu cao đến tận vòng rào. Lối kiến trúc y như Đồn binh nên người địa phương gọi là Đồn Hóc Môn. Trấn nhậm thay Trần Tử Ca là Đốc phủ Ngôn, đến Quận Trà rồi Quận Thọ. Đây là khoảng thời gian dài người dân vùng Hóc Môn hứng chịu bao cảnh tham tàn, bỉ ổi của thực dân Pháp và bọn tay sai đầu sỏ kể trên. Với truyền thống kiên cường bất khuất của Nhân dân Hóc Môn. Ngày 4/6/1930, khoảng 6 giờ sáng trước Dinh Quận, hàng trăm bà con Hóc Môn kéo biểu tình đòi “bãi bỏ thuế thân, giảm các thuế môn bài và thuế chợ, cấp đất cho dân cày nghèo”. Quận Trà cho mời những người cầm đầu vào Dinh thương lượng, nhưng chúng xảo quyệt bắt giữ họ trong đó có ông Lê Văn Uôi (Bí thư xã Tân Thới Nhì), là người cầm đầu cuộc biểu tình. Mọi người không nao núng, quyết liệt đòi hỏi Quận Trà phải thả những người bị cầm giữ. Đoàn biểu tình càng lúc càng đông, khí thế đấu tranh có phần lan rộng, khiến Quận Trà nhượng bộ. Một mặt chúng thả những người bị giữ, mặc khác chúng gọi điện cho quan thầy ở Sài Gòn cứu viện. 2 giờ sau, cuộc đấu tranh bị 2 tên Blachôlê và Nobbot chỉ huy bắn xối xả vào đoàn biểu tình, gây thương vong nhiều người. Nhưng sự kiện lịch sử gây ấn tượng nhất tại Dinh Quận Hóc Môn là cuộc khởi nghĩa Nam kỳ ngày 23/11/1940. Đồn Hóc Môn rất kiên cố, xây bằng đá xanh như là một pháo đài, cao khoảng 15 thước, có ụ súng và hệ thống phòng thủ lỗ châu mai do một trung đội lính khố xanh trấn giữ. Ngày 22/11/1940, Pháp tăng cường thêm 1 trung đội để đối phó với tình hình. Chiều 22/11/1940, cánh quân của ông Đỗ Văn Cội đột nhập vào thị trấn, giả dạng thường dân, phục kích sau lưng Đồn chờ lệnh cướp Đồn. Một cánh quân khác có nhiệm vụ phá cầu, đốn cây ngăn lộ, đánh chiếm các công sở, nhà việc... Cánh quân từ Phước Vĩnh An, Tân Thông, Tân An Hội, Tân Phú Trung do ông Phạm Văn Sáng và Đặng Công Bỉnh chỉ huy, xuất phát từ ấp Bến Đò, đánh chiếm nhà việc, diệt 1 tên, thu 4 súng, làm chủ tình hình tại đây (Tân Phú trung). Liền đó cánh quân này được lệnh kéo về Hóc Môn. Cánh quân Long Tuy Thượng do ông Bùi Văn Hoạt chỉ huy. Cánh quân thuộc Tổng Long Tuy Trung do ông Đỗ Văn Dậy và Lê Bình Đẳng chỉ huy. Khoảng 24 giờ đêm ngày 22/11/1940, vẫn chưa nghe thấy tiếng pháo lệnh ở Sài Gòn. Sau khi hội ý, các vị chỉ huy những cánh quân thống nhất tấn công Đồn giặc. Lập tức các cánh quân tiến thẳng về Đồn Hóc Môn, nơi trú ngụ của tên Quận trưởng Bùi Ngọc Thọ. 2 nghĩa quân tên Nghé và Kinh xung phong vào cổng trước, hy sinh. Nghĩa quân bốn phía xông vào Đồn như nước vỡ bờ. Trước sức mạnh của nghĩa quân và quần chúng, bọn lính trong Đồn không còn tinh thần kháng cự, bỏ chạy tán loạn. Nghĩa quân chiếm lĩnh hoàn toàn bên trong Đồn nhưng trên lầu, địch vẫn ngoan cố dùng súng bắn tẻ, cùng lúc gọi điện về Sài Gòn, Thủ Dầu Một cấp cứu. Vì nóng lòng bắt cho được tên Quận Thọ nên đồng chí Đỗ Văn Dậy bám ống máng nước để leo lên tầng trên Đồn. Đến lưng chừng bị trúng đạn, đồng chí bị rơi xuống và hy sinh sau đó. Cuộc chiến đấu đang thế giằng co thì viện binh địch đến. Không thể cầm cự, nghĩa quân rút khỏi thị trấn, phân tán về các làng, lực lượng vũ trang rút về ấp Bến Đò (Tân Phú Trung) rồi di chuyển sang ấp Mỹ Hạnh (Đức Hòa). Cuộc tiến công Đồn Hóc Môn (sau gọi là Dinh Quận Hóc Môn) tuy thất bại nhưng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng mọi người dân sự khâm phục lòng dũng cảm của các chiến sĩ cách mạng trong cuộc chiến đấu chống thực dân cướp nước. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, 7 giờ sáng ngày 30/4/1975, thị trấn Hóc Môn hoàn toàn được giải phóng, lá cờ Tổ quốc phất phới bay trên Dinh Quận, nơi tên Quận trưởng Nguyễn Như Sang và bọn tay sai đã chạy trốn từ tối đêm trước. Ngày nay Dinh Quận Hóc Môn được chọn làm Bảo tàng huyện, nơi đây tập trung nhiều tư liệu trưng bày, minh họa các giai đoạn lịch sử thăng trầm cũng như khí thế đấu tranh cách mạng của quân và dân trong huyện Hóc Môn qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Một Tượng đài đặt trước di tích Dinh Quận Hóc Môn thể hiện gương hy sinh bất khuất của quân và dân 18 Thôn Vườn trầu, được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn: Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 4372 lượt xem
Mai Xuân Thưởng là người lãnh đạo phong trào Cần Vương chống Pháp cuối thế kỷ XIX ở Bình Định. Mai Xuân Thưởng sinh năm Canh Thân 1860, mất năm Đinh Hợi 1887 người thôn Phú Lạc, tổng Phú phong, huyện Tuy Viễn, tỉnh Bình Định (nay là thôn Phú Lạc, xã Bình Thành, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Cha là Mai Xuân Tín làm Bố chánh ở Cao Bằng, mẹ là Huỳnh Thị Nguyệt con của một nhà quyền quý trong làng. Mai Xuân Thưởng vốn là người thông minh, ham học. Năm 18 tuổi (1878) ông đỗ Tú tài tại Trường thi Bình Định. năm 25 tuổi (1885) thi đỗ cử nhân. Hưởng ứng chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi, Mai Xuân Thưởng về quê Phú Lạc, chiêu mộ nghĩa binh, lập căn cứ ở hòn Sưng dựng cờ cần vương chống Pháp, sau đó Mai Xuân Thưởng đã đem lực lượng của mình gia nhập vào nghĩa quân do Đào Doãn Địch lãnh đạo và được Đào Doãn Địch phong giữ chức Tán lương quân vụ (phụ trách về lương thực của nghĩa quân). Kể từ đó cho đến năm 1887, phong trào cần vương ở Bình Định phát triển mạnh mẽ và lan ra đến Quảng Ngãi, Phú Yên...thu hút hàng chục ngàn người thuộc mọi tầng lớp tham gia. Ngày 20/9/1885 Đào Doãn Địch mất, giao toàn bộ lực lượng cho Mai Xuân Thưởng. Ông chọn vùng núi Lộc Đổng (nay thuộc xã Bình Tường, huyện Tây Sơn) làm đại bản doanh và tổ chức lễ tế cờ , truyền hịch kêu gọi sỹ phu, văn thân, nhân dân tham gia phong trào cần Vương chống Pháp. Trong buổi lễ ấy, nghĩa quân nhiều vùng trong tỉnh Bình Định đã nhất trí suy tôn ông làm Nguyên soái lãnh đạo cuộc khởi nghĩa và nêu cao khẩu hiệu: “Tiền sát tả, hậu đả Tây”. Đầu năm 1887, quân Pháp dưới sự chỉ huy của Trung tá Cherrean và quân triều đình do Trần Bá Lộc chỉ huy cùng với Công sứ Trira đã mở cuộc tấn công lớn lên căn cứ đại bản doanh của phong trào Cần Vương Bình Định, trận giao chiến giữa lực lượng nghĩa quân với giặc Pháp diễn ra vô cùng ác liệt, cuộc chiến đấu không cân sức, cuối cùng lực lượng khởi nghĩa bị đẩy lùi. Tháng 3 năm 1887, sau trận ác chiến ở Bàu Sấu (thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định), Mai Xuân Thưởng bị thương nặng, nghĩa quân rút về Mật khu Linh Ðổng. Ngày 21 tháng 4 năm 1887, Trần Bá Lộc bao vây đánh chiếm căn cứ mật khu Linh Đổng và bắt được một số nghĩa quân, trong đó có thân mẫu Mai Nguyên Soái. Đêm 30 tháng 4 năm 1887, Mai Xuân Thưởng đã cử một đội quân cảm tử đột nhập doanh trại Trần Bá Lộc, giải vây cho những người bị bắt, ông cùng đoàn thuộc hạ gồm 50 người vượt núi vào Phú Yên, tiếp tục kháng chiến, nhưng khi đến đèo Phú Quý (ranh giới giữa Bình Định và Phú Yên) thị bị phục binh Trần Bá Lộc bắt và đưa ra xử trảm tại Gò Chàm (Phía đông Thành Bình Định). Di tích Lăng mộ nhà yêu nước Mai Xuân Thưởng tọa lạc trên ngọn đồi cao của dãy núi Ngang (thuộc thôn Hòa Sơn, xã Bình Tường, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định) cách thành phố Quy Nhơn khoảng 50km về hướng Tây Bắc; Lăng mộ được xây dựng trên khu đất rộng 1988m2, khánh thành ngày 22 tháng 1 năm 1961.Về tổng thể, Lăng được thiết kế theo kiểu lăng mộ cổ, xung quanh có thành thấp bao bọc. Cổng Lăng (tam quan) là 4 trụ vuông, phía trên thắt lại theo kiểu bầu lọ mang dáng dấp kiến trúc cổng đình, miếu cuối thế kỷ XIX. Giữa nhà Lăng là mộ phần Mai Xuân Thưởng hình khối chữ nhật theo hướng Đông - Tây; Phía đầu mộ dựng tấm Bia đá khắc bài ký ghi tiểu sử và sự nghiệp của Mai Xuân Thưởng: Di tích được Bộ Văn hóa Thông tin quyết định xếp hạng cấp Quốc Gia ngày 20 tháng 4 năm 1995. Nguồn: UBND Huyện Tây Sơn tỉnh Bình Định
Bình Định 4337 lượt xem
Rừng thông Măng Đen tọa lạc tại thị trấn cùng tên, huyện Kon Plông là một trong những địa điểm du lịch thiên nhiên nổi danh khắp đại ngàn. Với diện tích lên tới 140.000 hecta, khu du lịch sinh thái này có vị trí cách trung tâm Thành phố Kon Tum khoảng 54km tương đương 2 tiếng đồng hồ di chuyển. Cánh rừng nằm trên độ cao 1200 mét so với mực nước biển, do đó khí hậu nơi đây quanh năm mát mẻ và dễ chịu cực kỳ thích hợp cho những chuyến du lịch khám phá và nghỉ dưỡng. Hàng năm nơi đây cùng khung cảnh yên bình của mình thu hút hàng triệu lượt tham quan bên cạnh các chốn dừng chân khác ở khu vực Tây Nguyên như Núi Chư Hreng, Sông Đắk Bla, Thác Đắk Ke, Đồi Charlie (Đồi Sạc Ly)... Ấn tượng đầu tiên khi ghé thăm rừng thông Măng Đen đó là khung cảnh thiên nhiên xanh bạt ngàn được bao phủ bởi lớp màn sương gió lung linh, huyền ảo nơi đây. Để có thể trải nghiệm rõ nét hơn, bạn hoàn toàn có thể băng qua những lối mòn quanh co vừa tận hưởng bầu không khí trong lành, mùi nhựa thông và hoa thơm ngát vừa ngắm trọn vẻ đẹp khu rừng tự nhiên này. Đến ngắm cảnh bình minh hoặc hoàng hôn phố núi, không gian rừng thông Măng Đen nhuốm màu kỳ diệu của đất trời càng khiến nét đẹp phong sương nơi đây tăng thêm bội phần đặc sắc và sống động. Còn gì bằng sớm thức dậy ở một nơi xa tìm kiếm ông mặt trời lấp ló sau những rặng cây cao vút, chiều tà lại thưởng ngoạn "hòn đỏ" dần dần khuất sau chân trời. Đặc biệt dừng chân tại rừng thông Măng Đen Check-in Kon Tum, bạn còn có cơ hội tham quan 7 hồ và ba thác nước có dòng chảy trong veo, tung bọt trắng xóa suốt ngày đêm nơi đây vô cùng hùng vĩ và đẹp mắt. Nhờ vào những kỳ quan thiên nhiên như vậy mà rừng thông Măng Đen quanh năm không khí trong lành, mát mẻ được mệnh danh là Đà Lạt hay Tam Đảo của vùng đất này. Ngoài ra, trải nghiệm khám phá những buôn làng cùng phong tục, tập quán mang đậm tính văn hóa của mỗi dân tộc thiểu số sinh sống tại vùng đất Tây Nguyên đại ngàn chắc chắn sẽ thu hút bạn ngay từ lần đầu ghé thăm đồng thời mang đến bạn trải nghiệm đặc biệt khó quên nơi đây.
Kon Tum 2227 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Nhà thờ gỗ Chính tòa Kon Tum – báu vật nằm giữa núi rừng Tây Nguyên bạt ngàn là một công trình kiến trúc tôn giáo rất độc đáo với tuổi đời lên đến hàng thế kỷ, là niềm tự hào bao đời nay của người dân Kon Tum. Nhà thờ tọa lạc trên đường Nguyễn Huệ, thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum, được xây dựng vào năm 1913, đến năm 1918 thì hoàn thành và còn tồn tại đến ngày nay. Nhà thờ Chính tòa Kon Tum do chính một vị linh mục người Pháp thiết kế và khởi xướng. Kiến trúc của nhà thờ được thiết kế hài hòa giữa kiểu kiến trúc Roman và nhà sàn gỗ của người Ba Na. Một sự kết hợp đặc sắc giữa văn hóa Tây phương và văn hóa mạng đậm bản sắc dân tộc của vùng Tây Nguyên. Vật liệu để xây dựng lên nhà thờ cũng rất đặc biệt, không phải bằng đá như nhà thờ đá Phát Diệm (Ninh Bình), cũng không phải bằng gạch hay bê tông cốt thép như những nhà thờ khác mà hoàn toàn bằng gỗ tốt nhất thời bấy giờ. Cà chít (sến đỏ) – loại gỗ đặc trưng của vùng đất Tây Nguyên được sử dụng chủ yếu trong việc xây dựng nhà thờ. Qua bàn tay khéo léo của các nghệ nhân đến từ Bình Định, Quảng Nam, Quảng Ngãi… công trình đã được dựng lên, các tấm gỗ được kết dính với nhau bằng mộng mà không hề sử dụng đinh. Nhà thờ là công trình kiệt tác bằng gỗ mang phong cách Basilica duy nhất còn lại trên thế giới. Toàn bộ nhà thờ là một công trình khép kín với bố cục hài hòa bao gồm: giáo đường, nhà tiếp khách, nhà trưng bày, nhà rông, cô nhi viện, cơ sở mộc, cơ sở may, dệt thổ cẩm. Nhà thờ luôn mở cửa để du khách vào tham quan hàng ngày. Trong khuôn viên có đặt tượng Đức Cha Martial Jannin Phước – vị Giám mục đầu tiên tại Kon Tum. Đây là một vị giám mục người Pháp, ông đã có công lớn trong việc truyền đạo và thiết lập Giáo phận Tông Tòa Kon Tum. Phía bên ngoài, mặt chính của nhà thờ cao 24m,chia thành bốn tầng, càng lên cao càng nhỏ dần. Tầng 2 có các khung kính tạo thành ô cửa sổ hình tròn tạo nên vẻ rực rỡ cho nhà thờ. Trên đỉnh là một cây thánh giá bằng gỗ thể hiện sự uy nghiêm nơi thánh đường. Bước vào giáo đường bạn sẽ cảm thấy thán phục những con người đã xây dựng lên công trình kiệt tác này. Những hàng cột được gắn kết với nhau bằng các vòng cung tạo thành hình vòm, mở ra một không gian rộng, cao và thoáng. Trên những cột gỗ đen bóng được trang trí nhiều họa tiết độc đáo, mang đậm bản sắc văn hóa vùng cao nguyên đầy nắng và gió đem đến một cảm giác hết sức gần gũi. Trên tầng 2 của giáo đường có một phòng truyền thống lưu giữ những hiện vật, bút tích,tài liệu kể lại lịch sử quá trình truyền giáo vào Kon Tum từ nửa cuối thế kỷ XIX và sự phát triển của đạo giáo đến ngày nay. Bạn có thể đến khám phá ngôi nhà thờ độc đáo này bất cứ vào thời điểm nào trong năm. Nếu đến vào mùa hoa đậu nở, bạn sẽ bắt gặp sắc hồng xen lẫn trắng của những con đường hoa trải dài. Nếu đến vào dịp lễ Giáng Sinh, bạn sẽ được hòa mình vào không khí náo nhiệt khi nơi đây hội tụ hàng ngàn giáo dân từ các nơi trong vùng về đây dự lễ, cầu nguyện. Trong những ngày lễ còn diễn ra những phiên chợ nhỏ, bày bán những sản phẩm thủ công do chính người dân từ các buôn làng làm ra. Nếu đến nhà thờ vào những ngày bình thường thì cũng đừng buồn nhé, bạn sẽ cảm nhận được sự bình yên, trầm mặc mang nét gì đó rất riêng, làm tâm hồn ta thư thái hơn sau những bộn bề cuộc sống ngoài kia. Trải qua hàng thế kỷ nhưng ngôi nhà thờ vẫn đứng đó hiên ngang mặc cho mưa gió bão bùng như chính tinh thần bất khuất của con người Tây Nguyên. Đây chắc chắn là một điểm du lịch hấp dẫn mà bạn không thể bỏ qua khi đến với Kon Tum.
Kon Tum 2143 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Đến Kon Tum đừng quên ghé thăm vườn Quốc gia Chư Mom Ray nơi đây có hệ sinh thái động thực vật quý hiếm và đa dạng. Nơi đây có lẽ là một trong những địa điểm tham quan thú vị giúp du khách có được những trải nghiệm gần gũi với thiên nhiên. Đồng thời cũng có thể khám phá những cảnh đẹp của “mẹ thiên nhiên” cùng tìm hiểu nhiều hơn về hệ sinh thái vô cùng đa dạng ở nơi đây. Không chỉ vậy, du khách còn có thể tìm hiểu về bản sắc văn hóa, ẩm thực của người dân bản địa của vùng đất Tây Nguyên đại ngàn này. Vườn Quốc gia Chư Mom Ray nằm phía Bắc của Tây Nguyên thuộc Tỉnh Kon Tum, đây được xem là khu bảo tồn sinh học xuyên quốc gia vì tiếp giáp với cả Lào và Campuchia. Phía Tây giáp với vườn quốc gia Virachey của Campuchia còn phía Tây Bắc giáp với Khu bảo tồn Đông Nam Ghong của Lào, là điểm chạm của 3 quốc gia nên được nhiều người gọi là khu bảo tồn xuyên quốc gia là vì vậy. Diện tích của toàn bộ khu vực này ước tính lên đến 700.000ha với hệ thống sinh học đa dạng nên có tầm quan trọng đặc biệt với việc bảo tồn sinh học của khu vực Đông Dương nói chung và Đông Nam Á nói riêng. Với hệ thống sinh học đa dạng trù phú nên vào năm 2004 vườn Quốc gia Chư Mom Ray đã được Hiệp hội các nước Đông Nam Á công nhận là di sản ASEAN. dài từ tháng 5 đến tháng 11, thời gian này mưa thường xuyên, đường trơn trượt và khó khăn trong việc di chuyển. Ngược lại thì vào mùa khô thì tiết trời mát mẻ đường dễ đi, đặc biệt nhất có lẽ và tháng 2 và tháng 3, hoa dã quỳ nở rộ trên những cung đường vô cùng đẹp mắt. Vào dịp này cũng có nhiều lễ hội của người dân bản địa diễn ra, nên có lẽ đến vào dịp này bạn sẽ có một hành trình trọn vẹn nhất có thể. Vườn Quốc gia Chư Mom Ray không những có hệ thống sinh thái vô cùng đa dạng, núi rừng bạt ngàn, xen kẽ là hệ thống sông, suối, thác vô cùng nhiều. Có lẽ chính vì vậy mà nơi đây càng được nhiều người tìm đến tham quan, khám phá hòa mình vào thiên nhiên và tận hưởng không khí núi non trùng điệp. Thung lũng Ja Book nằm sâu trong cánh “rừng già” và có diện tích lên đến 16.000ha. Trước đây nơi này là cánh đồng cỏ xanh mướt rộng bạt ngàn, là nơi được nhiều loài lui đến tìm thức ăn và trú ngụ như Hổ Đông Dương, Bò tót, Trâu rừng, Lợn rừng,... nhưng hiện tại chỉ còn khoảng 6ha đồng cỏ, còn lại thì bị một loại gai bụi xâm lấn khá nhiều. So với trước đây lượng động vật cư trú ở đây giảm xuống đáng kể. Ghé thăm nơi đây du khách có thể tận mắt nhìn thấy thú rừng như heo rừng, trâu rừng… đến tìm kiếm thức ăn và nước uống. Vườn Quốc gia Chư Mom Ray bao gồm nhiều dạng địa hình, đồi núi, thung lũng,... nên có nhiều hệ thống khe nước chằng chịt, chính vì vậy mà tạo điều kiện hình thành nên những ngọn thác kỳ vĩ. Thác nước 7 tầng là địa danh nổi tiếng nằm trong khuôn viên vườn Quốc gia Chư Mom Ray. Dòng chảy từ trên đỉnh thác cao hàng chục mét đổ xuống thành từng bậc, từng bậc tạo nên khung cảnh vô cùng ấn tượng và bắt mắt cho người nhìn. Khung cảnh núi rừng xanh mát hòa cùng dòng thác cuồn cuộn trôi như tạo nên một kiệt tác của thiên nhiên, một bức tranh sơn thủy vô cùng sống động. Vườn Quốc gia Chư Mom Ray là nơi sinh sống của một số đồng bào dân tộc thiểu số như: Rơ Măm, Ba Gốc, Bờ Râu, HLăng, Gia Rai, Kờ Dong,… trong đó có dân tộc Bờ Râu là đồng bào dân tộc ít người nhất trong 54 dân tộc anh em. Đến thăm buôn làng của các đồng bào dân tộc mọi người còn có cơ hội trải nghiệm và tìm hiểu thêm về nét văn hóa đặc sắc của người bản địa. Ngoài ra cũng có thể thưởng thức những món ăn đặc sản do những người dân bản địa làm, và nghỉ ngơi ở nhà rông hoặc các nhà công cộng của đồng bào nơi đây. Nếu có có hội cho chuyến đi dài ngày hãy chọn một lịch trình phù hợp, vừa đến thăm vườn Quốc gia Chư Mom Ray vừa có thể tham quan nhiều địa điểm của Kon Tum. Một vài địa điểm gợi ý cho du khách tham khảo như: Thác Yaly, đường mòn Hồ Chí Minh, cửa khẩu quốc tế Bờ Y, Nhà rông Kon Klor, Biển Hồ T’Nưng,...
Kon Tum 2252 lượt xem
Tháng 2 đến tháng 3
Trải dài trên địa bàn 4 tỉnh Kon Tum, Quảng Nam, Quảng Ngãi và Gia Lai, Núi Ngọc Linh hay còn gọi là Ngọc Linh Liên Sơn là một trong những khối núi cao và đồ sộ nhất dãy Trường Sơn bên cạnh những người anh em như Núi Ngọc Phan, Đỉnh Mường Hoong, Ngọc Lum Heo hay Ngọc Bôn Sơn. Chốn dừng chân được bao phủ bởi lớp màn mây trắng xóa huyền ảo có dòng Sông Đắk Bla huyền thoại vắt ngang qua này khiến ai nấy đứng nhìn từ khoảng cách xa đều không khỏi mê đắm trước nét đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Là ngọn núi thiêng tọa lạc tại vùng đất địa linh hội tụ, hàng năm Ngọc Linh thu hút hàng triệu lượt tham quan trong đó nổi bật nhất chắc chắn phải kể đến hoạt động chinh phục đỉnh núi chọc trời đầy mạo hiểm. Tuy khí hậu Kon Tum quanh năm mát mẻ nhưng nhìn chung thời điểm lý tưởng nhất để check-in ngọn Núi Ngọc Linh là từ tháng 12 đến tháng 3 năm sau, khi tiết trời trong lành, thoáng đãng, nắng ráo và cực kỳ ít mưa. Bởi vì cung đường trekking đặc biệt dốc và hiểm trở nên đây là điều kiện tiên quyết cùng người hướng dẫn có kinh nghiệm và các dụng cụ hỗ trợ leo núi chuyên nghiệp để bắt đầu hành trình khám phá Ngọc Linh Liên Sơn. Bạn có thể ghé đến vào 2 tháng cuối năm là tháng 12 và 11 để kết hợp ngắm hoa dã quỳ nở rộ vàng rực trong suốt chuyến đi hay tận hưởng khung cảnh rừng cao su mùa thay lá tháng 1, đồi cà phê ra hoa nhỏ xíu, trắng muốt làm sáng bừng cả một vùng trời tháng 3. Tất cả đều hứa hẹn sẽ mang đến bạn những phút giây du lịch đáng nhớ. Khối Ngọc Linh Liên Sơn có vị trí tiếp giáp Quảng Nam và Kon Tum nên nhìn chung hội xê dịch xuất phát từ Sài Gòn muốn đến địa danh này có thể dừng chân tại một trong 2 tỉnh kể trên với đa dạng loại hình phương tiện như máy bay, xe khách, limousine... Thông thường Xe khách TP HCM đi Kon Tum sẽ có giá từ 200.000 VNĐ đến 300.000 VNĐ/tuyến 1 chiều, tuy nhiên hành trình mất khá nhiều thời gian (gần 14 tiếng đồng hồ). Bạn có thể cân nhắc đặt vé xe limousine hãng Phong Phú, Tân Anh hoặc Trường Giang với chi phí dự kiến rơi vào khoảng 400.000 VNĐ tới 600.000 VNĐ/chuyến 1 chiều nếu muốn có trải nghiệm di chuyển đường dài thoải mái và đầy đủ tiện nghi nhất. Đây cũng là loại hình rất được các bạn gần xa ưa chuộng khi có dịp du lịch Kon Tum. Sau khi đến được 2 tỉnh thành này, hội xê dịch chỉ việc đón taxi hoặc thuê ô tô, xe máy là có thể tới Núi Ngọc Linh. Dành cho bạn dừng chân tại Kon Tum, sau đây là cung đường đi phượt tới ngọn núi dễ đi và thông dụng nhất mà bạn có thể tham khảo qua: Từ trung tâm phố núi, mọi người chạy theo đường Quốc lộ 14 tới đường ĐT672 thuộc địa phận huyện Tu Mơ Rông. Sau khi đi về hướng ĐT673 khoảng 34km, chào đón bạn sẽ là Khu Bảo tồn thiên nhiên Ngọc Linh - nơi Ngọc Linh Liên Sơn tọa lạc. Cả quãng đường tuy có thể mất khoảng 2 tiếng di chuyển nhưng bù lại bạn sẽ có nhiều cơ hội để chiêm ngưỡng và khám phá những cảnh vật ấn tượng. Trong số những hoạt động thú vị tại đây như tham quan Vườn Quốc Gia Chư Mom Ray, khám phá Rừng thông Măng Đen, có lẽ chinh phục Núi Ngọc Linh là trải nghiệm cực kỳ lôi cuốn khi có dịp ghé thăm vùng đất Kon Tum địa linh này. Với chiều cao hơn 2500 mét so với mực nước biển, để leo núi đầu tiên bạn phải xuất phát từ những con đường nhỏ ngoằn ngoèo khó đi ra tới vách đá, bờ vực vô cùng hiểm trở. Tiếp đến là vượt qua những con suối nước chảy khe đá tạo ra âm thanh róc rách mang đậm thương hiệu đại ngàn hùng vĩ và băng qua những cánh rừng nguyên sinh trải dài hàng cây số với đa dạng loài sinh vật hiếm có khó tìm. Mỗi bước chân khám phá, cảnh quan hoang sơ hiện ra nơi đây sẽ khiến bạn không khỏi tò mò, thích thú. Đáng nhớ nhất chắc chắn là cảm giác vừa đi xuyên qua những bức tường lá cây như đang âm thầm bao phủ và che chở cho ngọn núi linh thiêng này vừa mở đường tiến lên cao. Không khí ban đầu mát mẻ, sau càng lúc càng lạnh chứng tỏ người lữ hành đang tới gần hơn với những đám mây lãng đãng trôi trên đỉnh Ngọc Linh - nơi cất giấu bao điều bí ẩn. Chính những đoạn đường gồ ghề, rừng cây lá xanh hiểm trở cùng vô vàn dòng suối chảy xiết đã tạo nên thử thách đáng mong chờ cho hội mê ưa mạo hiểm khi đặt chân tới ngọn núi này.
Kon Tum 2433 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Địa danh ngã ba Đông Dương trên dãy Trường Sơn hùng vỹ luôn nằm trong ký ức lớp bộ đội, thanh niên xung phong trên đường vào chiến trường miền Nam, chiến trường C (Lào), chiến trường K (Campuchia) trong những năm tháng chiến tranh không thể nào quên. Đây là vùng đất được mệnh danh là một tiếng gà gáy cả ba nước cùng nghe. Nay vùng đất này đang trở thành một trong những điểm du lịch hấp dẫn du khách trong và ngoài nước. Nơi các địa danh đã đi vào lịch sử như ngã ba Đông Dương (nơi đường Trường Sơn Tây gặp đường Trường Sơn Đông thời kháng chiến ), di tích lịch sử chiến thắng Đắc Tô - Tân Cảnh tháng 4/1972; cột mốc biên giới do ba nước anh em Việt Nam - Lào - Campuchia cùng thống nhất xây dựng trên đỉnh núi cao hơn 1.000m so với mặt nước biển, cách thị trấn Playku khoảng 30 km. Cột mốc này do tỉnh Kon Tum tổ chức thi công xây dựng tháng 12/2007 dưới sự giám sát của chuyên gia ba nước có chung đường biên giới. Đại diện Bộ Ngoại giao ba nước cùng làm lễ khánh thành trọng thể vào ngày 18/1/2008. Cột mốc đặc biệt nặng 900 kg , làm bằng đá hoa cương hình trụ tam giác, cao 2 mét, trên mỗi mặt cột mốc quay về mỗi nước được gắn quốc huy, năm cắm mốc và tên quốc gia đó bằng chữ màu đỏ của chính nước đó. Đây là cột mốc thứ hai cùng ghi danh cả ba quốc gia được cắm trên mảnh đất Việt Nam. Cột mốc thứ nhất là của ba nước Việt Nam - Lào - Trung Quốc thống nhất xây dựng ở A Pa Chải (Điện Biên).
Kon Tum 2358 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Thác Pa Sỹ địa danh nổi bật tại vùng đất Măng Đen thơ mộng, gắn liền với truyền thuyết “Bảy hồ, ba thác” một câu chuyện của người dân tộc Mơ Nâm, khi xưa phạm luật cấm của trời cả 7 ngôi làng bị trừng phạt chìm vào biển lửa. Về sau biến thành 7 hồ và 3 thác nước. Trong 3 ngọn thác hùng vĩ thì thác nước Pa Sỹ là ngọn thác lớn nhất vùng. Cái tên Pa Sỹ ra đời là do sự đọc chệch từ cái tên gốc của người đồng bào Pau Suh nghĩa là “ba ngọn suối chụm lại”. Với 2 mùa rõ rệt mùa mưa và mùa khô bạn nên lựa chọn thời điểm thích hợp để đến với điểm thác nước tham quan, theo kinh nghiệm du lịch thác Pa Sỹ mùa khô vào khoảng tháng 10 đến tháng 4 năm sau là thời điểm lý tưởng để tham quan dòng thác hùng vĩ. Vào lúc này thời tiết khô ráo thuận lợi cho việc di chuyển, tham gia các hoạt động vui chơi ngoài trời và tham gia lễ hội, đây cũng là mùa lúa chín nở rộ vàng cả một góc trời trên khắp cung đường gần thác. Đến thác nước vào mùa khô bạn sẽ chiêm ngưỡng sự hùng vĩ của dòng thác, lúc này nước trong xanh tạo nên một khung cảnh thật trữ tình. Mùa khô hơi hanh và oi nóng đến với khu vực thác sẽ làm dịu mát, tạo cho bạn một cảm giác thật dễ chịu. Thác Pa Sỹ nằm trong khu du lịch sinh thái văn hóa thác Pa Sỹ, tọa lạc tại xã Măng Cành, huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum. Với tổng diện tích lên đến 25ha, khu du lịch nổi bật với màu xanh của thiên nhiên, tựa như một khu vườn địa đàng khổng lồ. Để đến thác, bạn có thể lựa chọn xe khách hoặc máy bay để di chuyển. Nếu thấy ngột ngạt với cuộc sống hiện tại muốn tìm một nơi thật bình yên để thư giãn, quây quần với bạn bè, người thân và vui chơi hết mình để nạp lại nguồn năng lượng mới, thì khu du lịch sinh thái thác Pa Sỹ sẽ là lựa chọn hợp lý. Bạn chỉ mất chưa đến 100.000 VND/người là có thể vui chơi xả láng tại đây. Ngọn thác Pa Sỹ Kon Tum nổi tiếng với dòng nước đổ từ độ cao hơn 1.500m tung bọt trắng xóa, vừa mang nét đẹp hùng vĩ, vừa có nét nên thơ, mộc mạc. Dòng thác và hồ nước xanh ngọc được bao bọc bởi núi rừng nguyên sinh kỳ vĩ, tạo nên một bức tranh thuỷ mặc tươi mát tựa chốn thần tiên. Vào những ngày hè nóng bức, dòng thác mát lạnh sẽ giúp dịu bớt cái nóng, gột rửa tâm hồn, giúp cho du khách tận hưởng được cảm giác thư giãn và thoải mái nhất. Trong khung cảnh thiên nhiên xanh mướt, điểm xuyến bởi dòng thác trắng xoá tựa dải lụa vắt ngang trời, đến đây bạn sẽ chụp được rất nhiều bức ảnh tuyệt đẹp. Hãy cùng bạn bè, người thân ghi dấu kỷ niệm tại nơi tiên cảnh này. Ngoài ra, du khách còn có thể được tham gia vào những lễ hội đặc sắc của người đồng bào Rơ Măm được tổ chức thường niên như Tết gieo mạ, mừng lúa mới, lễ hội cúng chuồng trẩu, tục táng,... Nên lưu ý tìm hiểu thời gian lễ hội trước khi đến. Đến với khu du lịch bạn không chỉ được chiêm ngưỡng cảnh sắc tuyệt đẹp tại thác nước, mà đây còn là cơ hội để bạn thưởng thức các món ngon đặc sản Tây Nguyên. Thật tuyệt vời khi cùng bạn bè thuê lều cùng tổ chức tiệc BBQ ngoài trời, thưởng thức cà phê ngắm núi đồi, giữa cảnh quan hùng vĩ, lác đác vài mái nhà rông, nhà sàn hiện ra dưới vườn cây. Đến với khu du lịch sinh thái văn hoá thác Pa Sỹ du khách còn có cơ hội chiêm ngưỡng 100 bức tượng bằng gỗ, thể hiện sống động đời sống thường ngày của người dân tại nơi đây, cũng là một dịp để bạn hiểu thêm về văn hoá dân tộc. Một vài lưu ý dưới đây sẽ giúp cho chuyến tham quan thác Pa Sỹ của bạn trở nên trọn vẹn hơn. Lên lịch trình cho chuyến đi sớm để có sự sắp xếp và chuẩn bị hoàn chỉnh nhất. Để chủ động trong di chuyển thì xe máy là phương tiện được ưu tiên lựa chọn, bạn dễ dàng thuê được xe máy tại khu vực Măng Đen hoặc Kon Tum với giá 120.000 VND/ngày. Trải nghiệm thuê nhà hình thức homestay, để tận hưởng một không gian nên thơ, và có thể tìm hiểu thêm về cuộc sống người đồng bào nơi đây. Kết hợp du lịch tại các địa điểm gần thác Pa Sỹ như hồ Đambri, chùa Khánh Lâm,...
Kon Tum 2217 lượt xem
Tháng 10 đến tháng 4