Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch Travelviet
Tải ứng dụng Travelviet
Di tích Bản Lướt xã Mường Kim là nơi Ban cán sự Đảng tỉnh Lai Châu ra đời thông qua Nghị quyết của Liên khu ủy 10 về thành lập Chi bộ Đảng Lai Châu. Đây chính là tiền thân của Đảng bộ tỉnh Lai Châu ngày nay. Ngày 10/10/1949, Ban Thường vụ Liên khu uỷ 10 thành lập Ban Cán sự Đảng Lai Châu gồm 3 đồng chí: Nguyễn Bá Lạc (Bí danh Trần Quốc Mạnh) - Tỉnh uỷ viên Tỉnh uỷ Yên Bái làm Trường ban, đồng chí Hoàng Đông Tùng - Đội trưởng đội xung phong Lai Châu và đồng chí Tạ Nhật Tựu (Bí danh Hoàng Hoa Thưởng) - Thường vụ Huyện uỷ huyện Lập Thạch (Vĩnh Phúc) được điều lên Lai Châu làm Uỷ viên. Tháng 11/1949, đoàn Ban Cán sự Đảng Lai Châu do đồng chí Trần Quốc Mạnh và Hoàng Hoa Thưởng phụ trách, đã đến Than Uyên và quyết định chọn Bản Lướt, xã Mường Kim (Than Uyên) làm căn cứ hoạt động để tiến vào Lai Châu. Ngày 02/12/1949, Ban Cán sự Lai Châu triệu tập hội nghị công bố quyết định của Liên Khu uỷ 10 về việc thành lập Chi bộ Lai Châu gồm 20 đồng chí, đồng chí Trần Quốc Mạnh làm Bí thư. Đây là sự kiện quan trọng trong lịch sử cách mạng Lai Châu, đánh dấu sự ra đời của chi bộ đảng đầu tiên của Đảng bộ tỉnh Lai Châu. Bản Lướt nằm trên đồi Noong Nanh thuộc bản Lướt, xã Mường Kim, huyện Than Uyên, cách thị trấn Than Uyên 4km về phía nam và cách thành phố Lai Châu 100km về hướng đông nam theo quốc lộ 4D và quốc lộ 32. Khu di tích được đầu tư xây dựng bia tưởng niệm và vòng quanh khuôn viên của bản. Tháng 10 năm 2003 huyện Than Uyên vinh dự được nhà nước trao tặng danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Di tích Bản Lướt được tỉnh công nhận năm 2009 là di tích lịch sử cách mạng. Nguồn: Tỉnh đoàn Lai Châu
Lai Châu 2296 lượt xem
Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh
Khu di tích Láng Le Bàu Cò tọa lạc tại xã Tân Nhựt, huyện Bình Chánh, Tp HCM. Láng Le Bàu Cò gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược vào năm 1948 với những trận đánh lớn đi vào lịch sử. Di tích Láng Le Bàu Cò được công nhận là di tích lịch sử cấp thành phố vào năm 2003. Sở dĩ được gọi tên là khu di tích Láng Le Bàu Cò vì Tên gọi của khu di tích Láng Le Bàu Cò là do người dân địa phương đặt ra. Xóm làng được thành lập cạnh những con kênh rạch chằng chịt và dòng sông. Láng Le Bàu Cò có vị trí nằm ở bên trong cánh đồng có diện tích rộng lớn và có rất nhiều tôm, cua, cá. Cùng với nhiều loài chim như vịt trời, cò, con le le, cúm núm, cồng cộc, đa đa, diệc, đỏ nách tới kiếm ăn tại đây. Vì vậy, người dân Tân Nhựt gọi với cái tên thân thuộc và mộc mạc đó là Láng Le Bàu Cò. Di tích Láng Le Bàu Cò được xem là cửa ngõ để di chuyển tới trung tâm căn cứ Vườn Thơm và tấn công cơ quan đầu não của quân địch tại Sài Gòn. Trước đây khu di tích Láng Le Bàu Cò vốn là cánh đồng lau sậy mọc um tùm. Vào ngày 15/4/1948 thực dân Pháp đưa 3 nghìn quân lính cùng nhiều vũ khí hiện đại đồng loạt tấn công khu vực Láng Le Bàu Cò nhằm tiêu diệt căn cứ Vườn Thơm. Khi đó lực lượng vũ trang cách mạng ở Láng Le - Bàu vì lực lượng nhỏ và vũ khí thô sơ tuy nhiên được sự giúp đỡ của người dân địa phương cùng với lợi thế về địa hình. Chỉ sau hơn nửa ngày đấu tranh đã chuyển sang tấn công khiến quân Pháp bị thương vong với số lượng lớn. Chiến thắng Láng Le Bàu Cò đã tiêu diệt 300 tên địch và bắt sống 30 lính đánh thuê cùng phá hủy nhiều máy móc, xe nhà binh, súng các loại của quân giặc. Tuy nhiên, về phía ta có nhiều cán bộ chiến sĩ đã anh dũng hy sinh với tuổi đời còn rất trẻ. Ngày 14/10/1966 tại Láng Le tiểu đoàn biệt động quân Việt Nam Cộng Hòa bị dân quân du khách tiêu diệt. Khu di tích Láng Le Bàu Cò có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với người dân Sài Gòn nói riêng và cả nước nói chung. Trước lòng căm thù thực dân Pháp, quân dân Láng Le Bàu Cò đã có cuộc chiến vang lừng lịch sử và có ý nghĩa to lớn mở đầu cho phía ta và phía địch. Đối với phía ta trận đánh mở đầu cho sự anh dũng trong tư thế kháng chiến vững mạnh. Còn với quân địch đã phải lùi vào thế bỏ chiến lược và bị tiêu diệt. Thực dân Pháp không còn định hình được chiến lược đánh bại Việt Minh. Hơn thế, tại căn cứ Vườn Thơm, Láng Le Bàu Cò còn diễn ra trận chiến quyết tâm bảo vệ căn cứ của ta và đập tan mọi kế hoạch phá hoại của quân giặc. Khu di tích Láng Le Bàu Cò sau phong trào Đồng Khởi vào năm 1960 còn là hậu cần, bàn đạp của lực lượng vũ trang để giải phóng Long An - Sài Gòn - Gia Định. Để tưởng nhớ sự hy sinh của đồng bào và các chiến sĩ của ta, vào năm 1988 huyện Bình Chánh đã xây dựng công trình lịch sử tại vùng đất Láng Le Bàu Cò với diện tích rộng 1000m2. Nguồn: Báo thông tin điện tử TP Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 8602 lượt xem
Nhà lao Tân Hiệp còn có tên là "Trung tâm cải huấn Tân Hiệp" tọa lạc ở khu phố 6, phường Tân Tiến, TP Biên Hòa. Di tích Nhà lao Tân Hiệp đã được Bộ Văn Hoá Thể Thao xếp hạng là di tích cấp quốc gia ngày 15-1-1994. Nhà lao Tân Hiệp là một trong sáu nhà tù lớn nhất miền Nam Việt Nam và là nhà tù lớn nhất vùng Đông Nam bộ, được xây dựng ở vị trí quân sự quan trọng, án ngữ phía đông bắc thị xã Biên Hòa. Phía trước là quốc lộ 1; phía sau là đường xe lửa Bắc - Nam. Đây là vị trí biệt lập, thuận tiện trong giao thông, dễ dàng cho việc bảo vệ, canh gác, nhận tù từ nơi khác đến và chuyển tù đi Côn Đảo, Phú Quốc... Nhà lao Tân Hiệp có diện tích 46.520m2 với 8 trại giam, trong đó có 5 trại giam những người tù cộng sản, người yêu nước. Xung quanh nhà tù được bao bọc bởi 4 lớp kẽm gai bùng nhùng với 9 lô cốt, 3 tháp canh cùng đội lính bảo vệ và hệ thống báo động tối tân. Mang tên "Trung tâm cải huấn" nhưng thực chất bên trong là kho súng, phòng xét hỏi, tra tấn với những dụng cụ hiện đại bậc nhất. Mỗi trại giam chỉ có diện tích gần 200m2 nhưng giam giữ từ 300-400 người, có lúc lên đến cả ngàn người. Đặc biệt ở đây có các phòng "cải hối", "chuồng cọp" rất nhỏ hẹp và điều kiện sinh hoạt cực kỳ khắc nghiệt, tù nhân sống chẳng khác gì trong lò thiêu xác. Chế độ ăn uống cực kỳ mất vệ sinh, bọn cai ngục mua gạo mục, cá thối dùng để bón ruộng, chiên bằng dầu luyn cho tù nhân ăn dẫn đến nhiều người bị ngộ độc. Với quyết tâm thoát khỏi nhà tù đế quốc, trở về với Đảng, với nhân dân để tiếp tục chiến đấu, giải phóng dân tộc, ngày 2-12-1956, được sự nhất trí của Liên Tỉnh ủy miền Đông, những chiến sĩ cộng sản bị "câu lưu" trong nhà lao Tân Hiệp dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Trọng Tâm (Bảy Tâm) - phụ trách Đảng ủy nhà tù và một số đồng chí khác đã bất thần làm một cuộc phá xiềng tập thể giải thoát gần 500 đồng chí, đồng bào yêu nước. Sự kiện này đã làm xôn xao cả Lầu Năm Góc. Mỹ - Diệm vội vã huy động cả quân chủ lực lẫn bảo an, dân vệ đang trấn thủ 3 tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một và hai biệt đoàn biệt động quân đến bủa lưới bao vây, truy bắt đoàn tù nhưng đều thất bại. Các đồng chí, đồng bào của ta thoát khỏi nhà lao Tân Hiệp đã được sự giúp đỡ, che chở của các cơ sở địa phương, trở về căn cứ an toàn. Trong số tù nhân vượt ngục có các đồng chí: Bảy Tâm, Hai Thông, Lý Văn Sâm... đã trở thành những hạt nhân nòng cốt cho phong trào Đồng Khởi sau này. Năm 2001, để tái hiện phần nào tội ác của Mỹ - Diệm đối với các đồng chí, đồng bào ta bị giam cầm tại nhà lao Tân Hiệp và diễn tả lại toàn bộ cuộc nổi dậy phá khám Tân Hiệp ngày 2-12-1956, Bảo tàng Đồng Nai đã tiến hành sưu tầm hình ảnh, tài liệu, hiện vật trưng bày tại di tích và làm một sa bàn để phục vụ nhu cầu nghiên cứu, tham quan của mọi tầng lớp nhân dân. Hàng ngày, di tích luôn mở cửa đón khách tham quan. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 8007 lượt xem
Di tích chiến thắng La Ngà (tại km số 104-112 trên quốc lộ 20 đi Đà Lạt, thuộc xã Phú Ngọc, huyện Định Quán) được Bộ Văn hóa xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 12-12-1986. Để cổ vũ cho chiến thắng Việt Bắc thu - đông 1947 và cũng để giáng cho kẻ thù một đòn chí mạng, Ban chỉ huy chi đội 10 đã quyết định phải tổ chức một trận đánh lớn, để quân giặc thấy rằng dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam không dễ dàng chịu khuất phục trước bất kì một kẻ thù nào; Bằng tinh thần quả cảm và sự khôn khéo sau gần nửa năm chuẩn bị, nghiên cứu địa hình, chọn địa điểm: vào lúc 15 giờ 12 phút ngày 1/3/1948 trận chiến phục kích La Ngà bắt đầu và kết thúc vào lúc 15 giờ 57 phút cùng ngày, chỉ trong vòng 45 phút. Chiến thắng La Ngà đã làm nức lòng nhân dân Định Quán nói riêng, quân dân Đồng Nai nói chung. Đây là chiến thắng thể hiện sự mưu trí, dũng cảm của quân và dân ta làm cho địch một phen kinh hồn, bạt phía. Từ chiến thắng này lực lượng ta ngày càng thêm lớn mạnh, góp phần đánh bại kế hoạch đánh nhanh, thắng nhanh của địch, buộc chúng phải rơi vào thế bị động. Quần thể danh thắng đá Chồng, Thác Mai, sông La Ngà và Tượng đài chiến thắng La Ngà là một quần thể du lịch kì thú của Định Quán. Vẻ đẹp kỳ thú của Hòn Ba Chồng, Núi Đá Voi, Hòn Dĩa, cùng với ngôi chùa thiên nhiên dưới chân núi đá là những cụm tiêu biểu tạo thành cảnh đẹp hài hòa cho khu danh thắng Đá Chồng. Quần thể Đá Chồng Định Quán còn là nơi lưu lại những dấu tích của cuộc sống người tiền sử. Tại đây dưới các mái đá, ven các khe suối và cả các sườn dốc ven thung lũng đã phát hiện nhiều công cụ sản xuất, sinh hoạt của người xưa bằng đá, đồng, đất nung. Trong suốt cuộc kháng chiến dài 30 năm. Định Quán là một phần quan trọng của Chiến khu Đ. Đá Chồng đã chứng kiến sự hình thành, phát triển, trú quân, triển khai chiến đấu của lực lượng cách mạng. Ngày nay, một phần đất của khu danh thắng Đá Chồng Định Quán đã được sử dụng, xây dựng thành khu Trung tâm văn hóa thể thao huyện Định Quán. Tương lai không xa khu danh thắng Đá Chồng Định Quán sẽ được đầu tư tôn tạo góp phần làm cho cảnh quan thiên nhiên ngày càng tươi đẹp, là địa điểm du lịch sinh thái hấp dẫn. Nguồn: Uỷ Ban Nhân Dân Huyện Định Quán
Đồng Nai 6023 lượt xem
Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh còn gọi là đình Bình Kính tọa lạc bên tả ngạn sông Đồng Nai, xưa kia thuộc ấp Bình Kính, thôn Bình Hoành, tổng Trấn Biên, nay là ấp Nhị Hòa, xã Hiệp Hòa, TP Biên Hòa, đã được Bộ Văn Hoá – Thông Tin – Thể Thao & Du Lịch xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 25-3-1991. Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ 18, ban đầu ngôi đền có qui mô nhỏ, vách làm bằng ván, mái ngói âm dương, cách ngôi đền hiện tại khoảng 400m về hướng Nam. Các tư liệu cho biết: ngôi đền được xây dựng lại lần đầu tiên vào năm Tự Đức thứ tư (1851); đến năm 1923, đền được tái thiết lại ở địa điểm hiện nay. Nguyễn Hữu Cảnh sinh vào năm 1650 tại Gia Miêu, huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa trong một gia đình có nhiều bậc danh tướng đương triều. Ông là người văn võ song toàn, lập được nhiều chiến công lớn và được chúa Nguyễn tin yêu, trọng vọng. Mùa Xuân năm Mậu Dần (1698), ông vâng lệnh chúa Nguyễn vào kinh lược xứ Đàng Trong khi ấy còn rất hoang vu. Đến đất Đồng Nai, ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố (nay là xã Hiệp Hòa); lấy đất Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn, đất đai mở mang ngàn dặm. Ông chiêu mộ lưu dân đến lập nghiệp, tổ chức bộ máy hành chính từng bước có qui củ, khuyến khích khai hoang, thúc đẩy Cù lao Phố phát triển thành một trong những cảng thị sầm uất, năng động nhất đàng Trong suốt thế kỷ 18 và chính thức sáp nhập vùng đất mới phương Nam vào bản đồ Đại Việt. Sau khi kinh lược phương Nam trở về, năm sau ông lại phụng mệnh chúa Nguyễn Phúc Chu thống lĩnh đại binh dẹp vua Chân Lạp giữ vững miền biên ải phương Nam. Tháng 4 năm Canh Thìn (1700), sau khi hoàn thành sứ mệnh, trên đường trở về đến Rạch Gầm (Tiền Giang) thì ông thọ bệnh qua đời nhằm ngày 16 tháng 5 âm lịch, thọ 51 tuổi. Trên đường di quan ông về quê an táng, quan tài của ông được đình lại khu đất khi xưa ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố để cho nhân dân địa phương có dịp bái biệt ông lần cuối. Nơi đình quan đã được nhân dân địa phương xây một ngôi mộ vọng để ghi nhớ sự kiện này. Khi hay tin Nguyễn Hữu Cảnh mất, Chúa Nguyễn vô cùng thương tiếc đã phong tặng ông là Thượng đẳng công thần đặc Trấn phủ Chưởng cơ với tước: Lễ Thành Hầu và đưa bài vị của ông vào thờ tại Thái miếu. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 5930 lượt xem
Di tích tòa Đại sứ Mỹ còn được gọi "Nhà trắng phương Đông" là nơi xuất phát các âm mưu thâm độc về quân sự lẫn chính trị nhằm thôn tính lâu dài đất nước Việt Nam, địa điểm di tích là tòa nhà 5 tầng xây dựng theo kiến trúc hiện đại, tọa lạc tại góc đường Mạc Đĩnh Chi - Lê Duẩn, Phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, trên một mảnh đất rộng gần 5.000m2. Trước đó, tòa đại sứ Mỹ nằm tại số 39 đường Hàm Nghi. Khoảng 10 giờ sáng ngày 30/3/1963, tòa đại sứ Mỹ trên đường Hàm Nghi đã bị đội Biệt động F21 đánh chất nổ làm sập 3 tầng lầu: 1, 2, 3 do đó Mỹ đã quyết định xây lại. Tòa nhà được khởi công xây dựng vào năm 1965, hầu hết vật liệu cũng như máy móc xây dựng đều được chở từ Mỹ sang, dưới sự điều khiển của kỹ sư người Mỹ. Theo thiết kế, tòa nhà bao bọc bởi 7.800 viên đá Taredo có khả năng chống đỡ mìn, đạn pháo. Cửa chính trang bị bằng thép dầy, những cửa khác chắn bởi lớp kín dầy đặc biệt chống đạn. Tất cả cửa sử dụng hệ thống tự động kể cả cửa sắt chắn lối lên các tầng lầu. Bên trong tòa nhà gồm 140 phòng với 200 nhân viên phục vụ ngày đêm ngoài ra bên cạnh tòa nhà còn được xây thêm một dãy nhà phụ gọi là khu "Norodom" dành riêng cho nhân viên C.I.A. Khi khánh thành, tòa nhà chỉ có 3 tầng. Cuối năm 1966 xây thêm 2 tầng và 1 sân thượng dùng làm nơi hạ cánh cho máy bay lên thẳng. Bao quanh tòa nhà là bức tường cao 3m, hai đầu tường sát đường Lê Duẩn xây 2 lô - cốt cao, canh gác ngày đêm. Tòa Đại sứ hoàn thành tháng 9/1967 với một hệ thống phòng thủ như là một pháo đài có 60 lính gác, một hầm tránh bom, một hệ thống màn hình ra-đa nhằm kiểm soát mặt tiền. Ngay sau khi tòa nhà hoàn tất, ngày 24/9/1967, hàng ngàn sinh viên, học sinh kéo đến trước cổng Đại sứ quán Mỹ đấu tranh đòi "Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc", "Mỹ cút về nước" và ra thông báo tố cáo Mỹ "chà đạp và vi phạm nghiêm trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam". Nhưng sự kiện nổi bật xảy ra tại Tòa Đại sứ Mỹ là trận đánh của Biệt động thành trong Tổng Tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968. Mục tiêu đánh Đại sứ quán Mỹ được bổ sung ngày 24/ 1/1968 do Ngô Thành Vân phụ trách chung. Đội Biệt động 11 nhận lãnh nhiệm vụ quan trọng này gồm đội trưởng Út Nhỏ (đội trưởng trinh sát quân khu) và các chiến sĩ: Bảy Truyền, Tước, Thanh, Chức, Trần Thế Ninh, Chính, Tài, Văn, Đực, Cao Hoài Vinh, Mang, Sáu và 2 lái xe: Trần Sĩ Hùng và Ngô Văn Thuận. Một sự kiện khác cũng không kém phần tủi nhục cho Toà Đại sứ Mỹ là cảnh hỗn loạn tháo chạy xảy ra trong 2 ngày 29 và 30/04/1975 của Mỹ và đồng bọn. Trước sức tấn công thần tốc của quân và dân Việt Nam trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, trên 1.000 người Mỹ và hơn 5.000 người Việt thân Mỹ đã chen lấn, xô đẩy, đạp nhau để tranh giành một chỗ trên sân thượng của toà nhà hòng được trực thăng cứu thoát. Di tích này đã được cấp bằng công nhận của Bộ Văn hoá ngày 25/6/1976. Hiện nay, toà nhà Đại Sứ Mỹ đã bị phá bỏ, xây mới thành lãnh sự quán tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng cạnh đó một bia tưởng niệm ghi nhớ mãi chiến công của các chiến sĩ biệt động đã hy sinh trong trận đánh. Nguồn: Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 4802 lượt xem
Thời kỳ nhà Mạc đóng đô ở Cao Bằng, để phòng bị quân nhà Lê tiến đánh, nhà Mạc đã tu bổ, sửa chữa thành Na Lữ (nay thuộc xã Hoàng Tung, Hòa An) và thành Bản Phủ (nay thuộc xã Hưng Đạo), thành Phục Hòa, ngoài ra còn xây dựng nhiều thành lũy khác ở Cao Bằng, làm cho Cao Bằng trở thành một trung tâm chính trị và quân sự ở vùng biên viễn Đông Bắc thời bấy giờ. Thành Na Lữ và thành Phục Hoà là hai thành được xây dựng từ trước. Theo ghi chép của Bế Hựu Cung trong Cao Bằng thực lục, thành Na Lữ và thành Phục Hòa mở đầu từ đời Đường Ý Tông năm Giáp Thân, niên hiệu Hàm Thông thứ 5 (874). Căn cứ vào sự hiện diện của nhiều ngôi mộ cổ có đá khắc ghi bia mộ tên, địa chỉ, quê quán những người phu dịch xây thành chết ở đây từ thời Hàm Thông có thể khẳng định hai thành này xây từ đời Đường. Thành Na Lữ được xây qua nhiều triều đại khác nhau. Khi nhà Mạc lên Cao Bằng đã cho xây lại bằng gạch. Thành Na Lữ có hình gần chữ nhật, có tổng diện tích khoảng 37,5 ha, chiều dài khoảng 800 m, chiều rộng khoảng 600 m, thành có 4 cửa. Thành Bản Phủ tại kinh đô Nam Bình, nước Nam Cương của Thục Phán khi xưa ở Cao Bình (Cao Bằng), nhà Mạc đã tu bổ thành Vương phủ tại vòng trong của kinh đô cũ Nam Bình và được gọi là thành Bản Phủ hay Vương phủ. Tại kinh đô Nam Bình xưa của nước Nam Cương và của nhà Mạc, thành Bản Phủ vẫn còn dấu tích khá rõ nét. Kinh đô Nam Bình gồm có hai vòng thành, để bảo vệ kinh thành, vòng ngoài có chu vi khoảng 5 km, gồm cả một vùng gò đồi thấp, quanh chân đồi được bạt dựng đứng như một bức tường thành, thuận lợi cho việc xây dựng phòng tuyến bảo vệ. Bờ thành phía Tây chạy song song với bờ sông Bằng đến đầu làng Bó Mạ, nối bờ thành Đông Nam chảy qua trước mặt Bản Phủ theo chân đồi ra gặp quốc lộ 4, phía Đông Bắc chạy theo chân đồi sát phía ngoài quốc lộ 4, lên đến Đầu gò là phía Tây Bắc tiếp tục chạy theo chân đồi, ra đến bờ sông gặp bờ thành phía Tây tạo thành một vòng thành khép kín. Khi nhà Mạc lên đóng đô đã tu sửa lại và xây dựng thêm một số công trình, trong đó thành Bản Phủ (thành nội - nơi của vua làm việc) được xây lên cao hơn trên các tường thành cũ từ thời kỳ Thục Phán, thành nằm trên một khu đất bằng phẳng. Cùng với việc xây dựng lại kinh thành, nhà Mạc còn xây dựng một hệ thống đồn bốt, thành lũy khá dày xung quanh kinh đô và một số điểm biên giới quan trọng, tạo thành một hệ thống bảo vệ kinh thành và bảo vệ biên giới. Thành Phục Hòa (huyện Phục Hoà) được xây theo kiểu hình vuông, mỗi chiều khoảng 400 m, gồm hai vòng thành, khoảng cách giữa hai vòng là 80 m. Hiện nay, tường thành phía Nam đã bị phá huỷ hoàn toàn. Thành Phục Hòa có 2 cổng chính: Cổng phía Bắc được mở thông ra quốc lộ đi Cửa khẩu Tà Lùng ngày nay, nhân dân thường gọi là Pác Cổng, cổng này được xây theo kiểu hình chữ nhật, rộng 8 m, cao 5 m, gồm hai cánh cổng làm bằng gỗ nghiến dày rất chắc chắn; cổng thứ hai ở phía Nam, mở thông ra bờ sông. Cả hai cổng đều bị san phẳng từ lâu, hiện nay không còn vết tích. Gần thành, tại phía Tây Bắc ngoại thành dọc bờ sông còn có nhiều vết tích lò nung gạch, nhân dân cho biết trong quá trình lao động, khai phá đã tìm thấy ở khu vực này nhiều lò gạch còn nguyên vẹn. Qua nghiên cứu, khảo sát cho thấy, tại Cao Bằng, nhà Mạc đã tu bổ, tôn tạo và xây dựng thêm nhiều thành, đồn luỹ, trong đó tu bổ, tôn tạo xây lại thành Bản Phủ, thành Na Lữ, thành Phục Hoà. Các đồn luỹ này đã tạo thành một hệ thống liên hoàn bảo vệ kinh thành khá vững chắc. Đến nay, những thành cổ nhà Mạc xây dựng thời kỳ đóng đô ở Cao Bằng, một số thành xây dựng bằng đất chỉ còn vết tích, nhưng các thành được xây bằng đá vẫn còn rất rõ. Nguồn: Báo Cao Bằng điện tử
Cao Bằng 4724 lượt xem
Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt, tọa lạc ấp Xóm Tháp, xã Tân Phong, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử - văn hóa ngày 23 tháng 7 năm 1993. Đồng thời là một trong ba công trình tháp cổ cuối cùng còn lại ở miền Nam nước ta. Trải qua nhiều lần trùng tu vào các năm 1938, 2003 và gần đây nhất là vào năm 2013. Mặc dù trải qua các đợt trùng tu tôn tạo, nhưng khu di tích tháp cổ Chót Mạt đã mang cho mình một diện mạo mới nhưng vẫn giữ nguyên được tinh thần kiến trúc cổ. Toàn bộ tòa Tháp được xây dựng bằng gạch và đá phiến với phần đỉnh tháp nhọn dần lên, từ mặt đất lên nơi cao nhất của đỉnh tháp được ước tính là 10m. Ngoài ra, ngọn tháp cổ này nằm trên gò đất cao giữa cánh đồng nên nhìn từ xa nó tựa như ngọn bút đang vươn lên cao dần. Năm 2003 Uỷ ban nhân dân tỉnh Tây Ninh quyết định phê duyệt dự án đầu tư trùng tu tôn tạo bảo tồn di tích tháp Chót Mạt và được tiến hành triển khai trùng tu tôn tạo phục hồi, trưng bày mở hố khai quật năm 2003 đưa vào sử dụng. Ngày 27/11/2019 UBND tỉnh ban hành Quyết định Quy định về phân cấp quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. Quyết định giao UBND huyện Tân Biên trực tiếp quản lý 4 di tích, trong đó có di tích cấp Quốc gia di tích Lịch sử- văn Hóa Tháp Chót Mạt. Đặc biệt Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt trên địa bàn xã Tân Phong, huyện Tân Biên được chọn nằm trong chũi liên kết phát triển du lịch của Tỉnh Tây Ninh. Đây là một địa điểm tham quan rất đáng để khám phá, góp phần phát triển du lịch trên địa bàn xã Tân Phong nói riêng và huyện Tân Biên nói chung. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Tây Ninh
Tây Ninh 4425 lượt xem
Di tích Ngã Ba Giồng là di tích lịch sử cách mạng thuộc Ấp 5, xã Xuân Thới Thượng, huyện Hóc Môn. Được bao quanh bởi ba con đường: Phan Văn Hớn, Nguyễn Văn Bứa và tỉnh lộ 19. Khu di tích Ngã Ba Giồng là khu tưởng niệm về những sự kiện lịch sử trong hai cuộc khácg chiến chống ngoại xâm. Được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia vào năm 2002. Ngã ba Giòng (còn có tên gọi đầy đủ là Ngã ba Giòng Bằng Lăng) nằm trên địa phận thôn Xuân Thới Tây thuộc 18 thôn vườn trầu xưa được hình thành từ những năm 1698 đến năm 1731. Từ lâu đời, Ngã ba Giồng là 1 địa danh có tên gọi dân gian đã đi vào lịch sử của quê hương 18 thôn vườn trầu Hóc Môn – Bà Điểm. Tục truyền rằng xưa kia nơi đây là 1 vùng đất giồng tương đối cao ráo và là nơi mọc nhiều cây bằng lăng nên địa danh này có tên gọi từ đó. Sau khi cuộc khởi nghĩa Nam kỳ (23/11/1940) bị thất bại, thực dân Pháp đã tăng cường đàn áp, khủng bố khốc liệt phong trào cách mạng vùng Hóc Môn – Bà Điểm. Chúng đã lập ra ở Hóc Môn 3 trường bắn để giết hại các đồng chí lãnh đạo Đảng, các đồng chí đồng bào yêu nước của quê hương Hóc Môn và các vùng lân cận. Ngã ba Giồng là trường bắn thứ ba ghi lại tội ác tày trời của giặc pháp và bọn tay sai đối với nhân dân Hóc Môn. Rút kinh nghiệm từ 2 trường bắn trước (1 tại rạp hát cũ trung tâm Quận lỵ Hóc Môn, 1 cạnh giếng nước sau Bệnh viện Hóc Môn ngày nay), chúng xử bắn công khai, bắt nhân dân đến xem nhằm mục đích uy hiếp tinh thần cách mạng của nhân dân Hóc Môn. Nhưng cách xử bắn đó đã phản tác dụng, nhân dân Hóc Môn đã tận mắt chứng kiến sự tàn ác của thực dân Pháp, sự hy sinh cao cả của các chiến sĩ cộng sản nên ngọn lửa yêu nước của họ càng bùng lên mãnh liệt. Trường bắn thứ 3 này, chúng không dám xây dựng gần trung tâm Quận lỵ nữa mà đưa ra khu vực Ngã ba Giồng là vùng hoang vắng, thưa dân để tránh sự phản kháng của nhân dân. Tại đây, chúng xây dựng thành 1 trường bắn có mô đất kiên cố dài 12m, cao 2,2m, phía trước có trồng 6 cột bắn, mỗi cột cao 1.7m, hướng bắn quay về phía đồng ruộng (bưng Tràm Lạc). Vào năm 1941, tại đây chúng lén lúc xử bắn rất nhiều lần, không cho nhân dân xem, hàng trăm chiến sĩ cộng sản và đồng bào yêu nước bị chúng giết hại. Với ý nghĩa lịch sử vô cùng thiêng liêng của Ngã ba Giồng, nơi ghi dấu tội ác dã man của giặc Pháp, nơi thể hiện ý chí chiến đấu bất khuất kiên cường và sự hy sinh cao cả của đồng chí và đồng bào ta sau cuộc khởi nghĩa Nam kỳ (23/11/1940); sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (30/4/1975), huyện Hóc Môn đã nhanh chóng khôi phục và tôn tạo khu di tích lịch sử cách mạng Ngã ba Giồng nhằm giáo dục truyền thống cho các thế hệ thanh thiếu niên. Nơi đây đã trở thành điểm tham quan, nơi tổ chức lễ hội truyền thống trong những ngày lễ lớn hàng năm của huyện Hóc Môn và thành phố đặc biệt là lễ kỷ niệm ngày Nam kỳ Khởi nghĩa (23/11). Hiện nay được sự nhất trí của thành phố, huyện đang tiến hành tôn tạo xây dựng Ngã ba Giồng thành “Khu tưởng niệm liệt sĩ Ngã ba Giồng”. Nguồn: Cổng thông tin điện tử Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 4406 lượt xem
Dinh Quận Hóc Môn tọa lạc tại số 1, đường Lý Nam Đế, thị trấn Hóc Môn, (cạnh trụ sở UBND huyện) là nơi để lại nhiều sự kiện đấu tranh nổi bật suốt chặng đường dài lịch sử từ 1885 đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng của Nhân dân 18 Thôn vườn trầu. Sau khi hạ được Đại đồn Chí Hòa, thực dân Pháp xây dựng tại nơi đây một ngôi nhà gỗ cao 3 tầng dùng làm Đồn binh. Khi tên Trần Tử Ca về nhậm chức Đốc Phủ, dùng Đồn làm Dinh huyện Bình Long. Vốn là một tay say quỷ quyệt của thực dân Pháp, Trần Tử Ca bị nhóm do các ông Phan Văn Hớn (Quản Hớn) và Nguyễn Văn Quá (Chánh Lãnh Binh) cầm đầu gần 1.000 nghĩa quân tiến về đốt Dinh Quận, bắt và cắt đầu bêu giữa chợ. Đó là ngày 8/2/1885 Tết Ất Dậu. Sau đó, Dinh Quận Hóc Môn được xây dựng lại với nền móng đá xanh, tường gạch, có hệ thống phòng thủ từ lầu cao đến tận vòng rào. Lối kiến trúc y như Đồn binh nên người địa phương gọi là Đồn Hóc Môn. Trấn nhậm thay Trần Tử Ca là Đốc phủ Ngôn, đến Quận Trà rồi Quận Thọ. Đây là khoảng thời gian dài người dân vùng Hóc Môn hứng chịu bao cảnh tham tàn, bỉ ổi của thực dân Pháp và bọn tay sai đầu sỏ kể trên. Với truyền thống kiên cường bất khuất của Nhân dân Hóc Môn. Ngày 4/6/1930, khoảng 6 giờ sáng trước Dinh Quận, hàng trăm bà con Hóc Môn kéo biểu tình đòi “bãi bỏ thuế thân, giảm các thuế môn bài và thuế chợ, cấp đất cho dân cày nghèo”. Quận Trà cho mời những người cầm đầu vào Dinh thương lượng, nhưng chúng xảo quyệt bắt giữ họ trong đó có ông Lê Văn Uôi (Bí thư xã Tân Thới Nhì), là người cầm đầu cuộc biểu tình. Mọi người không nao núng, quyết liệt đòi hỏi Quận Trà phải thả những người bị cầm giữ. Đoàn biểu tình càng lúc càng đông, khí thế đấu tranh có phần lan rộng, khiến Quận Trà nhượng bộ. Một mặt chúng thả những người bị giữ, mặc khác chúng gọi điện cho quan thầy ở Sài Gòn cứu viện. 2 giờ sau, cuộc đấu tranh bị 2 tên Blachôlê và Nobbot chỉ huy bắn xối xả vào đoàn biểu tình, gây thương vong nhiều người. Nhưng sự kiện lịch sử gây ấn tượng nhất tại Dinh Quận Hóc Môn là cuộc khởi nghĩa Nam kỳ ngày 23/11/1940. Đồn Hóc Môn rất kiên cố, xây bằng đá xanh như là một pháo đài, cao khoảng 15 thước, có ụ súng và hệ thống phòng thủ lỗ châu mai do một trung đội lính khố xanh trấn giữ. Ngày 22/11/1940, Pháp tăng cường thêm 1 trung đội để đối phó với tình hình. Chiều 22/11/1940, cánh quân của ông Đỗ Văn Cội đột nhập vào thị trấn, giả dạng thường dân, phục kích sau lưng Đồn chờ lệnh cướp Đồn. Một cánh quân khác có nhiệm vụ phá cầu, đốn cây ngăn lộ, đánh chiếm các công sở, nhà việc... Cánh quân từ Phước Vĩnh An, Tân Thông, Tân An Hội, Tân Phú Trung do ông Phạm Văn Sáng và Đặng Công Bỉnh chỉ huy, xuất phát từ ấp Bến Đò, đánh chiếm nhà việc, diệt 1 tên, thu 4 súng, làm chủ tình hình tại đây (Tân Phú trung). Liền đó cánh quân này được lệnh kéo về Hóc Môn. Cánh quân Long Tuy Thượng do ông Bùi Văn Hoạt chỉ huy. Cánh quân thuộc Tổng Long Tuy Trung do ông Đỗ Văn Dậy và Lê Bình Đẳng chỉ huy. Khoảng 24 giờ đêm ngày 22/11/1940, vẫn chưa nghe thấy tiếng pháo lệnh ở Sài Gòn. Sau khi hội ý, các vị chỉ huy những cánh quân thống nhất tấn công Đồn giặc. Lập tức các cánh quân tiến thẳng về Đồn Hóc Môn, nơi trú ngụ của tên Quận trưởng Bùi Ngọc Thọ. 2 nghĩa quân tên Nghé và Kinh xung phong vào cổng trước, hy sinh. Nghĩa quân bốn phía xông vào Đồn như nước vỡ bờ. Trước sức mạnh của nghĩa quân và quần chúng, bọn lính trong Đồn không còn tinh thần kháng cự, bỏ chạy tán loạn. Nghĩa quân chiếm lĩnh hoàn toàn bên trong Đồn nhưng trên lầu, địch vẫn ngoan cố dùng súng bắn tẻ, cùng lúc gọi điện về Sài Gòn, Thủ Dầu Một cấp cứu. Vì nóng lòng bắt cho được tên Quận Thọ nên đồng chí Đỗ Văn Dậy bám ống máng nước để leo lên tầng trên Đồn. Đến lưng chừng bị trúng đạn, đồng chí bị rơi xuống và hy sinh sau đó. Cuộc chiến đấu đang thế giằng co thì viện binh địch đến. Không thể cầm cự, nghĩa quân rút khỏi thị trấn, phân tán về các làng, lực lượng vũ trang rút về ấp Bến Đò (Tân Phú Trung) rồi di chuyển sang ấp Mỹ Hạnh (Đức Hòa). Cuộc tiến công Đồn Hóc Môn (sau gọi là Dinh Quận Hóc Môn) tuy thất bại nhưng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng mọi người dân sự khâm phục lòng dũng cảm của các chiến sĩ cách mạng trong cuộc chiến đấu chống thực dân cướp nước. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, 7 giờ sáng ngày 30/4/1975, thị trấn Hóc Môn hoàn toàn được giải phóng, lá cờ Tổ quốc phất phới bay trên Dinh Quận, nơi tên Quận trưởng Nguyễn Như Sang và bọn tay sai đã chạy trốn từ tối đêm trước. Ngày nay Dinh Quận Hóc Môn được chọn làm Bảo tàng huyện, nơi đây tập trung nhiều tư liệu trưng bày, minh họa các giai đoạn lịch sử thăng trầm cũng như khí thế đấu tranh cách mạng của quân và dân trong huyện Hóc Môn qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Một Tượng đài đặt trước di tích Dinh Quận Hóc Môn thể hiện gương hy sinh bất khuất của quân và dân 18 Thôn Vườn trầu, được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn: Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 4371 lượt xem
Mai Xuân Thưởng là người lãnh đạo phong trào Cần Vương chống Pháp cuối thế kỷ XIX ở Bình Định. Mai Xuân Thưởng sinh năm Canh Thân 1860, mất năm Đinh Hợi 1887 người thôn Phú Lạc, tổng Phú phong, huyện Tuy Viễn, tỉnh Bình Định (nay là thôn Phú Lạc, xã Bình Thành, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Cha là Mai Xuân Tín làm Bố chánh ở Cao Bằng, mẹ là Huỳnh Thị Nguyệt con của một nhà quyền quý trong làng. Mai Xuân Thưởng vốn là người thông minh, ham học. Năm 18 tuổi (1878) ông đỗ Tú tài tại Trường thi Bình Định. năm 25 tuổi (1885) thi đỗ cử nhân. Hưởng ứng chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi, Mai Xuân Thưởng về quê Phú Lạc, chiêu mộ nghĩa binh, lập căn cứ ở hòn Sưng dựng cờ cần vương chống Pháp, sau đó Mai Xuân Thưởng đã đem lực lượng của mình gia nhập vào nghĩa quân do Đào Doãn Địch lãnh đạo và được Đào Doãn Địch phong giữ chức Tán lương quân vụ (phụ trách về lương thực của nghĩa quân). Kể từ đó cho đến năm 1887, phong trào cần vương ở Bình Định phát triển mạnh mẽ và lan ra đến Quảng Ngãi, Phú Yên...thu hút hàng chục ngàn người thuộc mọi tầng lớp tham gia. Ngày 20/9/1885 Đào Doãn Địch mất, giao toàn bộ lực lượng cho Mai Xuân Thưởng. Ông chọn vùng núi Lộc Đổng (nay thuộc xã Bình Tường, huyện Tây Sơn) làm đại bản doanh và tổ chức lễ tế cờ , truyền hịch kêu gọi sỹ phu, văn thân, nhân dân tham gia phong trào cần Vương chống Pháp. Trong buổi lễ ấy, nghĩa quân nhiều vùng trong tỉnh Bình Định đã nhất trí suy tôn ông làm Nguyên soái lãnh đạo cuộc khởi nghĩa và nêu cao khẩu hiệu: “Tiền sát tả, hậu đả Tây”. Đầu năm 1887, quân Pháp dưới sự chỉ huy của Trung tá Cherrean và quân triều đình do Trần Bá Lộc chỉ huy cùng với Công sứ Trira đã mở cuộc tấn công lớn lên căn cứ đại bản doanh của phong trào Cần Vương Bình Định, trận giao chiến giữa lực lượng nghĩa quân với giặc Pháp diễn ra vô cùng ác liệt, cuộc chiến đấu không cân sức, cuối cùng lực lượng khởi nghĩa bị đẩy lùi. Tháng 3 năm 1887, sau trận ác chiến ở Bàu Sấu (thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định), Mai Xuân Thưởng bị thương nặng, nghĩa quân rút về Mật khu Linh Ðổng. Ngày 21 tháng 4 năm 1887, Trần Bá Lộc bao vây đánh chiếm căn cứ mật khu Linh Đổng và bắt được một số nghĩa quân, trong đó có thân mẫu Mai Nguyên Soái. Đêm 30 tháng 4 năm 1887, Mai Xuân Thưởng đã cử một đội quân cảm tử đột nhập doanh trại Trần Bá Lộc, giải vây cho những người bị bắt, ông cùng đoàn thuộc hạ gồm 50 người vượt núi vào Phú Yên, tiếp tục kháng chiến, nhưng khi đến đèo Phú Quý (ranh giới giữa Bình Định và Phú Yên) thị bị phục binh Trần Bá Lộc bắt và đưa ra xử trảm tại Gò Chàm (Phía đông Thành Bình Định). Di tích Lăng mộ nhà yêu nước Mai Xuân Thưởng tọa lạc trên ngọn đồi cao của dãy núi Ngang (thuộc thôn Hòa Sơn, xã Bình Tường, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định) cách thành phố Quy Nhơn khoảng 50km về hướng Tây Bắc; Lăng mộ được xây dựng trên khu đất rộng 1988m2, khánh thành ngày 22 tháng 1 năm 1961.Về tổng thể, Lăng được thiết kế theo kiểu lăng mộ cổ, xung quanh có thành thấp bao bọc. Cổng Lăng (tam quan) là 4 trụ vuông, phía trên thắt lại theo kiểu bầu lọ mang dáng dấp kiến trúc cổng đình, miếu cuối thế kỷ XIX. Giữa nhà Lăng là mộ phần Mai Xuân Thưởng hình khối chữ nhật theo hướng Đông - Tây; Phía đầu mộ dựng tấm Bia đá khắc bài ký ghi tiểu sử và sự nghiệp của Mai Xuân Thưởng: Di tích được Bộ Văn hóa Thông tin quyết định xếp hạng cấp Quốc Gia ngày 20 tháng 4 năm 1995. Nguồn: UBND Huyện Tây Sơn tỉnh Bình Định
Bình Định 4337 lượt xem
Dân phượt vẫn hay nói đùa nhau rằng nếu chưa đổ được đèo Ô Quy Hồ thì vẫn chưa thể được gọi là dân phượt chính hiệu. Đèo Ô Quy Hồ với chiều dài hơn 40km, nằm ở độ cao trên 2000 mét, ở trên tuyến quốc lộ 4D cắt ngang dãy Hoàng Liên Sơn, đỉnh đèo là rảnh giới giữa 2 tỉnh Lai Châu và Lào Cai. Theo truyền thuyết đèo Ô Quy Hồ thì trước đây, ở vùng núi này thường xuất hiện một loài chim có tiếng kêu da diết, gắn với huyền thoại về câu chuyện tình yêu không nên cặp của đôi trai gái. Do đó, theo thời gian, chính tiếng kêu Ô Quy Hồ của loài chim đó mà đặt thành tên của con đèo nổi tiếng này. Đối với mỗi dân phượt đèo Ô Quy Hồ, đổ đèo vào những ngày nắng đẹp trời trong chính là sự may mắn trong đời. Đứng trên đỉnh đèo ngắm nhìn vẻ đẹp bao quát mà hùng vĩ của thiên nhiên núi rừng, lại cảm nhận vẻ huyền ảo của cảnh sắc trên đèo: phía bên Lào Cai thì sương mù giăng lối, bên phía Lai Châu nắng âm chan hoà, mùa hè thường có mây bao phủ, mùa đông có băng tuyết hấp dẫn không chỉ khách du lịch trong nước mà còn cả du khách nước ngoài. Đèo Ô Quy Hồ chạy men theo sườn dãy Hoàng Liên Sơn, con đường sài hun hút với phong cảnh rừng núi hùng vĩ, ấn tượng. Vào những ngày trời quang đãng, nắng gió, bạn có thể ngắm nhìn được những bản làng nhỏ nhỏ phía xa, những ngọn núi nhấp nhô và ngắm vẻ đoẹ cao ngạo của đỉnh Fansipan giữa trời mây. Còn trong những ngày đông giá lạnh, Ô Quy Hồ mang trong mình vẻ đẹp đến lạ thường, tuyết phủ trắng cây rừng, đường đi. Hành trình lý tưởng nhất đó là từ Sapa đi đèo Ô Quy Hồ, đi khoảng 12km qua thác Bạc – một trong những thác nước đẹp nhất Lào Cai. Đặc biệt, khi chinh phục đèo, dân phượt ít khi bỏ qua Trạm Tôn – trạm kiểm lâm của vườn quốc gia Hoàng Liên. Đây cũng là một trong những điểm bắt đầu xuất phát chinh phục đỉnh Fansipan hùng vĩ và con đường ghé thăm thác Tình Yêu. Tại đây, với khung cảnh một bên là vách đá, một bên là vực sâu tạo cảm giác thử thách với mỗi tài xế khi đi qua đây. Dưới những thảm rừng nhiệt đới rì rậm, một cung đường uốn lượn quanh co, cheo leo trên vách đá với những pha đổ đèo, cắt cua tái mặt ấy sẽ là thử thách với bất kỳ tài xế nào. Tuy vậy, đèo Ô Quy Hồ đã trở thành một cung đường quan trọng, là cầu nối từ miền xuôi lên với trung tâm thị xã. Nhưng cũng chính sự nguy hiểm này lại là một trong những nguyên nhân hấp dẫn, thu hút dân phượt đến với Ô Quy Hồ để trải nghiệm cũng như vượt qua chính bản thân mình.
Lai Châu 2286 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Cao nguyên Sìn Hồ là một huyện vùng cao của Lai Châu, nơi đây được xem như là Sapa thứ 2 của vùng Tây Bắc. Bởi thời tiết khí hậu ở đây quanh năm mát mẻ, nhiệt độ trung bình dao động khoảng 18 độ C. Cao nguyên tọa ở vị trí khá thuận lợi, nằm giữa núi đá chập trùng, xung quanh là những cánh rừng nguyên sinh xanh mát, hòa với biển mây trôi bồng bềnh, tạo khung cảnh giống chốn bồng lai tiên cảnh. Du khách khi đặt chân tới Sìn Hồ không chỉ có cơ hội ngắm nhìn biển mây, khám phá những dãy núi hùng vĩ, hay tham quan những thửa ruộng bậc thang độc đáo, mà du khách còn được tìm hiểu về những phong tục, văn hóa Lai Châu thú vị nữa nhé. Là điểm du lịch nổi tiếng, nên bạn có thể đặt chân tới đây bất cứ khi nào. Bởi mỗi một thời điểm ở cao nguyên Sìn Hồ lại có những nét đẹp và trải nghiệm độc đáo riêng. Nếu bạn muốn khám phá vẻ đẹp thiên nhiên tươi mới, với những cánh rừng hoa đào, hoa mận,... nở rộ, thì có thể ghé thăm vào dịp mùa xuân. Còn mùa hè là thời gian lý tưởng để khám phá vẻ đẹp của mùa lúa chín, những thửa ruộng bậc thang giống như đang khoác lên mình một chiếc áo vàng ruộm tuyệt đẹp. Hoặc mùa thu là thời điểm không khí hơi se lành, là thời gian thích hợp để đi chinh phục những ngọn núi xung quanh đây. Mùa đông là thời gian để bạn có cơ hội ngắm tuyết rơi trên cao nguyên cũng rất lý thú. Cao nguyên Sìn Hồ nằm ở đâu? Được biết, cao nguyên này là một trong những địa điểm du lịch nổi tiếng nhất Lai Châu, nằm thuộc huyện Sìn Hồ, cách trung tâm thành phố khoảng 60km và tọa trên độ cao khoảng 1.500m. Do đó, đường đi tới đây không hề dễ dàng, nhất là đối với những bạn chưa có kinh nghiệm du lịch rừng, núi. Vậy đường đi tới cao nguyên Sìn Hồ như thế nào? Nếu từ Hà Nội, đầu tiên bạn cần di chuyển tới Lai Châu bằng xe khách hoặc xe máy (nếu là phượt thủ). Đi xe máy bạn có thể chạy theo cung đường: Hà Nội -> Lào Cai -> Sapa -> đèo Ô Quy Hồ -> Lai Châu. Hoặc cũng có thể chạy theo tuyến: Hà Nội -> Phú Thọ -> Yên Bái -> Mù Cang Trải -> Lai Châu. Sau khi tới được trung tâm thành phố Lai Châu, bạn có thể thuê xe máy tại các khách sạn, Homestay bạn nghỉ và tự mình chinh phục cao nguyên nhé. Không chỉ biết tới là điểm du lịch thiên nhiên hấp dẫn, mà Sìn Hồ còn là vùng đất lưu giữ những giá trị, văn hóa lịch sử lâu đời của con dân đất Việt nữa nhé. Khi đặt chân tới cao nguyên, trước mắt bạn sẽ là những dãy núi hùng vĩ, được bao quanh là biển mây, rừng rậm, những con đèo quanh co, tất cả tạo nên nét đẹp riêng biệt của mảnh đất Lai Châu mà không phải nơi nào cũng có. Thiên nhiên ở đây, mang đậm những đặc trưng của rừng núi nguyên sinh, tạo nên vẻ đẹp hoang sơ, kỳ vỹ. Vào những ngày đẹp trời, những ngày lễ hoặc ngày cuối tuần, lượng khách tới săn mây rất đông. Một khung cảnh mây trời bồng bềnh, kéo dài đến vô tận, phía xa xa là những tia nắng mặt trời đang chiếu sáng, le lói qua những tán cây, khiến mây mù mờ nhạt dần. Tất cả hình ảnh này, họa lên một bức tranh thiên nhiên lãng mạn, vô cùng ấn tượng. Cao nguyên Sìn Hồ Lai Châu là nơi sinh sống, hoạt động của rất nhiều đồng bao dân tộc thiểu số, điển hình như: Người H'Mông, người Thái, người Dao,... Sau khi khám phá vẻ đẹp của cao nguyên, du khách có thể tới các bản làng để được hòa mình vào cuộc sống bình dị, mộc mạc nơi đây và được tìm hiểu về những nét đẹp văn hóa, phong tục độc đáo của người dân Sìn Hồ. Cùng với đó, còn được thưởng thức rất nhiều món ăn ngon, đặc sản Lai Châu, cũng như mua được những món quà lưu niệm lý tưởng để dành tặng cho bạn bè, người thân.
Lai Châu 2213 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Từ Sa Pa, theo Quốc lộ 4D hướng đi Lai Châu khoảng 30 km du khách sẽ đến chân núi Chu Va. Chu Va là điểm du lịch mới, nhưng lại có sức hút đối với những du khách thích khám phá và chụp ảnh bởi khi đến đây, du khách thỏa sức sáng tạo trong từng phút giây vì sự biến ảo của mây núi. Đỉnh Chu Va sừng sững như một mũi tên nhọn vươn lên trời cao, chính vì thế nơi đây tựa như một cái “rốn” tích mây. Tùy theo thời gian, thời tiết, ánh sáng thay đổi trong ngày mà Chu Va biến ảo, quyến rũ với nhiều sắc thái. Để tiếp cận được dãy núi này, bạn phải đi bộ từ đường lớn vào khoảng 1 km. Theo một số nhiếp ảnh gia, để chụp được tấm ảnh đẹp ở Chu Va phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, nhưng đẹp nhất là khi những đám mây quấn quanh thân núi, giới nhiếp ảnh gọi đó là “Vành khăn quấn cổ”, chỉ để lộ ra phần ngọn núi giữa bao la đất trời. Mùa đẹp nhất tại Chu Va là vào khoảng đầu tháng 9, khi những thửa ruộng bậc thang ngả màu vàng óng bao quanh chân núi, tạo thành bức tranh đầy màu sắc. Sự kỳ lạ và thú vị của Chu Va khiến không ít những đôi chân ưa khám phá và những đôi mắt muốn thu cảnh đẹp vào ống kính của mình tìm đến đây để chiêm ngưỡng và tận hưởng.
Lai Châu 2243 lượt xem
tháng 9 đến tháng 3
“Nhất Thanh, nhì Lò, tam Than, tứ Tấc” ấy là câu đúc kết của bậc tiền nhân nói về những cánh đồng mênh mông và đẹp bậc nhất miền Tây Bắc. Mới loáng thoáng nghe thấy câu chuyện “gió Than Uyên” thôi, tính khí của kẻ ưa “xê dịch” đã háo hức muốn vượt con lộ 32 bỏ Mù Cang Chải (Yên Bái) về Than Uyên (Lai Châu) trong một trưa mùa đông hửng nắng. Huyện lỵ Than Uyên nằm trong thung lũng, và thung lũng là một cánh đồng thoải mênh mông. Đến Than Uyên, bạn được hòa vào một cuộc sống bản địa mộc mạc của những nhịp chân dệt thổ cẩm. Cảnh sắc và cả những món ngon cứ níu chân khách phương xa. Cá pa boong, đó là món ăn bạn có thể tìm thưởng thức ở bất kể nơi đâu, từ quán nhỏ nơi thị trấn hay trong bản nhà sàn xinh xắn của đồng bào Thái. Đó là món ăn có từ xa xưa của người Thái, mà nay vẫn nức tiếng. ể “tạc khắc” nét ẩm thực riêng và đặc sắc này, bà con phải ra dòng Nậm Mu đánh bắt loài cá theo tiếng Thái gọi là pa vá. Cá được làm sạch, rồi trộn với gia vị gừng, muối, ớt, tỏi, rượu, đặc biệt phải có thính nếp rang thơm… trộn ướp đều tay. Cá sau khi ướp được cho vào một đoạn ống măng mai bịt kín, đợi trong vòng nửa tháng là ngấu muối, có thể dùng được. Khi ăn cho cá vào than hồng nướng qua, gọi là lấy nhiệt lửa cho dậy mùi khói. Cá nướng ăn với xôi nếp thơm sẽ làm người thưởng thức nhớ mãi không quên. Mùa này, thả hồn trên cánh đồng Mường Than, nhịp sống lao động đầy sắc màu quyến rũ. Ta đi chầm chậm trên cánh đồng xanh vô tận, như lạc vào thảo nguyên bao la trong cổ tích. Thỉnh thoảng cơn gió ùa về lòng chảo tạo nên vùng tiểu khí hậu khá đặc biệt trên cánh đồng đẹp thứ ba vùng Tây Bắc. Bởi thế “gió Than Uyên” cũng là “đặc sản” của thung lũng này. Gió rít mạnh, quẩn quanh lòng chảo, mùa này gió hanh khô. Du khách muốn khám phá Than Uyên, thường ngược xã Mường Cang, qua xã Mường Mít để ngắm những nếp nhà sàn đồng bào Thái thấp thoáng trong màu hoa đỗ quyên rực rỡ triền núi. Điều làm ta thích thú, không chỉ riêng khung cảnh cổ tích mà còn cả hình ảnh người phụ nữ Thái cần mẫn bên khung dệt. Phụ nữ Thái ở xã Mường Cang vào mùa này bận bịu việc dệt thêu khăn, đệm cho gia đình, đặc biệt với những cô gái chưa chồng thì phải cần mẫn ngày đêm thêu dệt chuẩn bị cho mùa hạnh phúc mỗi khi tết đến, xuân về.
Lai Châu 2182 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Đỉnh núi Pu Ta Leng với độ cao 3049m thuộc địa phận tỉnh Lai Châu được ví von là ước mơ chung cho các tín đồ ưa dịch chuyển, đam mê tìm tòi và khám phá. Đến với đỉnh núi cao thứ hai Việt Nam (chỉ sau đỉnh Fansipan), bạn sẽ bị choáng ngợp trước cảnh núi rừng đẹp hùng vĩ pha chút huyền ảo. Khu vực xung quanh núi có địa hình dốc, đầy nguy hiểm và khá kén người đi, tuy vậy Pu Ta Leng chắc chắn là món quà xứng đáng, là trải nghiệm khó quên của tuổi trẻ khi quyết định chinh phục nóc nhà thứ hai của Đông Dương này! Là một trong những ngọn núi thuộc dãy Hoàng Liên Sơn, Pu Ta Leng nằm ngay phía tây bắc của đỉnh Fansipan. Nếu Fansipan được ví von là “nóc nhà của Đông Dương” thì Pu Ta Leng chính là nóc nhà thứ hai mà các phượt thủ hoặc các bạn trẻ ham mê thách thức “nhất định” phải thử chinh phục dù chỉ một lần. Giữa hai đỉnh núi này là đèo Ô Quy Hồ (hay còn gọi là đèo Hoàng Liên) và đường quốc lộ 4D chạy qua (đây là con đường đi từ Lào Cai sang Lai Châu và ngược lại). Đỉnh Pu Ta Leng (Phu Ta Leng) đọc theo tiếng người dân tộc Dao sinh sống ở huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu là Pú Tả Lèng, theo đó từ “Pú” mang nghĩa là “núi”. Chinh phục Pu Ta Leng không phải chuyện một sớm một chiều, thường thường quá trình leo lên đỉnh và xuống lại sẽ mất tầm từ 3-4 ngày, nếu muốn dừng chân kết hợp cắm trại giữa đường đi và nghỉ ngơi nhiều sẽ mất khoảng từ 5-6 ngày. Bạn có thể bắt đầu ở vạch xuất phát từ bản Phô, xã Hồ Thầu, huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu để mở màn cho hành trình chinh phục thách thức Pu Ta Leng của mình. Với độ cao “đáng nể” chỉ đứng ngay sau Fansipan, đỉnh Pu Ta Leng 3049m được các phượt thủ chia nhỏ hành trình để chinh phục. Ngày đầu tiên, từ điểm xuất phát (chân núi) leo lên độ cao khoảng 1500-2000m, ngày thứ hai chinh phục nốt độ cao còn lại, cứ thế tiếp tục lặp lại hành trình khi từ trên đỉnh đi xuống, về lại điểm xuất phát ban đầu. Khác với đỉnh Fansipan đã nâng cấp, xây dựng nhiều dịch vụ thuận tiện cho ngành leo núi với mục đích thương mại và du lịch, đỉnh Pu Ta Leng vẫn còn khá hoang sơ, cảnh đồi núi hiểm trở với các dốc cao dựng đứng thách thức lòng dũng cảm, bình tĩnh cũng như sự nhanh trí trong việc xử lí các tình huống bất ngờ. Ở khoảng 700-1000m đầu tiên, đường lên không quá nhiều hiểm trở, ít các đoạn ngoặt và lởm chởm của vách núi, tuy nhiên cây rừng mọc rậm rạp chắn hầu hết các đường đi. Các cây to cổ thụ mấy ngàn năm thân to xù xì, rễ trồi lên mặt đất nằm ngổn ngang sau trận mưa bão hay gió to cũng được coi là một trong những trở ngại đáng kể tiêu tốn thời gian và sức lực người leo núi. Từ độ cao 1500m trở lên, hoa đỗ quyên đủ màu nở ngập khắp bầu trời Pu Ta Leng tạo nên bức tranh núi rừng hùng vĩ mà vẫn ánh lên nét lãng mạn, thơ mộng. Nhiều nhất là những vạt đỗ quyên hồng và tím len lỏi khắp đường đi, cánh hoa rụng vương đầy đường đi tạo cảnh tượng như đường lên tiên cảnh. Từ đây, phóng tầm mắt ra xa ta còn có thể thấy đỉnh Bạch Mộc Lương Tử và đỉnh Phu Xi Lùng, 2 đỉnh núi thuộc dãy Hoàng Liên Sơn. Lên được tới độ cao 3049m, từ trên đỉnh nhìn xuống là cảm giác tự hào khi đã vượt qua hàng trăm, hàng ngàn thử thách dọc đường đi để chinh phục được đỉnh núi cao thứ hai Việt Nam. Ở độ cao này, nhiệt độ xuống thấp, trời trở lạnh, không khí loãng cùng chặng đường leo trèo gian nan dễ khiến người đi mệt mỏi. Vì vậy, hãy dành ra một khoảng thời gian ngồi lại và tụ tập chia sẻ cảm giác cũng như niềm vui với các bạn trong đoàn đi. Ngoài đỉnh Pu Ta Leng hùng vĩ, nhân cơ hội này, bạn cũng có thể khám phá đỉnh Bạch Mộc Lương Tử và Phu Xi Lung,... đây đều là các đỉnh núi thách thức người leo với những dốc đá nhọn, lởm chởm và địa hình chông chênh nhiều đồi và chướng ngại vật. Pu Ta Leng nói chung và các đỉnh thuộc dãy Hoàng Liên Sơn luôn là ước mơ chung cho nhưng bạn trẻ ham mê dịch chuyển, muốn đánh dấu những khoảnh khắc khó quên của tuổi trẻ qua bằng bàn chân chinh phục.
Lai Châu 2150 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Tả Liên Sơn đẹp bởi những thảm thực vật nguyên sinh đa dạng, những tán cây cổ thụ xum xuê, thân to phủ kín rêu phong và dương xỉ. Lối đi được “trải thảm” bởi hoa trà cổ thụ trắng muốt, lá phong đỏ rực xen lẫn rêu xanh và hoa đỗ quyên muôn màu quyến rũ rụng khắp lối. Những thân cây leo bám chằng chịt lên phiến đá trông không khác gì xúc tu của một loài động vật lạ, sẵn sàng vươn mình nuốt trọn kẻ vượt núi săn rừng. Từ trên cao bạn có thể nhìn thấy khá rõ thành phố Lai Châu rộng lớn, xinh đẹp giữa bốn bề núi rừng hùng vĩ trong tầm mắt bằng một hình ảnh mờ ảo hơi sương. Núi Tả Liên Lai Châu là ngọn núi cao thứ 6 ở Việt Nam, sở hữu bức tranh thiên nhiên hùng vĩ cùng khu rừng đẹp như cổ tích. Ngọn núi này còn được biết đến với tên gọi núi Cổ Trâu, nằm ở xã Tả Lèng, huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu. Với độ cao 2.996 mét so với mực nước biển, Tả Liên Sơn trở thành thách thức lớn lao với những người trẻ đam mê bộ môn leo núi. Hành trình băng suối vượt rừng không chỉ là cơ hội để bạn chiêm ngưỡng cảnh đẹp của đất trời, mà còn nghiêm khắc học hỏi những kinh nghiệm sinh tồn quý giá. Theo kinh nghiệm trekking Tả Liên Sơn của nhiều du khách, đứng trên đỉnh núi này, bạn có thể phóng tầm nhìn thưởng thức trọn vẹn cảnh đẹp của thành phố Lai Châu nằm ẩn hiện dưới chân núi. Ngoài ra, ở từng mốc độ cao khác nhau, cảnh sắc thiên nhiên đất trời cũng liên tục thay đổi, mở ra khung cảnh đẹp mãn nhãn. Tả Liên Sơn là một trong những ngọn núi cao sở hữu thảm thực vật đa dạng và độc đáo. Ngọn núi được bao trùm bởi khu rừng nguyên sinh mang màu sắc cổ tích, linh hoạt biến động vẻ đẹp theo 4 mùa trong năm. Dù trekking vào bất kỳ mùa nào, bạn cũng đều được hòa mình vào khung cảnh đẹp đến nao lòng của núi Tả Liên. Con đường từ chân núi lên đến đỉnh núi Tả Liên là những mảng màu và bối cảnh đẹp tựa thước phim cổ tích. Cây cối, hoa cỏ, suối thác trong lành, mát rượi và nguyên sơ như một lời chào đón những lữ khách phương xa du lịch Lai Châu và khám phá ngọn núi đẹp đầy hùng vĩ này. Khu rừng núi Tả Liên Lai Châu đúng chất cổ tích với rất nhiều những gốc cây cổ thụ to lớn vươn thẳng lên trời, đón lấy ánh nắng vàng rực rỡ. Bên dưới gốc cây, rêu phong phủ một màu xanh rì, càng làm cho khung cảnh thêm phần hoang sơ, huyền bí. Vào những sớm mai, nắng vàng xuyên qua từng tán lá với sương giăng lãng đãng, càng khiến cho bức tranh thêm phần ma mị. 4 mùa trên núi Tả Liên Sơn đều là khung cảnh đẹp xiêu lòng mà chỉ những ai đủ thể lực trekking mới có cơ hội chiêm ngưỡng. Bởi nơi đây không có cáp treo như Fansipa ở Sapa, mà bạn chỉ có thể tự mình băng qua những cung đường đầy cây cỏ, sỏi đá,…để đặt chân lên đỉnh núi. Vào mùa xuân, núi Tả Liên rợp sắc hồng của hoa đỗ quyên tươi thắm, nhất là khu vực gần trên đỉnh núi. Hè sang, thảm thực vật trong rừng xanh ngát. Mùa thu có những cây lá phong với sắc đỏ sắc vàng rực rỡ từ tháng 10 – 11, chưa kể còn có mùa hoa trà trắng tinh khôi dọc khắp khu rừng. Sau hành trình vất vả leo núi, du khách có cơ hội chiêm ngưỡng những loài cây bụi mọc um tùm. Bạn có thể leo lên những bụi cây này để nhìn ngắm thành phố Lai Châu ẩn hiện dưới lớn sương mờ. Hoặc phóng tầm nhìn thưởng thức cảnh đẹp của dãy Hoàng Liên Sơn với đỉnh Bạch Mộc Lương Tử, Putaleng, Nhìu Cồ San,… thấp thoáng giữa đại dương mây.
Lai Châu 2052 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12