Ứng dụng thuyết minh khám phá du lịch Việt Nam

Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch Travelviet

Tải ứng dụng Travelviet

Logo Travelviet

Di tích lịch sử

Việt nam

Hang động Tả Phìn

Di tích quốc gia – danh lam thắng cảnh Hang động Tả Phìn nằm ở xã Tả Phìn, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai, cách thị trấn Sapa 12km chếch về phía Bắc, đây là nơi có hai dân tộc Dao và Mông sinh sống, cũng là nơi có nhiều giá trị nghiên cứu, khảo cổ, và thu hút nhiều du khách đến tham quan du lịch. Tới Sapa, du khách muốn ghé thăm quan Hang động Tả Phìn, du khách sẽ đi qua thị trấn xuống bản Tả Phìn, cách trụ sở UBND xã Tả Phìn gần 1km về phía Bắc có dãy núi đá vôi, là một nhánh núi của dãy núi Hoàng Liên Sơn. Trong dãy núi này có một quả núi nhỏ, dưới chân núi du khách nhìn thấy một vết nứt xuất hiện một cửa hang, chiều cao khoảng 5m, rộng khoảng 3m, mở ra một lối đi xuyên xuống đất, thu hút sự tò mò của du khách đến nơi đây khám phá hang động. Bắt đầu chuyến hành trình khám phá xuyên xuống lòng đất, du khách đi khoảng hơn 30m trong tối tăm, gập ghềnh sẽ gặp một hang động. Từ đây, động chia thành rất nhiều ngả chúc xuống lòng đất chỉ vừa một người chui lọt, nhiều đoạn cheo leo phải bám vào những tai đá, đu người mà lên xuống. Đi theo những vách nhỏ này càng tỏa ra nhiều lối, thậm chí có những ngách đi vòng vèo, rích rắc và cuối cùng vẫn trở về vị trí ban đầu. Để tiếp tục hành trình khám phá hang động, du khách đi theo đường của vách lớn, ở đây du khách có được cảm giác như đang xuyên lên vách núi, đường đi ngoằn nghèo, lúc lên lúc xuống, chỗ phình to chỗ giống người thiếu phụ đang bồng con, chỗ giống các nàng tiên đang tắm, chỗ giống mâm xôi khổng lồ với những mảng nham thạch xù xì phớt trắng, những mảng san hô bám viền xung quanh, có chỗ giống như những dãy cột nhà trắng mịn buông từ trên nóc xuống… Đặc biệt, chỗ rộng nhất lòng động trên vòm cao khoảng 8m, tạo điều kiện cho các nhũ đã rủ xuống, đan xen vào nhau không theo một thứ tự sắp xếp nào, uốn lượn, nhấp nhô, long lanh màu ngọc bích, có những giọt nước từ đỉnh núi thấm dần rồi đọng lại nơi chóp của nhũ đá thánh thót nhỏ giọt, như điểm từng nhịp trong không gian hư ảo. NGUỒN: Ủy ban nhân dân tỉnh Lào Cai

Lào Cai 1833 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Thành cổ Nghị Lang

Thành cổ Nghị Lang Thành cổ Nghị Lang hay còn gọi là đền Phúc Khánh nằm ở thung lũng Phố Ràng, thuộc huyện Bảo Yên, Lào Cai, được công nhận di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia năm 2002. Thành cổ Nghị Lang là điểm linh thiêng thờ các vị Chúa Bầu, mang dấu tích oanh liệt hùng cứ một phương chống nhà Mạc, bảo vệ biên cương của các chúa Bầu bảo vệ nhân dân, bảo vệ đất nước. Lễ hội thờ cúng Chúa bầu diễn ra ngày 10/1 âm lịch hàng năm, nhân dân tụ họp lại để tưởng nhớ công ơn bảo vệ nước của các vị chúa Bầu. NGUỒN: Du lịch Việt Nam

Lào Cai 1119 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Bảo Hà

Đền Bảo Hà Nhắc đến huyện Bảo Yên thì không ai không biết đến đền Bảo Hà, một trong những địa chỉ thu hút khách thập phương đông nhất của huyện này. Đền Bảo Hà thờ thần vệ quốc Hoàng Bẩy, một vị anh hùng miền sơn cước đánh giặc giữ buôn làng. Đền Bảo Hà rất uy nghi, tĩnh mặc, phong cảnh thiên nhiên nơi đây lại hữu tình: trên bến, dưới thuyền, còn xung quanh là núi rừng bao la, rộng lớn một màu xanh mướt. Hội chính đền của Bảo Hà được tổ chức ngày 17 tháng 7 âm lịch hàng năm – tức ngày giỗ tướng Hoàng Bảy, thu hút đông đảo du khách trong và ngoài vùng đến tham dự. Trong lễ hội này có tổ chức rước kiệu, tế thần, dâng hương tưởng niệm, cùng các hoạt động văn hoá - thể thao mang đậm chất lễ hội văn hóa Việt Nam. Những ngày thường - đặc biệt là vào mùa xuân khách thập phương trong cả nước vẫn thường xuyên tụ họp tại đây để thắp hương tưởng niệm, cầu an, cầu lộc, làm không khí ở đền vui tươi hẳn lên.

Lào Cai 1190 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Ông

Chùa Ông hay có tên gọi khác là Bản Tịch tự, toạ lạc tại thôn Bình Lương, xã Tân Quang, huyện Văn Lâm. Ngôi chùa mang vẻ đẹp cổ kính, linh thiêng được xây dựng từ thời vua Lý Thần Tông đến nay đã gần 1000 năm tuổi. Đây là niềm tự hào của người dân Văn Lâm nói riêng và là di tích lịch sử văn hóa có giá trị lâu đời của xứ nhãn Hưng Yên. Cách trung tâm Thủ đô Hà Nội khoảng 19km, dọc theo tuyến Quốc lộ 5 hướng Hà Nội - Hải Phòng, rẽ phải vào thôn Bình Lương, xã Tân Quang (huyện Văn Lâm) là ngôi chùa cổ được nhân dân nơi đây gọi là chùa Ông. Theo văn bia của chùa (nay chỉ còn thác bản hiện lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm), ngôi chùa được khởi dựng dưới thời vua Lý Thần Tông (1128 - 1138). Văn bia mang ký hiệu 5527 - 5528, trên trán bia đề: Bản Tịch tự bi minh, niên đại bia đề thời Lê Chính Hòa thứ 20 (1644), nội dung bia ghi việc thờ đức Thiền sư Từ Đạo Hạnh và ý nghĩa việc đặt tên chùa là chùa Bản Tịch. Chùa Ông dưới thời Lê là nằm trên địa phận hai thôn Bình Lương, Lương Xá, xã Đình Loan, huyện Gia Lâm, phủ Thuận An thuộc xứ Kinh Bắc. Năm Minh Mạng thứ 13 (1834) đổi thành tỉnh Bắc Ninh. Tới cuối đời Nguyễn mới gọi là huyện Văn Lâm thuộc tỉnh Hưng Yên. Trong chùa hiện còn tượng đồng Thiền sư Từ Đạo Hạnh, vua Lý Thần Tông (đời thứ 5 nhà Lý - cũng là hiện thân Từ Đạo Hạnh sau sự trút xác ở núi Thầy). Chùa được bố trí hài hòa cân xứng theo kiểu chữ Tam bao gồm các hạng mục: Tiền đường, trung từ và hậu cung. Năm 1938, chùa được trùng tu, tôn tạo lại, kết cấu các vì theo kiểu chồng rường bào trơn có điểm hoa văn. Toàn bộ khung, cột của ngôi cổ tự được làm bằng gỗ lim rắn chắc, kết hợp với kiến trúc cổ chạm khắc công phu tạo cho tòa tiền đường một thế vững chắc mang tính nghệ thuật cao. Đến đây, du khách sẽ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp cổ xưa của ngôi chùa mang kiến trúc nghệ thuật rất công phu và độc đáo. Bước vào cổng chùa là không gian an yên, tĩnh tại với mái chùa rêu phong trầm mặc. Theo sách sử, chùa Ông được vua Lý Thần Tông xây dựng vào mùa xuân. Do vậy, mỗi dịp xuân về, nhân dân thôn Bình Lương nói riêng và nhân dân xã Tân Quang cùng du khách thập phương lại tụ hội về đây mở hội, làm lễ dâng hương để tưởng nhớ đến người đã có công đánh giặc giữ nước, dựng chùa. Lễ hội truyền thống chùa Ông diễn ra vào 3 ngày, từ ngày 7 tháng 3 đến ngày 9 tháng 3(Âm lịch) trong đó ngày 9 tháng 3 là hội chính. Năm 2001, Chùa được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia, là niềm tự hào của người dân Văn Lâm. Nguồn Cục di sản văn hóa .

Hưng Yên 2078 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đỉnh Fansipan

CTTĐT - UBND tỉnh Lào Cai vừa ban hành văn bản số 1396/QĐ-UBND ngày 7/6/2024 Quyết định xếp hạng Khu vực đỉnh Fansipan là di tích danh lam thắng cảnh cấp tỉnh. Theo đó, UBND tỉnh Lào Cai xếp hạng Khu vực đỉnh Fansipan, xã Hoàng Liên, thị xã Sapa, tỉnh Lào Cai là di tích danh lam thắng cảnh cấp tỉnh. Khu vực bảo vệ di tích được xác định theo Biên bản khoanh vùng các khu vực bảo vệ di tích và Bản đồ khoanh vùng các khu vực bảo vệ di tích trong hồ sơ khoa học di tích. UBND tỉnh giao cho Sở Văn hóa và Thể thao, UBND thị xã Sapa xây dựng phương án bảo vệ, quản lý, tu bổ và sử dụng di tích danh lam thắng cảnh Khu vực đỉnh Fansipan theo đúng quy định hiện hành của nhà nước. Khu vực đỉnh Fansipan, thôn Sín Chải, xã Hoàng Liên, thị xã Sa Pa là khối núi cao nhất trên dãy Hoàng Liên Sơn, có biệt danh “Nóc nhà Đông Dương” với độ cao 3.143m, hình thành cách ngày nay khoảng 260-250 triệu năm. Năm 1905, đoàn khảo sát người Pháp đã tổ chức thám hiểm và đặt mốc tiêu đầu tiên trên khu vực đỉnh Fansipan để thiết lập tọa độ của các điểm trắc địa trong khu vực. Từ đây, Fansipan xuất hiện trong bản đồ và tư liệu của người Pháp ghi chép về Sapa, trở thành một địa điểm du lịch cho những người ưa thích phiêu lưu, mạo hiểm. Khu vực đỉnh Fansipan trở thành thương hiệu du lịch Sa Pa, được đông đảo du khách trong nước, du khách quốc tế biết đến và mong muốn chinh phục NGUỒN: Ủy ban nhân dân tỉnh Lào Cai

Lào Cai 1295 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Động Thiên Long

Thiên Long, xã Tả Ván Chư, huyện Bắc hà, tỉnh Lào Cai đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng di tích quốc gia tại Quyết định số 3578/QĐ-BVHTTDL, 3579/QĐ-BVHTTDL ngày 18/10/2013. Danh lam thắng cảnh Động Thiên Long, xã Tả Van Chư, huyện Bắc Hà, thường được người địa phương gọi là “Hang Rồng”. Động Thiên Long nằm sâu trong lòng Núi Rồng, ở độ cao trên 1000m so với mực nước biển, còn giữ được vẻ đẹp nguyên sơ, kỳ bí với nhiều tầng lớp thạch nhũ lớn, kỳ vĩ. Tổng chiều dài của động khoảng 470 m, được chia làm 3 tầng khác nhau, mỗi tầng có một đặc thù riêng. Tầng một có chiều dài khoảng 115m, mặt bằng rộng, nền được tạo thành bởi những tảng đá lớn, bao phủ lên là một lớp đất trầm tích màu đen, xốp, vòm hang của tầng 1 cao thoáng (khoảng 8m - 10m) trên đó có những mảng nhũ đá lớn, các mảng thạch nhũ được thiên nhiên kiến tạo với nhiều hình thù đa dạng phong phú, vách động với những lớp thạch nhũ bám vào thành, trải qua thời gian dài kiến tạo, đã làm nên những bức tranh thủy mặc trong sáng, mờ ảo. Tầng hai của động có chiều dài ngắn hơn tầng một, nhưng có lượng nhũ đá nhiều hơn và phong phú hơn về hình dáng, kích cỡ và màu sắc, tầng 2 có nền bằng phẳng, lòng hang rộng vòm cao nên đi lại thuận lợi. Tầng ba của động dài và có độ dốc khá lớn, lòng hang rộng có nhiều thạch nhũ hình thù khác nhau, toàn bộ tầng 3 giống như một cái túi lớn, đặc biệt ở đây có lớp trầm tích phủ dầy lên nhau. Khu vực bảo vệ di tích được xác định theo biên bản và bản đồ khoanh vùng các khu vực bảo vệ di tích trong hồ sơ. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch yêu cầu UBND các cấp nơi có di tích được xếp hạng trong phạm vi nhiệm vụ và quyền hạn của mình thực hiện việc quản lý Nhà nước đối với di tích theo quy định của pháp luật về di sản văn hóa. NGUỒN: Ủy ban nhân dân tỉnh Lào Cai

Lào Cai 1237 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Ruộng bậc thang Sa Pa

Ruộng bậc thang Sa Pa thuộc xã Lao Chải, xã Tả Van, xã Hầu Thào, huyện Sa Pa được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng di tích quốc gia tại Quyết định số 3578/QĐ-BVHTTDL, 3579/QĐ-BVHTTDL ngày 18/10/2013. Di tích quốc gia - danh lam thắng cảnh Ruộng bậc thang Sa Pa nằm ở thung lũng Mường Hoa, cách thị trấn Sa Pa gần 10 km về phía Tây Nam. Đây là quần thể ruộng bậc thang lớn nhất Việt Nam, rộng 935,4 ha, thuộc địa bàn các xã Lao Chải, Tả Van, Hầu Thào huyện Sa Pa. Năm 2009, Tạp chí Du lịch Travel and Leisure của Mỹ đã bình chọn danh thắng Ruộng bậc thang Sa Pa nằm trong top 7 ruộng bậc thang đẹp kỳ vĩ nhất châu Á và thế giới. NGUỒN: Ủy ban nhân dân tỉnh Lào Cai

Lào Cai 1092 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Đại Hạnh

Ngày 16/5/2024, Bộ trưởng Bộ văn hóa Thể thao và du lịch đã ký ban hành quyết định số 1328/Quyết Định - Bộ Văn Hóa Thể Thao Du Lịch về việc xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia đối với Đình Đại Hạnh, xã Hoàn Long, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên. Đình Đại Hạnh là một trong số rất nhiều di tích trong tỉnh Hưng Yên thờ Đức Thánh Chử Đồng Tử - Tiên Dung công chúa và Tây Sa công chúa thời Hùng Vương thứ 18. Đây là Tam vị Thánh hóa được liệt vào hàng Tứ bất tử trong hệ thống linh thần Việt Nam. Đồng thời, chúng ta có thể coi Chử Đổng Tử là ông tổ của ngành thương mại Việt Nam, là người đầu tiên mở mang việc buôn bán, thông thương Quốc tế. Đình Đại Hạnh được khởi dựng từ sớm, trùng tu vào các thời Hậu Lê, Nguyễn. Hiện tại đình có bố cục mặt bằng tổng thể hình chữ Công gồm tòa Đại bái 03 gian 02 chái, Ống muống 01 gian và Hậu cung 03 gian. Các cấu kiện kiến trúc được làm bằng gỗ với nhiều mảng chạm khắc đẹp, đặc biệt là tòa Đại bái vẫn giữ được gần như nguyên vẹn dấu ấn kiến trúc chạm khắc tiêu biểu thời Hậu Lê thể hiện nhiều đề tài trang trí, các điển tích dân gian vô cùng phong phú và đa dạng như: tứ linh, tứ quý, tùng lộc, chim trĩ,... mang đậm phong cách kiến trúc và mỹ thuật thời Hậu Lê, thời Nguyễn. Ngoài ra, tại đình còn lưu giữ nhiều di vật tiêu biểu có giá trị như: Đại tự, câu đối,… Theo quyết định, Khu vực bảo vệ di tích được xác định theo Biên bản và Bản đồ khoanh vùng các khu vực bảo vệ di tích trong hồ sơ. Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch giao Uỷ Ban Nhân Dân các cấp nơi có di tích được xếp hạng, trong phạm vi nhiệm vụ và quyền hạn của mình, thực hiện việc quản lý Nhà nước đối với di tích theo quy định của pháp luật về di sản văn hóa. Nguồn Sở văn hóa thể thao và du lịch.

Hưng Yên 1635 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

HANG RỒNG

Với vẻ đẹp quyến rũ của các nhũ đá do tạo hóa sinh ra với nhiều hình thù khác nhau: Từng nhũ đá to bằng củ xu hào hay cái bắp cải nối tiếp nhau tạo thành vòng tròn tỏa xuống như chùm đèn pha lê của ngôi nhà biệt thự sang trọng; hay tạo thành chiếc cột chống trời với nhiều nét hoa văn tỉ mỉ; có khi là hình tượng Phật “Quan Thế Âm Bồ tát” và “Phật tổ Như Lai” đang ngồi tụng kinh. Thỉnh thoảng lại xuất hiện những cánh tay bằng đá giống những tua con sứa vươn dài đang bơi mà anh bạn tôi đi cùng vô tình gõ vào đã toát lên những âm thanh du dương như tiếng đàn ta lư của đồng bào dân tộc Vân kiều. Do đó, có người đã ví hang Rồng như hình ảnh “Động Thiên Cung” của vịnh Hạ Long thu nhỏ trên Cao nguyên đá; với hai hang động có tổng diện tích khoảng chừng 300m2 nhưng đã làm níu chân nhiều du khách chẳng muốn về. Chính vẻ đẹp quyến rũ như vậy, mà hang Rồng đã được Bộ VHTTDL xếp hạng di tích quốc gia. NGUỒN Báo điện tử Dân Việt

Tuyên Quang 1698 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Thọ Nham Hạ

Theo Thần tích, Thần sắc của huyện Kim Động và những tư liệu tại địa phương, đình Thọ Nham Hạ thờ Thánh Tam Giang hay còn gọi là Tam Giang Đại Vương. Ông sinh ra trong một gia đình có 5 anh em vào đời vua tiền Lý Nam đế, từng theo Triệu Quang Phục đánh giặc Lương. Đình được khởi dựng từ rất sớm. Ban đầu, ngôi đình có quy mô nhỏ, làm bằng vật liệu tranh tre, nứa, lá đơn giản. Trải qua thời gian, đình được trùng tu, tôn tạo nhiều lần dưới thời Hậu Lê và thời Nguyễn. Dấu ấn kiến trúc hiện tại của ngôi đình là từ lần trùng tu lớn dưới thời Nguyễn niên hiệu Bảo Đại thứ 15 (1940) với quy mô kiến trúc bề thế, gồm nhiều hạng mục công trình: Đại bái, Hậu cung, nghi môn, giếng đình, giải vũ, nhà bia,... Nghi môn đình Thọ Nham Hạ gồm ba cổng: Cổng giữa xây dạng cột trụ biểu rộng và cao hơn hẳn so với hai cổng phụ. Đỉnh cột trụ chính đắp “tứ phượng tụ vĩ” (4 con chim phượng chụm đuôi vào nhau). Phần ô lồng đèn trang trí tứ linh (long, lân, quy, phượng), hổ phù ngậm chữ Thọ. Thân trụ xây vuông, đắp gờ, kẻ nổi và đắp câu đối chữ Hán. Hai cổng phụ làm kiểu chồng diêm hai tầng tám mái, đường bờ nóc đắp con kìm ngậm đầu bờ nóc, chính giữa là hình tượng mặt trời với các đao lửa. Mái trên và dưới đắp giả ngói ống, các đầu đao trang trí hoa văn mềm mại. Phần cổ diêm đắp nổi chữ Hán. Thân cổng phụ xây vuông, đắp gờ, kẻ nổi và đắp câu đối chữ Hán. Qua khoảng sân rộng là đến khu thờ chính có kết cấu kiểu chữ Đinh (丁) gồm 05 gian 02 chái Đại bái và 03 gian Hậu cung, mặt tiền hướng Tây Nam, các cấu kiện kiến trúc được làm bằng gỗ mang đậm nét kiến trúc thời Nguyễn. Đại bái làm kiểu tường hồi bít đốc, mái lợp bằng ngói ta. Bờ nóc là một đường xây bằng gạch, phủ vữa áo tạo những đường gờ chạy song song. Trung tâm bờ nóc đắp hình lưỡng long chầu nhật, rồng uốn ba khúc khỏe mạnh, đầu vươn cao. Kết thúc đường bờ nóc là hai đấu vuông thót đáy và hai con kìm dạng đầu rồng há miệng ngậm bờ nóc, đuôi là một vân xoắn có dạng dấu hỏi “?” ngược lớn chạy từ đầu vươn ra phía sau, toàn thân chầu về phía trung tâm bờ nóc. Bờ dải được xây vuông góc với đường bờ nóc theo kiểu giật cấp để nguyên không trang trí. Cuối bờ dải là hai bức tường lửng và hai cột trụ biểu. Cột đồng trụ cao 7m, đỉnh cột đắp long cuốn ổ cách điệu quả dành dành, 4 chân quỳ, 4 góc đắp 4 phượng. Phần ô lồng đèn đắp nổi tứ linh (long, lân, quy, phượng). Thân cột xây vuông, đắp gờ, kẻ nổi và thể hiện 3 đôi câu đối chữ Hán. Ngăn cách giữa Đại bái và hiên là ba luồng cửa. Cửa đình được làm theo lối cửa bức bàn. Mỗi cửa gồm bốn cánh dựng song song với nhau trên bậu cửa nối hai cột quân lại tạo ra sự kết nối liên hoàn, chắc chắn giữa các thành tố bộ phận trong tổng thể kiến trúc ngôi đình. Các cánh cửa đều có trụ xoay, cài then, chốt gióng. Đỡ cửa bức bàn là ngưỡng để hệ thống cửa không tiếp xúc với đất gây ẩm mốc, hư hỏng, trang trí hoa văn triện tàu lá mái. Phần trên khuôn cửa để hàng chấn song con tiện và các khoảng ô sa chạm trang trí tứ linh, tứ quý. Nền Đại bái lát gạch vuông. Bộ khung chịu lực toà này được định vị vững chắc bởi hệ thống cột cái, cột quân, xà, vì,... Hệ thống cột đứng song hàng thành từng cặp (gồm 12 cột cái và 12 cột quân). Các cột trong vì đều có kết cấu “thượng thu hạ thách”, được kê lên chân tảng. Các bộ vì tòa Đại bái được làm theo kiểu “vì chồng rường”. Các con rường được tạo tác nổi khối, to khỏe tạo sự vững chắc, trang trí hoa văn lá lật mềm mại, kê trên các đấu vuông trang trí chữ Thọ. Vì nách làm kiểu cốn mê, trang trí tứ linh (long, lân, quy, phượng), tứ quý (tùng, trúc, cúc, mai) rất sinh động. Dưới quá giang là hai đầu dư được trang trí thành hai đầu rồng với các đao mác lượn sóng, râu tóc dài bay ra phía sau và cá hóa long. Bộ phận này có tác dụng chịu lực và trang trí làm giảm bớt đi sự thô cứng cho các bộ vì. Hậu cung đình gồm 03 gian, được chia thành hai phần, ngăn cách bằng hệ thống cửa gồm: Hậu cung ngoài 01 gian và cung cấm 02 gian. Cũng giống như tòa Đại bái, các bộ vì Hậu cung được làm theo kiểu “vì chồng rường”. Toàn bộ phần mái Hậu cung được đặt trực tiếp lên hệ thống cột, tường bao xung quanh và được lợp ngói ta. Hậu cung ngoài thông phong với tòa Đại bái. Đặc biệt, tại đây còn lưu giữ một bát hương sứ men xanh ngọc, nổi rõ các vân mây, 5 ô hoa văn long hóa giữa chữ Thọ, có niên đại thời Lê Cảnh Hưng. Bên phải ban thờ Tam Giang Đại vương đặt ban thờ Quế Hoa Công chúa. Tượng bà Quế Hoa được đặt trong khám thờ chạm trang trí kiểu khám trúc, lèo kép, lồng khung kính. Tượng làm bằng đồng, cao 61cm, dày vai 32cm, dày hông 43cm. Tượng được tạc trong tư thế ngồi trên bệ sơn son thiếp vàng hình bát giác, dáng thư thái như bà chúa trong triều, gương mặt đẹp; cổ kiêu 3 ngấn, tai đeo nụ vàng, đầu đội mũ vương miện, cổ đeo dây chuyền 4 vòng, mình mặc áo gấm, trên áo trang trí chạm đúc nổi các đồng tiền vàng giữa chữ Thọ. Tay trái để úp vào đùi, tay phải để trên đùi nghiêng vào lòng. Ngoài ra, trên ban thờ còn bài trí nhiều đồ thờ có giá trị như: đỉnh đồng, chân nến đồng, bát hương sứ,… Hiện nay, đình Thọ Nham Hạ còn lưu giữ được một số hiện vật, đồ thờ được chạm khắc đẹp, có giá trị về mặt lịch sử và mỹ thuật có niên đại thời Hậu Lê và Nguyễn như: bát hương sứ men ngọc, 04 bức đại tự, 03 đôi câu đối, 03 bức châm, 04 sắc phong (1 Thành Thái, 3 Khải Định), 02 khám thờ, 01 đỉnh đồng, tượng Quế Hoa công chúa,… Với những giá trị tiêu biểu trên, đình Thọ Nham Hạ, xã Thọ Vinh, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên được Bộ trưởng Bộ Văn hóa – Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng là Di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia theo Quyết định số 78/2004/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thông Tin ngày 23/8/2004./. Nguồn Cục di sản văn hóa .

Hưng Yên 1605 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Chợ tình Khau Vai

Chợ tình Khau Vai là di tích lịch sử văn hóa do ông Đàm Văn Bông (chủ tịch UBND tỉnh Hà Giang) ký ngày 25-4-2011. Chợ tình Khau Vai hay còn gọi là chợ tình Phong Lưu có lịch sử hơn 90 năm nay, mỗi năm chỉ diễn ra một lần tại bản Khau Vai (xã Khau Vai, huyện Mèo Vạc, Hà Giang). Đó là phiên chợ của những đôi trai gái người Mông, Tày, Nùng, Giáy... yêu nhau nhưng không nên duyên chồng vợ mỗi năm gặp nhau một lần ở Khau Vai. Chợ tình Khau Vai bắt đầu từ đêm 26 và kết thúc vào chiều tối 27-3 âm lịch. Sau này chợ tình Khau Vai còn là nơi hẹn hò của các đôi trai gái, thu hút nhiều du khách trong và ngoài nước. NGUỒN: Truyền thông sự kiện Việt Nam

Tuyên Quang 1957 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Hang Tiên

Hang Tiên nằm trong lòng dãy núi đất xen lẫn đá vôi, có rừng cây bao phủ. Hang được hình thành do quá trình kiến tạo địa chất (Karst), đá vôi bị rửa lũa bởi nước mưa len qua hệ thống khe nứt. Hang liên thông với bên ngoài bằng một cửa duy nhất, trong lòng hang có dạng mái vòm, nhũ đá xuất hiện dày đặc ở khắp thành và trần hang, nhiều cột nhũ kéo từ trần hang xuống tới nền hang. Trong lòng hang quá trình tạo nhũ vẫn đang tiếp diễn do nước từ trên mặt đất ngấm qua trần và thành hang nhỏ xuống, kéo dài từ cửa hang vào đến phía trong cửa hang dài gần 200m. Các nhũ đá có rất nhiều hình dáng, kích thước, màu sắc khác nhau như hình sư tử, chim, cá, voi, đầu rồng, đèn lồng, hình dáng của các loại hoa hồng, sen, cúc, đặc biệt có hình dáng nàng thiếu nữ đang ngồi may, vá trang phục… Những nhũ đá này phải trải qua hàng nghìn năm kiến tạo, hình thành. Hang Tiên được bảo tồn nguyên trạng, chưa có sự tác động hoặc xâm hại của con người. Hang Tiên cách Làng Văn hóa du lịch cộng đồng thôn Chì khoảng 500m, cách các Làng Văn hóa du lịch cộng đồng thôn Then và thôn Chang, xã Xuân Giang khoảng từ 3 – 5km. Vị trí phân bố hang Tiên khá thuận lợi cho khách tham quan trải nghiệm, đường lên hang không xa và dễ di chuyển kể cả các lối đi trong lòng hang. Vì vậy, hang Tiên có tiềm năng để khai thác và phát triển du lịch trong tương lai để du khách tham quan, trải nghiệm trong thời gian lưu trú trên địa bàn xã Xuân Giang nói riêng và địa bàn huyện Quang Bình nói chung. NGUỒN: Discover Hà Giang

Tuyên Quang 1867 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Khu vực Hóa thạch Huệ Biển

Bộ Văn hóa Thể thao Du lịch đã có công văn số 3087,3088,3089/QĐ-BVHTTDL ngày 23/9 về việc xếp hạng di tích quốc gia cho danh lam thắng cảnh cho khu vực Hóa thạch Huệ Biển tại tỉnh Hà Giang. Là một tỉnh vùng cao biên giới, địa hình đi lại khó khăn, khí hậu tương đối khắc nghiệt nhưng Hà Giang lại được thiên nhiên ban tặng nhiều danh lam thắng cảnh tuyệt đẹp. khu vực Hóa thạch Huệ Biển - danh lam thắng cảnh của tỉnh đã chính thức trở thành Di tích cấp quốc gia. Khu vực Hóa thạch Huệ Biển là một địa điểm nơi có những hóa thạch Huệ Biển được phát hiện lớn hơn những nơi khác, đồng thời cũng có mật độ phân bố dày hơn. Hoa huệ biển tên khoa học là Endoxocrinus parrae, sở dĩ loài hoa này được đặt tên Huệ Biển bởi hình dáng giống hệt một loài hoa bám dưới đáy đại dương. Chúng là nhóm động vật da gai cổ nhất còn tồn tại đến ngày nay, các nhà khoa học đã tìm thấy khoảng 5000 mẫu hoá thạch và hơn 600 loài hiện sống tại khu vực danh thắng này. NGUỒN: TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ HUYỆN MÈO VẠC

Tuyên Quang 1718 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Đồng Hạ

Đình Đồng Hạ nằm trên một thế đất cao ráo, thoáng mát ngay trung tâm của làng, phía trước là ao đình - nơi hội tụ những điều may mắn. Căn cứ vào bia ký niên hiệu Cảnh Trị thứ 4 sắc phong di tích có từ thời Hậu Lê (1783) do nhân dân xã Đức Chiêm xây dựng đã trùng tu lần 1 vào năm Canh Ngọ đời Nguyễn và lần 2 vào năm 1991. Đình Đồng Hạ thờ Lưu Lang đại vương có công cùng Đinh Bộ Lĩnh dẹp yên 12 xứ quân. Đình còn ghi lại nhiều sự kiện lịch sử của địa phương trong thời kỳ cách mạng kháng chiến chống Pháp và Mỹ. Kiến trúc đình được xây dựng theo kiểu chữ Đinh gồm: Đại Bái và Hậu Cung. Đứng từ xa ta có thể nhìn thấy 4 mái của di tích với 4 đầu đao cong vút nhờ một hệ thống kết cấu đặc biệt gọi là tầu đao lá mái. Để tạo nên sự uy linh cho di tích, các nghệ nhân xưa đã đắp nổi hình rồng chầu, phượng mớm và nghê nằm soài chầu nhau. Bờ nóc, bờ dải, bờ guột của đình được trang trí hình ô hoa chanh, đây là đặc điểm nghệ thuật thường xuất hiện ở thế kỷ XVII. Đại Bái có 5 gian 2 dĩ dài thông thủy, mỗi gian rộng 4m, mỗi dĩ rộng 0,7m với tổng diện tích 300m2. Toàn bộ hệ thống cột được làm bằng gỗ lim nguyên cây theo kiểu “thượng thu hạ thách” và đặt trên các tảng đá kê theo kiểu âm dương “dưới vuông trên tròn”. Hai gian giữa có hai bộ vì làm theo kiểu giá chiêng chồng giường và được cách điệu hóa hình hoa văn guột lá, hình đao mác; những đấu kê chạm khắc hình chữ Thọ; các mảng cốn được chạm khắc nổi hình đuôi rồng và nối tiếp với các đầu dư. Các đầu dư thời Lê hình đao hỏa uy nghi, uy quyền. Vì vậy, đứng ở dưới nhìn lên sẽ thấy hình một con rồng nguyên vẹn. Hậu cung gồm 3 gian với kiểu kiến trúc giá chiêng đơn giản bằng gỗ lim. Ở giữa là một ban thờ được bài trí hai ngai thờ Lê, chân ngai quỳ theo kiểu hổ phù. Hai tay ngai cách điệu phượng bay. Bài vị trang trí rồng, hoa chanh... Hiện nay, Đình Đồng Hạ còn lưu giữ được một số hiện vật quý giá như bia lưu lễ ghi niên hiệu Cảnh Trị thứ 4, bia hậu Khải Định thứ 5, kiệu bát cống, long ngai, bài vị, đỉnh, nến đồng, sắc phong... Đình vẫn được bảo quản, giữ gìn tốt, là nơi sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng của nhân dân địa phương. Với những giá trị trên, đình Đồng Hạ, xã Đức Hợp, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên được Bộ trưởng Bộ Văn hóa – Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng là Di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia theo Quyết định số 78/2004/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao ngày 23/8/2004./. Nguồn Cục Di Sản Văn Hóa .

Hưng Yên 1783 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Kỳ Đài Quảng trường 26/3

Kỳ Đài Quảng trường 26/3, là địa điểm cũ của “Sân Vận Động” Thành phố Hà Giang trước đây. Năm 1959 Kỳ Đài được xây dựng nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao của nhân dân các dân tộc trong tỉnh Hà Giang. Đầu xuân năm 1961 Bác Hồ về thăm tỉnh Hà Giang, vào buổi sáng đẹp trời ngày 27/3 tại Kỳ Đài đã diễn ra sự kiện lịch sử quan trọng, đó là toàn thể cán bộ, chiến sỹ, các lực lượng vũ trang và đồng bào các dân tộc trong tỉnh được gặp Bác Hồ. Kỳ Đài trở thành di tích lịch sử, tại nơi đây, tượng đài Bác Hồ với đồng bào các dân tộc Hà Giang được xây dựng, khánh thành năm 2005, để nhớ mãi sự kiện lịch sử Bác Hồ với Hà Giang. Kỳ Đài đã được trùng tu, Sân Vận Động xưa nay đã được nâng cấp thành Quảng Trường của tỉnh Hà Giang và Kỳ Đài trở thành nơi giáo dục truyền thống cho các thế hệ con em các dân tộc trong tỉnh. NGUỒN: TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ THÀNH PHỐ HÀ GIANG

Tuyên Quang 2110 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Núi Đôi Quản Bạ

Núi đôi Quản Bạ dường như đã là điểm đến quá quen thuộc với các tín đồ yêu du lịch. Nơi đây luôn có sức hấp dẫn lạ kỳ với du khách. Hình ảnh núi đôi Quản Bạ mang đặc trưng rất riêng. Ngọn núi đôi này như một điểm nhấn đặc biệt giữa núi rừng. Hai ngọn núi tọa lạc tại khu vực phía Tây Nam của Cao nguyên đá Đồng Văn. Ngọn núi đôi như một biểu trưng cho sự trù phú của mảnh đất mà chúng đang ngự trị. Núi đôi Quản Bạ còn được biết đến với tên gọi khác là núi đôi hoặc núi Cô Tiên. Chúng đã được hình thành cách đây từ 1,6 triệu đến 2 triệu năm. Ngọn núi với hình dáng tròn trịa, căng đầy như bộ ngực của nàng tiên đang say giấc nồng. Dường như bất kỳ ai đến với Hà Giang cũng đều đến và check-in cùng tuyệt tác thiên nhiên này. Núi đôi Quản Bạ thu hút du khách không chỉ bởi sự độc đáo của hai quả núi. Một điểm nhấn ấn tượng không kém là khung cảnh thiên nhiên giàu đẹp đã bao lấy nơi đây. Tạo hóa đã rất ưu ái khi ban tặng cho nơi đây bức tranh phong cảnh đầy tuyệt vời. Du khách sẽ được ngắm nhìn những thửa ruộng kéo nhau trải dài. Xen lẫn trong đó là các dãy núi nhấp nhô xanh rì. Và vào mỗi thời điểm khác nhau, núi rừng Quản Bạ lại mang đến màu sắc đặc trưng riêng. Chính điều đặc sắc này là điểm nhấn đặc sắc đã níu chân biết bao du khách. Dù đến đây bao lần thì cũng đều có những cảm nhận khác nhau. Có thể nói, núi đôi Quản Bạ như một biểu tượng của Hà Giang. Và nơi này đã được tạo nên từ hàng trăm triệu năm trước. Đây là sản phẩm được tạo thành dựa trên sự kiến tạo của tạo hóa. Cùng với đó là sự đứt gãy của vỏ trái đất đã góp phần tạo nên những dãy núi đá vôi. Núi đôi Quản Bạ đã được công nhận là di tích danh thắng cấp quốc gia của nước ta. Hình ảnh đặc trưng này như một điểm nhấn của vùng đất Hà Giang. Sẽ là điều rất đáng tiếc nếu bạn đến với Hà Giang mà lại bỏ qua điểm đến hấp dẫn này. Phải một lần đến đây và nhìn ngắm trực tiếp thì bạn mới có thể cảm nhận được vẻ đẹp tuyệt vời này. Cổng trời Quản Bạ Hà Giang - Núi đôi được xem là “cửa ngõ” mở ra con đường để chinh phục khu vực cao nguyên đá Đồng Văn. Bạn có thể xem xét và tìm hiểu kỹ để lên một lịch trình trọn vẹn. Điều đó sẽ giúp bạn có một hành trình khám phá đầy trọn vẹn. NGUỒN: Việt Nam Booking

Tuyên Quang 2209 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Ruộng bậc thang Hoàng Su Phì

Là huyện vùng cao núi đất ở phía tây, Hoàng Su Phì từ lâu đã nổi tiếng với những thửa ruộng bậc thang đẹp nhất của Hà Giang, trải dài mênh mông khắp các sườn núi, vốn được coi là minh chứng cho nghị lực phi thường và khả năng cải tạo, chinh phục tự nhiên của cộng đồng các dân tộc nơi đây. Từ sau khi được công nhận là di sản Danh thắng quốc gia vào các năm 2011 và 2016, ruộng bậc thang Hoàng Su Phì ngày càng nổi tiếng, trở thành một trong những sản phẩm du lịch tiêu biểu của Hà Giang nhờ những giá trị lịch sử, văn hóa và cảnh quan giàu tính nghệ thuật. “Điểm khác biệt của Danh thắng ruộng bậc thang Hoàng Su Phì đó là nhiều tầng bậc, uốn lượn trùng điệp và chạy dài từ ven suối lên đỉnh núi. Xen lẫn trong đó là những cánh rừng nguyên sinh, những nương chè cổ thụ, những ngôi nhà và những dòng sông, khe suối, tạo thành bức tranh thiên nhiên hài hòa, nhiều màu sắc Toàn huyện Hoàng Su Phì hiện có trên 3.720 ha ruộng bậc thang trải đều khắp 24 xã, thị trấn, trong đó có 675 ha đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích Quốc gia danh lam thắng cảnh Ruộng bậc thang tại 11 xã gồm: Nậm Ty, Thông Nguyên, Hồ Thầu, Bản Luốc, Sán Sả Hồ, Bản Phùng, Thàng Tín, Nậm Khòa, Pố Lồ, Bản Nhùng, Tả Sử Choóng. NGUỒN: CỤC DU LỊCH QUỐC GIA VIỆT NAM

Tuyên Quang 1916 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Hang Nà Luông

Danh lam thắng cảnh hang Nà Luông, thuộc địa phận xã Mậu Long, huyện Yên Minh và xã Sủng Trái, huyện Đồng Văn (Hà Giang) đã chính thức trở thành Di tích Quốc gia. Thông tin trên đã được Phó Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Hà Giang Triệu Thị Tình xác nhận. Danh lam thắng cảnh hang Nà Luông nằm cách trung tâm thị trấn Yên Minh khoảng hơn 25 km. Đây là hang được các nhà khoa học tìm thấy vào năm 2010 và đã được đánh giá là hang đẹp nhất so với các hang đã từng được phát hiện trên địa bàn tỉnh Hà Giang với cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ, mang sắc thái thơ mộng, huyền ảo lung linh. Cửa hang rộng trên 30 mét được che phủ bằng các loại cây gỗ quý hiếm như: nghiến, đinh, lát... Đặc biệt, hang động trong núi đá vôi là một trong những kiểu di sản địa chất rất phổ biến của Công viên Địa chất toàn cầu Cao nguyên đá Đồng Văn. Trải qua hàng nghìn năm kiến tạo đã tạo ra trong hang có rất nhiều cột thạch nhũ với các hình thù kỳ thú, màu sắc lấp lánh như hoa cương; lòng hang rất rộng và sâu được chia thành nhiều ngách ngăn nối tiếp nhau hấp dẫn đông đảo du khách. Theo ông Hoàng Văn Vịnh, Bí thư Huyện ủy Yên Minh, tỉnh Hà Giang: Ngay sau khi được công nhận là danh lam thắng cảnh Di tích Quốc gia, huyện Yên Minh triển khai các đơn vị chức năng bảo vệ hang Nà Luông nhằm giữ nguyên vẻ đẹp nguyên sơ vốn có. Huyện cũng đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động đồng bào dân tộc thiểu số và du khách tham quan không được khai thác nhũ đá trong hang; không săn bắt các loài động vật, các loài chim để bảo vệ môi trường sinh thái. Đồng thời đầu tư, nâng cấp, xây dựng danh lam thắng cảnh hang Nà Luông trở thành một điểm du lịch hấp dẫn cho du khách khi đến với Công viên Địa chất toàn cầu Cao nguyên đá Đồng Văn./. NGUỒN: CỤC DU LỊCH QUỐC GIA VIỆT NAM

Tuyên Quang 1790 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Phố cổ Đồng Văn

Theo các nguồn tư liệu của UBND tỉnh Hà Giang, phố cổ Đồng Văn (thuộc thị trấn Đồng Văn, huyện Đồng Văn, Hà Giang) xưa thuộc tổng Đông Quan, châu Nguyên Bình, phủ Tường Yên tỉnh Hà Tuyên. Sau đó tách nhập thuộc châu Bảo Lạc do một thổ quan người Tày họ Nông ở Bảo Lạc cai quản. Khi thực dân Pháp chiếm đóng đã tách Đồng Văn ra khỏi Bảo Lạc. Năm 1887, khu vực Đồng Văn bị thực dân Pháp chiếm giữ và để thuận tiện cho việc cai trị đô hộ, chúng chia Đồng Văn thành các Châu nhỏ, đứng đầu mỗi Châu là một dòng họ thổ ty cai quản. Vùng đất Đồng Văn ngày ấy do thổ ty họ Nguyễn là ông Nguyễn Chấn Quay cai quản. Trước đây khu phố cổ chỉ là một vùng thung lũng hoang sơ, dân cư thưa thớt. Đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX khi người Pháp chiếm đóng Hà Giang, với ý định đưa khu vực này trở thành trung tâm giao thương sầm uất nên khu phố cổ Đồng Văn đã được xây dựng và hình thành, người đầu tiên hoạch định và kiến thiết là ông Lương Trung Tú – lý trưởng thị trấn Đồng Văn lúc bấy giờ, sau đó nhiều ngôi nhà cổ lần lượt được xây dựng thành hai dãy nhà bao quanh chợ và kéo dài vào tận chân núi. Ngoài ra, trong phố cổ xưa còn có khu chợ là nơi giao thương của đồng bào các dân tộc. Những ngày chợ phiên, các thiếu nữ Mông, Pu Péo, Lô Lô xúng xính trong những bộ trang phục dân tộc từ các bản làng xa xuống chơi chợ và mua sắm, gặp gỡ, trao đổi hàng hóa thiết yếu... Trải qua bao thăng trầm lịch sử, phố cổ Đồng Văn hiện còn bảo tồn được khoảng 40 ngôi nhà cổ, hầu hết được trình tường 2 tầng, lợp ngói âm dương có tuổi đời trên 100 năm, đặc biệt có những ngôi nhà trên 200 năm đến gần 300 năm tuổi, cùng một số công trình kiến trúc cổ độc đáo khác... Với những giá trị lịch sử, văn hóa và kiến trúc độc đáo, phố cổ Đồng Văn đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là Di tích Kiến trúc Nghệ thuật cấp Quốc gia theo Quyết định số 4195/QĐ-BVHTTDL ngày 16/11/2009. NGUỒN: Cơ quan Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam

Tuyên Quang 1715 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Phù Ủng

Đền Phù Ủng toạ lạc ở làng Phù Ủng, xã Phù Ủng. Đây là một quần thể kiến trúc đồ sộ, phong phú và độc đáo gồm phần chính đền và nhiều công trình phụ trợ hợp thành, được phân bố dải rác, xen kẽ với khu dân cư. Theo thuyết phong thuỷ, cụm di tích được xây dựng trên khu đất đầu rồng, là nơi dương trạch tốt với thế đất “Thất linh ứng hậu, hình nhân bái tướng, voi quỳ ngựa phục, bên bút bên nghiên, bên cờ bên kiếm, ở giữa có mô hòn ngọc, cạnh dòng sông Cửu Yên như rồng uốn khúc, mà đầu rồng là khu đất dựng đền nhô hẳn ra khỏi làng”. Đền Phù Ủng thờ Phạm Ngũ Lão (1255 - 1320), một danh tướng văn võ song toàn, được Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn hết sức tin cậy, rèn luyện, tiến cử với triều đình và trở thành vị tướng phò tá 3 đời vua nhà Trần. Ông sinh ra tại làng Phù Ủng, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, tỉnh Đông (nay là thôn Phù Ủng, xã Phù Ủng). Cuộc đời ông gắn liền với chiến trận và những chiến công vang dội, hiển hách góp phần cùng với quân dân nhà Trần đánh thắng giặc Nguyên Mông xâm lược, đem lại thái bình cho đất nước và cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho Nhân dân. Phạm Ngũ Lão mất tại phủ đệ vua ban ở Thăng Long và được nhà vua phong là “Thượng đẳng phúc thần”. Ngôi đền là một quần thể di tích có kiến trúc đồ sộ, quy mô rộng lớn khá hoàn chỉnh được chia làm hai khu: Khu trong và khu ngoài. Khu ngoài gồm đền thờ chính Điện súy thượng tướng quân Phạm Ngũ Lão. Chính điện gồm 5 gian Tiền tế, ống muống và 03 gian Hậu cung đặt tượng thờ tướng quân Phạm Ngũ Lão, được đúc bằng đồng có niên đại thời Nguyễn nặng 300kg ở tư thế ngồi; Bên trái là Lăng thờ Đức Tiên Công, bên kia đường là điện thờ Nhũ mẫu; Khuê Văn Các kết cấu hình bát giác… Khu trong được bố cục theo kiểu “Tiền Thần hậu Phật” gồm đền thờ công chúa Tĩnh Tuệ (con gái Phạm Ngũ Lão), chùa Bảo Sơn (Cảm Ân tự), lăng Quốc công Vũ Hồng Lượng được làm bằng đá xanh với kiến trúc nghệ thuật chạm khắc đá tiêu biểu, đặc sắc thời Hậu Lê thế kỷ XVII. Hiện nay, tại quần thể di tích đền Phù Ủng còn lưu giữ một số hiện vật có giá trị về mặt lịch sử cũng như nghệ thuật đó là hệ thống điêu khắc đá, tượng đồng, đại tự, câu đối, chén bạc thời Nguyễn, sắc phong,… Lễ hội truyền thống đền Phù Ủng được tổ chức từ ngày 11 đến ngày 13 tháng Giêng âm lịch, để kỷ niệm ngày ra quân của tướng quân Phạm Ngũ Lão. Trong lễ hội bao gồm phần lễ và phần hội kết hợp vừa trang trọng, tôn nghiêm, vừa rộn ràng, vui tươi. Đây là một trong những lễ hội đầu xuân lớn của tỉnh thu hút đông đảo Nhân dân tham gia. Phần hội có tổ chức các trò chơi dân gian như: Cờ tướng, chọi gà, múa rối, kéo co, hát quan họ, xin chữ đầu xuân, hội thi vật cù, nhảy mô đống… thu hút đông đảo du khách đến xem và tham gia. Bên cạnh các trò chơi dân gian, một số hoạt động thể thao như: bóng chuyền, cầu lông, cờ tướng… diễn ra sôi nổi giúp người dân được hòa mình vào lễ hội cũng như có dịp vui chơi, nghỉ ngơi, cầu mong một năm làm việc may mắn. Lễ hội mang đậm giá trị văn hóa sâu sắc, đây không chỉ là dịp tưởng nhớ công lao của danh tướng họ Phạm mà còn giáo dục cho những thế hệ sau về ý chí vươn lên, về lòng yêu nước, minh chứng về nền văn hiến lâu đời của dân tộc. Từ những giá trị tiêu biểu, đặc sắc đó khu di tích đền Phù Ủng được Bộ Văn hóa xếp hạng là di tích “Lịch sử” cấp Quốc gia theo Quyết định số 1288-Văn Hóa /Quyết Định ngày 16/11/1988. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Ân Thi , tỉnh Hưng Yên.

Hưng Yên 1900 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đền Trà Phương ( Đậu Chè )

Đền Trà Phương (tên nôm là đền Chè Nhang, đậu Chè) toạ lạc ở trung tâm thôn Trà Phương, xã Hồng Vân, nơi có thế đất đẹp và thoáng mát, mặt tiền quay hướng Nam. Theo tương truyền thì đền được xây dựng trên thế đất “rồng chầu, hổ phục” nên nhiều người con của quê hương thành danh trên mọi miền đất nước. Đền được xây dựng để thờ thiên thần là Ngọc Hoàng thượng đế, Thái Thượng Lão quân; thờ vọng Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn - người có công lãnh đạo quân dân nhà Trần ba lần đánh thắng quân Nguyên - Mông xâm lược nước ta. Ngoài ra, đền còn thờ Thành hoàng bản thổ, gia tiên 12 dòng họ và các vị danh nhân có công lập ấp dựng làng, chống ngoại xâm. Thời chiến tranh, ngôi đền còn là căn cứ địa cách mạng của một vùng rộng lớn thuộc phía Nam Hưng Yên, là trung tâm truyền bá cách mạng, một cơ sở giáo dục truyền thống yêu nước qua nhiều thế hệ, là nơi che dấu bảo vệ nhiều cán bộ trung ương, tỉnh, huyện về chỉ đạo kháng chiến và phục vụ nhiều hội nghị tại đền lúc bí mật cũng như lúc công khai. Đền được khởi dựng dưới thời vua Lê Trang Tông và được trùng tu vào thời Nguyễn. Hiện nay, đền có kiến trúc kiểu “nội Công ngoại Quốc” gồm: Tiền tế, Ống muống, Hậu cung và hai dãy Giải vũ. Tiền tế được trùng tu lại vào năm Thành Thái thứ 18 (1906), toà này còn lưu giữ nhiều mảng chạm khắc đẹp nhất là các bộ vì nách gian trung tâm chạm các đề tài tứ quý hoá rồng, tứ linh với đường nét tinh xảo. Toà Ống muống gồm 05 gian, kết cấu dọc được xây dựng vào năm Minh Mệnh thứ nhất (1820), các bộ vì được tạo tác kiểu con chồng đấu sen, các bức cốn chạm nổi đầu rồng chầu, đề tài tứ linh. Hậu cung gồm có 03 gian dài, kiến trúc đơn giản nhưng đây là hạng mục còn lưu giữ dấu tích từ khi khởi dựng đền. Hiện nay, tại đền còn lưu giữ một số hiện vật rất có giá trị như: chén sứ, bát hương, lục bình, nhang án,…Để tưởng nhớ đến công lao các vị thần, dân làng thường tổ chức lễ hội vào 02 dịp là ngày mồng 09 tháng 11 và mồng 08 tháng 03 âm lịch hằng năm. Trong lễ hội thường có lễ cầu phúc, cầu lộc, lễ tế nước, đốt cây bông và nhiều trò chơi dân gian. Ngày nay, lễ hội diễn ra đơn giản hơn nhưng vẫn đảm bảo được các nghi thức truyền thống và thu hút đông đảo nhân dân, khách thập phương tham gia. Từ những giá trị vốn có, đền Trà Phương được xếp hạng là di tích “Lịch sử và kiến trúc - nghệ thuật” cấp Quốc gia theo Quyết định số 68-Văn Hóa /Quyết Định ngày 29/1/1993 của Bộ Văn hóa- Thông tin. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên.

Hưng Yên 1726 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đình Đào Quạt

Đình Đào Quạt toạ lạc trên một khu đất cao ráo, thoáng đãng giữa thôn Đào Quạt, xã Bãi Sậy. Xưa kia người dân thôn Đào Quạt nổi tiếng với nghề làm quạt và họ rất tự hào về ngôi đình làng truyền thống của thôn mình. Theo thần tích, đình Đào Quạt là nơi tôn thờ Đào Công Chí, một võ tướng thời Lý có công giúp đánh giặc Chiêm Thành đầu thế kỷ XI, đem lại cuộc sống thanh bình, ấm no cho Nhân dân. Khi mất, vua Lý vô cùng thương xót vị tướng tài của mình, sai quần thần hành lễ điếu văn, ban thưởng nhiều vàng bạc để làm hương hỏa, lập miếu thờ và phong ông là bậc Đại vương. Ông được Nhân dân địa phương tôn thờ làm Thành hoàng làng. Tương truyền, đình Đào Quạt được khởi dựng sau khi tướng quân Đào Công Chí mất, ban đầu chỉ là một ngôi miếu nhỏ. Thời Hậu Lê, Nhân dân đã tiến hành tu sửa lại. Đến thời Nguyễn, đình được trùng tu với quy mô lớn. Hiện nay, đình có kiến trúc kiểu chữ Công gồm 05 gian Tiền tế, kiến trúc kiểu con chồng đấu sen. Trung từ 03 gian, các bộ vì kiểu chồng rường giá chiêng. Hậu cung 03 gian, kết cấu vì đơn giản kiểu chồng rường. Trên các bức cốn, hệ thống đầu dư chạm khắc cầu kỳ, tinh xảo các đề tài tứ linh và quần long,...Đình còn lưu giữ nhiều hiện vật có giá trị như: 18 đạo sắc phong từ thời Lê đến thời Nguyễn, bia đá niên đại năm 1758, phỗng đá, 03 tảng đá hoa sen thời Lê với 09 cánh sen cách điệu rất sinh động. Hằng năm, vào ngày mồng 10 tháng Giêng âm lịch, Nhân dân lại tổ chức lễ hội long trọng để tưởng nhớ ngày mất của tướng quân. Trước kia, trong lễ hội có tổ chức tế lễ, rước kiệu, rước ngai và tượng của thần, rước sắc và có hát trống quân. Ngày nay, lễ hội được tổ chức đơn giản song vẫn đảm bảo các nghi thức văn hoá truyền thống. Với những giá trị tiêu biểu về kiến trúc, đình Đào Quạt đã được Bộ Văn hóa - Thông tin ban hành Quyết định số 141-Quyết Định/Văn Hóa ngày 23/01/1997 xếp hạng là di tích “Kiến trúc - nghệ thuật” cấp Quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên.

Hưng Yên 1691 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đình Thượng Đào Xá

Đình Đào Xá xây dựng trên một khu đất cao, thoáng đãng ở phía Bắc làng Đào Xá, xã Đào Dương. Vùng đất này do dòng họ Đào khai phá, mở mang từ thủa sơ khai. Đình có mặt tiền của đình quay hướng Nam. Đình Đào Xá thờ Linh Lang Đại Vương là Hoàng tử con Vua Lý Thánh Tông. Ngài có công cùng các tướng sỹ thân chinh cầm quân đánh đuổi giặc giã, giữ yên bờ cõi, bảo vệ cuộc sống bình yên cho Nhân dân. Khi mất, ngài được Nhân dân ở nhiều nơi tôn thờ, trong đó có làng Đào Xá tôn ngài làm Thành hoàng làng. Đình được xây dựng từ thời Hậu Lê, trùng tu thời Nguyễn với kết cấu kiểu chữ Đinh gồm Đại bái 05 gian 02 dĩ và Hậu cung 04 gian. Các bộ vì làm kiểu chồng rường đấu kê. Tại đình còn bảo lưu được nhiều mảng cốn, cấu kiện chạm khắc hoa văn thời Hậu Lê còn rất đậm nét như: long quần tụ, đầu dư, đao lửa,… thể hiện trình độ cao của các nghệ nhân xưa với các chi tiết vô cùng đặc sắc và tinh xảo. Đình còn lưu giữ một số hiện vật, đồ thờ rất có giá trị như: 01 kiệu bát cống thời Lê, ngai thờ, câu đối, đỉnh đồng, bát hương sứ. Hằng năm, vào ngày 10 tháng 3 và ngày 10 tháng 10 âm lịch dân làng tổ chức lễ hội để tưởng nhớ tới công lao của thần là người có công cứu nước giúp dân. Đình Đào Xá được Bộ Văn hóa - Thông tin ban hành Quyết định số 22/1999-Quyết Định - Bộ Văn Hóa Thông Tin xếp hạng là di tích “Kiến trúc nghệ thuật” cấp Quốc gia ngày 6/4/1999. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên.

Hưng Yên 1751 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đình Đanh Xá

Đình Đanh Xá được xây dựng hướng Tây Nam trên khu đất cao thoáng giữa làng Đanh Xá, xã Hoàng Hoa Thám. Theo truyền ngôn của dân làng, đình xây trên thế đất “Rồng chầu”, do vậy thôn Đanh Xá từ xa xưa đến nay đời nào cũng có nhiều người hiển danh, thành đạt. Đình thờ Ngũ Vị Đại Vương gồm: Cao Sơn Hiểu Công Đại Vương, Cao Sơn Hựu Công Đại Vương, Quý Công Đại Vương, Minh Công Đại Vương và Uy Công Đại Vương. Các vị có công giúp Thục An Dương Vương dẹp giặc cứu nước, đem lại cuộc sống ấm no, thanh bình cho nhân dân. Trong thời kỳ lịch sử Cách mạng, nơi đây diễn ra nhiều sự kiện quan trọng như tuyên truyền đường lối Cách mạng trong quần chúng Nhân dân. Năm 1948, bộ đội chủ lực đóng quân và hoạt động tại đây. Đình được xây dựng từ thời Nguyễn niên hiệu Thành Thái thứ 12 (1900) với kiến trúc kiểu chữ Công gồm: 05 gian Đại bái, 03 gian Ống muống và 03 gian Hậu cung. Hệ thống các bộ vì có kết cấu kiểu con chồng đấu sen. Các mảng chạm khắc được tập trung chủ yếu tại gian trung tâm Đại bái với các đề tài mang điển tích dân gian như: tứ linh, tứ quý, long quần… Tại đình còn lưu giữ một số hiện vật quý như: Kiệu long đình thời Nguyễn được sơn son thếp vàng với nét chạm khắc rồng, phượng tinh xảo, đại tự, câu đối... Hằng năm, ngày 10 tháng 03 âm lịch, Nhân dân địa phương tổ chức lễ hội tưởng nhớ người có công với quê hương, đất nước. Với những giá trị còn hiện hữu, đình Đanh Xá được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng vào loại hình di tích “Kiến trúc nghệ thuật” cấp Quốc gia ngày 6/4/1999 theo Quyết định số 22/1999-Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thông Tin. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên.

Hưng Yên 1685 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

KHU DI TÍCH HẢI THƯỢNG LÃN ÔNG

Khu di tích nằm tại thôn Liêu Xá, xã Liêu Xá, huyện Yên Mỹ, có quan hệ tới Hải Thượng Lãn ông Lê Hữu Trác - Đại y tôn Việt Nam. Ông sinh năm 1720 mất năm 1791, quê tại Liêu Xá. Ông là nhà y học vĩ đại, nhà thơ, nhà văn xuất sắc, một nhà tư tưởng tiến bộ thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân đạo. Sau khi ông mất, nhân dân và giới y học cả nước suy tôn là bậc Y Thánh của Việt Nam. Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác (1720-1791), người làng Liêu Xá, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, xứ Hải Dương (nay là thôn Liêu Xá, xã Liêu Xá, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên). Ông tự đặt cho mình là Hải Thượng Lãn Ông, và không màng danh lợi, vinh hoa phú quý. Ông trở thành một thầy thuốc, một danh y nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam. Cuộc đời Hải Thượng Lãn Ông là một dẫn chứng hùng hồn về y đức mà không cần cao giọng giảng giải, thuyết lý nhiều. Ông là người đặt nền móng xây dựng y thuật, một ngôi sao sáng trong làng Y học cổ truyền Việt Nam, người đã để lại cho hậu thế một kho tàng kinh nghiệm về Y học cổ truyền, không những về y lý mà cả thực tiễn hành nghề. Suốt 40 năm trong nghề y, ông đã đem hết tâm tư của mình vào việc chữa bệnh phục vụ nhân dân, nêu cao đạo đức nhân thuật, tận tụy, cần cù nghiên cứu, biên soạn, giảng dạy và đúc kết kinh nghiệm, xây dựng truyền thống y học nước nhà. Người còn là một nhà bác học tài năng, một nhà thơ lỗi lạc của thế kỷ 18, một nhà văn hóa với tư tưởng nhân văn lớn. Trong suốt cuộc đời làm thuốc của mình, ông đã để lại cho đời một bộ sách đồ sộ quý giá là bộ "Hải thượng Lãn ông Y tông tâm lĩnh" gồm 28 tập, 66 quyển. Năm 1791, ông qua đời tại Nghệ Tĩnh, “ngôi sao sáng trên bầu trời y học” khuất bóng nhưng gương sáng của ông còn mãi giữa trời. Sau khi mất, con cháu dòng họ cùng dân làng đã xây dựng nhà tưởng niệm Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác. Ban đầu quy mô khá nhỏ, đến năm 1992, Bộ Văn hóa Thông tin cùng với Bộ Y tế đã cấp kinh phí đầu tư trùng tu mở rộng thành Nhà tưởng niệm. Du khách tới thăm sẽ thấy đây không chỉ là nơi thờ tự mà còn là nơi trưng bày giới thiệu về thân thế sự nghiệp cũng như nhiều tác phẩm y thuật tiêu biểu của ông. Với diện tích 200m2 trưng bày trong khuôn viên rộng 1000m2, có nhiều di tích phụ cận xung quanh tạo nên một quần thể di tích rộng lớn. Gian giữa nhà tưởng niệm đặt khám thờ cùng các câu đối ca ngợi ông. Năm 2006, khu lưu niệm được trùng tu, tôn tạo, trong đó hạng mục nhà lưu niệm được dựng lại thành khu đền thờ chính. Năm 1990, khu di tích lưu niệm Đại danh y Hải Thượng Lãn Ông được Bộ Văn hoá Thông tin xếp hạng cấp Quốc gia. Hàng năm cứ vào rằm tháng giêng, nhân dân cùng những người hành nghề Đông y và các thầy thuốc lại tề tựu về đây để tưởng nhớ và tôn vinh y đức lớn lao của Lê Hữu Trác. Nơi đây đã trở thành điểm đến tâm linh của nhiều du khách thập phương đã đến du xuân đầu năm và thắp hương nguyện cầu cho một năm mới sức khoẻ dồi dào, may mắn, thành công trong cuộc sống. Điều làm nên sức hấp dẫn không chỉ bởi cảnh quan mà đây còn là nơi để hậu thế nhìn lại cùng học tập về đạo đức cũng như y thuật của bậc đại danh y. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Yên Mỹ , tỉnh Hưng Yên.

Hưng Yên 2111 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

BIA KỶ NIỆM NƠI THÀNH LẬP BAN VẬN ĐỘNG PHỤ NỮ TỈNH HÀ GIANG

BIA KỶ NIỆM NƠI THÀNH LẬP BAN VẬN ĐỘNG PHỤ NỮ TỈNH HÀ GIANG - Địa điểm: Thuộc thôn Bó Loỏng, xã Hùng An, huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang. - Đường đi đến: Bia kỷ niệm nơi thành lập Ban vận động Phụ nữ tỉnh Hà Giang cách trung tâm thành phố Hà Giang 70km về phía Nam, từ thành phố Hà Giang đi theo Quốc lộ số 2 hướng Hà Giang - Tuyên Quang, đến Chợ số 9, xã Hùng An rẽ trái theo đường vào thôn Bó Loỏng hơn 2km là đến địa điểm của Bia. Tháng 3 năm 1943, cán bộ Việt Minh từ phía bắc của tỉnh Tuyên Quang đã đến thôn Bó Loỏng, xã Hùng An, huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang để tuyên truyền đường lối cách mạng của mặt trận Việt Minh và gây dựng cơ sở cách mạng ở địa phương. Tại đây, Ban vận động phụ nữ được thành lập gồm 5 thành viên. Sau khi thành lập, dưới sự chỉ đạo của cán bộ Việt Minh, các chị đã tuyên truyền, vận động chị em trong xã Hùng An và các địa phương lân cận gia nhập Hội Phụ nữ cứu quốc, tham gia phong trào cách mạng, tích cực góp phần đấu tranh cách mạng đánh đuổi giặc giành chính quyền, giải phóng quê hương, đất nước. Việc thành lập Ban vận động Phụ nữ ở thôn Bó Loỏng, xã Hùng An – là tổ chức cơ sở đầu tiên của tổ chức Hội, đánh dấu bước phát triển của phong trào hoạt động phụ nữ, đó cũng chính là tiền đề để năm 1945 thành lập Hội Phụ nữ cứu quốc tỉnh Hà Giang (Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hà Giang sau này). Việc xây dựng Bia kỷ niệm nơi thành lập Ban vận động Phụ nữ tỉnh Hà Giang tại thôn Bó Loỏng, xã Hùng An để ghi nhớ nơi thành lập tổ chức cơ sở đầu tiên của phong trào hoạt động phụ nữ, và có mục đích giáo dục truyền thống về truyền thống yêu nước, đấu tranh chống giặc bảo vệ đất nước cho các thế hệ trẻ noi theo, từ đó không ngừng học tập, tu dưỡng để xứng đáng với các thế hệ đi trước, góp công sức bảo vệ và xây dựng đất nước ngày càng giàu đẹp, văn minh. NGUỒN: TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ HUYỆN BẮC QUANG TỈNH HÀ GIANG

Tuyên Quang 1729 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Đền Chúa Bà

Đền Chúa Bà không có bia đá và các văn bản, giấy tờ liên quan ghi năm khởi thủy xây dựng đền cũng như quá trình hình thành và phát triển. Tuy nhiên, qua quá trình tìm hiểu qua lời kể của các cụ cao tuổi tại địa phương và một số tài liệu có liên quan sưu tầm được có thể xác định như sau: Đền Chúa Bà đã có ở địa bàn thị trấn Vĩnh Tuy từ rất lâu đời, thời kỳ đó xung quanh khu vực đền còn hoang vu, vắng vẻ. Đền được dựng bằng tre, nứa, lá đơn sơ, giản dị. Ban thờ chính đặt tượng Chúa Bà hay còn gọi là thánh Mẫu Liễu Hạnh[8]. Hiện tại ở đền có ba tấm bia đá: Một tấm bia bị rễ cây đa che lấp không tiếp cận đọc và dập được chữ; một tấm bia chữ đã quá mờ, không đọc được; chỉ còn duy nhất một tấm bia ghi năm công đức vào đền là năm 1947, qua phiên âm và dịch nghĩa nhận thấy nội dung bia ghi chép tên của những người có công trong việc quyên góp xây dựng đền, qua đó có thể khẳng định đền được xây dựng trước năm 1947. Trong quá trình tìm hiểu của Bảo tàng tỉnh Hà Giang phục vụ công tác xây dựng hồ sơ di tích đã thu thập từ Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I và Trung tâm lưu trữ Quốc Gia III được một số tư liệu có liên quan có thể xác định thời gian xây dựng ngôi đền tại thị trấn Vĩnh Tuy, đó là một số Công điện của Pháp vào năm 1931 viết về việc quyên góp trong nhân dân để xây dựng 01 ngôi đền tại thị trấn Vĩnh Tuy, huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang. Qua đó có thể xác định thời gian xây dựng lại đền là vào khoảng thời gian năm 1931. Qua tìm hiểu và các tài liệu thu thập được, có thể nhận thấy đền Chúa Bà có sự du nhập đạo thờ Mẫu từ miền xuôi lên, qua những thương nhân trong quá trình làm ăn buôn bán trên đường sông, họ đã mang theo chân hương để thờ cúng tại đền Chúa Bà. Hiện nay khởi thuỷ ngôi đền từ năm nào không rõ. Tuy nhiên, căn cứ vào thời kỳ cư dân miền xuôi lên Hà Giang buôn bán, lập nghiệp, có thể nhận định đền Chúa Bà được lập nên vào đầu thế kỷ XX, năm 1931 chỉ là năm quyên góp trong nhân dân để xây dựng lại đền chứ không phải là năm khởi thủy xây dựng đền. Qua quá trình lịch sử Đền đã được trùng tu nhiều lần, lần trùng tu và sửa chữa nhiều nhất là vào năm 1982 và năm 2006 từ nguồn công đức của nhân dân địa phương và du khách thập phương hình thành hiện trạng như bây giờ. Từ khi được công nhận là di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh, đền Chúa Bà đã được các cấp, các ngành quan tâm định hướng chỉ đạo và Ủy ban nhân dân thị trấn Vĩnh Tuy trực tiếp quản lý, quy hoạch bảo vệ và phát huy giá trị. UBND thị trấn Vĩnh Tuy đã ra Quyết định thành lập Ban Quản lý đền và xây dựng nội quy, quy chế hoạt động. Các ngành chức năng đã khảo sát, xác định ranh giới và khoanh vùng thành 2 khu vực bảo vệ di tích với tổng diện tích 710m2 (khu vực I là 295m2, khu vực II là 415m2) đảm bảo khu vực di tích không bị lấn chiếm, xâm hại làm ảnh hưởng. Đền Chúa Bà đã được trùng tu, sửa chữa và tôn tạo nhiều lần từ khi xây dựng đến nay, trong đó năm 1982 và năm 2006 được trùng tu tổng thể từ nguồn kinh phí do nhân dân địa phương và khách thập phương công đức, hiện tại cơ sở vật chất vẫn sử dụng tốt và thường xuyên được sửa chữa nhằm đáp ứng tốt nhu cầu sinh hoạt tín ngưỡng và tâm linh cho nhân dân. 6. Giá trị di tích được xếp hạng và thời gian xếp hạng Di tích lịch sử văn hóa “ĐỀN CHÚA BÀ” được xếp hạng là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh theo Quyết định số 244/QĐ-UBND ngày 29 tháng 01 năm 2011 của UBND tỉnh Hà Giang “Quyết định về việc xếp hạng di tích cấp tỉnh, di tích lịch sử văn hóa NGUỒN: TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ HUYỆN BẮC QUANG TỈNH HÀ GIANG

Tuyên Quang 1963 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

ĐỀN THỜ ĐỨC THÁNH TRẦN HƯNG ĐẠO

Đền Trần Hưng Đạo được xây dựng tại thôn Tân Tiến, xã Tân Quang, huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang. Vị trí của đền được thể hiện trên bản đồ giải thửa số 10, thửa 52 của huyện Bắc Quang, cụ thể như sau: + Phía Đông giáp đường dân sinh thôn Tân Tiến, có chiều dài 31m. + Phía Tây giáp đất của ông Vương Xuân Thu, dài 34m. + Phía Nam giáp đất của ông Vương Xuân Thu, dài 32m. + Phía Bắc giáp đất nhà ông Điền Văn Lực, dài 43,5m. - Đường đi đến: Từ thành phố Hà Giang đi theo Quốc lộ 2 hướng Hà Giang – Hà Nội đến Km 47 rẽ bên trái theo đường vào trụ sở thôn Tân Tiến khoảng 500m là đến Đền Trần Hưng Đạo. 1.3. Nguồn gốc lịch sử hình thành và phát triển: Đền Trần Hưng Đạo hiện nay không có Bia đá và các giấy tờ khác ghi năm xây dựng của ngôi Đền, chỉ có 02 bản sắc phong nói về công lao của Trần Hưng Đạo, không ghi năm xây dựng và nguồn gốc lịch sử của ngôi đền. Vì vậy không thế xác định một cách chính xác tuyệt đối về nguồn gốc hình thành và quá trình phát triển. Tuy nhiên, qua quá trình tìm hiểu và qua lời kể của những người cao tuổi tại địa phương thì Đền Trần Hưng Đạo trước đây nằm tại địa bàn thôn Vinh Quang, xã Tân Quang. Năm 1947-1948 do chiến tranh và thực hiện việc "tiêu thổ kháng chiến" buộc phải phá Đền, sau đó chuyển đồ thờ về thôn Nậm Tuộc, xã Đồng Tâm (cách vị trí hiện tại khoảng 3000m). Thời điểm đó mỗi khi vào mùa mưa tại thôn Nậm Tuộc xảy ra lũ, lụt thường xuyên khó khăn trong việc đi lễ Đền của nhân dân. Vì vậy, khoảng năm 1948-1949, hai ông Vàng Séo Chằng và Đỗ Văn Độc đứng ra chuyển bát hương và bài vị Trần Hưng Đạo mang về nhập vào Miếu Cấm Sơn (Miếu ở chân núi Cấm) - là địa điểm hiện nay, từ đó nhân dân gọi là Đền thờ Trần Hưng Đạo. Từ khi ổn định ở đây, ngôi Đền đã được trùng tu nhiều lần, lần trùng tu và sửa chữa lớn nhất vào các năm 2004 và 2008 từ nguồn công đức của nhân dân địa phương và du khách thập phương hình thành hiện trạng như hiện nay. Khu di tích lịch sử “ĐỀN TRẦN HƯNG ĐẠO” được xếp hạng là di tích lịch sử cấp tỉnh theo Quyết định số 243/QĐ-UBND, ngày 29/01/2011 của UBND tỉnh Hà Giang “Quyết định về việc xếp hạng di tích cấp tỉnh”. NGUỒN: TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ HUYỆN BẮC QUANG TỈNH HÀ GIANG

Tuyên Quang 2243 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Chùa Thông

Chùa Thông nằm trong cụm di tích khởi nghĩa Yên Thế cách trung tâm đồn Phồn Xương khoảng 2km về hướng Đông Bắc. Ngôi chùa tọa lạc gần trục đường 265 tiện cho việc tham quan nghiên cứu. Xưa chùa Thông thuộc làng Nứa, xã Hữu Trung, có thời gian là xã An Lạc, tổng Hữu Thượng, phủ Yên Thế, nay thuộc xã Đồng Lạc, huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang. Ngôi chùa được xây dựng từ lâu đời và đã được tu sửa qua nhiều giai đoạn. Khoảng những năm 1901-1902 cùng với nhiều di tích khác trong vùng Yên Thế, chùa Thông được Đề Thám cho tu sửa thêm phần khang trang. Trong cuốn Khởi nghĩa Yên Thế của tác giả Khổng Đức Thiêm, Nguyễn Xuân Cần ghi: “Chùa chiền, đình miếu, nhà thờ thiên chúa giáo bị hư nát được sửa lại nhiều như các ngôi đình ở Hà, Lan, Cao Thượng, các ngôi chùa Lèo, chùa Thông, Phồn Xương, các nhà thờ thiên chúa giáo...”. Khu di tích chùa Thông hiện nay gồm các hạng mục công trình: Khuôn viên vườn chùa, nhà Mẫu và khu chùa chính tất cả tọa lạc trên gò đồi có tổng diện tích: 3093 m2. Ngôi chùa hiện nay có bình đồ kiến trúc kiểu chữ đinh gồm toà tiền đường ba gian nối với toà thượng điện hai gian. Phần liên kết vì mái toà tiền đường giống nhau kiểu chồng rường giá chiêng truyền thống các cấu kiện kiến trúc không chạm khắc nhưng vẫn đượm màu thời gian cổ kính. Toà thượng điện có hai gian, phần liên kết vì mái kiểu vì giá chiêng kẻ chuyền, các cấu kiện kiến trúc không chạm khắc. Trong chùa bài trí hệ thống tượng Phật đầy đủ gồm 17 pho tượng và một số tài liệu, hiện vật, đồ thờ tự có giá trị như mâm bồng, bát hương, đài thờ cổ... có giá trị lịch sử và giá trị nghiên cứu khoa học. Chùa Thông là nơi ghi dấu nhiều sự kiện lịch sử gắn liền với khởi nghĩa Yên Thế, địa điểm nghĩa quân Yên Thế và thực dân Pháp họp ký hòa hoãn lần thứ nhất (1894-1897). Năm 1894, để có thời gian chuẩn bị và củng cố lực lượng Đề Thám đã tổ chức bắt sống tên Sét-nay chủ bút báo Tương lai xứ Bắc Kỳ và nhân viên đi theo Lô-gi-u, tập kích một chuyến xe lửa rồi rút về Phồn Xương. Việc bắt ông Sét-nay đã giáng một đòn mạnh vào dư luận. Bọn tư sản, chủ thầu đòi cứu bằng được. Trước tình thế đó thực dân Pháp đã nhờ giám mục Vê-lát-cô làm môi giới điều đình với nghĩa quân. Cuộc đàm đạo kéo dài trong 15 ngày tại chùa Thông. Đề Thám cai quản 4 tổng: Mục Sơn, Yên Lễ, Nhã Nam, Hữu Thượng thu thuế ở đó trong 3 năm. Việc thương thuyết, điều đình tới ký hiệp ước tại chùa Thông nhiều tài liệu gọi đây là cuộc hoà hoãn lần thứ nhất giữa nghĩa quân Yên Thế và thực dân Pháp. Là di tích đặc biệt, nơi ghi dấu sự kiện lịch sử về cuộc khởi nghĩa Yên Thế, chùa Thông là một trong 23 điểm di tích thuộc Những địa điểm khởi nghĩa Yên Thế được Thủ tướng chính phủ ký Quyết định số 548/QĐ-TTg ngày 10/5/2012 công nhận là Di tích quốc gia đặc biệt. NGUỒN CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ SỞ VĂN HÓA - THỂ THAO - DU LỊCH TỈNH BẮC GIANG

Bắc Ninh 1779 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Điểm di tích nổi bật