Ứng dụng thuyết minh khám phá du lịch Việt Nam

Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch Travelviet

Tải ứng dụng Travelviet

Logo Travelviet

Di tích lịch sử

Việt nam

Động Tiên Cảnh

Theo khảo sát của Phòng Nghiên cứu - Sưu tầm (Bảo tàng tỉnh Lào Cai), động Tiên Cảnh có tổng chiều dài 158m, đường đi lại còn khá khó khăn do chưa được đầu tư, tôn tạo. Động có 3 khu vực hội tụ những nét riêng biệt, không lẫn nhau về hình nhũ và cảnh sắc mà tự nhiên kiến tạo, tạo thành điểm hấp dẫn du khách ưa loại hình du lịch mạo hiểm, khám phá. Cửa động Tiên Cảnh có dạng hố sụt tự nhiên được che chắn bởi một mái đá rộng, chắc chắn. Mái cửa động có nhiều hình thù mà tự nhiên tạo tác thành, như hình con bọ, răng khủng long, mũi kiếm nhọn dày đặc theo hình răng lược. Ở khu vực này, các khối nhũ đá kết lại nối tiếp nhau từ vòm xuống dưới như những mái tóc dài miên man, phía trái vách động nhũ rất sáng, rủ xuống như bức rèm, ở đó rễ cây đan dày xen lấn lớp nhũ mịn màng tựa bức tranh sơn mài sống động. Về tổng thể, mái cửa động giống như hàm của con rồng đang mở rộng, ngáp dài sau bao thế kỷ nằm ngủ yên giữa thiên nhiên hùng vỹ. Bước qua cửa động sẽ đến động Sơn Trang với vòng động màu nâu, nền động thoải cùng vân đá như những thửa ruộng bậc thang của vùng núi cao thu nhỏ, đây là khu vực tập trung nhiều nhũ đá nhất, tạo thành sơn lâm hùng vỹ. Ngồi trên tảng đá lớn nhất được tự nhiên sắp đặt giữa động, ngắm toàn cảnh nhũ đá giống như lâu đài tráng lệ của châu Âu; nhiều khối nhũ tựa như khối pha lê khổng lồ, phát ra ánh sáng huyền ảo mỗi khi có tia sáng chiếu vào. Đây là điểm dừng chân đầu tiên để ngắm nhìn những gì tráng lệ, kiều diễm nhất của động Sơn Trang. Đứng ở mỗi góc nhìn khác nhau, mỗi người đắm chìm vào những cảm xúc của riêng mình, nhưng có một điểm chung không thể phủ nhận đó chính là thấy được vẻ tuyệt mỹ của thắng cảnh này. Khu vực tiếp theo bị thu hẹp, lối đi nhỏ với nhiều nhũ đá mọc từ dưới đất lên, như dải san hô, khiến người ta có cảm giác đang ở dưới lòng đại dương bao la, nên được người địa phương đặt tên là Thủy Cung. Trên rặng san hô, nhũ đá được khéo léo tạo hình bức tượng mẹ bồng con trước ngực, ở phía dưới có 3 cột đá nối liền thông đến đỉnh động giống như trụ cổng trước khi vào thủy cung, cánh cổng tự nhiên mở ra cả một tòa thiên nhiên kỳ vỹ, đặc sắc. Đi hết Thủy Cung là đến đáy động với nền rộng, bằng phẳng, nơi đây hội tụ rất nhiều nhũ đá buông dài từ trần đến tận đáy động. Vách động được kiến tạo bởi lớp đá chắc chắn phủ lớp bột đất màu nâu đậm. Chính lớp đất phủ ấy khiến động không tạo ra tiếng vang dội đối với âm thanh. Tại khu vực này có các khối nhũ mọc lên từ nền động tạo thành chiếc bàn trà với 3 nhũ đá trồi xung quanh giống như con người đang thưởng thức trà chiều. Tất cả tạo nên một bức tranh lấp lánh, nhất là khi có ánh sáng chiếu vào... Với những giá trị về lịch sử, thẩm mỹ, kinh tế du lịch, khoa học và quốc phòng, an ninh, tháng 10/2019, danh thắng động Tiên Cảnh đã được UBND tỉnh Lào Cai xếp hạng là di tích danh lam, thắng cảnh cấp tỉnh. Rồi mai đây, khi được quan tâm đầu tư, động Tiên Cảnh có thể trở thành điểm du lịch hấp dẫn, mang đặc trưng của Xuân Thượng nói riêng và Bảo Yên nói chung. Qua đó phát huy hiệu quả những giá trị về thiên nhiên, văn hóa, con người, giúp người dân xã Xuân Thượng phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập. NGUỒN: Báo Lào Cai điện tử

Lào Cai 1615 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Đền Làng Lúc

Di tích lịch sử - văn hóa đền Làng Lúc tọa lạc tại bản Lúc, xã Bảo Hà (huyện Bảo Yên). Đền được xây dựng để tỏ lòng tôn kính của đồng bào các dân tộc nơi đây đối với 3 vị tướng của quan Hoàng Bảy. Các ông đã có công đánh đuổi giặc phương Bắc, khai ấp lập làng, dạy Nhân dân phát triển kinh tế, cung cấp quân lương cho tướng Nguyễn Hoàng Bảy đánh giặc vào cuối thời Lê (thế kỷ XVII). Sử sách còn ghi lại, bấy giờ, khắp vùng Quy Hóa thuộc châu Thủy Vĩ, châu Văn Bàn (khu vực Bảo Hà ngày nay) luôn bị giặc phương Bắc xâm chiếm, cướp phá, giết hại người dân vô tội. Nhận thấy tình hình ngày càng cấp bách, triều nhà Lê, niên hiệu Cảnh Hưng (1740 - 1786) cử viên tướng thứ Bảy họ Nguyễn lên trấn thủ Quy Hóa. Danh tướng họ Nguyễn đưa quân tiến đánh dọc sông Hồng, giải phóng Khảu Bàn và xây dựng căn cứ Bảo Hà vững chắc, chờ thời cơ đánh đuổi giặc xâm lược. Trong số quân lính của danh tướng họ Nguyễn, có 3 anh em họ Hoàng nhiều lần góp công đánh đuổi quân xâm lăng, đã xin lệnh tướng được đi tìm vùng đất mới để đưa dân tới khai hoang, lập bản, làm nơi luyện tập binh sĩ và tăng gia, sản xuất, cung cấp lương thực cho nghĩa quân. 3 anh em họ Hoàng chọn địa điểm tại bản Lúc rồi chiêu mộ đồng bào dân tộc Tày, Dao các vùng lân cận về đây lập bản. Sau một thời gian, các ông cùng dân bản khai phá được 4 cánh đồng lớn, đặt tên là Cốc Tràm, Tàng Luông, Nà Kê, Cốc Tún. 3 ông dạy dân cấy lúa nước, trồng ngô, sản xuất lương thực phục vụ đời sống hằng ngày và chi viện cho đoàn quân của tướng Nguyễn Hoàng Bảy thêm hùng mạnh. Những đóng góp to lớn của 3 anh em họ Hoàng đã nhận được sự tôn kính, niềm tin của đồng bào các dân tộc nơi đây. Sau khi mất, các ông được người dân tôn làm thành hoàng làng, lập miếu thờ ở chính giữa làng Lúc. Nhìn từ ngoài vào, ngôi đền trang nghiêm gồm 3 gian thờ lần lượt là: Cung thờ Ban công đồng; cung thờ tướng Hoàng Bảy; cung thờ Tam tòa Thánh Mẫu. Từng chi tiết trong ngôi đền đều được chạm khắc tinh tế, tạo vẻ uy linh. NGUỒN: Báo Lào Cai điện tử

Lào Cai 1793 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Đình làng Tượng Sơn

Đình Tượng Sơn nằm ngay trung tâm xã Quảng Long, trên một thế đất tương đối cao, phía trước có dòng sông Mai (sông Kênh Kịa) chảy qua, sau dựa vào triền cát như ôm trọn lấy làng Tượng Sơn. Lịch sử xây dựng đình làng gắn với lịch sử xây dựng và phát triển cùng với những biến động về chính trị - xã hội diễn ra trên vùng đất Quảng Long, Quảng Trạch (thời phong kiến thuộc xã Đại Đan, tổng Thuận Bài). Đình được xây dựng vào năm Canh Ngọ (1750), đời vua Cảnh Hưng thứ XI đến nay đã hơn 250 năm. Đình Tượng Sơn lúc đầu xây dựng để thờ và ghi công các vị tổ đã có công khai khẩn lập ra làng Đại Đan và những vị được vua giao "Bảo quốc hộ dân", sau này thờ các vị thần trung quân ái quốc. Qua ký ức của nhiều thế hệ dân làng, đình Tượng Sơn là một trong những ngôi đình lớn trên đất Quảng Bình lúc bấy giờ. Đình được xây dựng và bài trí khá công phu. Đình gồm sân đình, tiền đình và hậu đình. Sân đình, tiền đình là nơi diễn ra lễ hội và nơi vui chơi giải trí, gặp mặt tế lễ, hội họp, rước sắc của làng. Hậu đình là nơi thờ Thành Hoàng và các vị thần có công với quê hương đất nước. Đình Tượng Sơn là sự kết hợp giữa chính quyền và thần quyền. Sau vụ đàn áp phong trào Cần Vương ở huyện Quảng Trạch thất bại (1888), thực dân Pháp điên cuồng tìm cách trả thù. Chúng đã lợi dụng hiềm khích giữa dân lương giáo, xúi giục bọn việt gian đội lốt tôn giáo đốt cháy đình làng. Dù rằng lúc này Đình chỉ còn lại dấu tích một thời, nhưng hình ảnh ngôi đình làng vẫn in đậm trong ký ức của mỗi người dân. Với tâm huyết đó, mùa xuân năm Nhâm Tý (1912) đình làng được khởi công xây dựng lại trên nền đình cũ theo kiến trúc của triều Nguyễn. Sau một năm chung lòng chung sức, góp công góp của của cộng đồng làng, đến mùa xuân năm Quý Sửu (1913) đình làng hoàn thành. Về cấu trúc, đình xây dựng lại lần 2 cơ bản vẫn như cũ nhưng đồ sộ và hoàn hảo hơn. Đặc biệt phần trang trí phối cảnh bên ngoài cũng như các chi tiết đường nét hoa văn, chạm trổ hình ảnh con voi trận được khắc ở bình phong đều thể hiện rõ tinh thần thượng võ của vùng đất Tượng Sơn. Riêng phần hậu đình ngoài việc thờ Thành Hoàng làng còn thờ vua Quang Trung và danh tướng Nguyễn Dụng ở chính diện hợp với ý nguyện lòng dân. Năm 1968, do tính chất của cuộc chiến tranh phá hoại ngày càng ác liệt của đế quốc Mỹ, ngôi đình lại bị bom đánh sập. Mãi cho đến năm 1993, Đảng bộ và nhân dân Quảng Long đã phục hồi lại phần hậu đình gồm 3 gian, được xây bằng đá, gạch, xi măng, mái lợp ngói như hiện trạng ngày nay. Tuy nhiên, việc làm đó cũng mới chỉ dừng lại việc phục hồi nơi thờ tự, chứ chưa tái hiện lại phần kiến trúc nghệ thuật của ngôi đình ngày xưa. Đình Tượng Sơn là một công trình lịch sử - văn hóa, là nơi hội tụ những sinh hoạt văn hóa truyền thống tốt đẹp của vùng đất Quảng Long là nơi trao truyền giá trị văn hóa giữa các thế hệ. Các phong tục, lễ hội của làng diễn ra ở Đình đều tập trung phản ánh các quan niệm thờ cúng và thể hiện tư tưởng người nông dân làng xã trong sự tôn vinh các vị thần. Trong những năm vận động thành lập chi bộ Đảng ở địa phương, Đình Tượng Sơn là nơi các chiến sĩ cộng sản đi lại, họp kín để trao đổi, tuyên truyền những chủ trương, đường lối của Đảng. Thời kỳ tiến tới tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng 8, đình làng cũng là nơi diễn ra các cuộc mít tinh của mặt trận Việt Minh kêu gọi quần chúng nổi dậy hưởng ứng sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc. Đêm 19/8/1945, tại đình làng, Ban vận động và chỉ đạo khởi nghĩa xã được thành lập. Tại đây ngày 23/8/1945, tên lý trưởng đã giao nộp ấn tín và sổ sách cho Việt Minh. Hoà bình lập lại (1954), đình Tượng Sơn là trụ sở hành chính trong một thời gian khá dài của uỷ ban xã Quảng Long. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, để đảm bảo cho việc chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến miền Nam. Đình Tượng Sơn trở thành nơi tập kết, dừng chân của các đơn vị bộ đội, nơi trung tâm tiếp nhận hàng hóa, vũ khí. Ngoài ra đình cũng là nơi chứa đựng quân khí của đại đội 365, pháo 37, Bệnh viện Quảng Trạch cũng đóng ở đây. Khi phát hiện được những điểm cất dấu hàng nên đế quốc Mỹ đã tập trung đánh phá ác liệt vùng đất Quảng Long, lúc này đình đã bị đánh sập. Nhưng với tinh thần tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng, Đảng bộ và nhân dân Quảng Long đã dùng số gỗ còn lại để làm hầm phòng không, hầm cứu thương và phần lớn đưa ra làm cầu Kênh Kịa cho xe qua. Có thể nói trong những năm tháng đầy khó khăn, gian khổ, hy sinh chống lại cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, đình Tượng Sơn đã góp một phần đẩy nhanh sự nghiệp thống nhất đất nước. Với những giá trị về mặt lịch sử trên năm 2003, đình Tượng Sơn được Bộ Văn hóa-Thể thao và Du lịch công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Bình.

Quảng Trị 1718 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đình làng Già Hạ - Việt Tiến

Công trình đình làng Già Hạ được phục dựng theo đúng nguyên mẫu đình làng xưa và dựa trên những mô tả của các cụ cao niên, nhân chứng hiện đang sinh sống trên địa bàn xã. Tổng diện tích khu di tích gần 300 m2, diện tích xây dựng đình làng gần 100 m2. Tổng mức đầu tư trên 500 triệu đồng, trong đó Nhà nước hỗ trợ 410 triệu đồng, Nhân dân đóng góp trên 100 triệu đồng gồm tiền mặt và ngày công lao động. Theo các tư liệu lịch sử, vào tháng 11 năm 1947, Tỉnh ủy và Ủy ban Kháng chiến Hành chính tỉnh Lào Cai chủ trương cùng Nhân dân tản cư về Lục Yên tỉnh Yên Bái, ở xã Hùng Việt (là xã Việt Tiến, huyện Bảo Yên ngày nay). Tại đình làng Già Hạ, Tỉnh uỷ Lào Cai đã tổ chức hội nghị cán bộ Đảng toàn tỉnh bàn về hương hướng kháng chiến, xây dựng lực lượng trong khu căn cứ, củng cố chi bộ nông thôn và bàn về việc mở chiến dịch biên giới, chiến dịch Lê Hồng Phong tiến tới giải phóng Lào Cai. Không chỉ là căn cứ cách mạng, đình làng xưa còn là nơi hội họp, sinh hoạt văn hóa văn nghệ của Nhân dân trong vùng. Do vậy, việc phục dựng và đầu tư xây dựng lại đình làng Già Hạ là niềm mong mỏi của cấp ủy, chính quyền và Nhân dân địa phương. NGUỒN: ĐÀI PHÁT THANH - TRUYỀN HÌNH LÀO CAI

Lào Cai 1747 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Đền Pịt - Lương Sơn

Từ lâu, trong đời sống tâm linh của đồng bào Tày, ngôi đền là chốn linh thiêng thờ phụng Vua Hùng, nơi thực hành tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương. Sự độc đáo của ngôi đền chính là sự giao thoa văn hóa, tín ngưỡng giữa miền xuôi và miền ngược, kết tinh những giá trị nhân văn cao đẹp. Đó là đền Pịt thuộc bản Tày Pịt, xã Lương Sơn (Bảo Yên - Lào Cai). Sau khi cuộc khởi nghĩa Thái Bình Thiên Quốc ở Trung Hoa thất bại, nhiều tàn quân đã chạy dạt sang Việt Nam. Trong đó, nhóm tàn quân do Lưu Vĩnh Phúc đứng đầu đã kéo về Lục Yên và thành lập quân Cờ Đen. Để nuôi sống tàn quân, chúng ra lệnh cho các chức dịch địa phương phải nộp lương thực, thực phẩm, bắt thanh niên trai tráng xung vào đội quân của chúng. Đời sống nhân dân vô cùng khổ cực. Đến năm 1872, giặc Cờ Vàng do Hoàng Sùng Anh cầm đầu kéo từ Vân Nam sang Lào Cai. Một cuộc chiến khốc liệt giữa quân Cờ Đen và quân Cờ Vàng đã khiến nhân dân trong vùng rơi vào cảnh vô cùng bi thảm. Giặc cỏ vùng biên giới chưa yên thì năm 1885, thực dân Pháp đánh các tỉnh miền núi phía Bắc. Từ đó trở đi, dân tộc ta rơi vào cảnh lầm than, nước mất nhà tan, nhân dân vô tội chịu nhiều tầng áp bức bóc lột. Dưới nhiều tầng áp bức bóc lột kéo dài từ những năm cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, đời sống nhân dân các dân tộc ở Lương Sơn vô vùng tăm tối. Không có gì ngạc nhiên khi mọi người cần một điểm tựa về tâm linh. Sau nhiều lần nhờ các vị cao nhân kiếm tìm thì những người có uy tín trong cộng đồng người Tày ở Bản Pịt đã quyết định rước chân nhang thờ vua Hùng Vương ở Bạch Hạc, Phú Thọ về thờ tại đền. Từ khi rước chân nhang thờ các Vua Hùng về thờ, đời sống người dân thôn Pịt, xã Lương Sơn đã được nâng đỡ, động viên về mặt tinh thần. Việc thờ cúng Vua Hùng cùng với sơn thần, thổ địa của làng được duy trì suốt từ thời gian đó cho đến ngày nay. Đền Pịt tọa lạc trên mảnh đất rộng trên 4000m2, vị trí thoáng, phía trước là 2 bậc sân rộng khoảng 300m2, nền của di tích cao hơn mặt sân 50cm, cây cối và những thửa ruộng bậc thang bao quanh tạo nên khung cảnh hữu tình. Hiện nay đền Pịt là ngôi nhà gỗ 1 gian chính giữa và 2 chái được làm bằng gỗ, vật liệu còn rất tốt, yếu tố kỹ thuật đạt thẩm mỹ cơ bản. Đền hướng chính Đông. Trong đền có một bát hương cổ, toàn bộ nền đá, vết tích dựng đền vẫn còn. Nhiều năm trước đây, đến ngày hội của đền vào tháng Giêng, các chị em phụ nữ thường làm một mâm quả còn, én. Kết thúc phần nghi lễ cúng và thụ lộc, các cụ đến một mảnh ruộng để ném còn vòng, chơi én, đánh quay... Tất cả mọi người nam nữ, già trẻ đều nô nức, phấn khởi, tinh thần thăng hoa chuẩn bị một năm mới với nhiều hân hoan. Các quả còn, khi chơi xong sẽ được giữ tại gia đình nhà thầy cúng đến năm sau, khi làm cái mới, mới hóa cái cũ. Với những giá trị nhiều mặt, đền Pịt đã được UBND tỉnh Lào Cai xếp hạng di tích lịch sử cấp tỉnh. Đền Pịt xã Lương Sơn là địa chỉ tâm linh, không gian sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng của đồng bào các dân tộc nơi đây. Đặc biệt, ngôi đền gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương - di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. Ngôi đền là minh chứng cho sự giao thoa văn hóa Tày - Việt. Đền Pịt là điểm nhấn tâm linh trong lộ trình phát triển du lịch tâm linh của địa phương. NGUỒN: Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch

Lào Cai 1823 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Đền Hai Cô - Kim Sơn

Đến Bảo Yên, du khách đi theo đường Cao tốc Nội Bài - Lào Cai; đường Sắt Hà Nội - Lào Cai, hoặc Quốc lộ 70, Quốc lộ 279, giao thông thuận tiện đưa du khách đến với Di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia Đền Bảo Hà, thờ danh Tướng Hoàng Bảy, ngôi Đền linh thiêng nổi tiếng cả nước; Đền Cô Tân An, di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia, nằm bên kia Sông Hồng đối diện với Đền Bảo Hà thờ Cô Bé Thượng Ngàn (Nguyễn Hoàng Bà Xa) người có công cùng cha là “ Thần Vệ quốc Hoàng Bảy” đánh giặc, bảo vệ biên cương Tổ quốc. Cũng từ đây, du khách đến với xã Kim Sơn, một vùng quê yên bình, trù phú bên dòng Sông Hồng đỏ nặng phù sa, nơi đây có ngôi Đền Hai Cô tọa lạc trên đồi cao soi bóng xuống Dòng Sông, một phong cảnh “ Sơn thủy, hữu tình”. Sau một thời gian được các nhà nghiên cứu lịch sử khoa học tìm hiểu về lịch sử thời Nhà Trần, có hai cô gái theo quan quân Nhà Trần đánh giặc Nguyên - Mông vào thế kỷ XIII, đã anh dũng hy sinh tại mảnh đất Bãi Liềm, nay là thôn Quang Kim, xã Kim Sơn, Bảo Yên. Ngày 28/12/2018, UBND tỉnh Lào Cai đã ban hành Quyết định số 4349/QĐ-UBND về việc xếp hạng Di tích Đền Hai Cô là di tích lịch sử Văn hóa cấp tỉnh. Sự tích Đền Hai Cô được các nhà Sử học ghi lại: Theo lời kể của những người cao niên ở thôn Kim Quang và các hiện vật còn sót lại của ngôi đền cho thấy; Đền Hai Cô đã có lịch sử cách đây hơn trăm năm tuổi với nhiều lớp trầm tích dân gian được lưu truyền về nhân vật được thờ trong đền. Sự tích về nhân vật được thờ và lịch sử ngôi Đền chỉ được lưu truyền từ đời này sang đời khác, qua những câu chuyện kể được truyền miệng trong dân gian và cho đến nay chỉ một vài người già còn nhớ được. Bà Lê Thị Nhàng - thủ nhang đền Hai Cô cho biết: Vào những năm 1965 trong làng Bãi Liềm còn 4 hộ người Dao Họ sinh sống, bà được nghe những người Dao lớn tuổi kể lại về nhân vật được thờ trong ngôi đền là Hai Cô đã có công với vùng đất này trong kháng chiến chống quân Nguyên – Mông vào thời Nhà Trần. Truyền thuyết kể lại: Trong một trận chiến đấu với quân Nguyên - Mông (thế kỷ XIII) có hai cô gái đi theo quân nhà Trần canh gác trên một cái chòi cao tại Bãi Liềm làm nhiệm vụ đốt lửa báo hiệu khi quân địch tới. Trong trận chiến này, thế giặc rất mạnh tiến công như vũ bão, chòi canh của Hai Cô gái bị quân giặc bao vây 4 phía. Biết không thể thoát khỏi vòng vây và quyết không để rơi vào tay quân giặc Hai Cô đã tự châm lửa đốt chòi canh tự sát. Sau khi hai Cô thác đã hiển linh ở khu vực Bãi Liềm. Linh hồn Hai Cô đã nhiều lần hiển linh phù trợ cho quân lính nhà Trần thời bấy giờ đánh thắng trong nhiều trận chiến chống quân Nguyên – Mông xâm lược. Chính vì vậy, uy danh và sự linh thiêng của Hai Cô đã nổi tiếng khắp xa gần. Để tưởng nhớ sự hy sinh của Hai Cô, nhân dân nơi đây đã lập Đền thờ phụng và thường gọi là “Đền Hai Cô”, ngôi Đền thờ Hai Cô gái đã anh dũng hy sinh trong trận chiến đấu chống quân Nguyên - Mông bảo vệ bờ cõi vùng đất của người dân Kim Sơn nói riêng và dân tộc Việt Nam nói chung. Ngày nay, người dân nơi đây thường tâm niệm: Hai Cô thường xuyên hiển linh phù hộ, độ trì cho thuyền bè qua lại trên sông Hồng được xuôi chèo mát mái. Mùng 1, ngày Rằm, đầu xuân người dân lại đến dâng hương, hoa Đền Cô, cầu cho “ tai qua, nạn khỏi, mọi người mạnh khỏe, gia đình ấm êm, mùa màng tươi tốt…” Đền Hai Cô thuộc thôn Kim Quang, xã Kim Sơn, huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai. Nơi đây người dân vẫn gọi là bãi Liềm, một mỏm đất nhô ra sông Hồng được bao bọc bởi những cây to quanh năm xanh tươi, rợp bóng. Đền Hai Cô tọa lạc trên đồi cao, không tiếp giáp với nhà dân, hai phía tả ngạn tiếp giáp với Sông Hồng, phía sau Đền tiếp giáp với đường tỉnh lộ 161. Để đáp ứng nhu cầu tâm linh và truyền thống“uống nước, nhớ nguồn’ của nhân dân địa phương và du khách thập phương; hiện nay, UBND huyện Bảo Yên đang quy hoạch mở rộng quỹ đất, tôn tạo khuôn viên ngôi Đền, để nhân dân và Chính quyền địa phương thuận tiện trong việc bảo tồn và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh Đền Hai Cô./. CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ HUYỆN BẢO YÊN TỈNH LÀO CAI

Lào Cai 1763 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Đình làng Lũ Phong

Đình làng Quảng Phong-trước đây gọi là đình Lũ Phong, được xây dựng vào năm 1542, để thờ 5 vị thánh Thành hoàng có công khai khẩn, lập làng qua các thời kỳ. Năm 1962, đình được công nhận là Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Trong những năm kháng chiến chống Mỹ, đình là mục tiêu đánh phá ác liệt của kẻ thù. Tới nay đình đã được tôn tạo lại và dần dần phục hồi các giá trị truyền thống lịch sử tốt đẹp của địa phương. Đình làng Lũ Phong là nơi tưởng nhớ công ơn Thành Hoàng Làng (những vị quan, tướng đầu tiên về khai khẩn sinh sống tại đây), đặc biệt hơn đình làng cũng ghi dấu ấn lịch sử Chi bộ đầu tiên được thành lập của Huyện Quảng Trạch và phía Bắc Quảng Bình (10/1993). Để tưởng nhớ công lao của ông, cha và cầu cho làm ăn thuận lợi, mùa màng bội thu, cuộc sống ấm no, bình an, hàng năm người dân tổ chức cúng tế. Việc chuẩn bị cho lễ hội đình làng Lũ Phong được thực hiện rất công phu. Chiều ngày 17 tháng Giêng, người dân của 10 tổ dân phố của phường Quảng Phong đều bận rộn, chuẩn bị các mâm cỗ để cúng lễ cho sáng ngày hôm sau. Trong mâm cỗ cúng ngày lễ được chia làm hai loại: loại mâm cỗ thứ nhất gồm có hoa quả, vàng mã, hương, rượu,…;loại mâm cỗ thứ hai gồm xôi thịt. Lễ hội đình làng Lũ Phong được tổ chức từ 9 giờ sáng ngày 18 tháng Giêng khi các mâm cỗ của 10 tổ dân phố trong phường đã được trưng bày đầy đủ tại đình Lũ Phong. Các nghi lễ cúng do các bậc cụ lão lớn tuổi trong phường thực hiện. Quá trình hình thành, phát triển của đình làng Lũ Phong,các truyền thống ông cha sẽ được đọc lại trong buổi lễ, nhằm giáo dục cho các thế hệ sau nhớ về cội nguồn. Đồng thời lễ hội Lũ Phong cũng nêu lên những thành tích mà phường Quảng Phong đã đạt được trong năm trước, cầu mong cho năm mới mọi điều thuận lợi, hướng thiện, cầu bình an, mọi người dân sẽ có cuộc sống tốt đẹp hơn. Nguồn Cổng thông tin điện tử thị xã Ba Đồn, tỉnh Quảng Bình.

Quảng Trị 1911 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đình làng Phù Trịch

Làng Phù Trịch (Quảng Lộc, TX. Ba Đồn) vốn nổi danh bởi chiến thắng Phù Trịch - La Hà những năm chống Pháp ác liệt. Mảnh đất này vẫn còn lưu dấu bao giá trị lịch sử, văn hóa vững bền theo thời gian. Đình làng Phù Trịch là nơi hội họp, diễn ra các hoạt động văn hóa-văn nghệ, lưu giữ nhiều phong tục, tập quán tốt đẹp và còn là hiện thân của tình đoàn kết cộng đồng. Một trong những giá trị làm nên niềm tự hào vững bền của người dân Quảng Lộc nói chung và làng Phù Trịch nói riêng là mái đình Phù Trịch cổ kính, mang đậm dấu ấn thời gian. Đình Phù Trịch được xây dựng vào năm 1843, là một công trình kiến trúc ẩn chứa nhiều giá trị lịch sử, văn hóa của địa phương. Điều đáng quý là bên trong đình Phù Trịch hiện đang lưu giữ 12 sắc phong thời nhà Nguyễn từ vua Tự Đức đến vua Duy Tân, điều đó thể hiện được sự trân trọng quá khứ, cũng như công lao của các bậc tiên hiền. Mặt đình hướng ra sông Gianh, lưng tựa vào làng tạo thế đứng vững chắc giữa không gian thoáng đãng. Đình được thiết kế hai phần: đình tiền và đình hậu. Đình tiền được xây dựng khá rộng, có thiết kế đẹp, công phu. Các đường nét hoa văn được chạm khắc trau chuốt, tỉ mỉ. Ở hai đầu hồi phía đông và tây đắp hình hai con chim phượng có tư thế đang bay, với cách đắp ốp những đường nét cong lượn tinh tế, sắc sảo, uyển chuyển, hài hòa, tuyệt mỹ, mang cốt cách đăng đối cung đình. Đình hậu có kiểu kiến trúc và cách bố trí mang những nét tương đồng như những đình khác ở các địa phương khu vực miền Trung, từ các chi tiết hoa văn phối cảnh bên ngoài cho đến phần nội thất bên trong. Đình hậu được xây dựng theo hình chữ nhật, mái lợp bằng ngói Hưng Ký. Đình hậu là nơi thờ phụng vị thành hoàng danh tướng Phạm Bá Quý và các vị thần, vị tướng có công danh, đức độ, các vị khoa bảng danh thơm, tiếng tốt, phò dân, giúp nước được nhân dân mến mộ. Cách đình khoảng 20m về phía tay trái, dân làng còn lập riêng một lăng miếu được xây cất khá công phu thờ Thành hoàng Phạm Bá Quý, người có công lớn trong việc khai khẩn ruộng đất lập nên làng Phù Trịch, vừa là một vị tướng có tài. Phía trên hương án treo 2 chữ Hán “Anh Linh” do vua ban tặng, thể hiện là nơi trang nghiêm và kính cẩn để thờ ngài. Năm 1817, ông được vua Thành Thái sắc phong “Bản thổ Thành hoàng chi thần”, sau đó sắc phong là “Thượng đẳng Tôn thần”. Bởi thế, khi xây dựng miếu thờ, dân làng đã khắc hai câu đối bằng chữ Hán: “Sinh vi tướng Binh Lồi cứu quốc/Tử phong thần bản thổ thành hoàng”. Phía trên 4 nóc miếu vẫn còn giữ được những nét chạm trổ rồng, phượng tinh xảo và nguyên bản, thể hiện uy quyền của một danh tướng. Về phía đông cách đình khoảng 1.200m nhân dân địa phương còn lập nên một khu miếu gọi là “Tam tòa tứ miếu”, gồm có 4 ngôi miếu. Mỗi ngôi miếu được thiết kế theo ba tòa kiến trúc giống nhau, các đường nét đắp ốp, uốn lượn, chấm họa đều theo một thể thống nhất. Bốn ngôi miếu dùng để thờ các vị: Nam Hán Lang Lai, Tả phụ thiền tướng công Nguyễn Hữu Hiền, thân phụ các tả phụ thiền quận công, tứ vị thần nông, những vị có công trong việc trấn ải biên thùy, khai cơ điền thổ, xây dựng bảo vệ quê hương và được sắc phong qua các triều vua. Di tích lịch sử đình Phù Trịch ngoài việc thờ tự vong linh những vị tổ khai cơ lập nghiệp nên làng, những vị có công đức được nhân dân tôn kính, đình còn gắn liền với những sự kiện lịch sử quan trọng trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Tiêu biểu như chiến thắng Phù Trịch La Hà vào mùa xuân tháng 2-1950 đã đi vào lịch sử của địa phương và dân tộc như một mốc son chói lọi, xác và máu quân thù nhuốm đỏ cả dòng sông. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Phù Trịch là địa bàn trọng điểm; bến đò ngang Phù Trịch là huyết mạch giao thông quan trọng, là nơi đưa đón bộ đội, thanh niên xung phong, nhân dân qua lại và vận chuyển hàng hóa vào chiến trường. Đình Phù Trịch là nơi tập kết quân, cất dấu hàng hóa quan trọng như vũ khí quân trang, quân dụng, gạo muối, thuốc men. Đình Phù Trịch, vùng đất Phù Trịch trở thành điểm nóng mà địch tập trung đánh phá suốt đêm với hàng ngàn loại bom đạn khác nhau hòng ngăn chặn cắt đứt mạch máu giao thông đường bộ, đường thuỷ. Đến năm 1967, 1968 với cuộc chiến tranh mang tính huỷ diệt, đế quốc Mỹ đánh bom vào nhà thương, trường học, đình, chùa, lăng, miếu… phần đình tiền cũng bị đánh sập từ đây. Qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, đình Phù Trịch nói riêng, làng Phù Trịch nói chung đã có những đóng góp đáng kể cho sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc. Đã gần hai trăm năm qua mà các đường nét hoa văn chạm trổ trong tổng thể kiến trúc của ngôi đình vẫn nguyên vẹn trên một vùng đất có nhiều chiến tích, là nơi thờ tự, tín ngưỡng và địa điểm sinh hoạt văn hoá tâm linh của các thế hệ người làng Phù Trịch. Cứ vào mỗi dịp tết đến xuân về, nhất là đêm giao thừa Tết Nguyên đán, con cháu trong làng đều tập trung về đình để cùng nhau đón giao thừa, dâng hương và đánh chiêng, gõ trống khai xuân, ngày 6 tháng giêng hàng năm, tất cả các họ tựu trung tại đình làng để tổ chức lễ khai canh đầu xuân của làng. Đây là dịp để các tộc họ, con cháu gần xa trở về tham dự lễ, cùng ôn lại những giá trị truyền thống tốt đẹp của vùng đất này. Và đình làng mãi là nơi chốn đi về đầy tự hào của bao thế hệ người dân nơi đây. Nguồn Cổng thông tin điện tử xã Quảng Lộc, thị xã Ba Đồn, tỉnh Quảng Bình.

Quảng Trị 1803 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đình Hòa Ninh.

Đình Hòa Ninh thuộc làng Hòa Ninh xưa nay là xã Quảng Hòa, thị xã Ba Đồn được xây dựng từ năm Bảo Đại thứ 11 – 1936. Thời phong kiến, đình vừa là “trạm giao liên của các binh đoàn phục vụ cho việc hành quân”, vừa là nơi thờ cúng các vị anh hùng, các vị có công khai khẩn đất hoang lập nên làng mạc… Cùng với các giá trị về văn hóa, Đình làng Hòa Ninh trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ xâm lược cũng là nơi ghi dấu nhiều sự kiện lịch sử. Ngôi đình là nơi hội họp của nhân dân, nơi diễn ra các cuộc mít tinh của mặt trận Việt Minh kêu gọi quần chúng nổi dậy giành chính quyền ở làng xã, huyện lỵ (8-1945). Trong những năm chống Mỹ cứu nước, đây cũng là nơi lực lượng vũ trang ta tập kết và là kho cất dấu vũ khí sẵn sàng đánh trả lại máy bay địch khi chúng đánh phá miền Bắc. Năm 1965, bom đạn giặc Mỹ khiến đình Hòa Ninh bị hư hỏng nặng. Nhưng, với sự quyết tâm của bà con, cùng sự chỉ đạo sâu sát của chính quyền các cấp, năm 1976, Đình đã được tu sửa thành công và trở thành một “địa chỉ vàng” cho thế hệ đi sau nêu cao niềm tự hào, trách nhiệm đối với truyền thống vẻ vang của cha ông. Năm 1993, Bộ Văn hóa-Thông tin (cũ) đã xếp hạng đình Hòa Ninh là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Đình Hòa Ninh được xây dựng với quy mô và kiến trúc đồ sộ, tỷ mỷ. Đình được bố trí với hệ thống tường thành bao quanh, cổng trụ, bình phong và tòa đại đình nằm ngang. Sự sắc sảo, tinh tế thể hiện ngay ở cổng của đình, với cổng chính được xây dựng bằng gạch. Hai trụ biểu hai bên được thiết kế vô cùng công phu, các đường nét hài hòa với từng họa tiết và màu sắc. Trên hai đỉnh trụ biểu là hình ảnh hai con nghê được ốp tinh xảo bằng men xanh, nâu nhạt thể hiện sức mạnh đoàn kết của người dân. Cổng đình mang đậm nét kiến trúc nghệ thuật của làng quê Việt Nam. Đình Hòa Ninh xã Quảng Hoà gồm có 5 gian, 4 vài, 1 cửa chính và 4 cửa phụ. Trước cửa chính đình có khắc chữ “Thọ” được lồng trong mặt trăng và 3 chữ Hán đắp nổi là Phúc, Du, Đồng. Đây cũng là trung tâm thể hiện các họa tiết trang trí như: Long, Lân, Quy, Phụng, bát bửu, hoa lá… bằng nghệ thuật đắp vữa và ghép các mảnh sành, sứ. Ngoài ra, khu vực này còn có thêm 2 câu đối của cử nhân Nguyễn Tiến Ích. Đình Hòa Ninh có phần mái độc đáo, được xây theo kiểu tứ giác, hai mái thượng phía trước và sau, hai mái hạ ở hai đầu Đông, Tây. Ở giữa nóc đình là hình tượng lưỡng long chầu nguyệt linh thiêng. Hằng năm, vào mỗi dịp Tết, tại đình Hòa Ninh Quảng Bình có tổ chức lễ hội Kỳ Phúc, đây là lễ hội nhằm với mục đích cầu phúc cho nhân dân, cầu cho quốc thái dân an, mùa màng bội thu, thuận buồm xuôi gió... Ngoài ý nghĩa cầu phúc, đây cũng là dịp mà người dân làng Quảng Hòa, mà lớn hơn nữa là người dân Quảng Bình nhớ về tổ tiên, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Nguồn Cổng thông tin điện tử xã Quảng Hòa , thị xã Ba Đồn, tỉnh Quảng Bình.

Quảng Trị 1714 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đền Long Khánh

Di tích lịch sử văn hóa đền Long Khánh, xã Phúc Khánh, huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai tổ chức Lễ hội đền Long Khánh có hai phần, trong phần lễ, các đại biểu, người dân và du khách đã tham gia phần rước kiệu và dâng hương theo phong tục, văn hóa người dân tộc Nùng (dân tộc chiếm đa số tại đây), cầu mưa thuận, gió hòa, mùa màng tươi tốt, bội thu, gia đình ấm no, hạnh phúc. Ở phần hội, người dân địa phương và du khách được trải nghiệm các trò chơi dân gian như kéo co, bịt mắt bắt vịt, thi nấu cơm, làm bánh, múa hát văn nghệ... những tiết mục, trò chơi mang đậm bản sắc của người dân nơi đây. Theo sử sách ghi lại, cuối thế kỷ 19, châu Lục Yên bị loạn binh cờ đen từ phía bắc nổi lên xâm chiếm, vơ vét của cải, giết hại dân lành, đốt phá nhà cửa. Không chịu khuất phục trước cảnh lầm than, quan Tri châu Lục Yên bấy giờ là Tăng Hán Bảo, ông là thầy Tạo, người dân tộc Nùng rất có uy tín đã tập hợp đông đảo người dân trong vùng cùng dòng tộc đứng dậy khởi nghĩa. Nhằm tưởng nhớ công lao của vị anh hùng Tăng Hán Bảo hy sinh quả cảm, anh dũng, Chánh tổng địa phương đã tấu trình lên vua Khải Định (Triều nhà Nguyễn) xin ân chuẩn cho thờ phụng trong toàn vùng vào ngày mùng 2 tháng Giêng hàng năm. Lễ hội chính của đền Long Khánh vào ngày 10 tháng Bảy (âm lịch) hàng năm đã thu hút nhiều người dân địa phương và du khách mọi nơi về chiêm bái cầu phúc, cầu lộc, cầu tài. Năm 2018, Di tích lịch sử văn hóa đ NGUỒN: TẠP CHÍ ĐIỆN TỬ KINH TẾ MÔI TRƯỜNG

Lào Cai 1748 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Đền Nghĩa Đô

Theo sử sách ghi lại: Nghĩa Đô xưa là một thung lũng rộng lớn, đất rừng trù phú, được bao quanh bởi suối, tạo nên phong cảnh trùng điệp yên bình. Cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19, nơi đây có tên gọi là “Mường Khuông”, sau đổi tên là “Mường Nghĩa Đô” gắn với sự kiện hình thành đền Nghĩa Đô vào ngày 14 tháng 7 năm Canh Tuất, năm Tự Đức thứ ba (1850). Tên Nghĩa Đô gắn với vùng đất này từ đó. Tại đây, anh em Vũ Văn Uyên, Vũ Văn Mật (các chúa Bầu) cùng một số tướng công họ Vũ và tướng lĩnh trong vùng đã cho xây dựng tuyến phòng thủ bảo vệ thành Nghị Lang từ xa; tổ chức khai khẩn phục vụ sản xuất quân lương tại chỗ, mở mang, phát triển vùng đất này. Đặc biệt, các chúa Bầu cho phép quân binh người miền xuôi hòa nhập với người bản địa làm thế đồn trú lâu bền trên miền biên ải. Đền Nghĩa Đô được công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh từ năm 2016. Năm 2018, đền được tôn tạo, trùng tu; đến năm 2019 khánh thành và đưa vào sử dụng, đáp ứng nhu cầu tâm linh của người dân trong vùng và du khách thập phương. Lễ hội đền Nghĩa Đô được tổ chức thường niên vào ngày 14/7 (âm lịch) nhằm tưởng nhớ công lao to lớn của các chúa Bầu cách đây hàng trăm năm đã bảo vệ cuộc sống bình yên cho người dân, mở mang phát triển vùng đất này. Báo Lào Cai điện tử

Lào Cai 1668 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Đồn Phố Ràng

(ĐCSVN) – Di tích Lịch sử Quốc gia đồn Phố Ràng ở thị trấn Phố Ràng, huyện Bảo Yên (Lào Cai) là chứng tích đặc biệt, nơi khắc ghi chiến thắng lịch sử hào hùng, oanh liệt của thế hệ cha ông 73 năm về trước (26/6/1949 – 26/6/2022).​ Theo Lịch sử đảng bộ huyện Bảo Yên (Lào Cai), đồn Phố Ràng được xây dựng trên cao điểm 442, diện tích rộng gần 1 ha; đây là một vị trí chiến lược, có thể khống chế toàn bộ khu vực lòng chảo thị trấn Phố Ràng và các khu vực lân cận. Thế đồn gần như 3 mặt là sông, ở vị trí đồn có thể bao quát, theo dõi toàn bộ các hoạt động ở sông và hai bên bờ. Pháp cho xây dựng một hệ thống công sự vững chắc với nhiều lô cốt, giao thông hào, hàng rào tre vót nhọn ken dày đặc quanh cứ điểm, mìn, vật cản và ụ súng được bố trí xung quanh đồn. Địch còn bố trí 2 trung đội Âu - Phi, 1 đội lính khố đỏ, 1 trung đội lính dù, 1 trung đội lính dõng, các loại vũ khí sẵn sàng đánh trả và cản bước tiến của các nhánh quân ta lên giải phóng vùng Tây Bắc. Ngày 19/5/1949, chiến dịch sông Thao mở màn, quân ta đã diệt 2 vị trí là Đại Bục và Đại Phác (huyện Trấn Yên, Yên Bái) thuộc phân khu Nghĩa Lộ, làm rung chuyển toàn bộ hệ thống phòng ngự của địch ở hữu ngạn sông Hồng thuộc tỉnh Yên Bái. Thừa thắng ta đánh tiểu khu Phố Ràng là cứ điểm xung yếu, căn cứ đầu não của địch và cũng là sở chỉ huy của tiểu khu. 18 giờ ngày 24/6/1949, pháo binh của ta bắt đầu bắn vào đồn địch, áp chế các ụ súng. Sau hơn 40 giờ chiến đấu liên tục với khí thế mãnh liệt, kiên cường, dũng cảm, đúng 08 giờ ngày 26/6/1949, quân ta đã làm chủ trận địa, hạ được đồn, bắt sống được tên quan Ba chỉ huy đồn, tiêu diệt hơn một đại đội địch. Đồn Phố Ràng bị hạ, một bộ phận quân địch rút chạy theo 2 hướng về Nghĩa Đô và Lào Cai. Sở chỉ huy Phố Ràng bị tiêu diệt đã làm rung chuyển tuyến phòng thủ của địch từ Phố Lu đến Nghĩa Đô, làm cho địch tổn thất, hoang mang và lo sợ. Chiến thắng đồn Phố Ràng đã phá vỡ một mắt xích quan trọng trong tuyến phòng thủ Bảo Hà - Phố Ràng - Nghĩa Đô - Yên Bình, thúc đẩy sự tan rã của địch, tạo tiền đề cho bộ đội chủ lực tiến vào giải phóng Phố Lu và tiến đánh đồn Nghĩa Đô, góp phần quan trọng đưa chiến dịch Sông Thao đến toàn thắng, đập tan tuyến phòng thủ trọng yếu của địch, giải phóng trên 600 km2 và hàng chục vạn nhân dân các dân tộc Tây Bắc thoát khỏi ách kìm kẹp của địch. Trận đồn Phố Ràng là chiến thắng hào hùng, oanh liệt đã được ghi vào trang sử vẻ vang của đất nước ta. Ngày 11/06/1999 di tích đồn Phố Ràng được Bộ Văn hoá Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể Thao – Du lịch) công nhận là Di tích Lịch sử cấp Quốc gia, theo Quyết định số 38/QĐ-BVHTT. NGUỒN: Cơ quan Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam

Lào Cai 1628 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Nhà Tưởng niệm bà Hoàng Thị Loan ( thân Mẫu Bác Hồ)

Bà Hoàng Thị Loan - thân mẫu Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ra trên mảnh đất giàu truyền thống cách mạng và hiếu học; quê gốc của dòng họ Hoàng tại thôn Vân Nội, xã Hồng Tiến, huyện Khoái Châu. Trong bà hội tụ những phẩm chất cao đẹp của người phụ nữ truyền thống Việt Nam, đảm đang, nhân hậu, chịu thương, chịu khó, hết lòng vì chồng, vì con. Để tỏ lòng thành kính và tôn vinh công lao to lớn của bà, năm 2003, UBND tỉnh Hưng Yên đã quyết định khởi công xây dựng nhà thờ (nay là Nhà tưởng niệm) trên mảnh đất thôn Vân Nội, xã Hồng Tiến. Đây là công trình mang đậm nét kiến trúc truyền thống, hài hòa với không gian, cảnh quan làng quê vùng đồng bằng Bắc Bộ, trong khuôn viên cũ của đình làng Vân Nội. Được khánh thành năm 2005, đây là một trong những công trình quan trọng của tỉnh, là nơi để các tầng lớp nhân dân trong và ngoài tỉnh về dâng hương, thăm viếng, tưởng nhớ người phụ nữ cả đời hy sinh cho chồng con và dâng hiến cho dân tộc Việt Nam một người con vĩ đại - Chủ tịch Hồ Chí Minh vô vàn kính yêu. Ngày 26-7-2023, Chủ tịch UBND tỉnh Hưng Yên đã ký quyết định xếp hạng Di tích lịch sử cấp tỉnh đối với Nhà tưởng niệm bà Hoàng Thị Loan theo số 1555/Quyết Định -Chủ Tịch Uỷ Ban Nhân Dân. Sau 20 năm kể từ khi xây dựng, một số hạng mục của công trình đã xuống cấp. Được sự quan tâm của lãnh đạo tỉnh và các sở, ban, ngành, đầu năm 2024, UBND huyện Khoái Châu đã triển khai Dự án trùng tu, tôn tạo Nhà tưởng niệm bà Hoàng Thị Loan và các công trình phụ trợ, bao gồm các hạng mục: Trùng tu, tôn tạo các hạng mục di tích Nhà tưởng niệm; cải tạo, nâng cấp đường vào Nhà tưởng niệm và một số hạng mục khác… Sau 6 tháng thi công, đến nay, công tác trùng tu, tôn tạo các hạng mục và các công trình phụ trợ Nhà tưởng niệm bà Hoàng Thị Loan đã hoàn thành. Di tích Nhà tưởng niệm bà Hoàng Thị Loan, để nơi đây thành địa chỉ đỏ, là điểm thu hút khách tham quan, tìm hiểu lịch sử… Nguồn Sở văn hóa thể thao và du lịch.

Hưng Yên 2349 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Đình - Chùa thôn Mão Xuyên

Căn cứ vào thần tích, sắc phong còn lưu giữ, Đình làng Mão Xuyên được xây dựng để tôn thờ vị Thành Hoàng Làng là Ông Hoàng Văn Lang hay còn gọi là Đức Hoàng Hai người con thứ 2 của nữ tướng Ngọc Chí thời Hai Bà Trưng là những người có công đánh đuổi quân Nam Hán những năm 40 – 43 sau công nguyên, đình có kiến trúc “ tiền nhất hậu đinh”. Hiện nay đình vẫn giữ được 2 đạo sắc phong và các hiện vật quý giá như bia đá, các bức đại tự, câu đối, cửa võng và hệ thống tượng thờ. Phía sau đình là chùa là nơi thờ phật Thích Ca Mâu Ni có kiến trúc chữ Đinh với nhiều nét cổ kính còn lưu giữ như Tam Quan, tiền đường và thượng điện. Trong kháng chiến chống quân xâm lược Đình - Chùa Mão Xuyên còn là nơi hoạt động cách mạng của các đồng chí tiền khởi nghĩa tại địa phương. Với ý nghĩa và giá trị lịch sử đó, tại buổi lễ, thừa ủy quyền của Chủ tịch UBND tỉnh, đồng chí Mai Xuân Giới, Phó Bí thư Huyện ủy – Chủ tịch UBND huyện đã trao bằng xếp hạng di tích cấp tỉnh Đình-Chùa Thôn Mão Xuyên cho cán bộ và nhân dân xã Nguyễn Trãi. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên.

Hưng Yên 1991 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Động Hàm Rồng

Động Hàm Rồng nằm ngay dưới chân núi Hàm Rồng thôn Na Bủ xã Tung Chung Phố huyện Mường Khương,Thành Phố Lào Cai (nay thuộc thị trấn Mường Khương) cách trung tâm huyện gần 2km. Đây là một hang động lớn nằm trong lòng núi đá vôi. Sở dĩ có tên là Hàm Rồng vì theo truyền thuyết và những câu truyện dân gian thì trong động có một con rồng rất to thường hay xuất hiện khi thời tiết thay đổi. Vì vậy người dân địa phương đặt tên cho hang động đó là động Hàm Rồng. Đến động Hàm Rồng du khách sẽ có dịp được chiêm ngưỡng vẻ đẹp huyền bí giữa một vùng núi rừng bao la rộng lớn. Đường đi tới động Hàm Rồng khá thuận lợi, du khách men theo dòng suối Tùng Lâu vào cửa chính vào động. Dòng suối này quanh năm uốn mình trên từng khe núi, đi qua hang động tạo thành dòng thác “Páo Tủng” – một thắng cảnh tuyệt diệu của cả vùng Mường Khương. Quần thể hang động Hàm Rồng bao gồm 2 hang chính nối liền nhau với tổng chiều dài khoảng 750m. Cửa động Hàm Rồng với chiều rộng hơn 6m, vòm hang cao 5m nên thuận tiện cho du khách vào tham quan. Trong lòng hang động phân chia chia thành nhiều ngách nhỏ nối liền với nhau, vào sâu khoảng 10m là tới những nhũ đá đơn lẻ màu tối, đi tiếp lên qua lỗ thông nhỏ - nơi đón nhận ánh sáng tự nhiên chiếu sâu vào hang với các hình thù kỳ lạ đó là: hình nhũ đá bám trên vách đá với những hang vòm trông mềm mại tựa như giàn bầu tiên đang leo, đi sâu xuống lồng hang du khách sẽ nhận thấy những hình thù giống như hình con dê đang ăn cỏ, hình con chim đang bay, chúng hòa quyện với cảnh sắc lung linh dưới ánh đèn. Đột nhiên trước mắt du khách hiện ra một cung điện với những chiếc vương miện điểm những viên ngọc sáng long lanh của Hoàng đế, rồi tới những hình thù giống những thửa ruộng bậc thang nối tiếp nhau. Giữa hang là khối hình trụ tròn có đầu giống ông bụt với khuôn mặt phúc hậu, nhưng thân hình lại gai góc xù xì bám vào nhau tựa như những cần ăng ten, có chỗ trông như bàn cờ tiên, giống như của buồng của công chúa...Càng vào sâu trong hang động du khách càng nhận thấy sự uy nghi lộng lẫy với sự đa sắc màu tạo nên cảnh đẹp nên thơ và trữ tình. Động Hàm Rồng có giá trị rất lớn về du lịch, địa chất, thẩm mỹ. Đến với động du khách không những được chiêm ngưỡng phong cảnh hữu tình của núi rừng, sông suối tự nhiên mà còn là điều kiện cho các nhà nghiên cứu về địa lý, đất đai thổ nhưỡng địa tầng. Hàm Rồng còn là nguồn cảm hứng sáng tạo nghệ thuật cho các nhà hội họa, nhiếp ảnh. Động Hàm Rồng được nhà nước công nhận là Di tích Danh thắng cấp Quốc Gia theo QĐ số: 15/QĐ-BVHTT ngày 14/4/2003. NGUỒN: Ủy ban nhân dân tỉnh Lào Cai

Lào Cai 1614 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Động Mường Vi

Cách thành phố Lào Cai 28 km về phía Tây Bắc qua huyện Bát Xát tới Bản Vược rẽ trái là đến xã Mường Vi - nơi có thung lũng rộng lớn, xung quanh là những dãy núi đá vôi trùng điệp tạo thành một quần thể hang động rộng lớn gọi là quần thể hang động Mường Vi. Nơi đây bao gồm các động Ná Rin, Cám Rang, Cám Rúm và Cám Tẳm đều khá đẹp, đây là một trong những di tích độc đáo và hấp dẫn của tỉnh Lào Cai. Động Ná Rin là động lớn có rất nhiều nhũ thạch màu ánh bạc trong suốt đan xen vào nhau giống như những bức bình phong đơn giản về kiểu dáng nhưng toát lên vẻ đẹp sang trọng và nguyên sơ. Đầu nhũ thạch giống như giọt nước tinh khiết bắt nguồn từ dòng suối nhỏ nằm trên vách hang, nhũ đá tựa như những chiếc đèn chùm ánh pha lê to nhỏ khác nhau. Động Cám Rang nằm trên lưng chừng một quả núi ở vị trí cao ít hơi nước, màu nhũ hơi nâu sẫm nhưng rắn chắc. Phía trong hang là những tảng đá có hình thù giống như quả bầu dài và mâm ngũ quả có màu vàng thu hút tầm mắt của mọi khách du lịch khi tới đây tham quan và khám phá. Phía trong động có cổng trời, trên cổng là dải nhũ đá trông như vương miện với những dải ren cầu kỳ óng ánh. Hấp dẫn không kém là các động Cám Rúm và Cám Tẳm, hai động này cũng có nhiều tảng đá với những hình thù độc đáo được phủ bởi nhũ thạch muôn màu sắc. Riêng động Cám Tẳm chứa đựng nhiều yếu tố dân gian phong phú và hấp dẫn, nơi đây còn lại nhiều những vết tích cổ xưa, phản ánh đời sống văn hóa tâm linh của cộng đồng dân tộc Giáy. Động Mường Vi còn chứa đựng nhiều sự tích dân gian thần bí nói về ông vua người Giáy thông minh anh dũng với những chiến công chống giặc ngoại xâm bảo vệ làng bản như những đợt đắp suối ngăn nước chống giặc, trồng tre tạo hàng rào chống giặc rất hiệu quả, rồi đến câu chuyện về con ngựa đá biết bay của ông Vua... Ngoài ra còn có những câu chuyện dân gian kể về sự tích của các nàng tiên xinh đẹp hiền lành thường xuyên xuống giúp đỡ bà con trong những ngày mùa bận rộn trồng cấy và thu hoạch... Quần thể động Mường Vi là quần thể động lớn có nhiều đặc thù và giá trị nghiên cứu khác nhau, là nơi chứa đựng kho tàng dân gian phong phú về non nước và con người nơi đây, đồng thời cũng là nơi tìm hiểu nghiên cứu của những nhà địa chất học. Đặc biệt quần thể động Mường Vi có một giá trị thực tiễn về chiến lược bảo vệ an ninh biên giới, làm giàu đẹp môi trường sinh thái của địa phương. Đây còn là nơi tìm hiểu các giá trị thẩm mỹ, cung cấp nguồn cảm hứng sáng tạo cho các nhà nghiên cứu sáng tác về văn học và hội họa. Hiện nay nơi đây đã và đang thu hút được sự quan tâm của nhiều ngành khoa học như: văn hóa, môi trường, du lịch, địa chất...nhằm khai thác bảo tồn phát huy các giá trị của di tích phục vụ sự phát triển kinh tế cho địa phương. Quần thể động Mường Vi được nhà nước công nhận là Di tích Danh lam thắng cảnh Quốc gia theo quyết định số 38/QĐ-BVHTT ngày 11/6/199 của Bộ Văn hóa Thông tin. NGUỒN: Ủy ban nhân dân tỉnh Lào Cai

Lào Cai 1723 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Cấm

Đền Cấm thuộc thôn Soi Mười xã Vạn Hòa (nay là tổ 3 phường Phố Mới - Lào Cai), ngôi đền được tọa lạc dưới chân quả đồi thấp, xung quanh cây trái tốt tươi, trước đền là 3 cây cổ thụ: cây si, cây mít và cây ngọc lan tỏa bóng mát cho đền tạo nên cảnh quan rất lý tưởng. Ngôi đền được xây dựng và tồn tại cách đây gần 200 năm nay gắn liền với lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam nói chung và đồng bào các dân tộc Lào Cai nói riêng. Ngôi đền có truyền thuyết gắn liền với công cuộc 3 lần kháng chiến chống quân Nguyên Mông dưới sự chỉ huy của vua tôi nhà Trần đó là vị tướng quốc Trần Quốc Tuấn - người được phong hiệu “Vạn cổ anh linh Thượng đẳng phúc thần”. Tương truyền rằng, năm 1257 Trần Quốc Tuấn hành quân lên biên giới chỉ huy quân phòng thủ chống quân xâm lược Mông Cổ (Thế kỷ XIII) có rất nhiều tướng lĩnh đã ngã xuống vùng đất nơi biên cương này. Đền Cấm được xây dựng để tưởng nhớ 5 binh sĩ nhà Trần (không rõ tên tuổi). Hồi đó khu vực ga (Phố Mới ngày nay) là một cánh rừng nguyên sinh rậm rạp, trong một lần thị sát và chỉ huy phòng thủ biên giới (khoảng năm 1257), tướng Trần Quốc Tuấn đã chọn địa điểm ngôi Đền Cấm bây giờ làm trạm quân y tuyến 2 trong phòng thủ biên giới. Sau đó trong các trận chiến đấu, thương binh được đưa về chữa trị dưới cánh rừng này, người dân bản địa lúc đó là người Việt, người Tày và người Giáy cũng đưa người ốm đau vào nhờ quân y chăm sóc giúp. Rồi có chuyện ly kỳ xảy ra đó là: đêm đêm có một thiếu nữ mặc váy áo màu xanh đến chữa thuốc cho mọi người, thiếu nữ chữa rất giỏi, ai được dùng thuốc đều khỏe mạnh, nhưng thầy thuốc thần kỳ chỉ xuất hiện vào ban đêm còn ban ngày không thấy xuất hiện. Tìm hiểu bản xứ, người dân cho biết không có con cái nhà ai như vậy, sau đó người dân và quan binh đều tin rằng đó là hiển linh của Thánh Mẫu thượng ngàn giúp quan quân và nhân dân giữ nước. Ngay dưới Phương Đình bên cây mít cổ thụ này là 5 ngôi mộ của những quan binh đã xả thân vì nghĩa lớn. Đền Cấm nằm ở vị trí trung tâm cánh rừng xưa, trước đây là một ngôi miếu nhỏ do quan binh và dân làng cùng nhau tạo tác, sau đó được chính thức khởi công xây dựng thành ngôi đền từ thế kỷ XVI, sau bao thăng trầm vẫn giữ được một số sắc phong và cây mít cổ thụ. Ngày nay, đền đã được trùng tu khang trang, to đẹp gồm 2 phần là tòa đại bái và hậu cung. Đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng dân gian không những của người dân thành phố mà cả du khách thập phương, tô đẹp thêm truyền thuyết xưa - truyền thuyết về tình nghĩa quân dân nơi biên giới. Đền Cấm tổ chức lễ hội chính vào ngày thìn tháng bảy (âm lịch) hàng năm, làm lễ giỗ cho 5 vị binh sĩ nhà Trần. Người dân coi đây là ngày giỗ “xóa tội vong nhân” cho 5 vị binh sĩ; do đó cùng nhau đóng góp gạo thịt...để tổ chức. Phần lễ của di tích được tổ chức khá khang trang theo trình tự. Bên cạnh phần lễ còn diễn ra phần hội được tổ chức vui vẻ với các trò chơi truyền thống như ném còn, đánh én...ngoài ra nơi đây còn là nơi tổ chức lễ hội xuống đồng hàng năm. Ngày 27/12/2001 Đền Cấm được công nhận là Di tích Lịch sử cấp Quốc Gia theo Quyết định số 51/QĐ-BVHTT của Bộ Văn hóa và Thông tin. NGUỒN: Ủy ban nhân dân tỉnh Lào Cai

Lào Cai 1880 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Cây đa và Đền La Tiến

Di tích lịch sử Cây đa và Đền La Tiến nằm trên địa bàn xã Nguyên Hòa (Phù Cừ, Hưng Yên). Đây là nơi tưởng niệm anh linh 1.145 anh hùng liệt sỹ, chiến sỹ cách mạng và đồng bào ta đã bị thực dân Pháp giết hại trong thời gian chiếm đóng tại đây (từ năm 1949 - 1954), trong đó có 121 cán bộ và nhân dân xã Nguyên Hòa (Phù Cừ, Hưng Yên). Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, La Tiến là địa bàn có vị trí chiến lược trọng yếu về quân sự, án ngữ phía Nam Hưng Yên, phía Bắc Thái Bình và phía Tây Hải Dương nên địch đã lấy đây là vị trí chiếm đóng, lập bốt, án ngữ nhằm ngăn chặn sự chi viện sức người, sức của, vũ khí, súng đạn, lương thực, thực phẩm… từ các vùng lân cận và đàn áp phong trào cách mạng của quân, dân Hưng Yên. Ngay từ buổi đầu chiếm đóng, địch đã khủng bố hòng thiết lập “vành đai trắng” vô cùng tàn bạo. Chúng bắt hàng nghìn người dân và du kích trong vùng đưa về bốt La Tiến tra tấn dã man và giết hại bằng những hình thức man rợ. Chỉ trong gần 5 năm chiếm đóng tại La Tiến (1949 - 1954), địch đã giết hại 1.145 chiến sĩ cách mạng, đồng bào yêu nước. Nhưng sự tàn bạo của kẻ thù không những không đàn áp được phong trào cách mạng, mà còn thổi bùng lên ngọn lửa căm thù, ý chí chiến đấu ngoan cường vì độc lập tự do của quân và dân ta. Trận tiến công tiêu diệt bốt La Tiến do quân và dân ta tiến hành vào cuối tháng 1/1954 đã góp phần vào những chiến công vang dội của quân và dân tỉnh Hưng Yên trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược; có ý nghĩa to lớn trên chiến trường cả nước, góp phần làm suy yếu địch, tạo điều kiện cho quân và dân ta đi tới chiến thắng Điện Biên Phủ. Với những giá trị lịch sử đặc biệt, Cây đa và Đền La Tiến đã được công nhận là Di tích lịch sử Quốc gia theo Quyết định số 4007/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thông Tin Du Lịch ngày 18/11/2015 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Ngày nay, Di tích này đã trở thành biểu tượng cho tinh thần kiên cường, bất khuất, quật khởi của nhân dân Phù Cừ nói riêng, nhân dân Hưng Yên và cả nước nói chung. Nơi đây không chỉ là nơi lập bia căm thù, khắc ghi tội ác của kẻ thù, mà còn là địa điểm tri ân những chiến sĩ, đồng bào trong tỉnh và các tỉnh lân cận đã hy sinh anh dũng để bảo vệ từng tấc đất, khúc sông quê hương. Nơi đây cũng trở thành địa chỉ đỏ giáo dục thế hệ trẻ về truyền thống cách mạng, tinh thần yêu nước, anh dũng, kiên cường của cán bộ, chiến sỹ và đồng bào ta. Cổng thông tin điện tử huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên.

Hưng Yên 1843 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đền Tống Trân

Đền Tống Trân tọa lạc tại vị trí đắc địa, trên khu đất cao và thoáng ở phía Nam thôn An Cầu, xã Tống Trân, huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên. Đền Tống Trân có tên tự “Tiên căn linh từ”, tên nôm là Đền Thượng, đền Quan Trạng, nhân dân thường gọi là Đền Tống Trân. Tương truyền đền được xây dựng trên nền nhà cũ của Tống Trân từ thời Lý. Ngôi đền nằm tách biệt với khu dân cư trên khuôn viên rộng khoảng 5 mẫu Bắc Bộ. Năm 1950 ngôi đền đã bị phá hủy, qua nhiều lần trùng tu đến năm 1998, đền Tống Trân được tôn tạo lại khang trang. Đền Tống Trân có nghi môn kiến trúc hai tầng tám mái. Phần cổ diêm ghi chữ Hán “Lưỡng Quốc Trạng Nguyên từ môn” (cổng đền Lưỡng Quốc Trạng Nguyên). Giữa khoảng sân là tắc môn bằng đá hình cuốn thư được chạm khắc, chế tác tỉ mỉ, tinh tế, có nội dung ca ngợi cảnh đẹp ngôi đền bằng chữ Hán. Với nguyên lý “Khí gặp gió thì tán, gặp nước thì dừng” trong phong thủy , “ao mắt rồng” trước sân di tích quanh năm nước trong xanh mang ý nghĩa là điểm tụ thủy (tụ khí) đem lại sự hưng thịnh, vượng khí cho muôn dân trong làng. Di tích có kiến trúc hình chữ Nhị, chuẩn lối kiến trúc xưa, gồm hai tòa tiền tế và hậu cung. Tòa tiền tế gồm 3 gian 2 chái được làm theo kiểu tường hồi bít đốc. Giữa đường bờ nóc là đầu hổ phù ngậm chữ Thọ và đôi mặt nguyệt, hai bên có hình lưỡng long chầu nguyệt. Trên các bức chấn phong 3 gian tiền tế đều chạm khắc hình hoa lá và ghi chữ Hán. Trong gian Tiền tế, nền ở 2 đầu hồi cao hơn nền của 3 gian giữa một khoảng là 45cm. Hệ thống kê chân cột là tảng hình quả bồng. Đỡ phần mái là các bộ vì kèo kết cấu theo kiểu giá chiêng, các cấu kiện được bào trơn, đóng bén tạo nên vẻ chắc khỏe, vững trãi cho ngôi đền. Gian giữa đặt bàn thờ Công đồng, phía trên ban thờ là 3 bức cửa võng sơn son thếp vàng, phía trên cửa võng là bức Đại tự chữ Hán “Lưỡng Quốc Trạng Nguyên. Gian bên phải treo bức cuốn thư, gian bên trái là bức trâm viết bằng chữ Hán, nét chữ thanh thoát, sắc nét, đề 8 câu thơ ca ngợi cảnh đẹp của vùng đất cũng như không gian phong quang, thoáng đãng của khu đền. Hậu cung có kiến trúc tường hồi bít đốc, gồm 3 gian 2 chái. Kết cấu hai bộ vì giữa có kiến trúc kiểu giá chiêng. Giữa bộ vì hồi là đầu hổ phù ngậm chữ Thọ và xung quanh là hoa dây. Các đầu dư đều chạm đầu rồng cách điệu với đao mác dựng ngược. Cách tạo tác này vừa có tác dụng chịu lực vừa để trang trí, phần nào làm bớt đi sự thô cứng của các cấu kiện kiến trúc. Gian giữa hậu cung là nơi đặt khám và tượng thờ Trạng Nguyên Tống Trân, hai gian bên là ngai thờ Dương Tam Kha và Đoàn Thượng. Trong khuôn viên di tích, ngoài khu thờ chính còn có đền Mẫu là nơi thờ vọng bà Cúc Hoa, người vợ hiền tần tảo của Tống Trân. Nàng cũng là người thay chàng chăm sóc mẹ trong suốt 10 năm khi Tống Trân đi sứ. Nhà Mẫu mới được phụng dựng lại trong những năm gần đây trên nền móng cũ với kiến trúc kiểu đơn giản. Tòa nhà có kiến trúc hình chữ Đinh gồm hai tòa tiền tế và hậu cung. Tiền tế gồm ba gian hai trái, kiến trúc theo kiểu vì kèo đơn giản. Các cấu kiện được bào trơn đóng bén không chạm khắc hoa văn. Gian giữa là nơi đặt tượng thờ bà Cúc Hoa. Để tưởng nhớ đến công lao của bậc hiền tài, hàng năm lễ hội đền Tống Trân được tổ chức từ ngày 10 đến ngày 17 tháng 4 âm lịch, trong đó ngày 13 và ngày 14 là ngày hội chính. Với những giá trị lịch sử, văn hóa, kiến trúc nghệ thuật, đền Tống Trân đã được Nhà nước công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia theo quyết định số 2387/Quyết Định ngày 30/12/1991. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Phù Cừ , tỉnh Hưng Yên

Hưng Yên 1888 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đình Chiềng Ken Lào Cai

Nằm trong quần thể di tích lịch sử đền Quốc gia Bảo Hà của tỉnh Lào Cai, Đền Ken (Chiêng Ken, Văn Bàn, Lào Cai) nổi tiếng bởi vẻ tôn nghiêm, cổ kính với những chứng tích còn nguyên giá trị. Đền Ken tọa lạc trên đỉnh đồi Pù Đình, cao hơn 180m, giữa lòng thôn Ken với khu đất rộng trên 10.000m2. Theo ký ức từ những vị cao niên, do lợi thế về điểm cao, lại có tầm quan sát rộng, nên thời thuộc Pháp, các quan binh thực dân đã chọn nơi này là điểm "chốt giữ" cả 4 thôn: Ken, Chiềng, thôn Bô, thôn Bẻ xung quanh bán kính 4 km. Tuy nhiên, bọn chúng không giữ đồn được lâu trước phong trào đấu tranh và sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của quân Cách mạng (thời đó gọi là Việt Minh), bọn thực dân đã phải rút chạy, trả lại cuộc sống bình yên cho nhân dân địa phương. Từ đó, tính linh thiêng của ngôi đền càng được nhân dân tôn thờ, bởi địch chốt giữ nơi này càng đánh càng thua. Theo tích xưa, Đền Ken thờ ông Nguyễn Hoàng Long và các vị tướng lĩnh dòng họ Nguyễn đã có công đánh đuổi giặc và khai khẩn lập làng xã tại châu Văn Bàn. Nhân dân trong vùng nhớ tới công lao của ông và các tướng lĩnh dòng họ Nguyễn đã tôn thờ, lập đền thờ tại nơi đây. Do Đền được đặt trên ngọn đồi cao nhất làng nên còn được nhân dân gọi là đình Ken. Qua thời gian với những biến cố thăng trầm của lịch sử và các cuộc chiến tranh đã khiến Đền Ken bị tàn phá nhiều lần, có lúc tưởng chừng như không còn dấu tích. Ngày nay đường lên Đền đã được nhân dân địa phương mở mang. Các phương tiện giao thông hiện đại như ô tô, xe máy vào được tận nơi, rất thuận lợi cho du khách đến thăm viếng. Với sự linh thiêng huyền bí được người dân truyền miệng và cảnh trí đẹp Đền Ken ngày càng được nhiều người biết đến và thu hút ngày càng nhiều khách thập phương đến viếng, lễ bái. Hàng năm cứ vào ngày 7 tháng 01 âm lịch, tỉnh Lào Cai tổ chức tế Lễ Đền Ken để tưởng nhớ đến công lao của ông Nguyễn Hoàng Long và các chư vị. NGUỒN: Du lịch Việt Nam

Lào Cai 1827 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Đền Mẫu Trịnh Tường

Đền Mẫu Trịnh Tường là nơi thờ Thánh Mẫu Thượng ngàn - Thánh Mẫu thứ hai trong Tam tòa Thánh Mẫu, cai quản nhạc phủ, tức là cai quản vùng rừng núi, trấn giữ biên ải. Bà Trần Thị Thanh, thủ nhang đền Mẫu Trịnh Tường cho biết: Đền được xây dựng từ đầu thế kỷ XX và được xếp hạng Di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh năm 2016. Trong những năm qua, huyện Bát Xát đã huy động nhiều nguồn lực để trùng tu, tôn tạo di tích, đồng thời quản lý tốt các hoạt động lễ hội. Từ ngôi đền chính là căn nhà cấp 4 nhỏ làm nơi thờ tự, đến nay đền Mẫu Trịnh Tường đã được mở rộng với các hạng mục: Nhà đền chính, nhà sắp lễ, am hóa vàng, nhà hữu vu, cổng tam quan, hồ bán nguyệt… Bước vào đền Mẫu Trịnh Tường, khách tham quan cảm nhận được không gian tĩnh lặng, yên bình với khói nhang phảng phất, tiếng chim hót líu lo trên những tán cây cổ thụ. Mặc dù đã qua các thời kỳ tu sửa nhưng du khách vẫn được ngắm nhìn những kiến trúc cổ kính còn sót lại trên từng viên gạch, mái ngói hoặc các pho tượng thờ sơn son thiếp vàng mang dáng vẻ uy nghi, tráng lệ. Hằng năm, cứ đến ngày 10/3 âm lịch sẽ diễn ra Lễ hội đền Mẫu Trịnh Tường để cầu cho một năm mưa thuận, gió hòa, mùa màng tươi tốt, quốc thái, dân an. Lễ hội được tổ chức trang trọng, đúng tín ngưỡng thờ Mẫu Thượng ngàn; khai thác được những giá trị văn hóa truyền thống, tạo nên hoạt động văn hóa, tín ngưỡng dân gian đa sắc màu, hấp dẫn và phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương. nguồn “Báo Lào Cai điện tử

Lào Cai 1819 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Đền thờ và lăng thượng tướng quân Doãn Nỗ

Đền thờ thượng tướng quân Doãn Nỗ tọa lạc trong khuôn viên rộng hơn 1.000 m2 tại thôn Phương Trung, xã Phương Chiểu (thành phố Hưng Yên). Nơi đây đất tốt, bốn mùa cây cối xanh tươi. Thượng tướng quân Doãn Nỗ là vị khai quốc công thần thời Hậu Lê. Ông là một tướng tài của Lê Lợi, người có công lớn trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chống quân Minh ở thế kỉ XV. Ông có nguồn gốc xuất thân từ một vọng tộc khá lâu đời ở chạ Kẻ Nưa (nay thuộc huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa). Ông sinh năm 1393, là con thứ 2 của cụ Doãn Quyết – người đã từng thi đỗ tam trường làm Cung hiển đại phu dưới triều Trần. Năm Ất Mùi (1415) giặc Minh về tàn sát vùng Nông Cống giết hơn 3.000 người, riêng Kẻ Nưa chỉ còn 18 người chạy thoát trong đó có 2 anh em ông. Năm 1416, Doãn Nỗ về với Lê Lợi, tham gia hội thề Lũng Nhai và cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Ông là một trong những tướng lĩnh đầu tiên của Lê Lợi. Năm 1425, Lê Lợi cử tướng quân Doãn Nỗ cùng với quan Tư đồ Trần Nguyên Hãn chiêu dụ nhân dân, đem theo 1000 quân đánh vào phía Nam, giải phóng thành Tân Bình, Thuận Hóa (thuộc các tỉnh từ Quảng Bình đến Thừa Thiên Huế ngày nay) để mở rộng địa bàn khiến quân Minh phải rút vào thành cố thủ. Từ đó nghĩa quân Lam Sơn có một hậu phương vững chắc, tiến lên phản công ra Bắc giải phóng Thăng Long. Sau kháng chiến chống quân Minh thắng lợi, khi xét công ban thưởng, ông được vua Lê Thái Tổ phong làm Trung lượng đại phu, Tả bổng thánh vệ tướng quân, tước Đại Trí tự. Sau đó, ông được phong Trụ quốc công Thượng tướng quân quản đạo Sơn Nam. Ông được ban ấp lộc điền ở làng Hương Chiếu, nay là xã Phương Chiểu. Ông đưa cả gia đình ở kinh thành về Hương Chiếu, hình thành lên dòng họ Doãn ở Hưng Yên. Ngôi đền Thượng tướng quân Doãn Nỗ được xây dựng ngay khi ông mất (1439). Xưa kia, đền thờ và lăng Thượng tướng công Doãn Nỗ chỉ là một ngôi miếu nhỏ với kiến trúc chữ Đinh, trải qua thời gian, ngôi miếu được trùng tu, tôn tạo ngày một to đẹp hơn. Hiện nay, đền có kết cấu kiến trúc hình chữ Tam gồm Tiền tế, Trung từ và Hậu cung. Tiền tế gồm 5 gian bằng gỗ lim, dựng theo lối cổ, tứ trụ lòng thuyền con chồng đấu sen, chạm khắc hoa lá. Trung tâm gian tiền tế là bức đại tự “Trấn Gia Vũ Liệt” phía dưới có nhang án thờ, điêu khắc thế kỷ 19. Hai bên câu đối (Lê triều Thái Tổ phát tích Nam Sơn thùy đại hiển - Khai quốc công thần Doãn tướng công kiệt xuất anh hùng). Đối với Tòa Trung từ đặt khám thờ thân phụ của Doãn Nỗ là cụ Doãn Quyết và thân mẫu họ Nguyễn. Tòa Hậu cung ở vị trí trang trọng nhất đặt tượng thờ Thượng tướng quân Doãn Nỗ. Các hạng mục tương đối vững chắc, đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng tâm linh của con cháu dòng họ Doãn và nhân dân địa phương đến chiêm bái, thể hiện lòng tri ân, thành kính với bậc tiền nhân. Cách đền thờ 500m là khu lăng mộ của Thượng tướng quân Doãn Nỗ. Lăng được xây trên khu đất “Hình long ẩm thủy” (hình con rồng uống nước) với thế tả Thanh Long, hữu Bạch Hổ. Lăng mộ ông nằm trên gò đất cao, xung quanh là đồng ruộng. Lăng có diện tích 16 m2 được xây 2 tầng 8 mái. Mặt trước lăng đắp nổi hàng chữ “Doãn Nỗ công thần”. Cạnh lăng là tấm bia hậu lược ghi về thân thế, sự nghiệp của Doãn tướng quân bằng chữ quốc ngữ để người đời sau tỏ lòng thành kính, tưởng nhớ một danh tướng tiêu biểu thời Lê được cả nước tôn thờ. Trải qua nhiều biến thiên của lịch sử, đến nay đền thờ Thượng tướng quân Doãn Nỗ còn lưu giữ được nhiều hiện vật có giá trị, tiêu biểu là cuốn gia phả chi họ Doãn ở Phương Chiểu, cuốn hợp phả họ Doãn, một đạo sắc phong thời Lê, các bức đại tự, câu đối và tượng của Thượng tướng quân Doãn Nỗ…Số hiện vật tuy không lớn song đã góp phần quan trọng trong việc nghiên cứu lịch sử đất nước, lịch sử danh nhân và lịch sử làng xã cùng những mối quan hệ huyết thống dòng họ. Bên cạnh đó, một số hiện vật, đồ thờ còn làm giàu cho nền nghệ thuật cổ truyền của dân tộc. Hàng năm, vào dịp đầu xuân, nhân dân địa phương và dòng họ Doãn đều mở hội vào giữa tháng Giêng để tưởng nhớ Thượng tướng quân Doãn Nỗ. Với những giá trị tiêu biểu, đặc sắc đền thờ và lăng Thượng tướng quân Doãn Nỗ được xếp hạng là Di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 20.4.1995. Nguồn Sở văn hóa thể thao và du lịch

Hưng Yên 1895 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Khu lưu niệm Nguyễn Thiện Thuật

Nguyễn Thiện Thuật (1844 - 1926) tự Mạnh Hiếu, người làng Xuân Dục, tổng Bạch Sam, huyện Đường Hào (nay thuộc làng Xuân Đào, xã Xuân Dục, thị xã Mỹ Hào). Sinh trưởng trong một gia đình nho học nghèo, năm 1870, Nguyễn Thiện Thuật đậu tú tài. Năm 1874, Ông có công dẹp giặc ở phủ Kinh Môn (Hải Dương) được cử làm Bang biện phủ. Năm 1876, đậu cử nhân và giữ chức tri phủ phủ Từ Sơn, Ông làm quan thanh liêm, công minh, văn võ song toàn. Năm Kỷ Mão (1879), ông giữ chức Tán tương quân thứ, đến năm 1881, giữ chức Hương Hóa sơn phòng chánh sứ kiêm Tán tương quân thứ tỉnh Sơn Tây. Vì vậy, đương thời gọi ông là Tán Thuật hoặc Tán Đông (vì ông ở tỉnh Đông). Khi thực dân Pháp đánh chiếm Bắc Kỳ, Nguyễn Thiện Thuật hai lần kháng lệnh triều đình, quyết tâm đánh Pháp. Lần thứ nhất, ông lui về Đông Triều, thường liên lạc với Đinh Gia Quế - lãnh tụ của nghĩa quân Bãi Sậy, chiêu mộ và phát triển lực lượng nghĩa quân ở vùng đồng bằng. Ngày 12/11/1883, nghĩa quân Nguyễn Thiện Thuật tấn công tỉnh lỵ Hải Dương bao vây địch, nhưng lực lượng còn non yếu, ông phải cho lui quân. Lần thứ hai vào cuối năm 1883, sau khi ký hiệp ước Hác Măng (Harmand), triều đình tiếp tục nhượng bộ thực dân Pháp, bãi binh ở Bắc Kỳ và đòi các quan lại phải về kinh đợi chỉ, Nguyễn Thiện Thuật bèn mang quân lên Hưng Hóa (Tuyên Quang) cùng với Nguyễn Quang Bích giữ thành. Tháng 3/1884, thành Hưng Hóa thất thủ, ông cùng với một số tướng lĩnh cương quyết ở lại chống Pháp. Sau khi thành Lạng Sơn thất thủ (tháng 3/1885), Nguyễn Thiện Thuật trốn sang Long Châu (Trung Quốc) chuẩn bị lực lượng tiếp tục chiến đấu. Tháng 7/1885, Vua Hàm Nghi hạ chiếu Cần Vương, Nguyễn Thiện Thuật trở về nước thành lập căn cứ địa Bãi Sậy, lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống Pháp, tiếp tục sự nghiệp của họ Đinh (lúc này Đinh Gia Quế đã mất). Vua Hàm Nghi phong cho ông là “Bắc Kỳ Hiệp thống quân vụ đại thần gia chấn trung tướng quân”, nhân dân còn gọi ông là quan Hiệp thống, các tướng lĩnh tài giỏi theo về rất đông. Bãi Sậy là địa bàn đặc biệt quan trọng về mặt chiến lược trong cùng đồng bằng sông Hồng lúc đó. Với vị trí đắc địa như vậy, ngay từ khi quân Pháp đánh chiếm các tỉnh Bắc Kỳ (1883), Bãi Sậy đã được xây dựng thành một căn cứ chống thực dân Pháp của nghĩa quân Đinh Gia Quế. Từ năm 1885, trên cơ sở khu căn cứ mà họ Đinh đã xây dựng trước đó, với tầm nhìn chiến lược của một nhà quân sự, Nguyễn Thiện Thuật đã tiếp tục mở rộng khu căn cứ Bãi Sậy ra hầu khắp các phủ, huyện của tỉnh Hưng Yên và Hải Dương, bao gồm Khoái Châu, Văn Lâm, Văn Giang, Mỹ Hào, Yên Mỹ,... Với sự lãnh đạo sáng suốt của Nguyễn Thiện Thuật, phong trào Cần Vương trên vùng đất Bãi Sậy nhanh chóng phát triển về mọi mặt, trở thành một trong những trung tâm chống Pháp lớn nhất vào cuối thế kỷ XIX ở Bắc Kỳ. Năm 1888, Hoàng Cao Khải đem quân đàn áp phong trào, mượn danh Đồng Khánh dụ dỗ mua chuộc khuyên Nguyễn Thiện Thuật ra hàng và hứa khôi phục chức tước. Nguyễn Thiện Thuật đã viết vào tờ sớ dụ này 4 chữ “Bất khẳng thụ chỉ” (Không chịu nhận chỉ). Sau ông giao quyền cho em là Nguyễn Thiện Kế tiếp tục duy trì cuộc khởi nghĩa, sang Trung Quốc với chủ trương cầu viện để tăng cường lực lượng chống Pháp. Suốt quãng đời còn lại ở Trung Quốc, Nguyễn Thiện Thuật thường liên lạc với Tôn Thất Thuyết và một số chiến hữu, trong đó có Nguyễn Chí Thường con trai thứ hai của ông. Sau Thường bị bắt đầy đi Côn Đảo. Ông lại cùng Kỳ ngoại hầu Cường Để và Phan Bội Châu sang Đông Kinh thành lập “Việt Nam Duy tân Phục quốc hội” với mục đích tìm cách giải phóng dân tộc, mở mang dân trí, tạo điều kiện đưa học sinh Việt Nam ra hải ngoại du học,… Nguyễn Thiện Thuật mất ngày 25/5/1926. Phần mộ của Ông được đặt trên quả đồi thuộc hương Quan Kiều, ngoại vi thành phố Nam Ninh, tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc). Bia mộ khắc dòng chữ “Việt Nam cách mạng. Cố tướng quân Nguyễn Công Thiện Thuật - Chi mộ”.Ngày 30/01/2005, di hài Ông đã được di chuyển về an táng tại xã Xuân Dục, huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên. Khu lưu niệm Tướng quân Nguyễn Thiện Thuật tọa lạc trên mảnh đất Xuân Nhân - nơi đặt trạm gác tiền tiêu của nghĩa quân Bãi Sậy năm xưa, với tổng diện tích 1621,9m2, gồm nhiều hạng mục: cổng, nhà tưởng niệm, nhà bia, phần mộ của Tướng quân Nguyễn Thiện Thuật và bức tường phù điêu. Khởi nghĩa Bãi Sậy (1885 - 1892) là cuộc khởi nghĩa có quy mô lớn, kéo dài và có tiếng vang lớn nhất ở vùng Đồng bằng Bắc Bộ trong phong trào "Cần Vương" chống thực dân Pháp cuối thế kỷ XIX . Cuộc khởi nghĩa kéo dài một thập kỷ, trải qua ba giai đoạn, gắn liền với tên tuổi của ba vị thủ lĩnh: Đinh Gia Quế, Nguyễn Thiện Thuật và Nguyễn Thiện Kế. Song có thể khẳng định rằng Nguyễn Thiện Thuật là vị lãnh tụ tiêu biểu nhất, là linh hồn của cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy. Với những giá trị trên, Khu lưu niệm Nguyễn Thiện Thuật, xã Xuân Dục, thị trấn Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên đã được Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích lịch sử quốc gia tại Quyết định số 3077/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao Du Lịch ngày 27/10/2020./. Nguồn Cục Di sản văn hóa .

Hưng Yên 1916 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Khu lưu niệm Tô Hiệu

Tô Hiệu sinh năm 1912, là con út trong một gia đình có truyền thống khoa bảng, yêu nước. Cụ nội của Ông là Đốc Nam Tô Ngọc Nữu, được ca tụng là một trong ba người thầy mẫu mực của Bắc Kỳ đương thời. Thân phụ là ông Tô Y, thân mẫu là bà Ngô Thị Lý - con gái của Cụ Ngô Quang Huy, nguyên Đốc học Bắc Ninh, một trong những lãnh tụ chủ chốt của phong trào khởi nghĩa Bãi Sậy cuối thế kỷ XIX. Ngay thừ nhỏ, Tô Hiệu đã tỏ ra là người thông minh và có chí lớn. Cha mất sớm, thân mẫu của Ông cùng với người con cả là Tô Tu phải vất vả nuôi 5 anh em ăn học. Tô Hiệu được cho đi học tại trường tiểu học nam Hải Dương. Năm 1926 khi mới 14 tuổi, Tô Hiệu tham gia phong trào để tang nhà yêu nước Phan Chu Trinh nên bị đuổi học, Ông được anh cả tiếp tục cho lên Hà Nội ăn học. Thời kỳ 1927 - 1929, Tô Hiệu cùng với em họ là Tô Gĩ được kết nạp vào tổ chức Xích Vệ đoàn - một tổ chức thanh niên học sinh do Hội thanh niên Việt Nam cách mạng - tổ chức tiền thân của Đảng lãnh đạo. Thời gian này, Tô Hiệu tham gia rất tích cực vào các hoạt động của hội như mít tinh, biểu tình giăng biểu ngữ trong những ngày kỉ niệm lớn của Quốc tế, đồng thời còn có nhiệm vụ bảo vệ cho đoàn biểu tình và các đồng chí lãnh đạo. Năm 1930, trong một lần đi vận động quyên góp, Tô Hiệu bị mật thám theo dõi, bắt giam và bị kết án 4 năm tù và đày ra Côn Đảo. Chính tại đây, Ông cùng với anh trai Tô Chấn được vinh dự kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương, khi mới 18 tuổi. Tô Hiệu đã được những người cộng sản đàn anh như Tôn Đức Thắng, Ngô Gia Tự tin tưởng, quan tâm dìu dắt và rèn giũa bản lĩnh người Đảng viên trẻ. Năm 1934, mãn hạn tù, Tô Hiệu được thả và bị quản thúc tại quê nhà làng Xuân Cầu. Vượt lên sự bao vây theo dõi của mật thám Pháp, Tô Hiệu vừa tham gia lãnh đạo phong trào yêu nước, nâng cao dân trí, tập hợp quần chúng ở quê nhà, vừa tìm cách phối hợp với các đồng chí trung kiên để khôi phục lại Xứ ủy Bắc Kỳ. Cuối năm 1936, tại một cuộc họp ở nhà đồng chí Tô Hiệu thuê tại phố Hàng Bột (Hà Nội), gồm các đồng chí Hoàng Văn Nọn, Hoàng Quốc Việt, Trường Chinh, Tô Hiệu, Nguyễn Văn Minh, Lương Khánh Thiện, Trần Quý Kiên chính thức khôi phục lại Xứ ủy Bắc Kỳ sau những năm phong trào cách mạng thoái trào, các tổ chức Đảng bị tan vỡ. Tại cuộc họp, Tô Hiệu được bầu là Ủy viên Thường vụ Xứ ủy, phụ trách tuyên truyền, huấn luyện công nhân và trực tiếp tham gia lãnh đạo công tác, hoạt động công khai tại Hà Nội (lúc này Hà Nội chưa có Thành ủy). Cuối năm 1938, Tô Hiệu được Trung ương cử làm Bí thư Liên khu B, bao gồm các tỉnh duyên hải Bắc Bộ và Hải Dương, Hưng Yên; đặc trách Bí thư Hải Phòng. Tháng 12/1939, Tô Hiệu bị mật thám Pháp bắt giữ tại cơ sở ấn loát của Thành ủy. Mặc dù thân thể gầy gò bị căn bệnh lao phổi khi bị đày ở nhà tù Côn Đảo hành hạ, lại bị tra tấn, mua chuộc, nhưng với khí tiết kiên trung và nghị lực của người cộng sản, Ông đã vượt qua mọi thử thách ác liệt. Đồng chí bị kết án tù 5 năm, đày đi nhà ngục Sơn La đầu năm 1940. Đầu năm 1944, lúc này sức khỏe Tô Hiệu gần như suy kiệt, nhưng với tinh thần lạc quan, Tô Hiệu nói với anh em trong Chi bộ: “mình biết chắc chắn mình sẽ chết sớm hơn người khác vì vậy phải tranh thủ thời gian chiến đấu phục vụ cho Đảng”. Trước mấy ngày trút hơi thở cuối cùng, Tô Hiệu đã nhờ đồng chí Hoàng Tùng ghi lại bức di chúc cho Chi bộ nhà tù Sơn La, khuyên anh em ở lại giữ vững tinh thần chiến đấu, phân tích rõ tình hình thế giới và trong nước, sự tất thắng của Cách mạng. Đồng chí trút hơi thở cuối cùng vào ngày 7/3/1944 trong sự thương tiếc của tất cả đồng chí và đồng bào. Nhà cách mạng Tô Hiệu đã hy sinh nhưng Tinh thần Tô Hiệu mãi bất diệt và trở thành một di sản tinh thần quý báu của Đảng và dân tộc, niềm tự hào của các thế hệ con cháu, cũng như người dân trong cả nước. Sự tích Cây đào Tô Hiệu tại nhà ngục Sơn La đã đi vào các trang sách và được coi là biểu tượng của tinh thần lạc quan cách mạng. Nhà Tưởng niệm Liệt sỹ Tô Hiệu được hưng công xây dựng năm 2000, cùng thời gian với việc xây dựng, tôn tạo Đốc Nam Tô Thị Từ Đường (nhà thờ họ Tô chi cụ Đốc Nam Tô Ngọc Nữu). Nhà tưởng niệm đồng chí Tô Hiệu Nhà tưởng niệm gồm 3 gian tiền bái và 1 gian hậu cung, được làm bằng gỗ tứ thiết; các bộ vì được làm kiểu con chồng đấu sen kết hợp với kiểu kèo giá chiêng trụ chốn, tạo cho không gian nội thất được thoáng rộng. Các đề tài trang trí chủ yếu là hoa văn lá lật truyền thống, chủ yếu ở hai bộ vì hồi và trên các đấu sen kê trên các trụ cột. Gian Hậu cung bài trí ban thờ với ảnh và tượng đồng chí Tô Hiệu. Toàn bộ khu nội tự của ba gian nhà thờ dùng để trưng bày những hiện vật và hình ảnh quý về thân thế sự nghiệp và cuộc đời hoạt động của đồng chí Tô Hiệu được sắp xếp từ trái qua phải theo 3 chủ đề: Quê hương Xuân Cầu và gia đình, dòng họ Tô làng Xuân Cầu; Tiểu sử và quá trình hoạt động cách mạng của đồng chí Tô Hiệu; Những tình cảm của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và nhân dân đối với đồng chí Tô Hiệu. Nhà thờ Họ Tô chi cụ Đốc Nam - Tô Ngọc Nữu Cùng nằm trong khuôn viên di tích Nhà tưởng niệm đồng chí Tô Hiệu, cổng vào xây gạch chỉ, theo kiểu truyền thống, hai bên trụ cổng đắp nổi đôi câu đối chữ Hán. Công trình nhà thờ họ được thiết kế xây dựng bằng gỗ theo kiến trúc truyền thống; hướng Đông Bắc nhìn ra sông Nghĩa Trụ - một nhánh sông cổ của sông Hồng. Mặt bằng Từ đường có kiến trúc kiểu chữ nhất, xây kiểu tường hồi bít đốc, mái lợp ngói âm dương. Lòng nhà chia làm 5 gian, hệ cửa làm kiểu bức bàn theo kiểu thượng song hạ bản; kết cấu các bộ vì kèo làm bằng gỗ tứ thiết theo kiểu con chồng đấu sen; đề tài trang trí chủ yếu tập trung ở bộ vì hồi và các bức cốn trên vì nách tại hai gian hồi với các đề tài trúc/mai hóa long, các đấu kê và trên các con chồng, đầu các xà nách chạm cánh sen, hoa văn lá lật mềm mại. Gian giữa nhà thờ là nơi đặt khám thờ, bên trong đặt 4 bài vị của các vị liệt tổ họ Tô. Gian hồi Phải trên treo bức đại tự 壽春 (Xuân Thọ) do các học trò của cụ Đốc Nam bái tặng mừng thọ cụ được làm năm Tân Mùi (1871). Giữa sân là cây đào được chiết từ cây đào Tô Hiệu ở nhà tù Sơn La do Tỉnh ủy Sơn La tặng năm 1998. Với những giá trị trên, Khu lưu niệm Tô Hiệu, xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên đã được Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng là Di tích lịch sử quốc gia tại Quyết định số 3080/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao Du Lịch ngày 27/10/2020./. Nguồn Cục Di sản văn hóa .

Hưng Yên 1769 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đình Sầm Khúc

Đình Sầm Khúc (còn gọi là Đình Chằm) thuộc xã Việt Hưng, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên. Căn cứ vào thần tích, sắc phong, bản kê khai của các Hương lão và Lý dịch làng Sầm Khúc (xưa là làng Mỹ Trạch) do Viện Viễn Đông Bác cổ thu thập vào năm 1938, hiện đang được lưu giữ tại Viện nghiên cứu Hán Nôm và Thư viện tỉnh Hưng Yên và lời kể của các bậc cao niên trong thôn, đình Sầm Khúc là nơi tôn thờ Thành hoàng làng Phổ Cứu Đại vương (thời vua Hùng Vương), có công âm phù giúp các vua dẹp giặc, thiết lập trật tự đất nước, đem lại cuộc sống ấm no cho nhân dân. Trên câu đầu tòa Đại bái có ghi niên đại tuyệt đối năm dựng đình “Duy Tân nhâm tý niên mùi nguyệt giáp dần nhật lương thời thụ trụ thượng lương đại cát” (Ngày mùng 6 tháng 8 năm Nhâm Tý (1912) niên hiệu Duy Tân dựng thượng lương tốt lành). Dựa vào các sắc phong hiện còn, trong đó có đạo sắc phong sớm nhất vào năm Tự Đức thứ 10 (1856), có thể biết đình Sầm Khúc đã tồn tại từ trước thời điểm đó. Đình Sầm Khúc được khởi dựng trên một khu đất cao, thoáng, mặt tiền quay hướng Tây Nam. Ngôi đình có bố cục mặt bằng hình chữ Đinh. Nhìn từ ngoài vào, trước mặt đình là hồ nước, giữa hồ nước và Nghi môn là con đường làng chạy qua. Qua Nghi môn là một khoảng sân rộng, trong cùng là kiến trúc của ngôi Đại đình bề thế, uy nghiêm và Hậu cung. Các cấu kiện và thành phần kiến trúc đều được làm bằng gỗ tứ thiết mang đậm phong cách mỹ thuật thời Nguyễn còn đồng bộ, vững chắc. Nghi môn được làm theo kiểu tứ trụ (lồng đèn) tạo thành 3 cửa ra vào. Tòa Đại bái là hạng mục có diện tích lớn nhất tại đình Sầm Khúc gồm 05 gian được làm theo kiểu tường hồi bít đốc với kích thước dài 19,3m, rộng 10,17m, cao 6,4m (tính từ nóc mái xuống nền đình). Bốn phía xung quanh nền Đại bái đều được bó vỉa bằng gạch chỉ, cao 0,65m so với sân đình, phía ngoài phủ vữa áo. Phần móng được gia cố vững chắc. Mặt nền lát gạch bát (30cm x 30cm), mạch chữ công. Từ sân có bậc xây bằng gạch dẫn lên hiên Đại bái. Kết cấu kiến trúc Đại bái gồm có 6 bộ vì, với 24 cột gỗ (12 cột cái, 12 cột quân), kiểu 4 hàng chân cột. Khoảng cách giữa cột cái trước với cột cái sau là 4,22m, cột cái với cột quân là 2,05m. Các cột đứng trên chân tảng bằng đá xanh không trang trí hoa văn. Nâng đỡ phần mái tòa Đại bái là các bộ vì nóc và vì nách. Hệ thống vì nóc Đại bái đình Sầm Khúc đều được làm theo kiểu “chồng rường trụ trốn”. Các vì nách tòa Đại bái đình được tạo tác theo hai dạng: “bán chồng rường” ở các gian bên và “cốn mê” tại gian giữa. Tòa Hậu cung là hạng mục gồm 03 gian, nằm song song với tòa Đại bái, được làm theo kiểu tường hồi bít đốc, có kích thước 7,9m x 7,1m (khoảng cách giữa hai cột cái là 2,8m; cột cái đến cột quân 1,67m). Trung tâm Hậu cung là nơi đặt ban thờ Thành hoàng làng Phổ Cứu Đại vương. Mặt nền lát gạch 20cm x 20cm, mạch chữ công. Móng được bó vỉa bằng gạch đỏ phủ vữa áo. Điều đặc biệt tại Hậu cung đình làng Sầm Khúc hiện vẫn còn giữ lại được một phần kiến trúc ván sàn gỗ của ngôi đình cổ xưa. Hậu cung có kết cấu kiểu 4 hàng chân cột với 6 cột cái và 10 cột quân (cột cái có đường kính 300mm, cột quân có đường kính 250mm). Nâng đỡ hoành mái là các bộ vì nóc, vì nách và hệ thống cột gỗ kê lên chân tảng. Hậu cung có 03 bộ vì nóc làm kiểu “chồng rường”, không trang trí hoa văn. Các chạm khắc ở đây tập trung trên các thành phần cấu kiện kiến trúc, làm nên vẻ đẹp hoàn mỹ của công trình, mang phong cách nghệ thuật chủ đạo thời Nguyễn với nhiều đề tài trang trí khá phong phú, đa dạng làm cho ngôi đình trở nên sinh động và đạt giá trị kiến trúc nghệ thuật đỉnh cao trong nền nghệ thuật thời Nguyễn. Trong đó, hình tượng tứ linh với rồng là chủ đạo trong các mảng chạm, ngoài ra còn có các trang trí như tứ linh hoá tứ quý, tứ quý (tùng, cúc, trúc, mai), lá lật, vân mây, hoa văn chữ Thọ,… Đình Sầm Khúc là một công trình kiến trúc độc đáo, nơi lưu giữ được nhiều di vật quý giá cả về văn hóa vật thể lẫn phi vật thể. Hầu hết trên tất cả các cấu kiện và thành phần kiến trúc đều chạm khắc dầy đặc các đề tài trang trí phong phú, đa dạng thể hiện hình tượng các linh vật, hoa văn cây cỏ trong trạng thái động. Hiện đình Sầm Khúc còn lưu giữ được những di vật, cổ vật quý hiếm, có giá trị tiêu biểu: thần tích, đại tự, cuốn thư, sắc phong, chuông đồng, ngai và bài vị, cửa võng, kiệu,...Ngoài các dấu tích vật chất có giá trị lịch sử và nghệ thuật, đình Sầm Khúc còn là nơi diễn ra những sinh hoạt văn hoá tâm linh của người dân nơi đây, phản ánh rõ nét tính cộng đồng làng xã đồng thời nêu cao đạo lý “uống nước nhớ nguồn”. Những nghi thức sinh hoạt tín ngưỡng lễ hội, những trò chơi dân gian truyền thống đã phản ánh đời sống xã hội của cư dân nơi đây. Với những giá trị trên, Đình Sầm Khúc, xã Việt Hưng, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên đã được Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng là Di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia theo Quyết định số 3078/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao Du Lịch ngày 27/10/2020./. Nguồn Cục Di sản văn hóa .

Hưng Yên 1784 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đền Đồng Ân

Đền Đồng Ân là di tích có lịch sử lâu đời, đến nay vẫn còn nền móng của ngôi đền cổ cho thấy nơi đây đã từng được xây dựng rất quy mô, trong đó có gạch từ thời Lê (cuối thế kỷ XVIII) và một số hiện vật có niên đại trên 100 năm đang lưu giữ tại đền. Đồng Ân là tên gọi có từ xưa với ý nghĩa là nhân dân đồng lòng biết ơn vị tướng Hưng Đạo Đại vương - Trần Quốc Tuấn, người đã có công trong cuộc chiến đánh đuổi giặc ngoại xâm Nguyên - Mông. Ngoài ra, đền còn được người dân địa phương biết đến với tên gọi khác là đền Mi do trước đây gắn với tên gọi của địa danh thôn Mi. Trải qua thăng trầm biến động lịch sử gắn với mảnh đất Bảo Thắng anh hùng qua nhiều thế kỷ, đến nay Đền vẫn tọa lạc trên cánh đồng thuộc thôn Quyết Tâm, xã Thái Niên huyện Bảo Thắng. Với vị trí chiến lược nằm ven sông Hồng, thuộc cửa quan Bảo Thắng xưa kia, ngôi đền vừa là cột mốc văn hóa tâm linh đánh dấu chủ quyền lãnh thổ vùng biên ải vừa là một trong những nơi hoạt động cách mạng bí mật của quân dân Bảo Thắng trong các thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp. Đền Đồng Ân chính là nơi thờ Đức Thánh Trần tức Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn. Trong ba cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông, ông đã dùng tài thao lược của mình để lãnh đạo quân dân khắp nơi đồng trí đồng lòng bảo vệ giang sơn đất nước. Trong đó không thể nhắc tới vùng đất Quy Hóa (Lào Cai ngày nay), nơi địa đầu Tổ Quốc có cửa quan Bảo Thắng là một trong những điểm trọng yếu mà giặc phương Bắc đều nhắm tới mỗi lần xâm lược nước ta. Vì thế trong suốt cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm phương Bắc, Bảo Thắng luôn là vị trí trọng yếu của quân ta trên bản đồ chiến lược. Trong 3 lần kháng chiến chống quân Nguyên Mông, dưới sự lãnh đạo tài ba của Trần Hưng Đạo, quân và dân vùng Quy Hóa đã tích cực phòng thủ cửa quan, chặn đánh quân giặc ngay từ cửa ngõ biên giới góp phần vào chiến thắng chung của nhân dân cả nước. Để tưởng nhớ công ơn của những tướng sĩ đã cùng nhân dân chống giặc ngoại xâm và sự lãnh đạo tài ba của Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn, nhân dân khắp nơi cùng nhau lập đền thờ để bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đó. Ở thành phố Lào Cai có Đền Thượng là ngôi đền thờ Ông được xây dựng từ thế kỷ XVII, do nhân dân địa phương xây dựng để thờ phụng, hàng năm đón nhiều lượt du khách trong và ngoài nước đến hành lễ và vãn cảnh. Tuy chưa xác định được chính xác niên đại của ngôi đền Đồng Ân nhưng căn cứ vào kết quả đào khảo sát khảo cổ nền móng đền Đồng Ân cho thấy vật liệu xây dựng đền có sớm nhất từ thời Lê (thế kỉ XVIII). Do vậy, có thể nói đền Đồng Ân là ngôi đền tuy có sau đền Thượng nhưng đây cũng là một trong những di tích thờ Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn và có nhiều ý nghĩa tâm linh đối với người dân Bảo Thắng nhiều đời nay. Đến nay, nhân dân vẫn lưu truyền “Vùng đất này trước kia là cánh đồng rộng mênh mông, cây cỏ mọc um tùm lại ven sông Hồng, năm ấy giặc phương Bắc tràn xuống xâm lược, tướng lĩnh nhà Trần lên dẹp giặc vùng biên ải, trong khi giao tranh đã bị thương sau đó về đến khu đất của đền thì dừng lại dưỡng thương. Sau đó, người dân chỉ thấy còn lại bộ áo giáp mà không thấy xác nên đã lập lên ngôi đền để để tưởng nhớ công ơn đánh giặc của vị tướng đó”. Với những giá trị lịch sử năm 2016 Đền Đồng Ân đã được UBND tỉnh công nhận là di tích lịch sử - Văn hóa cấp tỉnh. Đền Đồng Ân có vị trí thuận lợi, tọa lạc ngay gần bờ sông Hồng, hướng đền trông ra sông với phong cảnh sơn thủy hữu tình, trong tương lai sẽ phát triển thành điểm du lịch tâm linh thu hút được nhiều khách du lịch khi đến với Lào Cai nói chung và huyện Bảo Thắng nói riêng. Trong thời gian tới Đền Đồng Ân sẽ là một điểm sáng trên bản đồ du lịch tâm linh của tỉnh Lào Cai khi được kết nối với các điểm di tích khác trong huyện như chùa Liên Hoa ở xã Phong Niên, đền Ngòi Bo ở xã Gia Phú đều là những di tích nằm ven sông Hồng. Cùng với hệ thống các Đền linh thiêng của tỉnh Lào Cai tọa lạc dọc theo tả ngạn Sông Hồng như Đền Thượng, Đền Mẫu, Đền Cấm, Đền Quan, Đền Đôi Cô... Đây là những địa chỉ du lịch tâm linh thu hút hàng vạn lượt khách tham quan, chiêm bái, hành lễ các dịp trong năm. Trong đó có nhiều di tích nổi tiếng khắp vùng, miền. Bên cạnh đó, với truyền thống cách mạng của một huyện anh hùng, Bảo Thắng còn có nhiều điểm thăm quan giới thiệu về lịch sử của địa phương trong các giai đoạn kháng chiến đóng góp vào thắng lợi chung của cả nước như khu căn cứ cách mạng Soi Cờ - Soi Giá; Đồn Phố Lu, tiếp đó là động Tiên đẹp nổi tiếng ở xã Xuân Quang, thác Đầu Nhuần ở xã Phú Nhuận với nhiều thác nước đẹp, hoang sơ và chưa chịu tác động của con người. Đó là điểm đến thú vị của những người thích trải nghiệm, khám phá… Khi kết nối Đền Đồng Ân với những điểm di tích – danh thắng nói trên sẽ hình thành nên các điểm, tuyến du lịch thu hút du khách đến với huyện Bảo Thắng, tạo thành hướng đi mới trong phát triển kinh tế du lịch tại địa phương nói riêng và của cả tỉnh Lào Cai nói chung. NGUỒN: SỞ DU LỊCH TỈNH LÀO CAI

Lào Cai 1902 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Địa điểm lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh

Nằm ngay trung tâm thành phố Lào Cai, di tích Địa điểm lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Lào Cai thường được mọi người biết đến với tên gọi “Công viên Hồ Chí Minh”, thuộc địa phận phường Lào Cai, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai. Khu di tích là địa danh tưởng niệm, ghi dấu chuyến thăm duy nhất của Bác Hồ cùng phái đoàn chính phủ với Đảng bộ và nhân dân Lào Cai. Vị trí di tích được đặt trên nền Nhà máy điện Lào Cai cũ, nơi Bác đã dành thời gian đến thăm hỏi, động viên công nhân tại công trình Nhà máy điện đang xây dựng sắp sửa hoàn tất. Trong bộn bề khó khăn của đất nước dù bận trăm công nghìn việc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành thời gian về thăm và làm việc với Đảng bộ và nhân dân Lào Cai vào ngày 23-24/9/1958. Ghi nhớ công lao to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh và trân trọng những tình cảm quý báu của Người với quê hương Lào Cai, nhân dịp kỷ niệm tròn 40 năm Bác Hồ đến thăm Lào Cai (1958-1998), UBND tỉnh Lào Cai xây dựng công trình khu lưu niệm Bác Hồ. Năm 2022, Địa điểm lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Lào Cai đã được Bộ Văn hóa công nhận là di tích lịch sử cấp Quốc gia. Đây là công trình tâm linh để nhân dân, du khách gần xa có dịp bày tỏ lòng biết ơn, niềm thành kính, dâng hương tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Bên cạnh đó, Khu tưởng niệm còn là "địa chỉ đỏ" giáo dục cho thế hệ trẻ hôm nay và mai sau về lịch sử dân tộc, về thân thế, sự nghiệp vĩ đại của Người. Nơi đây, luôn mở cửa đón nhân dân cả nước đến tham quan và tỏ lòng thành kính, biết ơn Hồ Chủ tịch. NGUỒN: SỞ DU LỊCH TỈNH LÀO CAI

Lào Cai 1821 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đồn Bắc Hà

Đồn Bắc Hà nằm ngay trung tâm thị trấn Bắc Hà, được xây trên một quả đồi cao bao quát toàn bộ khu vực thị trấn Bắc Hà. Đây là một công trình đồn trú quân sự có quy mô lớn, được xây dựng theo hình xoắn ốc từ thấp lên cao, tường rào bằng dây thép gai bên ngoài cùng, tiếp đến là lớp tường thành bảo vệ bao quanh đồn có nhiều chòi canh gác cùng lối ra vào. Bên trong đồn có nhiều đơn nguyên kiến trúc với chức năng khác nhau, hình thành nên hệ thống khép kín bên trong nhằm phục vụ quân Pháp khi chiếm đóng tại Bắc Hà. Trước khi Bắc Hà được giải phóng, thực dân Pháp đã đốt đồn Bắc Hà rồi rút chạy khiến cho ngày nay di tích lịch sử này không còn được nguyên vẹn. Hiện tại, các công trình thuộc Đồn Bắc Hà đã bị phá hủy hầu hết, chỉ còn lại một phần trong số các công trình đó như: lô cốt, bể nước ba ngăn ở trung tâm đỉnh đồi; một đường hầm ở phía Nam di tích và hệ thống kè móng bao quanh Đồn. Các công trình này chỉ còn phần tường, hệ thống mái và nền không còn. Một số công trình chỉ còn lại dấu tích của nền móng như: nhà Quan Ba, chuồng ngựa, nhà lính. Ngày nay, với việc được xếp hạng là di tích lịch sử cấp tỉnh, đồn Bắc Hà hứa hẹn sẽ tạo ra một điểm thu hút du khách tham quan, tìm hiểu về lịch sử chống giặc ngoại xâm của ông cha ta ngày xưa khi đến tham quan Cao nguyên trắng Bắc Hà. NGUỒN: SỞ DU LỊCH TỈNH LÀO CAI

Lào Cai 1601 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Thác Bạc

Tỉnh Lào Cai vừa xếp hạng Thác Bạc, tổ dân phố 2, phường Ô Quý Hồ, thị xã Sa Pa, tỉnh Lào Cai là di tích danh lam thắng cảnh cấp tỉnh. Ủy ban nhân dân tỉnh vừa ban hành văn bản số 3415/QĐ-Ủy ban nhân dân ngày 31/12/2023 xếp hạng Thác Bạc là di tích danh lam thắng cảnh cấp tỉnh Theo đó, khu vực bảo vệ di tích được xác định theo Biên bản khoanh vùng các khu vực bảo vệ di tích và Bản đồ khoanh vùng các khu vực bảo vệ di tích trong hồ sơ khoa học di tích. Ủy ban nhân dân tỉnh Lào Cai giao Sở Văn hóa và Thể thao, Ủy ban nhân dân thị xã Sapa xây dựng phương án bảo vệ, quản lý, tu bổ và sử dụng di tích danh lam thắng cảnh Thác Bạc theo đúng quy định hiện hành của nhà nước. Danh thắng Thác Bạc thuộc Tổ dân phố số 2, phường Ô Quý Hồ, thị xã Sa Pa là một trong những địa điểm du lịch hấp dẫn, thu hút đông đảo du khách trong và ngoài nước (mỗi năm đón trên 45.000 lượt du khách). Thắng cảnhThác Bạc được biết đến từ thế kỷ XX, thời kỳ Pháp thuộc cùng với các địa điểm du lịch, nghỉ dưỡng nổi tiếng: Thác Bạc, Cầu Mây, Hang Đá. Đến năm 2011, tỉnh Lào Cai đầu tư xây dựng hồ thuỷ lợi Thác Bạc chứa nước thượng nguồn và điều chỉnh đảm bảo lượng nước quanh năm và tạo cảnh quan, vẻ đẹp hùng vĩ cho thác. Nhìn từ xa, Thác Bạc trông như một dải lụa mềm mại, bạc trắng vắt ngang trời, khi lại gần dòng thác đổ ào ào giống như con Bạch Long đang vươn mình gầm vang giữa đất trời hết sức hùng vĩ. Trải qua quá trình thăng trầm của lịch sử, biến đổi của khí hậu nhưng đến nay Thác bạc vẫn là địa điểm đẹp, hấp dẫn đối với du khách trong và ngoài nước, đáp ứng đầy đủ các tiêu chí và được Ủy ban nhân dân tỉnh Lào Cai xếp hạng là di tích danh lam thắng cảnh cấp tỉnh./. NGUỒN: Ủy ban nhân dân tỉnh Lào Cai

Lào Cai 1786 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Điểm di tích nổi bật