Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch Travelviet
Tải ứng dụng Travelviet
Di tích lịch sử các địa điểm liên quan đến Dinh Chúa Nguyễn (1558-1626) xã Triệu Ái, xã Triệu Giang, thị trấn Ái Tử, huyện Triệu Phong. Tháng Mười năm Mậu Ngọ (1558), Nguyễn Hoàng được vua Lê cử vào trấn thủ xứ Thuận Hóa. Nguyễn Hoàng đã cùng đoàn tùy tùng theo đường biển tiến đến cửa Việt Yên (Cửa Việt) sau đó đi ngược sông Thạch Hãn (Quảng Trị) và dừng chân tại bãi cát có tên là Sa Khưu (sau này gọi là bãi Cồn Cờ) thuộc xã Ái Tử, huyện Vũ Xương, phủ Triệu Phong. Vừa đặt chân lên vùng đất mới, Nguyễn Hoàng được quan lại và nhân dân địa phương ủng hộ và ông đã quyết định chọn bãi cát này để đóng doanh trại. Đây là dinh phủ đầu tiên của Chúa Nguyễn tại huyện Vũ Xương, phủ Triệu Phong. Trong 68 năm trấn nhậm trên đất Vũ Xương, Triệu Phong, Nguyễn Hoàng đã 2 lần di dời dinh phủ. Lần thứ nhất là vào năm 1570, sau 12 năm đóng tại Ái Tử, ông cho chuyển dinh trấn của mình sang Trà Bát; lần thứ hai vào năm 1600, ông cho chuyển dinh phủ từ Trà Bát sang Dinh Cát. Việc di dời dinh phủ/dinh trấn là quá trình mở rộng quy mô và kiên cố hóa lỵ sở chứ không phải thay đổi không gian lỵ sở. Trước sau Nguyễn Hoàng vẫn chọn vùng đất Ái Tử - Trà Bát, huyện Vũ Xương làm trung tâm chính trị - hành chính, là nơi tập trung bộ máy đầu não cai quản toàn xứ Thuận - Quảng. Năm 1613, Nguyễn Hoàng qua đời, Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên kế vị và ông tiếp tục thực hiện những dự định còn dang dở của cha mình. Đến năm 1626, Chúa Nguyễn Phúc Nguyên cho chuyển dinh phủ vào vùng Phước Yên (nay thuộc huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế), chấm dứt 68 năm vùng đất Ái Tử - Trà Bát, huyện Vũ Xương, phủ Triệu Phong là lỵ sở của chính quyền họ Nguyễn ở Đàng Trong. Trong hành trình 68 năm đặt lỵ sở tại huyện Vũ Xương, phủ Triệu Phong, ngoài việc cho xây dựng các dinh phủ đảm bảo việc điều hành quản lý của chính quyền, Chúa Tiên Nguyễn Hoàng và Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên đã tập trung cho việc thiết lập các thiết chế phục vụ hoạt động quân sự, thương mại và văn hóa mà dấu vết ngày nay còn để lại qua các địa danh như: Bãi Trận, Mô Súng, Cồn Kho, Cồn Tập, Tàu Tượng, Chợ Hôm, Gềnh Phủ, Miếu Trảo Trảo phu nhân… nhằm biến lỵ sở Ái Tử - Trà Bát thành trung tâm đầu não của cả Ðàng Trong; tạo nền móng vững chắc cho công cuộc mở cõi về phương Nam. Với những ý nghĩa và giá trị lịch sử văn hóa đó, các địa điểm liên quan đến Dinh Chúa Nguyễn (1558-1626) trên đất Triệu Phong đã được xếp hạng đặc cách là di tích cấp tỉnh theo Quyết định số 707/Quyết Định -Uỷ Ban ngày 12/7/1996. Tuy nhiên, hơn 20 năm qua, do điều kiện khách quan và chủ quan, sự tàn phá của chiến tranh, thiên tai nên các di tích thời Chúa Nguyễn trên đất Triệu Phong, Quảng Trị hầu như chưa được quan tâm đúng mức về việc bảo tồn và đầu tư, tôn tạo, chưa được đưa vào khai thác để phát huy giá trị lịch sử văn hóa của nó nên chưa khơi dậy, đánh thức tinh thần tự hào của nhiều thế hệ nhân dân Triệu Phong, Quảng Trị về mảnh đất khởi nghiệp của Chúa Nguyễn. Chính điều này là một trong nhiều nguyên nhân làm cho di tích mất dấu vết. Ngày 20/6/2018, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ban hành Quyết định số 2328/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao Du Lịch Quyết định xếp hạng di tích Quốc gia Di tích lịch sử các địa điểm liên quan đến Dinh Chúa Nguyễn (1558-1626) xã Triệu Ái, xã Triệu Giang, thị trấn Ái Tử, huyện Triệu Phong. Từ đây, di tích lịch sử các địa điểm liên quan đến Chúa Nguyễn trên đất Triệu Phong đã có cơ sở khoa học trong việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch bảo tồn, đầu tư tôn tạo và đặc biệt phát huy giá trị lịch sử, văn hóa, xứng tầm với vai trò và vị thế trong việc giáo dục truyền thống yêu nước, lòng tự hào và tấm lòng tri ân sâu sắc tới các thế hệ tiền nhân đã cống hiến cho sự phát triển của dân tộc. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Trị.
Quảng Trị 1794 lượt xem
Trong không khí phấn khởi toàn đảng, toàn dân và toàn quân ta hướng tới kỷ niệm 80 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam và 35 năm Ngày hội Quốc phòng toàn dân, chiều ngày 09/12/2024, tại xóm Tỉn Keo, xã Phú Đình, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên, Bộ tư lệnh Quan khu I phối hợp với Ủy ban Nhân dân tỉnh Thái Nguyên đã long trọng tổ chức khánh thành, bàn giao công trình tu bổ, tôn tạo Di tích Quốc gia Đồi Pụ Đồn, thuộc Khu di tích Quốc gia đặc biệt ATK Định Hóa, Thái Nguyên. Dự án tu bổ, tôn tạo Di tích Quốc gia Đồi Pụ Đồn được khởi công xây dựng từ tháng 01/2024, với diện tích 3,32ha gồm các hạng mục: Cổng nghi môn; khối đá tên công trình; nhà đón tiếp; nhà bia di tích; nhà tưởng niệm Đại tướng Võ Nguyên Giáp; bình phong đá; cột cờ cùng các hạng mục phụ trợ khác. Sau hơn 10 tháng thi công việc tu bổ, tôn tạo đã hoàn tất và đưa vào sử dụng để phục vụ du khách trong và ngoài tỉnh tham quan. Sau khi khánh thành đưa vào sử dụng Di tích Quốc gia Đồi Pụ Đồn cùng với các di tích khác thuộc Khu di tích Quốc gia đặc biệt ATK sẽ là địa chỉ đỏ để cán bộ, chiến sỹ toàn quân về nguồn giáo dục truyền thống cách mạng, góp phần nâng cao công tác quảng bá, giới thiệu về tiềm năng, thế mạnh của mảnh đất, con người ATK Định Hóa, Thái Nguyên./. NGUỒN: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Thái Nguyên
Thái Nguyên 1559 lượt xem
Ngày 20/1/1948 tại Phủ Chủ tịch – mái lá cọ đơn sơ ở Khuôn Tát (xã Phú Đình), Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 110/SL phong quân hàm cấp tướng cho một số cán bộ lãnh đạo - chỉ huy quân đội, quân hàm Đại tướng: Võ Nguyên Giáp, quân hàm Trung tướng: Nguyễn Bình, quân hàm Thiếu tướng: Nguyễn Sơn, Lê Thiết Hùng, Chu Văn Tấn, Hoàng Sâm, Hoàng Văn Thái, Lê Hiến Mai, Văn Tiến Dũng, Trần Đại Nghĩa, Trần Tử Bình. Trong một căn nhà dựng bên suối lớn, dựa một bên núi, cây cối chen phủ kín, ở ngoài trông vào rất khó thấy mà máy bay cũng khó lòng sục sạo. Một phòng trưng bày đặc biệt. Có bàn thờ Tổ quốc, chung quanh băng đỏ ghi các khẩu hiệu: “Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi”, “Thống nhất độc lập nhất định thành công“… trông đơn giản mà trang nghiêm. Chủ tịch Hồ Chí Minh và cụ Bùi Bằng Đoàn, Trưởng ban Thường trực Quốc hội, lên đứng 2 bên bàn thờ, toàn thể nhân viên Chính phủ đứng xếp hàng trước bàn thờ (ông Cù Huy Cận – thư ký Hội đồng Chính phủ, Phan Mỹ – Chánh văn phòng Chính phủ)… Chủ tịch Hồ Chí Minh tay cầm sắc lệnh gọi Võ Nguyên Giáp lên trước bàn thờ, rồi Cụ nín lặng, sụt sùi rơi nước mắt… Một phút vô cùng cảm động, mọi người đều rớm nước mắt. Giây lâu, Chủ tịch Hồ Chí Minh mới cất được tiếng mà tuyên bố: Nhân danh Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trao cho chú chức vụ Đại tướng, để chú điều binh khiển sĩ làm trọn sứ mạng mà quốc dân phó thác cho. Đồng chí Võ Nguyên Giáp nhận sắc lệnh. Cụ Trưởng ban Thường trực nhân danh Quốc hội tuyên bố mấy lời. Ông Phan Anh thay mặt Chính phủ nói mấy câu chúc mùng. Tạ Quang Bửu – Bộ trưởng Bộ Quốc phòng nhân danh bộ đội tỏ lời mừng của toàn thể bộ đội và nêu cao tinh thần phấn đấu anh dũng dưới sự chỉ huy của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Sau cùng, đồng chí Võ Nguyên Giáp đứng lên cảm ơn Chủ tịch Hồ Chí Minh, Quốc hội và Chính phủ, tuyên bố sẽ tiếp tục nỗ lực làm tròn nhiệm vụ để đem lại độc lập và thống nhất cho đất nước, Võ Nguyên Giáp lần lượt bắt tay tất cả mọi người. Rồi Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố bế mạc cuộc lễ. Ghi dấu sự kiện này, “Cảnh vệ Công an nhân dân Việt Nam, lịch sử biên niên 1941-1954” khắc ghi. “Từ đầu tháng 5 đến cuối tháng 5-1948 bảo vệ Bác trở lại Nà Lọm, xã Phú Đình, ở ngay trại thiếu nhi Bác Hồ bên suối Nà Lọm, cách đồi cũ chừng 200m. Tại đây Bác Hồ cùng Chính phủ phong quân hàm Đại tướng cho đồng chí Võ Nguyên Giáp”... Ban quản lý di tích và danh thắng Thái Nguyên đã lập hồ sơ khoa học trình Bộ Văn hóa-Thể thao và Du lịch xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia cho địa điểm di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì lễ phong quân hàm Đại tướng đầu tiên của quân đội ta, nơi ghi dấu sự kiện lịch sử quan trọng đánh dấu sự tiến lên chính quy, hiện đại của quân đội ta và sự quan tâm đào tạo, rèn luyện, cất nhắc các tướng lĩnh Quân đội nhân dân Việt Nam trở thành đội ngũ cán bộ lãnh đạo quân đội đánh thắng kẻ thù xâm lược bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc.
Thái Nguyên 1738 lượt xem
Trên đường quốc lộ 1A qua địa phận tỉnh Quảng Bình, từ ngã ba Cam Liên, đi theo hướng Tây Nam khoảng 7km đến Trung tâm huyện Lệ Thủy. Từ đó đi qua cầu chợ Tréo đến thôn Xuân Bồ - xã Xuân Thủy - huyện Lệ Thủy. Hơn 55 năm trước, trên mảnh đất giàu truyền thống văn hóa, truyền thống cách mạng này đã xảy ra một trận chiến quyết liệt giữa ta và quân Pháp, đó là chiến thắng Xuân Bồ (20-5-1950). Để đối phó với âm mưu thủ đoạn của địch, Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Bình Trị Thiên quyết định mở các chiến dịch Lê Lai và chiến dịch Thu Đông 1949. Mục đích của các chiến dịch này là mở rộng và củng cố các vùng căn cứ đồng bằng mà trọng điểm là hai huyện Quảng Ninh và Lệ Thủy, quyết tâm bảo vệ mùa màng. Để thực hiện chiến dịch, Bộ Tư lệnh cũng đã tăng cường cho hai huyện Quảng Ninh và Lệ Thủy, Trung đoàn 18 và Trung đoàn 95, thuộc Sư đoàn 325. Trung đoàn 18 được bố trí đóng quân ở xã Xuân Thủy, Tiểu đoàn 436 thuộc Trung đoàn 18 đóng ở thôn Xuân Bồ, xã Xuân Thủy. Sáng 19-5-1950, các đơn vị của Trung đoàn 18 cùng với nhân dân Xuân Bồ tổ chức mít tinh kỷ niệm ngày sinh nhật Bác Hồ đồng thời mừng thắng lợi chiến dịch Lê Lai. Nhận được tin này, tướng Lơ-Brít của Pháp từ Thừa Thiên- Huế bay ra Đồng Hới, quyết định bất ngờ mở cuộc tấn công, âm mưu tiêu diệt Trung đoàn 18. Tiểu đoàn 6 Spha-hy khét tiếng gian ác, được báo chí Pháp luôn khoe khoang là “rất thiện chiến” và “chưa gặp đối thủ” cũng được điều động từ đồng bằng Bắc bộ vào trước đó. Nắm được âm mưu và kế hoạch của địch, các đồng chí lãnh đạo của Trung đoàn 18 lập tức cho giải tán cuộc mít tinh để chuẩn bị chống càn. 8 giờ sáng ngày 20-5-1950, Tiểu đoàn 6 Spha-hy từ đồn Mỹ Trạch, Tiểu đoàn ứng chiến Quảng Bình từ đồn Thượng Phong đều vượt sông sang cùng phối hợp tấn công thôn Xuân Bồ. Cùng lúc đó, pháo binh từ đồn Hòa Luật Nam cũng dồn dập bắn tới. Nhận định cuộc chiến không cân sức giữa ta và địch, đồng chí Trung đoàn trưởng Phùng Duy Phiên đã bố trí Tiểu đoàn 436 bám trụ tại chỗ phối hợp cùng quân dân đánh trả địch, đồng thời quyết định điều thêm Tiểu đoàn 724 (lúc này đang đóng ở thôn Uẩn Áo, đối diện thôn Xuân Bồ) vượt sông sang tiếp viện thêm. Do có sự bố trí lực lượng hợp lý, khi địch vừa tấn công Xuân Bồ, lập tức chúng đã vấp phải sự chống trả quyết liệt của ta. Các cánh quân của ta, với lối đánh mưu trí, dũng cảm, lúc lừa địch lọt sâu vào trận địa rồi tổ chức phản công; lúc đánh bật chúng ra cánh đồng rồi dùng hỏa lực sát thương, ta đã liên tục bẻ gãy nhiều đợt tấn công của địch. Trận đánh diễn ra hết sức quyết liệt. Sau nửa ngày, ta từ thế phòng ngự chuyển sang tấn công. Bộ đội ta xông vào đánh giáp la cà với địch bằng lưỡi lê, báng súng. Cuộc chiến đấu kéo dài đến sẩm tối và chuyển dần từ làng Xuân Bồ ra ngoài cánh đồng. Trước khí thế tấn công dũng mãnh của các lực lượng của ta, địch phải lùi dần. Trên đà thắng lợi, quân ta đuổi đánh địch đến cùng. Kết quả, sau 13 giờ đồng hồ, bằng sự mưu trí, dũng cảm và tinh thần quyết chiến quyết thắng, Trung đoàn 18 cùng với bộ đội địa phương đã bẻ gãy hoàn toàn cuộc tấn công với âm mưu thủ đoạn vô cùng thâm độc của thực dân Pháp, khiến cho kế hoạch của chúng bị thất bại thảm hại. Từ trong cuộc đọ sức quyết liệt với địch đã xuất hiện nhiều tấm gương chiến đấu và hy sinh anh dũng. Đồng chí Lâm Úy, Tiểu đội trưởng của Đại đội 2 đã giằng co quyết liệt với địch, sau khi súng gãy, anh đã dùng lưỡi lê đâm chết hàng chục tên lính Pháp. Lê gãy, anh tiếp tục xông vào vật lộn với tên sĩ quan Pháp, quật hắn cùng ngã xuống sông. Anh đã hy sinh bên dòng Kiến Giang. Cha con bác lão quân Dương Né đã chèo thuyền như con thoi chở bộ đội vượt sông giữa làn mưa đạn của giặc. Các bà mẹ chiến sĩ và chị em phụ nữ không quản hiểm nguy, tiếp cơm nước cho bộ đội và chăm sóc thương binh. Tất cả đã làm nên chiến thắng oanh liệt: chiến thắng Xuân Bồ. Sau trận chiến thắng Xuân Bồ, tập thể cán bộ, chiến sĩ của Sư đoàn 325 đã được Quốc hội, Chính phủ tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Trung đoàn 18 được tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Nhì. Và, để ghi nhận công lao to lớn cũng như sự hy sinh anh dũng của đồng chí Lâm Úy, Nhà nước đã truy tặng anh danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Năm 1992, Bộ Văn hóa-Thông tin đã ký Quyết định xếp hạng di tích lịch sử Chiến thắng Xuân Bồ. Tại địa điểm nơi diễn ra trận đánh, nơi anh hùng Lâm Úy hy sinh đều đã được xây dựng bia đài tưởng niệm, ghi dấu chiến công hào hùng mà lớp cha ông đã phải đổ máu, hy sinh để giành lại từng mảnh ruộng, bờ tre, để nhắc nhở bao thế hệ con em luôn biết cách gìn giữ, bảo vệ, xây dựng quê hương trong thời đại mới. Nguồn Cổng thông tin điện tử xã Xuân Thủy , huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình.
Quảng Trị 1667 lượt xem
Cầu Gia Bảy được xây dựng khoảng những năm 1928-1930. Trước đây, cầu nằm trên Quốc lộ 1B, con đường huyết mạch nối từ Lạng Sơn sang Thái Nguyên. Vào thời kỳ Chiến tranh Đông Dương, cầu từng bị binh lính và người dân Việt Nam phá sập vào năm 1947. Đến năm 1965, cầu bị máy bay Hoa Kỳ ném trúng ba quả bom và hư hỏng nặng. Năm 1991, cầu được xây mới tại vị trí cũ, có chiều dài gần 100m, chiều rộng khống chế 9m. Cầu Gia Bảy là nơi ghi nhiều dấu ấn lịch sử, nhất là trong thời kỳ kháng chiến chống đế quốc Mỹ. Lịch sử đã ghi lại: Ngày 17/10/1965, giặc Mỹ huy động 29 lần chiếc máy bay, ném 116 quả bom phá xuống cầu Gia Bảy và nhiều loạt đoạn tên lửa xuống trận địa pháo cao xạ của Trung đoàn 210, mở đầu cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân của chúng vào Thái Nguyên. Sức tàn phá quá lớn của trận bom đã khiến cầu Gia Bảy bị hỏng hai mố, dầm chủ và dầm bên thượng lưu, hạ lưu bị đứt khiến giao thông hoàn toàn ngưng trệ. Bom Mỹ làm 147 người chết và bị thương; 45 ngôi nhà ở hai bên đầu cầu bị cháy, đổ; 32 cán bộ chiến sĩ trong Đại đội tự vệ khu phố Hoàng Văn Thụ thương vong. NGUỒN: Sở ngoại vụ Tỉnh Thái Nguyên
Thái Nguyên 1823 lượt xem
Cách đây 105 năm, khởi nghĩa Thái Nguyên do Đội Cấn và Lương Ngọc Quyến lãnh đạo đã làm rung chuyển chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương. Đây được xem là cuộc khởi nghĩa vũ trang hào hùng vào bậc nhất trong lịch sử dân tộc ta đầu thế kỷ XX. Ngược dòng lịch sử, trong những năm đầu thế kỷ XX, Nhân dân trong tỉnh Thái Nguyên cũng như cả nước chịu muôn vàn thống khổ bởi sự áp bức, bóc lột của thực dân Pháp và tay sai. Trong tình cảnh đó, những người con của quê hương Thái Nguyên có tinh thần yêu nước đã dựng cờ khởi nghĩa, đứng đầu là Trịnh Văn Cấn và Lương Ngọc Quyến. Cuộc khởi nghĩa nổ ra vào tối 30/8/1917, các ông Đội Trường, Ba Chén và một số binh lính giác ngộ đã tới diệt tên giám binh Nô-en (Noel) và những tên tay sai đắc lực của giặc. Ông Đội Giá và đồng đội tới giết hai vợ chồng tên Lô-ét (Loet) - một tên giám ngục rất độc ác, mở cửa nhà lao phá xiềng xích, giải thoát cho trên 200 tù chính trị và tù thường phạm. Ông Lương Ngọc Quyến bị liệt nửa người, được anh em cõng ra ngoài. Tiếp đó ông Đội Giá cho mở kho quân lương, lấy quần áo, đạn dược trang bị cho nghĩa quân rồi chiếm tiếp dinh Công sứ, tòa án, nhà đoan, kho rượu, kho đạn... Với tinh thần chiến đấu ngoan cường, nghĩa quân đã làm chủ tỉnh lị trong vòng 1 tuần. Ngày 5/9/1917, mặt trận của nghĩa quân tại thị xã Thái Nguyên bị phá vỡ, buộc phải rút lui khỏi Thái Nguyên. Ông Lương Ngọc Quyến bị thương nặng và hy sinh anh dũng. Tuy thất bại sau đó nhưng khởi nghĩa đã để lại một dấu mốc đặc biệt. Lần đầu tiên trong lịch sử cận đại Việt Nam, một cuộc khởi nghĩa diễn ra, giành được chính quyền tại một tỉnh, có tuyên ngôn, tuyên bố nền độc lập, có quốc kỳ, quốc hiệu, thành lập quân đội riêng. Cụm di tích khởi nghĩa Thái Nguyên đã được xếp hạng Quốc gia năm 1997, gồm các di tích: Trại lính khố xanh, dinh công sứ Pháp, nhà lao Thái Nguyên, đền thờ Đội Cấn. NGUỒN: Sở ngoại vụ Tỉnh Thái Nguyên
Thái Nguyên 1956 lượt xem
Nằm cách trung tâm thành phố Thái Nguyên hơn 10km, khu du lịch sinh thái Thái Hải thuộc xóm Mỹ Hào, xã Thịnh Đức, thành phố Thái Nguyên là một khu du lịch trải nghiệm phong tục tập quán dân tộc Tày, từ nhiều năm nay. Khu du lịch sinh thái, bảo tồn văn hóa dân tộc Tày Thái Hải hiện nay có khoảng 30 ngôi nhà sàn được dựng theo nguyên bản từ nhà sàn của người Tày Định Hóa Thái Nguyên nơi bạn có thể được thưởng thức văn hóa người Tày vô cùng đặc sắc Nơi đây, dưới những nếp nhà sàn quần tụ trong không gian xanh mướt của những tán cọ, rừng keo, rừng vầu trong núi đồi bảo tồn các hiện vật và văn hóa dân gian truyền thống của đồng bào Tày, Nùng Việt Bắc.Làng nhà sàn Thái Hải được chia làm nhiều khu với những chức năng riêng, gồm có khu bảo tồn, khu ẩm thực, khu vui chơi giải trí, tổ chức sự kiện…là điểm đến hấp dẫn thu hút du khách trong và ngoài nước.
Thái Nguyên 2041 lượt xem
Bảo tàng Văn hoá các Dân tộc Việt Nam Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam có địa chỉ tại số 1 Đội Cấn, Trưng Vương, thành phố Thái Nguyên (tỉnh Thái Nguyên), được thành lập vào năm 1960 với tên gọi ban đầu là Bảo tàng Việt Bắc, đến năm 1990 đổi tên thành Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam. Với diện tích gần 40.000m2, đây là công trình hội tụ, lưu giữ, trưng bày và giới thiệu những tư liệu quan trọng về lịch sử, bản sắc văn hóa của cộng đồng các dân tộc trên đất nước Việt Nam. Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam đạt giải thưởng Hồ Chí Minh về công trình kiến trúc đợt I, năm 2006. Trong đó, các dân tộc anh em tại các khu vực như vùng đồng bằng, trung du Bắc Bộ, Tây Bắc, Đông Bắc, Tây Nguyên, đồng bằng Nam Bộ… được tái hiện qua gần 50.000 hiện vật trong không gian bảo tàng. Trong đó, bản sắc văn hóa về phong tục, tập quán lao động, sản xuất, các nghi lễ, lễ hội, trang phục, ẩm thực, kiến trúc, nghề thủ công… được tái hiện sinh động qua hệ thống tư liệu, di sản văn hóa vật thể và phi vật thể. NGUỒN: Cơ quan Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
Thái Nguyên 1832 lượt xem
Di tích rừng Khuân Mánh Rừng Khuân Mánh là khu rừng thuộc xã Tràng Xá, huyện Võ Nhai, cách thành phố Thái Nguyên 50 km về phía Đông Bắc. Đây là nơi ra đời của Trung ương đảng về bảo toàn và tiếp tục củng cố lực lượng, ngày 15/9/1941, thay mặt thường vụ trung ương Đảng, ông Hoàng Quốc Việt đã đến căn cứ chứng kiến lễ thành lập và trao nhiệm vụ cho đội cứu quốc quân II, ông Chu Văn Tấn là chỉ huy trưởng, ông Nguyễn Văn Phấn làm chỉ huy phó. Lúc đầu trung đội có 36 người, trong đó có 3 nữ, sau tăng lên 46 người, trang bị vũ khí thô sơ, chỉ có súng kíp và giáo mác. Sau lễ thành lập, trung đội bắt tay vào xây dựng cơ sở chính trị trong nhân dân, đẩy mạnh hoạt động du kích ở Tràng Xá, Đình Cả, gây nhiều tổn thất cho địch. Tháng 11/1944, nhiều trận chiến đấu ác liệt giữa đội cứu quốc quân II, (có sự tham dự của nhân dân địa phương) với quân đội Pháp tại cầu Đồng Thu, đèo Khê, gốc đa La Hán, núi Đá Đỏ, hang Mỏ gà... các địa danh này lưu dấu chiến công oanh liệt của quân dân Võ Nhai thời đó. NGUỒN: Du Lịch Thế Giới
Thái Nguyên 1688 lượt xem
Chùa Đông Cao hay chùa Đôi Cao, được xây dựng từ thời nhà Lý, tọa lạc trên quả đồi thuộc thôn Phúc Duyên, xã Tân Hương. Trải qua cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, ngôi chùa bị tàn phá. Đến năm 1999, xã Tân Hương đã tổ chức trùng tu lại chùa và xây dựng gác chuông. Năm 2002, bà con trong xã và các nhà hảo tâm đã vận động quyên góp hơn 120 triệu đồng để tu bổ chùa. Hiện, chùa đã được đầu tư xây dựng khang trang, sạch đẹp, có nhà Tam Bảo, nhà thờ Mẫu, nhà thờ Bác Hồ, phía trước mặt là gác chuông 3 tầng. Chùa Đông Cao đã được công nhận là di tích lịch sử – văn hoá cấp tỉnh năm 2004. Hàng năm, cứ vào ngày 14, 15 tháng Giêng, bà con trong xã và du khách thập phương lại tới chùa làm lễ cầu nguyện năm mới an lành, cây cối đâm chồi nảy lộc, vạn vật tốt tươi. Lễ hội còn diễn ra các hoạt động giao lưu văn hoá, văn nghệ (ảnh) và các trò chơi dân gian thu hút đông đảo người dân tham gia như: Đấu vật, cờ tướng, chọi gà… Chùa thường được gọi là chùa Đông Cao, chùa Cao, tọa lạc trên một ngọn đồi thuộc xã Tân Hương, huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên. Từ Hà Nội đến địa phận tỉnh Thái Nguyên, đi 16km nữa thì đến chùa. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông. Chùa được dựng vào thời Hậu Lê. Ngôi chùa ngày nay do Sư cụ Thích Đàm Hinh tổ chức xây cất vào ngày 17 tháng 5 năm 1992, hoàn thành ngày 21 tháng 7 năm 1992. Chùa còn giữ được các ngôi tháp, bia, cột đá thời Hậu Lê, như tấm bia cổ có khắc niên hiệu Chính Hòa năm thứ 18 (1697). NGUỒN: Viet Architect Group
Thái Nguyên 1670 lượt xem
Di tích lũy Thầy, hay còn gọi là lũy Đào Duy Từ là hệ thống chiến lũy được hình thành trong cuộc chiến tranh Trịnh- Nguyễn (1627-1672) trên mảnh đất Quảng Bình với các chiến lũy Trường Dục ở Hiền Ninh, huyện Quảng Ninh, lũy Đầu Mâu, lũy Nhật Lệ ở thành phố Đồng Hới, được xếp hạng Quốc gia theo Quyết định số 97/Quyết Định ngày 21/1/1992 của Bộ Văn hóa- Thông tin (nay là Bộ Văn hóa-Thể thao và Du lịch). Lũy Thầy còn có nhiều tên gọi khác như luỹ Nhật Lệ hay luỹ Đồng Hới, Trường Dục... thuộc tỉnh Quảng Bình ngày nay. Vua Thiệu Trị sau này từng gọi hệ thống lũy là nơi 'Định Bắc trường thành' để nhớ ơn tổ tiên đã giữ vững cõi Nam. Lũy Thầy là cái tên do người dân Đàng Trong đặt để tỏ lòng thành kính với danh nhân Đào Duy Từ như bậc thầy về quân sự và chính trị. Công trình này được bắt đầu khởi công năm 1630 sau khi giành thắng lợi tại trận chiến với quân Trịnh trên bờ sông Nhật Lệ, năm 1627. Công trình nhằm bảo vệ và củng cố Đàng Trong khỏi các cuộc tấn công của chúa Trịnh ở Đàng Ngoài. Tiếp đó, năm 1631, chúa Nguyễn tiếp tục cử Đào Duy Từ và Nguyễn Hữu Dật xây thêm lũy Đầu Mâu và lũy Nhật Lệ (cả 2 lũy này gọi chung là lũy Trấn Ninh). Đến năm 1634, chúa Nguyễn lại cho đắp tiếp lũy Trường Sa dài 7km khép lại vùng động cát Bảo Ninh. Như vậy, trong vòng hơn 3 năm, chúa Nguyễn đã hoàn thiện 1 hệ thống chiến lũy dài gần 34 km. Đây là một hệ thống thành lũy liên hoàn gồm nhiều tầng, nhiều lớp, nhiều tuyến và được gọi chung là lũy Thầy. Đại Nam thực lục tiền biên có ghi: Lũy Trường Dục xây theo kiểu chữ Hồi, cho nên còn được gọi là Lũy Hồi Văn. Theo đó, ngoài có khung thành bao bọc, trong là doanh trại, công sự chiến đấu, kho tàng bố trí theo lối chữ Dĩ liên hoàn chặt chẽ với lũy ngoài. Lũy dài 2.500 trượng, chân rộng trượng rưỡi, cao 1 trượng (khoảng 4m). Lũy Trường Dục là một công trình kiến trúc thể hiện tài năng quân sự của Đào Duy Từ. Năm 1648, sau khi đánh không được cửa lũy Trường Dục, quân Trịnh quay sang đánh vào vùng Võ Xá và thu được thắng lợi. Song, khi chiếm được chỗ đứng chân thì lại bị quân Lưu Đôn chặn đánh ở Thập Dinh (nay vẫn còn xã Dinh Mười, huyện Quảng Ninh) đẩy xuống vùng đầm lầy Võ Xá, vốn là một dải đầm lầy tự nhiên kéo theo đường thiên lý từ Quảng Bình vào Thuận Hóa. Quân Trịnh bị sa lầy tại đây. Và trong thế trận tiến thoái lưỡng nan do không có được sự hỗ trợ từ đường thủy, sau đó buộc phải rút quân ra Bắc. Chính vì sự kiện này mà đến nay, dân gian truyền tục câu ca: “Nhất sợ Lũy Thầy, nhì sợ đầm lầy Võ Xá”. Hai trăm năm sau, khi vua Thiệu Trị hành hương qua hệ thống lũy Thầy xúc động trước hệ thống thành luỹ hùng vĩ này đã đặt thêm cho nó cái tên "Định Bắc trường thành" để nhớ ơn tổ tiên đã giữ vững cõi Nam. Trải qua thời gian và bom đạn chiến tranh, lũy Thầy gần như hư hại hoàn toàn. Đến năm 1994, lũy được phục hồi lại nguyên trạng và được Nhà nước công nhận là di tích Quốc gia. Lũy Thầy ngày nay còn dấu tích rõ nét ở đường Quách Xuân Kỳ và phía Tây phường Phú Hải, thuộc địa bàn thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình và trở thành dấu tích trăm năm nhắc nhở các thế hệ về một thời nhà Trịnh -Nguyễn phân tranh trong lịch sử Việt Nam. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Bình
Quảng Trị 1689 lượt xem
Tên tuổi anh hùng Nguyễn Thị Suốt được cả nước biết đến như biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Tên tuổi của mẹ gắn liền với sự kiện lịch sử trong những ngày đầu đánh Mỹ của quân và dân Quảng Bình nói riêng và cả nước nói chung. Là biểu tượng sinh động, hào hùng của dân tộc ta quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ, để bảo vệ chủ quyền quốc gia. Mẹ Suốt là một phụ nữ tiêu biểu của vùng đất “hai giỏi” như Bác Hồ kính yêu đã khen tặng “Quảng Bình chiến đấu giỏi, sản xuất cũng giỏi”. Trải qua những năm tháng trường kỳ chống thực dân Pháp và đi đến thắng lợi. Năm 1954, Hòa bình lập lại chưa được bao lâu thì đế quốc lại gây chiến tranh phá hoại. Dựng ra sự kiện vịnh Bắc Bộ, năm 1964, đế quốc Mỹ bắt đầu đánh phá miền Bắc mà vùng đất Đồng Hới - Quảng Bình được chúng xem là cán soong, là tuyến đầu của hậu phương lớn, nên chúng đã tập trung đánh phá với mức độ ác liệt và dữ dội nhất với ý đồ nhằm huỷ diệt và san bằng, biến nơi đây trở về thời kỳ đồ đá. Mẹ Nguyễn Thị Suốt sinh ra ở xóm Vạn chài làng Phú Mỹ (nay thuộc thôn Mỹ Cảnh, xã Bảo Ninh, thị xã Đồng Hới). Từ thuở nhỏ phải đi ở nuôi thân, cuộc đời mẹ hết đi ở đợ nhà giàu này đến nhà giàu khác, làm thuê làm mướn suốt năm, suốt tháng mà vẫn khổ cực. Cách mạng tháng Tám thành công chặt đứt xiềng xích nô lệ, giải phóng quê hương, giải phóng dân tộc và giải phóng chính cuộc đời mẹ. Nhưng chưa kịp mừng vui thì thực dân Pháp lại xâm lược nước ta lần nữa và cũng như đồng bào cả nước, mẹ phải tiếp tục cuộc đời lầm than, cay đắng. Khi giặc Mỹ gây chiến tranh phá hoại miền Bắc, lúc này mẹ đã tròn 60 tuổi, nhưng theo tiếng gọi của cách mạng, của Bác Hồ và của Đảng bộ địa phương, thấu hiểu cuộc đời lầm than nô lệ, cảnh nước mất nhà tan cũng như thấm nhuần tình yêu quê hương, căm thù giặc Mỹ tàn phá xóm làng. Mẹ Suốt đã xung phong nhận lấy một công việc tưởng như bình thường, đơn giản nhưng cực kỳ nguy hiểm: Đó là chở đò ngang qua sông Nhật Lệ lúc bấy giờ là một trong ba nhiệm vụ quan trọng của tổ 3 phòng: phòng chữa cháy, cấp cứu, chuyển tải thương binh và giao thông đi lại. Ngược dòng thời gian để trở lại những ngày đầu chống mỹ. Hôm đó là ngày chủ nhật 7 tháng 2 năm 1965 (tức là ngày mồng 6 tết ất Tỵ) không lực Hoa Kỳ ồ ạt tấn công bắn phá thị xã Đồng Hới và các vùng lân cận (chúng đã huy động 160 lần chiếc máy bay phản lực hiện đại). Thị xã Đồng Hới như rung chuyển trong khói lửa đạn bom của kẻ thù. Trên sông Nhật Lệ, những cột nước đen ngòm tung lên dữ đội bởi đạn bom. Mẹ Nguyễn Thị Suốt vẫn hiên ngang cầm chắc tay chèo chở bộ đội sang sông, vận chuyển đạn từ bờ ra tàu chiến của ta để đánh trả quân thù. Những chuyến đò của mẹ cũng là đường dây thông tin liên lạc giữa thị xã Đồng Hới với Bảo Ninh. Dưới làn mưa bom bảo đạn của kẻ thù, mẹ cùng chiếc đò ngang đưa đón cán bộ, bộ đội, nhân dân qua lại đôi bờ. Không hình ảnh nào đẹp hơn một bà mẹ đã ngoài 60 tuổi mà vẫn bất chấp hiểm nguy, hiên ngang ngẩng cao đầu trước hàng loạt đạn bom của Mỹ luôn khống chế và ngăn chặn. Những người đã từng qua đò của mẹ trong những giờ phút nóng bỏng đó không thể không khâm phục trước lòng quả cảm, gan dạ của một bà mẹ đã biến căm thù thành hành động phi thường. Và cho đến nay, Những người đã từng trực tiếp chiến đấu và chứng kiến sáng 7 tháng 2 năm 1965 vẫn không thể lý giải và hiểu nổi vì sao giữa dòng Nhật Lệ nước sôi, đạn bỏng mà mẹ Suốt vẫn anh dũng xông pha và hoàn thành nhiệm vụ xuất sắc đến thế: tiếp đạn cho hải quân ta đánh trả máy bay Mỹ, đưa thương binh vào bờ, chở bộ đội sang sông. Chiến công của mẹ Suốt cùng bao chiến công thầm lặng khác của quân và dân Đồng Hới đã lập nên một kỳ tích vang dội chỉ trong hai ngày 7 và ngày 8 tháng 2 năm 1965, quân dân Đồng Hới đã bắn rơi 14 máy bay Mỹ; Từ ngày 14 tháng 2 đến ngày 28 tháng 4 năm 1965 - 5 tàu chiến Mỹ bị bắn chìm, bắn cháy tại biển Nhật Lệ - mở đầu cho thắng lợi rực rỡ của quân và dân ta. Sau trận chiến đấu ác liệt ấy, con đò mẹ Suốt lại tiếp tục đưa đón cán bộ, bộ đội sang sông trong những ngày đánh Mỹ. Với những chiến công của mẹ, ngày 01 tháng 1 năm 1967, mẹ Nguyễn Thị Suốt đã được Đảng và Nhà nước ta phong tặng danh hiệu Anh hùng lao động trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Chiến tranh ngày càng ác liệt, bị thua đau ở miền Nam, đế quốc Mỹ lại tăng cường đánh phá miền Bắc và Đồng Hới lại tiếp tục hứng chịu cảnh đạn bom. Ngày 11/10/ 1968 trong lúc làm nhiệm vụ mẹ Suốt đã anh dũng hy sinh bởi một trận bom đạn của kẻ thù. Như là một bức tranh sinh động về chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Hình tượng đó đã được nhân dân Quảng Bình, nhân dân cả nước biết đến như tấm gương tiêu biểu của bà mẹ Việt Nam anh hùng. Bến đò mẹ chèo năm xưa đã trở thành một di tích lịch sử tiêu biểu ở Quảng Bình trong thời kỳ chống Mỹ với tên gọi thân thương, kính trọng: Bến đò Mẹ Suốt. Di tích bến đò Mẹ Suốt nằm ở địa phận thôn Trung Bính, xã Bảo Ninh (phía hữu ngạn) và gần chợ cá Đồng Hới (phía tả ngạn sông Nhật Lệ). Năm 1980, để tưởng nhớ và cảm kích về một người Mẹ anh hùng của quê hương, Uỷ Ban Nhân Dân thị xã Đồng hới đã cho xây dựng bia đài Mẹ Suốt nằm giữa trung tâm của bến đò để hàng ngày người dân Quảng bình đều được gần gũi bên hình tượng của Mẹ. Nơi đây, một ngày không xa, tượng đài Mẹ Suốt sẽ là nơi giao lưu, sinh hoạt văn hóa của nhân dân địa phương trong tỉnh, là nơi vui chơi quây quần của các cháu thiếu nhi, là nơi để nhân dân cả nước khi thăm bến đò Mẹ Suốt năm xưa tỏ lòng ngưỡng mộ trước một bà mẹ Việt Nam anh hùng. Nguồn Cổng thông tin điện tử thành phố Đồng Hới , tỉnh Quảng Bình.
Quảng Trị 1966 lượt xem
Miếu thành hoàng Mỹ Thổ - Trung Lực nằm trên đồi Lòi Dạ, thôn Tân Lực, xã Tân Thủy. Phía đông giáp làng Trung Lực, phía tây giáp làng Mỹ Thổ. Từ chợ Mai - ngay sát đường quốc lộ 1A đi vào theo đường đất khoảng 4 km về phía đông nam là tới di tích. Miếu thành hoàng Mỹ Thổ - Trung Lực gắn liền với những sự kiện lịch sử tiêu biểu của Đảng bộ Quảng Bình, gắn liền với những ngày đầu phấn đấu để đi đến việc thành lập Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên ở phía Nam tỉnh Quảng Bình, với cuộc đấu tranh để giữ gìn, phát triển phong trào cách mạng, gắn liền với cuộc vận động giải phóng dân tộc của tỉnh, của nước trong cách mạng tháng Tám. Trong phong trào Cần Vương, vùng Mỹ Thổ - Trung Lực là nơi tập kết, giấu quân Cần Vương. Nghĩa quân của Hoàng Phúc, Đề én, Đề Chít thường lưu trú nơi đây, được nhân dân che chở (Đề Chít lấy vợ quê Mỹ Thổ). Trong hàng ngũ nghĩa quân có hàng chục người chỉ huy vốn là dân Mỹ Thổ - Trung Lực. Các nhà nho có hiểu biết ở hai làng đều tham gia hay có cảm tình với nghĩa quân Cần Vương. Ngày 3-2-1930, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời, một phong trào đấu tranh được Đảng phát động trong toàn quốc, đặc biệt là cao trào 1930-1931, Xô Viết - Nghệ Tĩnh ra đời cổ vũ phong trào các địa phương. Vào những năm 1929 - 1930, những thanh niên hăng hái đầy nhiệt huyết của Trung Lực - Mỹ Thổ đi tìm cách mạng, mang trong mình tinh thần yêu nước, bằng nhiều con đường trong những thời gian khác nhau đã lần tìm bắt liên lạc với Đảng. Được sự ủy nhiệm của Tỉnh ủy Quảng Trị, một số cơ sở Đảng ở Vĩnh Linh tìm cách phát triển cơ sở ra vùng Lệ Thủy. Ông đồ nho Dương Công Phát - một quần chúng tốt làm trung gian cho Chi bộ Đảng bắt liên lạc với những thanh niên hăng hái cách mạng, trong đó có 3 người: Lê Thuận Chất, Lê Thuận Sản, Nguyễn Đông. Theo sự hướng dẫn của Đảng, anh Chất mang tài liệu tuyên truyền của Đảng về địa phương và cùng với anh Sản tổ chức những anh em nông dân nghèo, có tinh thần yêu nước, chống địa chủ phong kiến vào 7 tổ có 21 người, gọi là tổ "Nông hội đỏ’’, một hình thức tổ chức như Xô Viết - Nghệ Tĩnh, nhằm tập hợp nông dân cách mạng. Theo chỉ thị của Tỉnh ủy Quảng Trị, các cán bộ Đảng tìm cách đột nhập và ở lại cơ sở tại vùng Mỹ Thổ - Trung Lực. Anh Nguyễn Đông tự nguyện đem cán bộ Đảng về nuôi giấu trong nhà. Đồng chí Đoàn Bá Thừa về cơ sở giáo dục 3 quần chúng cốt cán để đưa các đồng chí đó vào Đảng, chỉ đạo 3 quần chúng tiến hành tổ chức các cơ sở quần chúng khác. Bí mật tổ chức những cuộc tuyên truyền cương lĩnh của Đảng cộng sản trong từng nhóm quần chúng tốt ở Mỹ Thổ - Trung Lực. Ba quần chúng trung kiên Chất, Sản, Đông lại được rèn luyện thử thách nhiều trong việc bảo vệ cán bộ, vận động quần chúng. Đêm 17-11-1931, tại miếu thành hoàng làng Trung Lực, đồng chí Đoàn Bá Thừa thay mặt Đảng kết nạp 3 đồng chí Chất, Sản, Đông vào Đảng cộng sản Đông Dương. Cũng đêm đó, đồng chí Đoàn Bá Thừa thay mặt cấp uỷ cấp trên quyết định thành lập chi bộ Mỹ Trung, chi bộ Đảng đầu tiên ở phía Nam tỉnh. Chi bộ do đồng chí Chất làm Bí thư, mở đầu một thời kỳ mới, một bước ngoặt quan trọng trong đời sống chính trị và tình cảm của nhân dân hai làng Mỹ Thổ - Trung Lực và phong trào đấu tranh ở vùng Nam Quảng Bình. Đến tháng 6-1932, chi bộ đã có 9 đồng chí, chi bộ cử ra chi ủy, phân công một số việc: Thành lập đội xích vệ, gây quỹ tạo vốn, tiếp chuyển tài liệu từ Vĩnh Linh ra Lệ Thủy và ngược lại. Chi bộ đã phát động quần chúng đấu tranh, thu được một số thành công bước đầu: Năm 1935, chi bộ phát triển lên 12 đồng chí với một đội xích vệ khá mạnh. Các hội quần chúng của Đảng đã có hàng trăm người tham gia. Đầu tháng 9/1941, đồng chí Bùi Trung Lập, cán bộ Tỉnh uỷ Quảng Trị được xứ ủy Trung Kỳ phái ra liên lạc với chi bộ Mỹ Trung, phổ biến tình hình nhiệm vụ mới và truyền đạt Nghị quyết lần thứ VIII của Trung ương Đảng. Nội dung nêu: “Nhiệm vụ giải phóng dân tộc nhiệm vụ bức thiết nhất của cách mạng Đông Dương” và chủ trương thành lập mặt trận Việt Minh. Cơ sở Việt Minh Mỹ Thổ - Trung Lực được thành lập do đồng chí Lê Thuận Chất làm chủ nhiệm, chi bộ lúc này đã có 29 đảng viên, đồng chí Lê Thuận Khuông làm Bí thư. Tháng 11/1942, bọn tay sai mật thám lần được đầu mối ta ở Trung Lực - Mỹ Thổ, chúng đã bắt Lê Gia Liêu và 13 đồng chí khác. Sau đó, đồng chí Bùi Trung Lập cũng bị bắt. Một thời kỳ đẫm máu đầy thử thách đối với cơ sở Đảng, quần chúng nhân dân Mỹ Thổ - Trung Lực. Mặc dù bị địch tra tấn dã man, các đảng viên, các đồng chí kiên trung của Mỹ Thổ - Trung Lực vẫn chiến đấu đến hơi thở cuối cùng. Có những cơ sở Đảng trung kiên như vợ chồng anh Đinh Tứ Khắc, chị Tương là những tấm gương củng cố lòng tin với Đảng, với cách mạng. Ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp, tin này truyền nhanh đến Mỹ Thổ - Trung Lực. Ngày 27/3/1945, đồng chí Võ Hồ Thanh (Võ Hậu), đồng chí Nguyễn Văn Đồng (Đồng Sỹ Nguyên) về nối lại liên lạc và chỉ thị của cấp trên đối với Mỹ Thổ - Trung Lực. Cuối tháng 6/1945, Ban thống nhất Trung Kỳ cử đồng chí Hồng Xích Tâm vào truyền đạt chỉ thị của Trung ương, lời kêu gọi của Ban thống nhất Trung Kỳ cho các cơ sở ở Quảng Bình và liên lạc với đồng chí Võ Hồng Thanh ở Mỹ Thổ - Trung Lực và đồng chí Trần Hữu Dực, chuẩn bị thành lập cơ quan lãnh đạo chung của tỉnh. Đầu tháng 7/1945, Hội nghị các Đảng bộ toàn tỉnh triệu tập tại chùa An Xá. Đồng chí Lê Thuận Khuông, Bí thư Chi bộ Mỹ Thổ - Trung Lực là một trong 13 đại biểu dự Hội nghị đó. Hội nghị thành lập mặt trận Việt Minh tỉnh tại An Sinh, quyết định trụ sở tỉnh bộ đóng tại Mỹ Thổ. Đêm 22 rạng 23 tháng 8, quần chúng cách mạng Mỹ Thổ - Trung Lực và 18 làng phụ cận chia thành 4 mũi kéo thẳng lên huyện đường Lệ Thuỷ cùng với các mũi tiến công khác trong huyện tiến hành hợp vây giành chính quyền ở huyện, góp phần cùng cả tỉnh cả nước làm nên cuộc tổng khởi nghĩa cách mạng tháng 8 thành công thắng lợi. Hiện nay, di tích đã được đầu tư kinh phí, trùng tu lại miếu, cổng vào di tích và một tấm bia hoành tráng đã được dựng lên ghi lại sự kiện lịch sử đáng ghi nhớ này. Hàng năm cứ vào ngày 17/11 Đảng bộ và nhân dân huyện Lệ Thủy tổ chức dâng hương, viếng thăm di tích. Đây thực sự là địa chỉ đỏ ngời sáng để giáo dục các thế hệ trẻ, nguyện sống và làm việc, phấn đấu theo con đường mà Đảng và Bác Hồ đã chọn. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Lệ Thủy , tỉnh Quảng Bình.
Quảng Trị 1875 lượt xem
Sáng ngày 06/01, Đảng ủy, chính quyền và nhân dân xã Minh Lập đã tổ chức Lễ đón nhận Bằng di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh cho đình Minh Lý. Đình Minh Lý thuộc xóm Minh Lý, xã Minh Lập là nơi sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của nhân dân trong xã. Đình thờ vị anh hùng dân tộc Dương Tự Minh, người có đóng góp to lớn trong việc duy trì, củng cố khối đại đoàn kết các dân tộc đánh đuổi giặc ngoại xâm, được nhân dân tôn kính và lập đền thờ Thành hoàng làng. Ngôi đình đã có từ rất lâu, song do biến thiên của lịch sử, thiên tai tàn phá khiến Đình Minh Lý bị xuống cấp nghiêm trọng. Năm 2007, nhân dân 4 xóm Ao Sơn, Đoàn Kết, Làng Chu và Theo Cày đã cùng nhau công đức xây dựng lại ngôi đình trên nền cũ. Đình gồm có tiền tế và hậu cung, tổng diện tích đất xây dựng là 1.903 m. Hằng năm tại đình có 2 kỳ lễ chính vào ngày 09/1 và ngày 20/11 âm lịch, ngoài ra còn có các ngày lễ khác như lễ hạ điền và thượng điền. Lễ vật dâng lên thành hoàng làng chủ yếu là các nông sản tại địa phương với mục đích cầu cho mưa thuận gió hòa,cây cối tốt tươi, mùa màng bội thu, nhân dân các dân tộc trên địa bàn được ấm no hạnh phúc. Với những giá trị về lịch sử và văn hóa, UBND tỉnh Thái Nguyên quyết định công nhận đình Minh Lý là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh. Đây là niềm vui của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân xã Minh Lập nói riêng và huyện Đồng Hỷ nói chung. Việc được công nhận là di tích lịch sử góp phần bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc, giáo dục truyền thống yêu nước, đáp ứng nhu cầu tâm linh của nhân dân trên địa bàn./. NGUỒN TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ HUYỆN ĐỒNG HỶ
Thái Nguyên 1579 lượt xem
Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, đã có nhiều cơ quan được thành lập, đóng và làm việc tại ATK Định Hóa. Trong số này có cơ quan Cục Thông tin, Bộ Quốc phòng. Ngày 31/7/1949, Bộ trưởng Bộ quốc phòng ban hành Nghị định số 123/NĐ thành lập Cục Thông tin thuộc Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Quốc gia và Dân quân, tự vệ Việt Nam. Cơ quan thành lập trên cơ sở Phòng Thông tin liên lạc quân sự do đồng chí Hoàng Đạo Thúy làm Trưởng phòng. Theo Nghị định, Cục Thông tin là cơ quan tham mưu cho Bộ Tổng tư lệnh về mặt thông tin liên lạc; tổ chức, giữ vững thông tin liên lạc từ Bộ Tổng Tham mưu đến các chiến trường, các đơn vị chỉ đạo nghiệp vụ; trang bị vật chất kỹ thuật cho các đơn vị thông tin liên lạc trực thuộc Bộ Quốc phòng, Tổng tư lệnh; thống nhất tất cả các lực lượng thông tin liên lạc ở cơ quan Bộ Quốc phòng, Sở Vô tuyến điện Việt Nam và đưa về nằm trong đội hình Cục Thông tin. Trong giai đoạn 1952-1953, cơ quan Cục Thông tin ở và làm việc ở xóm Khuổi Tát, xã Quy Kỳ (Định Hóa). Địa điểm này đã được khảo sát, xác định vị trí nhưng được xây bia di tích. Ông Hoàng Văn Chức, sinh năm 1942, ở xóm Khuổi Tát, xã Quy Kỳ xác nhận: Khu vực Cục Thông tin làm việc nằm ở trên lưng chừng đồi, san gạt nền tương đối rộng. Sau khi chuyển đi thì nơi này vẫn còn giấu khá nhiều máy móc và điện đàm nhưng nay không còn và gần như mất dấu. Tháng 5-1953, Cục Thông tin chuyển địa điểm đến xóm Khuân Giàng, xã Trung Hội (từ năm 1953 đến nay thuộc xã Trung Lương, Định Hóa). Tuy còn nhiều khó khăn, thiếu thốn nhưng đội ngũ cán bộ đơn vị đã xác định quyết tâm trong thời gian 6 tháng phải hoàn thành những công việc: Hình thành tổ chức cơ quan và đơn vị thuộc Cục; mở lớp đào tạo sĩ quan tham mưu, thông tin liên lạc và cán bộ kỹ thuật sửa chữa vô tuyến điện, điện thoại, máy phát điện; dự thảo trình Bộ Quốc phòng, Tổng Tư lệnh duyệt và ban hành phương án tổ chức hệ thống thông tin liên lạc trong toàn quân; sắm và sửa chữa các phương tiện khí tài thông tin liên lạc để sớm trang bị cho các đơn vị, đồng thời nhanh chóng biên soạn tài liệu “Thông tin liên lạc sơ lược” để huấn luyện trong toàn quân. Cũng tại Khuân Giàng, Tổng Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái đã dành nhiều thời gian đến làm việc và nói chuyện với cán bộ, chiến sĩ của Cục Thông tin. Ông nhấn mạnh: “Thông tin liên lạc cần nắm chắc những nhiệm vụ cốt yếu nhất, trong đó hàng đầu là xây dựng đội ngũ cán bộ, chiến sĩ có đủ trình độ đảm nhận nhiệm vụ, bảo đảm chỉ huy bộ đội trong điều kiện tác chiến vận động với quy mô lớn hơn. Phương hướng tự lực là đúng nhưng Cục Thông tin cần tăng cường phương tiện vật chất - kỹ thuật cho cấp chiến dịch, chiến thuật để đủ sức hoàn thành nhiệm vụ…”. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, Cục Thông tin đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, bảo đảm thông tin liên lạc cho lãnh đạo, chỉ huy các cấp phối hợp giữa các chiến trường; góp phần xây dựng các đại đoàn chủ lực, bảo đảm cho chỉ huy tác chiến của ba thứ quân, cho đấu tranh chính trị, ngoại giao…phục vụ đắc lực cho lực lượng vũ trang đấu tranh giành thắng lợi trong các chiến dịch, đặc biệt là cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân (1953-1954) mà đỉnh cao là Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954. Với ý nghĩa lịch sự quan trọng như vậy, địa điểm đóng quân của Cục Thông tin (1953-1954) tại Khuân Giàng, xã Trung Lương đã được UBND tỉnh công nhận là di tích lịch sử cấp tỉnh vào tháng 8-2017. NGUỒN: Báo Thái Nguyên
Thái Nguyên 1724 lượt xem
Ngày 25-8, tại xóm Thống Nhất 3, xã Vô Tranh (Phú Lương), huyện Phú Lương đã long trọng tổ chức Lễ đón nhận và động thổ công trình ghi dấu tích địa điểm an táng nhà yêu nước Lương Ngọc Quyến cấp tỉnh. Nhà yêu nước Lương Ngọc Quyến sinh năm 1885, 19 tuổi tham gia vào sự nghiệp giải phóng dân tộc; 29 tuổi, bị thực dân Pháp bắt giữ, kết án chung thân cấm cố qua nhiều nhà tù. Ngày 25-7-1916, chúng chuyển ông lên giam ở Nhà tù Thái Nguyên. Tại đây, ông đã giác ngộ lòng yêu nước, ý chí đấu tranh cho các bạn tù và binh lính khố xanh, trong đó có Trịnh Văn Cấn (tức Đội Cấn). Cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên nổ ra đêm 30-8-1917, đến ngày 4-9-1917, ông bị trúng đạn pháo của địch, hy sinh. Nghĩa quân chôn cất ông ở phía Đông Nam đồi Gò Mu, xóm Thống Nhất 3, xã Vô Tranh (Phú Lương). Ngày 23-12-2001, được sự giúp đỡ của chính quyền địa phương và cơ quan chuyên môn, các hậu duệ đã lấy di cốt ông mang về quê nhà, xã Nhị Khê, huyện Thường Tín (Hà Tây) truy điệu, an táng. Nơi ông yên nghỉ (1917-2001) được tỉnh Thái Nguyên xếp hạng Di tích lịch sử cấp tỉnh (Quyết định số 2386/QĐ-UBND, ngày 10-8-2017). Diện tích đất khoanh vùng bảo vệ di tích rộng 1.281m2, trong đó khu vực an táng rộng 335 m2; khu vực cảnh quan tiếp giáp và khu vực phụ cận rộng 946 m2. Cùng ngày, các đại biểu đã tham gia Lễ động thổ công trình; UBND xã Vô Tranh cũng đã công bố quyết định thành lập Ban Quản lý Di tích, gồm 11 người. NGUỒN: Báo Thái Nguyên
Thái Nguyên 1931 lượt xem
Núi Thần Đinh ở thôn Rào Đá, xã Trường Xuân, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Núi này còn gọi là Bất Nghĩa Sơn . Cách Thành Phố Đồng Hới khoảng 25km về phía Tây Nam và cách đường Hồ Chí Minh nhánh Đông 3km, ngọn núi này mang nhiều huyền tích về một cõi tâm linh, từng được người xưa coi là “chốn đa Phật” Trên núi còn nhiều di tích của một ngôi chùa khá tiếng tăm, liên quan đến câu chuyện về chiếc chuông đồng của vua Càn Long đem phụng cúng cho chùa vì tiền kiếp của mình... Trông xa núi mang hình một chiếc yên ngựa. Núi nằm ở độ cao 405m so với mực nước biển và mất chừng khoảng 40 phút leo qua 1260 bậc đá để lên đến Chùa Non (còn có tên Kim Phong). Chùa được xây dựng vào năm 1701. Ở đây tồn tại tấm bia đá lập vào thời Minh mạng thứ 11 (1830) ghi chép về chùa. Trước cửa chùa có giếng nước trong vắt, mát ngọt, không bao giờ cạn được gọi là giếng Tiên. Giếng nằm ngay giữa bốn bề là đá khô khốc, vậy mà không biết nước có từ đâu để giếng luôn đầy cho dù là vào những năm nắng nóng khô hạn nhất. Bây giờ nhiều người tứ xứ đến ngoạn cảnh Thần Đinh, họ không quên mang theo chai nước để lấy ít nước từ giếng Tiên về dùng, coi như nguồn nước tinh tuý từ chốn thần tiên với bao điều mong ước. Đứng trên đỉnh núi Thần Đinh nghe gió ù thổi, nghe truyền thuyết kể rằng: Thầy Ân Khả đã tu ở chùa này (chùa Kim Phong) từ năm 1694 (đời Lê Huy Tông, niên hiệu Chính Hòa, ứng với triều Khang Hy bên Trung Quốc), thầy là người đức độ tài trí, được tăng ni phật tử trong vùng yêu mến. Trước khi viên tịch, thầy cắt một ngón tay út bỏ vào tráp để lại cho chùa. Lạ thay ngón tay tươi mãi không hề bị thối rữa. Sau này thầy đầu thai vào một gia đình bên Trung Quốc và tái sinh trong hình hài vua Càn Long (1736-1796) (tương truyền vua Càn Long cũng bị thiếu mất một ngón tay út). Vua Càn Long linh cảm tiền kiếp có duyên nợ với chùa non trên núi Thần Đinh bên Đại Việt nên đã gửi một quả chuông sang tặng, chuông có khắc mấy chữ "Thần Đinh chung". Thuyền chở chuông vào đến cửa sông Nhật Lệ thì không may bị bão tố nhấn chìm. Sau này một ngư dân quê ở huyện Bố Trạch tên là Đặng Văn Tiên, trong một lần thả lưới đã bắt được quả chuông và đem cúng vào chùa Non trên núi Thần Đinh. Không biết huyền thoại về quả chuông đồng do vua Càn Long tặng có thật hay không. Một số người cho rằng hiện nay quả chuông chùa Non trên núi Thần Đinh đang được treo ở chùa Phổ Minh (ở Thành Phố Đồng Hới). Chiếc chuông của chùa Phổ Minh hiện nay là có thật, nhưng có liên quan với truyền thuyết trên hay không thì chưa ai khẳng định. Toàn đỉnh núi Thần Đinh là những dãy đá vôi thấp màu xám đen, lô nhô như những dãy núi nhỏ mọc lên từ một đỉnh núi lớn trông rất kỳ lạ. Phải chăng vì vậy mà người xưa từng gọi chùa Thần Đinh bằng tên khác nữa là chùa Non? Núi Thần Đinh có ba ngọn. Đá xếp chồng lên nhau gợi cho ta tưởng tượng đây là vị quan viên đội mũ cánh chuồn đang đọc văn. Kia là hình con đại bàng tung cánh, nọ là con hổ đang nhe nanh vuốt. Ngôi chùa Thần Đinh xưa nay chỉ còn lại những mảng tường đá rêu phong, đổ nát, chen đầy cây cối, giữa một vạt đất bằng phẳng đầy cây cổ thụ. Một vài căn miếu nhỏ nằm lẻ loi ở rìa cây phía Bắc là còn khá nguyên vẹn. Cảnh sắc Thần Đinh gợi nhớ biết bao đến tiền nhân. Núi Thần Đinh bây giờ đã trở thành điểm du lịch sinh thái, tâm linh khá hấp dẫn cho du khách. Những người thành tâm khi đến dâng hương, uống nước giếng thần sẽ gặp nhiều may mắn, tránh được ốm đau bệnh tật, cả năm làm ăn phát đạt. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Bình.
Quảng Trị 1743 lượt xem
Bến phà Quán Hàu, là nơi ghi dấu ấn những hoạt động của các công nhân bến phà khi nhiều lần bãi công, dừng chạy phà để cản bước chân quân xâm lược thực dân Pháp. Đây cũng chính là "toạ độ lửa" trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước khi hàng ngày đế quốc Mỹ đã trút hàng ngàn tấn bom hòng chặt đứt nguồn lực tiếp tế từ hậu phương vào tiền tuyến… Bến phà Quán Hàu là di tích lịch sử cấp Quốc gia ở trên QL1A đoạn đi qua thị trấn Quán Hàu huyện Quảng Ninh. Năm 1886, thực dân Pháp đã cho xây dựng bến phà để vượt sông Nhật Lệ. Hàng ngày, những chiếc phà gỗ thô sơ được dùng để vận chuyển người, lương thực, quân đội Pháp qua lại phục vụ mục đích xâm lược của thực dân. Để ngăn cản những bước chân xâm lược của thực dân Pháp, những người công nhân làm việc tại bến phà đã nhiều lần tổ chức đình công, bỏ chèo và cương quyết không tiếp tay cho mục đích xâm lược của thực dân. Những hành động kiên quyết của công nhân bến phà đã góp phần công sức cùng toàn dân đánh đuổi thực dân xâm lược…Trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước, hàng vạn tấn bom đạn của Mỹ đã ném vào bến phà này nhằm chặt đứt tuyến đường huyết mạch vận chuyển hàng hoá, nguồn lực từ miền Bắc chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam. Mặc dù trong mưa bom bão đạn dày đặc của đế quốc Mỹ, các chiến sĩ làm nhiệm vụ tại bến phà này đã anh dũng chiến đấu, bắn trả máy bay địch. Với ý chí quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, được sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng và chính quyền nhân dân huyện Quảng Ninh và sự đùm bọc, giúp đỡ của quân và dân địa phương các xã anh hùng như Lương Ninh, Vĩnh Ninh, Võ Ninh... các cán bộ, chiến sĩ bến phà Quán Hàu đã phát huy truyền thống cách mạng của quê hương "Hai giỏi", xác định tư tưởng chấp nhận gian khổ hy sinh, quyết chiến quyết thắng, dù tình huống nào cũng bảo đảm mạch máu giao thông thông suốt "phà chờ xe chứ quyết không để xe chờ phà". Cán bộ chiến sĩ phà Quán Hàu đã lập nhiều chiến công xuất sắc, hoàn thành tốt nhiệm vụ. Theo chiều dài lịch sử, mỗi ngày bến phà Quán Hàu có nhiều lượt đưa bộ đội, đưa hàng tiếp tế, đưa vũ khí đạn dược vượt qua mưa bom bão đạn để chi viện cho miền nam ruột thịt. Nơi đây cũng đã có biết bao cái tên đi vào huyền thoại trong kháng chiến của quê hương như tấm gương tận tụy, hy sinh của liệt sĩ…Cùng với sự phát triển đi lên của đất nước, bến phà Quán Hàu đã dừng hoạt động và thay vào đó là chiếc cầu Quán Hàu hiện đại được xây dựng nối hai bờ Nam - Bắc phục vụ việc phát triển kinh tế xã hội của địa phương nói riêng và cả nước nói chung. Bến phà Quán Hàu cũng đã được xếp hạng là di tích lịch sử cấp Quốc gia. Hiện nay, điểm di tích này đã được đầu tư xây dựng là nơi người dân huyện Quảng Ninh thường xuyên đến dâng hương tưởng nhớ các anh hùng liệt sĩ… Nguồn Trang thông tin điện tử huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình.
Quảng Trị 1828 lượt xem
Nơi đây ghi dấu sự hy sinh anh dũng của 16 thanh niên xung phong thuộc đơn vị C130 tỉnh Thái Bình trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước cách đây 50 năm: 9/1972- 9/2022. Đây là những câu thơ viết vội của người sinh viên còn rất trẻ tên là Vũ Đình Văn khi đi trên một trong những chuyến phà qua sông Long Đại trong đội hình của đơn vị hành quân vào mặt trận Quảng Trị năm 1972. Chứng kiến cảnh chiến tranh ác liệt và sự hi sinh vô cùng lớn lao của bộ đội, thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến của các đơn vị phục vụ bến phà, anh vô cùng xúc động, cảm phục và đã viết nên bài thơ Đêm hành quân qua phà Long Đại. Bài thơ viết vội ấy đã có những câu thơ thực không thể thực hơn. Hơn nửa thế kỷ trước, bến Phà Long Đại là địa bàn nằm trong vùng “cán soong” của Quân khu IV, trở thành điểm “yết hầu”, “huyết mạch “, là cầu nối giao thông đặc biệt quan trọng trên tuyến đường 15 giữa hậu phương lớn miền Bắc với chiến trường miền Nam và nước bạn Lào, Campuchia. Bến phà còn là một trọng điểm vượt sông trọng yếu, ác liệt nhất của tuyến đường Hồ Chí Minh lịch sử. Chính tại nơi này, đế quốc Mỹ tập trung dội xuống hàng trăm tấn bom đạn dày đặc hòng hủy diệt và “bóp nghẹt” nguồn lực từ hậu phương chi viện vào tiền tuyến. Bến phà Long Đại cùng với các địa danh khác như: Mụ Dạ, Xuân Sơn, Cổng Trời, phà Gianh, phà Quán Hàu trở thành những “túi bom”, “chảo lửa” trong cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ, nhất là từ những năm 1967-1971. Để đảm bảo giữ vững mạch máu giao thông thông suốt, tránh những khi bị địch đánh phá không thể vận chuyển hàng hóa và vũ khí được, từ tháng 1/1971 ở khu vực Long Đại được phát triển thành 2 bến phà: bến phà I ở sát cầu Long Đại ngày nay và bến phà II ở hạ lưu sông Long Đại cách bến I khoảng 500m. Tháng 7 – 1972, đế quốc Mỹ đánh phá ác liệt tại bến phà Long Đại và đường 15A. Đơn vị thanh niên xung phong huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An trong khi đang làm nhiệm vụ đã bị giặc Mỹ ném bom rải thảm vào đội hình làm cho đơn vị bị thương vong nặng nề phải chuyển về tuyến sau củng cố lực lượng. Để đảm bảo mạch máu giao thông thông suốt, đơn vị C130 được điều động ra đóng quân và thường trực ứng cứu tại đây cùng bộ đội công binh kịp thời thông xe thông tuyến. Sống và chiến đấu tại nơi được mệnh danh là “túi bom”, là “chảo lửa” nhưng các chiến sĩ Thanh Niên Xung Phong của Đại đội 130 vẫn không hề nao núng, luôn giữ vững ý chí và quyết tâm: “Đánh địch mà đi, mở đường mà tiến”, “Địch đánh phá ta sửa ta đi, địch lại phá ta lại sửa ta đi, “Sống bám cầu bám đường, chết kiên cường dũng cảm”. Địch đánh xong, ta cứu người, cứu hàng hóa, khí tài, người này ngã, người khác thay thế, tiếp tục làm nhiệm vụ thông bến, bảo đảm mạch máu giao thông. 15 giờ ngày 19/9/1972, trong lúc các chiến sĩ của đơn vị C130 tỉnh Thái Bình đang làm nhiệm vụ tại bến phà 2 Long Đại, thì máy bay Mỹ đã liên tục ném bom tại bến phà Long Đại và đánh vào đội hình của C130. Trận oanh kích của địch chỉ kéo dài trong khoảng một giờ đồng hồ đã gây những thiệt hại hết sức nặng nề và tổn thất lớn cho đơn vị: 15 chiến sĩ đã hy sinh (7 nữ, 8 nam), trong đó có 3 chiến sĩ hy sinh khi đang vận chuyển hàng bằng thuyền từ bờ Bắc sang bờ Nam sông Long Đại; 12 chiến sĩ hy sinh tại bến phà và trong hầm trú ẩn, một số đồng chí khác bị thương. Sau khi máy bay giặc Mỹ ngừng ném bom, khu vực đơn vị đóng quân chỉ còn lại bãi đất ngồn ngang hố bom. Các chiến sĩ đã khẩn trương đến khu vực hầm để đào bới thật nhanh với hy vọng đồng đội của mình vẫn an toàn, nhưng sau mỗi lớp đất trái tim họ lại quặn thắt khi nhìn thấy đồng đội của mình nằm đó, có những chiến sĩ thi thể không còn nguyên vẹn. Toàn đơn vị đã nén đau thương để mai táng các anh, các chị và tiếp tục nhiệm vụ của mình. Nỗi đau của đơn vị chưa nguôi, ngày 23/9/1972, đế quốc Mỹ lại tiếp tục ném bom xuống bến phà Long Đại, chiến sĩ Trần Mạnh Hà trong khi đang làm nhiệm vụ đã hy sinh. Đơn vị C130 một lần nữa lại phải tiễn đưa người đồng đội của mình trong niềm tiếc thương vô hạn, trong nỗi đau lên đến tột cùng. Sau hai đợt rải thảm bom của đế quốc Mỹ, đơn vị C130 đã hy sinh 16 đồng chí gồm 7 nữ, 9 nam. Các anh, các chị đã dũng cảm hy sinh khi đang làm nhiệm vụ tại bến phà 2 Long Đại ở thời điểm ác liệt nhất và mãi mãi nằm lại với đất mẹ Quảng Ninh (Quảng Bình). 50 NĂM ĐÃ TRÔI QUA (9/1972 – 9/2022), máu xương của các anh chị đã hòa vào dòng chảy của dòng sông Long Đại, an giấc ngàn thu. Để tri ân, tưởng nhớ các anh hùng liệt sỹ đã hy sinh vì sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, Tỉnh đoàn Quảng Bình đã phối hợp với Tập đoàn Công nghiệp cao su Việt Nam đầu tư xây dựng Nhà bia tưởng niệm 16 thanh niên xung phong hy sinh tại bến phà II Long Đại. Công trình khánh thành vào ngày 21-12-2012. Ngày 7-10-2016, Uỷ Ban Nhân Dân tỉnh Quảng Bình đã ban hành Quyết định số 3101/Quyết Định -Uỷ Ban Nhân Dân xếp hạng di tích lịch sử đối với nơi hy sinh của 16 Thanh Niên Xung Phong tại bến phà II Long Đại tháng 9-1972. Cùng với đền tưởng niệm các anh hùng liệt sỹ Trường Sơn, di tích là “địa chỉ đỏ” trong hành trình du lịch thăm lại chiến trường xưa, tri ân đồng đội. Và trong mỗi người dân, cán bộ chiến sỹ trong và ngoài huyện nhà khi đến đây dâng hương tưởng niệm đều cảm thấy tự hào về những chiến công của các thế hệ cha anh đã chiến đấu anh dũng, hy sinh vì nền độc lập, tự do dân tộc. Nguồn Trang thông tin điện tử huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình.
Quảng Trị 1771 lượt xem
Mộ và nhà thờ Hoàng Kế Viêm thuộc thôn Văn La, xã Lương Ninh (huyện Quảng Ninh) được xếp hạng di tích lịch sử cấp tỉnh theo Quyết định số 2167/Quyết Định - Uỷ Ban Nhân Dân ngày 26-8-2011. Di tích là nơi để tưởng niệm Hoàng Kế Viêm-một nhân vật lịch sử có vai trò quan trọng trong thời kỳ chống Pháp nửa sau thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, đồng thời cũng là nơi để giáo dục cho thế hệ trẻ truyền thống yêu nước, lòng dũng cảm, kiên cường đấu tranh bảo vệ đất nước của tổ tiên, ông cha, khơi dậy lòng tự hào về truyền thống quê hương. Hoàng Kế Viêm (1820-1909) còn gọi là Hoàng Tá Viêm, tự Nhật Trường, hiệu Tùng An, quê làng Văn La, tổng Văn Đại, phủ Quảng Ninh (nay thuộc xã Lương Ninh, huyện Quảng Ninh). Năm 1843, Hoàng Kế Viêm thi đỗ cử nhân và được bổ làm tư vụ, hàm Quang Lộc Tự Khanh. Năm 1846, đời vua Thiệu Trị, ông làm lang trung Bộ Lại. Năm 1852, ông giữ chức án sát tỉnh Ninh Bình; năm 1854, ông được thăng Bố Chính tỉnh Thanh Hóa; năm 1859, là Bố Chính kiêm Tuần vũ tỉnh Hưng Yên; năm 1863, ông giữ chức Tổng đốc An-Tĩnh (Nghệ An-Hà Tĩnh). Trong thời gian này, ông đã có công trong việc trị an, mở mang kinh tế, phát triển dân sinh. Năm 1870, ở Bắc Kỳ xảy ra nhiều biến loạn, giặc Cờ Đen, Cờ Trắng, Cờ Vàng hoành hành, cướp phá, quấy nhiễu nhân dân, Pháp âm mưu chiếm vùng sông Hồng để được tự do buôn bán với vùng Vân Nam và Hoa Nam (Trung Quốc), khiến cho tình hình xã hội hết sức rối loạn. Trước tình hình đó, triều đình đã cử Hoàng Kế Viêm làm Thống đốc quân vụ đại thần bốn tỉnh Lạng-Bình-Ninh-Thái, trực tiếp chỉ huy quân thứ Tam Tuyên cùng với Tán tương Tôn Thất Thuyết lo việc dẹp loạn, ổn định Bắc Kỳ. Với kế sách “vừa đánh vừa dụ hàng”, chỉ sau một thời gian ngắn, Hoàng Kế Viêm đã thu phục được thủ lĩnh quân Cờ Đen là tướng Lưu Vĩnh Phúc, cùng hợp sức đánh tan giặc nổi loạn Cờ Trắng, Cờ Vàng. Nhờ vào công lao này, ông được phong hàm Đại học sĩ lãnh Tổng đốc Tam Tuyên, sung Tiết chế quân vụ Bắc Kỳ. Năm 1873, quân Pháp dưới sự chỉ huy của đại úy F.Garnier đánh chiếm thành Hà Nội và nhiều tỉnh khác ở Đồng bằng sông Hồng, Hoàng Kế Viêm được triều đình cử làm Tiết chế quân vụ Bắc Kỳ (chức vụ quân sự cao nhất ở Bắc Kỳ) để chỉ huy, đôn đốc việc phòng thủ chống Pháp. Ở chức vụ này, ông đã chỉ huy quân dân Hà Nội phối hợp với quân Cờ Đen đánh thắng cuộc tấn công của Pháp vào thành Hà Nội, giết chết tên chỉ huy Pháp F.Garnier. Mười năm sau, ngày 19-5-1883, Hoàng Kế Viêm lại chỉ huy quân dân Hà Nội đập tan cuộc tấn công của quân Pháp ở Cầu Giấy, bắn chết tên trung tá chỉ huy H.Riviere. Năm 1887, ông được thăng chức Thái tử Thiếu bảo, Cơ mật Viện Đại thần. Ngoài tài năng về quân sự, Hoàng Kế Viêm còn là người hay chữ: làm thơ, viết văn, viết sử. Những tác phẩm của ông bằng Hán Nôm với bút danh Tùng An khá đa dạng và phong phú như: Trù Thiết sơn phòng sư Nhị tấn (tổng kết việc củng cố an ninh vùng biên cương kết hợp với khai hoang và tăng gia sản xuất), Thần cơ yếu ngữ (sách giáo khoa cho bộ binh nói về cách sử dụng các loại vũ khí mới, cách bắn súng, bảo quản vũ khí có tranh vẽ minh họa và các bài tập), Hoàng Triều Văn Vũ thế tắc lệ (Những phép tắc cho các trường thi võ), Phê thị trần hoàn (ghi chép về đời vua Tự Đức), Tiên công sự tích biệt lục (ghi lại thân thế và sự nghiệp của cha ông)... Sau khi mất, ông được vua Duy Tân truy tặng hai chữ “Văn Nghị " có nghĩa là bạn của văn chương. Người dân địa phương truyền tụng về Hoàng Kế Viêm rằng, khi về hưu, vua ban cho ông 4 mẫu ruộng nhất đẳng điền tùy ý chọn nhưng ông chỉ chọn 4 mẫu đất cỏ hoang mà người làng Thế Lại dùng để nuôi trâu bò rồi ông vận động con cháu trong họ cùng dân làng đi khẩn hoang một vùng đất khác cạnh đó thành đồng ruộng hai mùa tươi tốt. Nhân dân gọi đó là đồng cồn Hoàng ngàn mùa không mất. Ruộng khai phá xong, ông chia đều cho mọi người cày cấy. Biết ơn ông, dân làng đã lập một đền thờ Thổ công tại cánh đồng để hàng năm cúng tế. Ngày khai trương đền thờ, người dân thắp hương, đèn cúng khấn nhưng hương không cháy, đèn không đỏ, họ lấy làm kỳ lạ, hoảng sợ họ phải cho người về mời rước ông lên cúng. Từ đó về sau, đến kỳ cúng bái không còn xảy ra chuyện như vậy nữa nên dân làng xem ông còn to hơn cả Thổ thần. Khuôn viên lăng mộ Hoàng Kế Viêm có diện tích hơn 230m2, bao gồm: cổng, sân, hàng rào, bia mộ, hồ bán nguyệt và mộ. Phần mộ được xây bằng xi măng theo h́ình chữ nhật, phía trên mộ đắp nổi h́ình 7 lá sen chồng lên nhau tượng trưng cho sự thanh bạch, tấm lòng trong sáng như cuộc đời của ông. Nhà thờ được xây dựng vào năm 1937 bằng gạch và lợp ngói âm dương. Kiến trúc của nhà thờ gồm ba gian, được bài trí theo hướng đông-nam, rộng khoảng 300m2. Năm 1967, nhà thờ đã bị đánh sập trong một đợt không kích của giặc Mỹ. Năm 1998, con cháu hậu duệ đã đóng góp công, của xây dựng lại nhà thờ như hiện nay. Hàng năm, cứ đến ngày giỗ ông, con cháu trong dòng họ tập trung tại nhà thờ làm lễ dâng hương, cúng bái để tưởng nhớ công đức của ông. Với những ý nghĩa và giá trị lịch sử đó ngày 24/02/2023, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ban hành Quyết định số 396/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao Du Lịch về việc công nhận Di tích lịch sử Mộ và Nhà thờ Hoàng Kế Viêm ở xã Lương Ninh (huyện Quảng Ninh) là di tích Quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Bình.
Quảng Trị 1763 lượt xem
Đền Cô Ba tọa lạc ở vị trí sơn thủy hữu tình, lưng tựa vào núi, mặt hướng ra dòng suối Nhù trong xanh, thuộc thôn Làng Đền, xã Phú Nhuận. Ngày nay, ở xã Phú Nhuận vẫn tương truyền sự tích về cô Ba. Vùng đất Phú Nhuận xưa kia có nàng công chúa tên là Ba xinh đẹp tuyệt trần, lại hay giúp đỡ dân lành. Nàng rất thạo việc sông nước nên thường dạy nhân dân trong vùng cách đi lại trên sông nước và cách đánh bắt thủy sản ở sông, suối, vì thế mà nàng được nhân dân trong vùng hết sức yêu mến và kính trọng. Sau khi nàng công chúa mất, người dân lập đền thờ phụng. Đền Cô Ba là điểm sinh hoạt văn hóa tâm linh quan trọng, gắn với đời sống tín ngưỡng của nhân dân các dân tộc xã Phú Nhuận, đã tồn tại hàng trăm năm. Hàng năm, người dân xã Phú Nhuận và các địa phương lân cận thường đến dâng hương, chiêm bái, cầu bình an. Với những giá trị lịch sử, văn hóa, đền Cô Ba đã được UBND tỉnh ra quyết định công nhận là di tích lịch sử, văn hóa cấp tỉnh để góp phần bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa gắn với phát triển du lịch; giáo dục truyền thống, đáp ứng nhu cầu tâm linh của nhân dân. Trong ngày đón nhận Bằng xếp hạng đã diễn ra nhiều hoạt động văn hóa tâm linh gắn với lễ hội thường niên vào ngày 7/7 âm lịch được tổ chức tại đền. Nhân dịp này, UBND huyện Bảo Thắng đã công bố chi tiết quy hoạch diện tích đền và kế hoạch phát triển khu di tích lịch sử đền Cô Ba trong thời gian tới. Đền Cô Ba là nơi sinh hoạt văn hóa tâm linh quan trọng, gắn với đời sống tín ngưỡng của nhân dân các dân tộc xã Phú Nhuận. Nguồn: Báo Lào Cai
Lào Cai 1808 lượt xem
Tuyến đường đá cổ Pavie có tuổi đời hơn 100 năm ở thôn Nhìu Cồ San, xã Sàng Ma Sáo, huyện Bát Xát, đã được tỉnh Lào Cai xếp hạng là di tích danh lam thắng cảnh cấp tỉnh. Ngày 11/12, tin từ Sở Văn hóa - Thể thao Lào Cai cho biết, UBND tỉnh này vừa ban hành Quyết định số 3130/QĐ-UBND, xếp hạng đường đá cổ Pavie ở thôn Nhìu Cồ San, xã Sàng Ma Sáo, huyện Bát Xát là di tích danh lam thắng cảnh cấp tỉnh. Theo quyết định này, khu vực bảo vệ đường đá cổ Pavie được xác định theo biên bản khoanh vùng các khu vực bảo vệ di tích trong hồ sơ khoa học di tích. UBND tỉnh Lào Cai giao Sở Văn hóa - Thể thao, UBND huyện Bát Xát xây dựng phương án bảo vệ, quản lý, tu bổ và sử dụng di tích danh lam thắng cảnh đường đá cổ Pavie theo đúng quy định. Theo nhiều tài liệu và ghi chép, năm 1920, tuyến đường đá Pavie bắt đầu được xây dựng. Thống đốc Auguste Jean - Marie Pavie là người khảo sát và chỉ đạo xây dựng tuyến đường này để vận chuyển lương thực, nông sản giữa các tỉnh Tây Bắc của Việt Nam. Bởi vậy, tuyến đường được gọi tên là Pavie. Sau 7 năm, con đường được hoàn thành với tổng chiều dài khoảng 100km, vượt đèo Gió thuộc dãy Nhìu Cồ San, kéo dài từ huyện Bát Xát (tỉnh Lào Cai) tới thành phố Lai Châu (tỉnh Lai Châu) ngày nay. Tuy nhiên, theo người dân bản địa, từ trước khi người Pháp làm đường, cha ông họ đã chinh phục đỉnh Nhìu Cồ San bằng lối đi này và khai phá đến đất Lai Châu, người Pháp chỉ tiếp tục mượn tuyến đường của người Mông để vận chuyển. Tuyến đường đá cổ Pavie từng phục vụ cho việc vận chuyển hàng hóa, nông sản, vũ khí… từ Lào Cai sang Lai Châu thời kỳ Pháp thuộc. Theo thời gian, mặc dù bị cỏ cây mọc che bớt lối đi nhưng tuyến đường đá vẫn còn rộng chừng 3m và kéo dài hơn 20km xuyên qua những địa hình phức tạp. Sau hơn 100 năm gần như bị lãng quên, con đường đá cổ gần đây đã được khám phá trở lại và trở thành một trong hành trình khám phá thiên nhiên kỳ vĩ không thể bỏ qua của du khách khi đến với Lào Cai. NGUỒN: CƠ QUAN NGÔN LUẬN CỦA HỘI NHÀ BÁO VIỆT NAM
Lào Cai 1630 lượt xem
Đền Ngòi Bo nay thuộc xã Thống Nhất, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai. Hướng trông ra ngã ba sông – nơi giao thủy của suối Ngòi Bo và sông Hồng, ngôi đền là nơi thờ phụng Tản Viên Sơn Thánh – một trong Tứ bất tử của tín ngưỡng dân gian Việt, “là vị thần linh thiêng bậc nhất của trời Nam”. Theo lời kể của các bậc lão niên, những người quê gốc miền xuôi trong thôn khi đến đây và gắn bó với vùng đất này đã dựng miếu, đền thờ phụng Đức Thánh Tản Viên – vị Thánh được tôn thờ ở khắp vùng trung du và châu thổ Bắc Bộ với niềm tin kiền thành vào sự phù hộ, che chở của Ngài. Sự tin tưởng ấy chính là bệ đỡ, là điểm tựa tinh thần của những người con xa quê trên bước đường tạo dựng cuộc sống ở miền đất mới, đồng thời là sự nhắc nhớ, sự duy trì ký ức về quê hương bản quán, về nguồn cội cha ông. Lễ hội đền Ngòi Bo diễn ra vào ngày 11 tháng Giêng hằng năm. Đền Ngòi Bo được xếp hạng Di tích lịch sử – văn hóa cấp Tỉnh năm 2016./. NGUỒN: BAN QUẢN LÝ DI TÍCH THÀNH PHỐ LÀO CAI
Lào Cai 1501 lượt xem
Đền Quan tọa lạc tại phường Lào Cai, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai, là nơi ghi dấu cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông – Nguyên thế kỷ XIII. Tương truyền, vị trí dựng đền chính là nơi đặt trại giam quân của quân đội nhà Trần trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại ấy. Theo dòng thời gian, với sự đan bện giữa ký ức lịch sử, những suy tưởng mang tính huyền thoại và những khát vọng hiện thế, ngôi đền trở thành nơi thờ vọng Quan Đệ nhị Giám sát – một hình tượng huyền thoại, vị thánh linh thiêng trong thần điện tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ của người Việt. Theo các bản văn chầu: “Vốn xưa ông ở thiên đình Con vua Thượng Đế giáng mình dương gian Dù ai có lệnh kêu van Khấn ông Đệ nhị thọ khang yên lành Thiên tư chính trực thông minh Giáng đền giáng phủ anh linh muôn phần Chữ rằng Thánh giáng lưu ân Đa tài đa lộc thiên xuân thọ trường”. Tương truyền, ngày 11 tháng 11 âm lịch là ngày chính Tiệc của Ngài. Vào dịp này hằng năm, các thanh đồng, đạo quan, những người mến mộ tín ngưỡng Tam phủ, Tứ phủ cùng nhân dân và du khách muôn nơi lại tìm về những nơi đền, phủ, điện thờ để kính dâng lên Ngài nén tâm hương, cầu mong sự che chở, phù trợ của Ngài. Đền Quan được xếp hạng Di tích lịch sử – văn hóa cấp Tỉnh năm 2015./. NGUỒN: BAN QUẢN LÝ DI TÍCH THÀNH PHỐ LÀO CAI
Lào Cai 1852 lượt xem
Tọa lạc tại phường Bình Minh, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai, Đền Đôi Cô là nơi thờ phụng Đôi Cô Cam Đường – những vị nữ thần linh thiêng trong thần điện tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ. Tương truyền, các Cô vốn “Quê nhà ở đất xưa Đình Bảng/ Dòng nối dòng buôn bán vải tơ”. Vùng Cam Đường (nay thuộc thành phố Lào Cai) chính là nơi các Cô sau khi hóa đã hiển linh “Độ người trên bộ dưới sông/ Thuận buồm xuôi gió thong dong đi về”. Tưởng nhớ công ơn của tiền nhân, người dân trong vùng đã dựng miếu, đền, đời nối đời hương khói phụng thờ. Hằng năm, cứ vào ngày 13 tháng 9 âm lịch, chính quyền và nhân dân địa phương lại thành kính tổ chức khánh tiệc để bày tỏ lòng biết ơn đến các Cô, đồng thời để tôn vinh những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam, khẳng định tính dân tộc và nhân bản của tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ của người Việt, củng cố, làm bền chắc hơn nữa sự cố kết cộng đồng trên nền tảng sự chia sẻ niềm tin, ý thức hướng nguồn và lẽ đồng bào. Đền Đôi Cô Cam Đường được xếp hạng Di tích lịch sử – văn hóa cấp Tỉnh năm 2005./. NGUỒN: BAN QUẢN LÝ DI TÍCH THÀNH PHỐ LÀO CAI
Lào Cai 1705 lượt xem
Tương truyền cách đây hơn 700 năm, khi quân phương Bắc xâm chiếm nước ta, nơi đầu tiên phải hứng chịu sự tàn phá, quấy nhiễu của quân xâm lược là phố Bảo Thắng, châu Thủy Vĩ, tỉnh Hưng Hóa (nay là phường Lào Cai, thành phố Lào Cai). Khi đó, Quốc công Tiết chế Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn đã nhận lệnh triều đình cùng binh sĩ theo đường thủy (dọc sông Hồng) lên chiến đấu, dẹp giặc phương Bắc, giữ yên bờ cõi. Để tưởng nhớ và đền đáp công ơn dẹp tan quân xâm lược, năm 1940, nhân dân xã Vạn Hòa đã lập lên Đình làng tại thôn Cánh Chín, thờ vọng Đức Thánh Trần và làm nơi hội họp của nhân dân. Đến năm 1947, cũng tại Đình làng Cánh Chín, bộ đội địa phương chọn làm sở Chỉ huy. Năm 1954, nơi đây lại tiếp tục được chọn làm địa điểm tổ chức hội nghị quân dân chính Đảng đầu tiên của thị xã Lào Cai sau khi Lào Cai được giải phóng. Năm 1980, nhân dân trong vùng đã xây dựng riêng một gian miếu nhỏ để thờ vọng Đức Thánh Trần. Đến năm 2005, nơi đây đã được UBND thành phố Lào Cai quyết định tôn tạo nâng cấp đền Vạn Hòa. Bên cạnh ngôi đền là Nhà bia tưởng niệm ghi công ơn 49 liệt sĩ quê hương Vạn Hòa đã hi sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Hằng năm vào ngày rằm tháng Giêng và ngày 20/8 Âm lịch (ngày giỗ Đức Thánh Trần) nhân dân trong xã lại tổ chức lễ trọng tại đền Vạn Hòa để tưởng nhớ công lao người xưa. Đền Vạn Hòa ngày nay là một trong những di tích lịch sử văn hóa nằm trong quần thể di tích: Đền Thượng, đền Mẫu, đền Cấm, đền Đôi Cô, Khu căn cứ cách mạng Cam Đường, chùa Tân Bảo, chùa Cam Lộ. Nơi đây cũng là điểm đến hấp dẫn du khách trong chuỗi du lịch tâm linh Phú Thọ - Yên Bái – Lào Cai. Mỗi năm đón hàng trăm lượt khách tham quan, chiêm bái, góp phần không nhỏ vào sự phát triển của địa phương. Với những giá trị lịch sử, văn hóa to lớn đó, việc xếp hạng đền Vạn Hòa là di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh góp phần bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa gắn với phát triển du lịch, phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị của địa phương, đảm bảo an ninh, chính trị; giáo dục truyền thống, đáp ứng nhu cầu tâm linh của nhân dân. Nguồn “Báo Lào Cai điện tử”
Lào Cai 1705 lượt xem
Di tích lịch sử cách mạng đình Kim Bảng và hang lèn Cây Quýt thuộc thôn Kim Bảng, xã Minh Hóa (huyện Minh Hóa). Nơi đây gắn liền với những sự kiện lịch sử sôi động hào hùng của tỉnh Quảng Bình và của dân tộc trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp. Đặc biệt, nơi đây diễn ra sự kiện Đại hội đại biểu tỉnh Đảng bộ Quảng Bình lần thứ II vào ngày 19/5/1949. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Minh Hóa có vị trí chiến lược quan trọng, là căn cứ địa cách mạng của tỉnh Quảng Bình. Đình Kim Bảng là ngôi đình không rộng lắm nhưng nằm ở vị trí thuận lợi giữa một vùng đất khá rộng và bằng phẳng. Từ Kim Bảng, theo các con đường bí mật xuyên rừng có thể tỏa về các ngả, vì vậy, các đại biểu có thể đến dự đại hội mà vẫn được bảo đảm bí mật, an toàn. Cạnh đình Kim Bảng còn có các hang lèn như hang Quýt, hang Diêm rộng và sâu, có thể tổ chức cho vài trăm người hội họp phòng khi bất trắc. Với điều kiện đó, Huyện ủy Tuyên Hóa đã bố trí lấy lèn đá phía ngoài hang Diêm làm nơi đặt vọng gác bảo vệ vòng ngoài, đồng thời bố trí lực lượng dân quân du kích canh gác suốt ngày đêm trong thời gian diễn ra đại hội. Còn hang Quýt được chọn làm nơi trú ẩn hoặc có thể làm nơi tổ chức đại hội khi có sự cố xảy ra. Nhân dân ở đây giàu truyền thống cách mạng, một lòng đi theo Đảng, Bác Hồ…Chính vì vậy, chỉ trong thời gian ngắn, 4 ngôi nhà dã chiến bằng gỗ, tranh, tre, nứa,…đã được dựng lên quanh đình Kim Bảng để phục vụ cho đại hội. Đồng bào Minh Hóa không chỉ góp công mà còn dốc hết của từ trâu bò, lợn, gà đến ngô, sắn, rau quả…ủng hộ cho đại hội. Hàng chục cán bộ, du kích và nhân dân được cử đến phục vụ đại hội trong suốt 12 ngày (đại hội diễn ra trong 9 ngày và 3 ngày cho công tác chuẩn bị). Quanh khu vực đình Kim Bảng, 8 vọng gác được đặt trên điểm cao và cắt cử người canh giữ nghiêm ngặt. Nhờ đó, đại hội đã được bảo đảm bí mật, an toàn tuyệt đối, thậm chí đến 7 ngày sau khi đại hội bế mạc thì thực dân Pháp mới biết được, chúng điên cuồng cho máy bay đến thả bom, đốt cháy đình.Đại hội đại biểu tỉnh Đảng bộ Quảng Bình lần thứ II là một sự kiện vô cùng quan trọng trong lịch sử Quảng Bình. Nghị quyết do Đại hội thông qua đã đáp ứng kịp thời những đòi hỏi khách quan của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Quảng Bình. Đưa phong trào kháng chiến chuyển sang bước ngoặt lịch sử mới có ý nghĩa cực kỳ quan trọng không những với nhân dân trong tỉnh mà còn có ảnh hưởng tích cực đối với phong trào kháng chiến của cả nước. Di tích lịch sử cách mạng đình làng Kim Bảng và hang lèn Cây Quýt được xếp hạng cấp tỉnh theo Quyết định số 1088/Quyết Định -Uỷ Ban Thể Thao Du Lịch ngày 9-7-1999 của UBND tỉnh Quảng Bình. Đình Kim Bảng, hang lèn Cây Quýt với “Quảng Bình quật khởi”, ngày 15-7, đã trở thành ngày truyền thống lịch sử của Quảng Bình, trở thành phong trào thi đua vượt qua thử thách trong suốt chặng đường kháng chiến của nhân dân ta. Đình Kim Bảng được tiến hành xây dựng vào 1924 và hoàn thành vào năm 1925. Đình được làm bằng gỗ, mái lợp tranh, nền đất, đình gồm có đình Tiền và đình Hậu. Trong thời kỳ chống Pháp đình bị máy bay Pháp bắn cháy, sau đó đình được sửa lại làm trường học và nhà kho quốc phòng. Năm 1966, đình lại bị máy bay Mỹ ném bom Napan cháy toàn bộ. Hiện nay, đình được tỉnh cấp kinh phí khôi phục lại đình trên nền đất cũ của đình làng. Năm 2004, đình được phục hồi và tu bổ, tôn tạo, trở thành một điểm đến ý nghĩa cho du khách và nơi sinh hoạt văn hóa, giáo dục truyền thống yêu nước và cách mạng cho các thế hệ. Hang lèn Cây Quýt nằm cách đình Kim Bảng khoảng 500m; có chiều cao trung bình khoảng 3m; rộng 15,5m; chiều sâu của hang 22m; cửa hang rộng 10m. Hang lèn Cây Quýt được sử dụng trong những ngày diễn ra Đại hội II tháng 5 năm 1949. Cũng tại hang lèn Cây Quýt tháng 9 năm 1964 đã diễn ra Hội nghị quân chính của sư đoàn 325A an dưỡng để ổn định tổ chức chuẩn bị vào Nam chiến đấu. Năm 1968, huyện tổ chức mừng công bắn rơi chiếc máy bay thứ 3.000 của Mỹ trên miền Bắc; Hang lèn Cây Quýt cũng là nơi cất giấu 400 tấn lương thực trong những năm chiến tranh chống Mỹ. Đặc biệt, hang lèn Cây Quýt vừa là di tích khảo cổ được M.cô-la-ni một nhà khảo cổ học người Pháp thuộc trường Viễn đông Bác cổ Hà Nội trước đây khai quật và nghiên cứu. Nguồn Cổng thông tin điện tử xã Minh Hóa , huyện Minh Hóa , tỉnh Quảng Bình.
Quảng Trị 1714 lượt xem
Đình Lý Hòa thuộc xã Hải Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình. Đình nằm trên một vùng đất cao giữa làng, với địa thế đẹp, thoáng mát. Cách quốc lộ 1A theo đường bờ sông về phía Đông Bắc chừng 1 km, đình hướng về phía Nam, trước mặt là con sông Lý hiền hòa chảy xuôi ra biển. Đình Lý Hòa được xây dựng năm 1737, do dân làng cùng nhau góp công, góp của. Mới đầu đình chỉ có 4 trụ bằng lim, hàng năm khi tế lễ nhân dân mới dựng lên lợp tranh, khi tế lễ xong lại hạ xuống xếp lại. Vị thần được thờ trong đình làng “Cương khẩu Đại vương”, một vị thần giữ cửa biển Cương Gián được thờ ở đình làng Cương Gián (Nghi Xuân - Nghệ An) - Gia phả các dòng họ ở Lý Hòa đều ghi các vị thần tổ ở làng Cương Gián - xứ Nghệ vào. Năm 1804 - 1808 khi Hội đồng hương Lý vững mạnh, thì nhân dân quyên góp để làm, mái đình được lợp bằng ngói vảy, phần hậu chẩn chỉ để giữ thờ. Sau đó dựng thêm đình trung. Năm 1824 xây cất thêm phần ngoài, hai gian cũ để thờ đồ tử khí. Theo phần phả để lại thì trong cùng “tứ trụ” gồm 4 vị thần: Thiên Yana, Hạnh Tiểu Nương và hai nàng công chúa con Thiên Yana (dân gọi là tứ vị đại càn). Đình giữa thờ thành hoàng và thờ vọng các vị thần có miếu dinh trong làng. Ngoài cùng thờ thập nhị gia tiên (tiên tổ 12 họ) có sắc bằng của vua. Nói đến làng Lý Hoà, không ai lại không biết đến dòng họ Nguyễn Duy, một dòng họ trong nhiều đời kế tục đỗ đạt làm quan to, được kính trọng. Trong thời kỳ nhà Nguyễn, kể từ năm Minh Mạng thứ 10 mở đại khoa đầu tiên cho đến khoa thi cuối cùng 1919, dòng họ Nguyễn Duy ở làng Lý Hòa đã đóng góp 5 vị đại khoa (tiến sĩ). Đó là trường hợp có một không hai trong lịch sử khoa cử Việt Nam thời phong kiến. Đình Lý Hòa ngoài việc thờ tự các vị tổ khai cơ làng, khai cơ nghề nghiệp cho con cháu, thờ tự các danh khoa danh giá của làng, còn gắn liền với các sự kiện lịch sử tiêu biểu của địa phương, của tỉnh trong thời kỳ tiền khởi nghĩa giành chính quyền ở huyện lỵ, trong thời kỳ chống thực dân Pháp xâm lược nước ta đặc biệt là trong cuộc chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ. Những ngày đầu chuẩn bị cho việc vận động quần chúng, tập hợp lực lượng trong mặt trận Việt Minh để cùng địa phương tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền. Đình Lý Hòa là nơi các chiến sĩ cách mạng đã cất dấu tài liệu và đi lại bắt liên lạc, nhóm họp để trao đổi các chủ trương lớn của cấp trên. Ngày 23/8/1945, cả làng đã hội tụ tại đình, đổ về huyện đường. Cùng các địa phương trong huyện làm nên cuộc khởi nghĩa cách mạng tháng Tám giành chính quyền ở huyện lỵ thắng lợi. Trong cuộc chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ. Đình Lý Hòa nói riêng, làng Lý Hòa nói chung là một trong những nơi đánh phá cực kỳ dã man của giặc Mỹ. Địch đánh từ trên trời xuống, từ biển vào.v.v... Các thế hệ, các lớp thanh niên của làng trước khi lên đường nhập ngũ đều tập trung tại đình để được nhắc nhở phát huy truyền thống cha ông, sống xứng đáng với tổ tiên đã tạo dựng ra nền văn hóa tinh thần, văn hóa vật chất và quyết tâm bảo vệ quê hương đất nước, trong những năm tháng chiến tranh quyết liệt, làng Lý Hòa vinh dự được các đồng chí Võ Nguyên Giáp, Đồng Sĩ Nguyên, Lê Quang Hoà... khi vào chiến trường đều ghé thăm. Đình Lý Hòa cũng như làng Lý Hòa nói chung bị đánh đi đánh lại nhiều lần, đình bị bom Mỹ tàn phá, nhưng làng còn là đình còn. Nhân dân địa phương vẫn kiên trì bám trụ, một tấc không đi, một ly không rời, bám làng bám quê hương. Chắc tay chèo tay súng, hưởng ứng khẩu hiệu: “xe chưa qua nhà không tiếc, đường chưa thông không tiếc máu tiếc xương”. Những cột đình bị sập, bị gãy, cùng với nhà cửa, nhân dân tháo dỡ để phục vụ cho những chuyến xe qua, đảm bảo giao thông, đảm bảo mạch máu vì miền Nam ruột thịt. Những chiến sĩ bị thương, những đoàn an dưỡng đều dừng chân tại đình để sau đó ra Bắc, vào Nam. Từ ngày hòa bình lập lại đến nay, đình làng thành nơi hội họp, nơi sinh hoạt văn hóa, là trung tâm chính trị, xã hội của cộng đồng làng xã, nơi các thế hệ con cháu tìm hiểu thêm quá khứ rực rỡ của tổ tiên, nâng cao lòng tự hào và trách nhiệm của mỗi người đối với quê hương làng xóm. Đình Lý Hòa có giá trị lịch sử kiến trúc nghệ thuật tiêu biểu, là nơi thờ tự các vị tổ có công khai sáng làng và các nghề đặc trưng của làng biển (việc tế lễ của đình ngoài hai kỳ Xuân - Thu, mỗi năm có đại trường câu, có việc của làng, ngày tết. Ngoài ra cứ 6 năm có một kỳ tế lễ thành hoàng rất long trọng). Đình Lý Hòa là hiện thân của bản sắc văn hóa làng quê Việt Nam cùng với biết bao giá trị văn hóa đáng được bảo tồn. Hơn nữa đình còn gắn liền với những sự kiện lịch sử tiêu biểu của địa phương, của tỉnh, đặc biệt từ năm 1945 đến nay. Đình còn là một công trình mang biểu tượng lịch sử văn hóa, là nơi sinh hoạt văn hóa của làng biển Lý Hoà. Nơi giáo dục phát huy truyền thống hiếu học, lòng yêu quê hương đất nước cho các thế hệ hôm nay và mai sau. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình
Quảng Trị 1848 lượt xem
Cây đa đền Thượng thuộc giống đa lông. Thời điểm được công nhận, cây được xếp vào cây di sản có chu vi toàn bộ thân cây lớn nhất Việt Nam, với chu vi 44m, cao hơn 36m, có tuổi đời trên 300 năm. Đến nay, cây đã phát triển thêm rất nhiều rễ phụ và hàng nghìn rễ con bao bọc xung quanh. Rất khó phân biệt đâu là thân chính, đâu là rễ phụ, bởi theo thời gian, các rễ phụ đã phát triển, gắn chặt vào nhau thành cụm rễ khổng lồ không khác gì thân chính. Cùng với chế độ chăm sóc cây di sản theo quy định của Nhà nước, cây đa cổ thụ ở đền Thượng luôn được người dân bảo vệ. Mỗi năm cây ra rất nhiều rễ nhưng không ai bẻ cành, ngắt rễ hoặc trèo leo. Cây có nhiều tầm gửi, nhiều gốc phong lan bám chặt trên những cành cao, rễ lớn càng tô thêm vẻ đẹp cổ kính và tự nhiên. Thời điểm được công nhận là “Cây di sản Việt Nam”, cây đa ở đền Thượng là cây cổ thụ đầu tiên của tỉnh được Hội Bảo vệ thiên nhiên và Môi trường Việt Nam công nhận là Cây di sản Việt Nam. Cây sừng sững, hiên ngang, vươn cao ngay bên bờ sông Nậm Thi, cạnh đền Thượng - nơi thờ Quốc công Tiết chế Hưng Đạo Vương - Trần Quốc Tuấn, người có công to lớn trong sự nghiệp bảo vệ bờ cõi, non sông đất nước, trở thành niềm tự hào của người dân nơi mảnh đất biên cương - Lào Cai. Nguồn “Báo Lào Cai điện tử”
Lào Cai 1944 lượt xem
Khu di tích Láng Le Bàu Cò tọa lạc tại xã Tân Nhựt, huyện Bình Chánh, Tp HCM. Láng Le Bàu Cò gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược vào năm 1948 với những trận đánh lớn đi vào lịch sử. Di tích Láng Le Bàu Cò được công nhận là di tích lịch sử cấp thành phố vào năm 2003. Sở dĩ được gọi tên là khu di tích Láng Le Bàu Cò vì Tên gọi của khu di tích Láng Le Bàu Cò là do người dân địa phương đặt ra. Xóm làng được thành lập cạnh những con kênh rạch chằng chịt và dòng sông. Láng Le Bàu Cò có vị trí nằm ở bên trong cánh đồng có diện tích rộng lớn và có rất nhiều tôm, cua, cá. Cùng với nhiều loài chim như vịt trời, cò, con le le, cúm núm, cồng cộc, đa đa, diệc, đỏ nách tới kiếm ăn tại đây. Vì vậy, người dân Tân Nhựt gọi với cái tên thân thuộc và mộc mạc đó là Láng Le Bàu Cò. Di tích Láng Le Bàu Cò được xem là cửa ngõ để di chuyển tới trung tâm căn cứ Vườn Thơm và tấn công cơ quan đầu não của quân địch tại Sài Gòn. Trước đây khu di tích Láng Le Bàu Cò vốn là cánh đồng lau sậy mọc um tùm. Vào ngày 15/4/1948 thực dân Pháp đưa 3 nghìn quân lính cùng nhiều vũ khí hiện đại đồng loạt tấn công khu vực Láng Le Bàu Cò nhằm tiêu diệt căn cứ Vườn Thơm. Khi đó lực lượng vũ trang cách mạng ở Láng Le - Bàu vì lực lượng nhỏ và vũ khí thô sơ tuy nhiên được sự giúp đỡ của người dân địa phương cùng với lợi thế về địa hình. Chỉ sau hơn nửa ngày đấu tranh đã chuyển sang tấn công khiến quân Pháp bị thương vong với số lượng lớn. Chiến thắng Láng Le Bàu Cò đã tiêu diệt 300 tên địch và bắt sống 30 lính đánh thuê cùng phá hủy nhiều máy móc, xe nhà binh, súng các loại của quân giặc. Tuy nhiên, về phía ta có nhiều cán bộ chiến sĩ đã anh dũng hy sinh với tuổi đời còn rất trẻ. Ngày 14/10/1966 tại Láng Le tiểu đoàn biệt động quân Việt Nam Cộng Hòa bị dân quân du khách tiêu diệt. Khu di tích Láng Le Bàu Cò có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với người dân Sài Gòn nói riêng và cả nước nói chung. Trước lòng căm thù thực dân Pháp, quân dân Láng Le Bàu Cò đã có cuộc chiến vang lừng lịch sử và có ý nghĩa to lớn mở đầu cho phía ta và phía địch. Đối với phía ta trận đánh mở đầu cho sự anh dũng trong tư thế kháng chiến vững mạnh. Còn với quân địch đã phải lùi vào thế bỏ chiến lược và bị tiêu diệt. Thực dân Pháp không còn định hình được chiến lược đánh bại Việt Minh. Hơn thế, tại căn cứ Vườn Thơm, Láng Le Bàu Cò còn diễn ra trận chiến quyết tâm bảo vệ căn cứ của ta và đập tan mọi kế hoạch phá hoại của quân giặc. Khu di tích Láng Le Bàu Cò sau phong trào Đồng Khởi vào năm 1960 còn là hậu cần, bàn đạp của lực lượng vũ trang để giải phóng Long An - Sài Gòn - Gia Định. Để tưởng nhớ sự hy sinh của đồng bào và các chiến sĩ của ta, vào năm 1988 huyện Bình Chánh đã xây dựng công trình lịch sử tại vùng đất Láng Le Bàu Cò với diện tích rộng 1000m2. Nguồn: Báo thông tin điện tử TP Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 10528 lượt xem
Nhà lao Tân Hiệp còn có tên là "Trung tâm cải huấn Tân Hiệp" tọa lạc ở khu phố 6, phường Tân Tiến, TP Biên Hòa. Di tích Nhà lao Tân Hiệp đã được Bộ Văn Hoá Thể Thao xếp hạng là di tích cấp quốc gia ngày 15-1-1994. Nhà lao Tân Hiệp là một trong sáu nhà tù lớn nhất miền Nam Việt Nam và là nhà tù lớn nhất vùng Đông Nam bộ, được xây dựng ở vị trí quân sự quan trọng, án ngữ phía đông bắc thị xã Biên Hòa. Phía trước là quốc lộ 1; phía sau là đường xe lửa Bắc - Nam. Đây là vị trí biệt lập, thuận tiện trong giao thông, dễ dàng cho việc bảo vệ, canh gác, nhận tù từ nơi khác đến và chuyển tù đi Côn Đảo, Phú Quốc... Nhà lao Tân Hiệp có diện tích 46.520m2 với 8 trại giam, trong đó có 5 trại giam những người tù cộng sản, người yêu nước. Xung quanh nhà tù được bao bọc bởi 4 lớp kẽm gai bùng nhùng với 9 lô cốt, 3 tháp canh cùng đội lính bảo vệ và hệ thống báo động tối tân. Mang tên "Trung tâm cải huấn" nhưng thực chất bên trong là kho súng, phòng xét hỏi, tra tấn với những dụng cụ hiện đại bậc nhất. Mỗi trại giam chỉ có diện tích gần 200m2 nhưng giam giữ từ 300-400 người, có lúc lên đến cả ngàn người. Đặc biệt ở đây có các phòng "cải hối", "chuồng cọp" rất nhỏ hẹp và điều kiện sinh hoạt cực kỳ khắc nghiệt, tù nhân sống chẳng khác gì trong lò thiêu xác. Chế độ ăn uống cực kỳ mất vệ sinh, bọn cai ngục mua gạo mục, cá thối dùng để bón ruộng, chiên bằng dầu luyn cho tù nhân ăn dẫn đến nhiều người bị ngộ độc. Với quyết tâm thoát khỏi nhà tù đế quốc, trở về với Đảng, với nhân dân để tiếp tục chiến đấu, giải phóng dân tộc, ngày 2-12-1956, được sự nhất trí của Liên Tỉnh ủy miền Đông, những chiến sĩ cộng sản bị "câu lưu" trong nhà lao Tân Hiệp dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Trọng Tâm (Bảy Tâm) - phụ trách Đảng ủy nhà tù và một số đồng chí khác đã bất thần làm một cuộc phá xiềng tập thể giải thoát gần 500 đồng chí, đồng bào yêu nước. Sự kiện này đã làm xôn xao cả Lầu Năm Góc. Mỹ - Diệm vội vã huy động cả quân chủ lực lẫn bảo an, dân vệ đang trấn thủ 3 tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một và hai biệt đoàn biệt động quân đến bủa lưới bao vây, truy bắt đoàn tù nhưng đều thất bại. Các đồng chí, đồng bào của ta thoát khỏi nhà lao Tân Hiệp đã được sự giúp đỡ, che chở của các cơ sở địa phương, trở về căn cứ an toàn. Trong số tù nhân vượt ngục có các đồng chí: Bảy Tâm, Hai Thông, Lý Văn Sâm... đã trở thành những hạt nhân nòng cốt cho phong trào Đồng Khởi sau này. Năm 2001, để tái hiện phần nào tội ác của Mỹ - Diệm đối với các đồng chí, đồng bào ta bị giam cầm tại nhà lao Tân Hiệp và diễn tả lại toàn bộ cuộc nổi dậy phá khám Tân Hiệp ngày 2-12-1956, Bảo tàng Đồng Nai đã tiến hành sưu tầm hình ảnh, tài liệu, hiện vật trưng bày tại di tích và làm một sa bàn để phục vụ nhu cầu nghiên cứu, tham quan của mọi tầng lớp nhân dân. Hàng ngày, di tích luôn mở cửa đón khách tham quan. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 9474 lượt xem
Di tích chiến thắng La Ngà (tại km số 104-112 trên quốc lộ 20 đi Đà Lạt, thuộc xã Phú Ngọc, huyện Định Quán) được Bộ Văn hóa xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 12-12-1986. Để cổ vũ cho chiến thắng Việt Bắc thu - đông 1947 và cũng để giáng cho kẻ thù một đòn chí mạng, Ban chỉ huy chi đội 10 đã quyết định phải tổ chức một trận đánh lớn, để quân giặc thấy rằng dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam không dễ dàng chịu khuất phục trước bất kì một kẻ thù nào; Bằng tinh thần quả cảm và sự khôn khéo sau gần nửa năm chuẩn bị, nghiên cứu địa hình, chọn địa điểm: vào lúc 15 giờ 12 phút ngày 1/3/1948 trận chiến phục kích La Ngà bắt đầu và kết thúc vào lúc 15 giờ 57 phút cùng ngày, chỉ trong vòng 45 phút. Chiến thắng La Ngà đã làm nức lòng nhân dân Định Quán nói riêng, quân dân Đồng Nai nói chung. Đây là chiến thắng thể hiện sự mưu trí, dũng cảm của quân và dân ta làm cho địch một phen kinh hồn, bạt phía. Từ chiến thắng này lực lượng ta ngày càng thêm lớn mạnh, góp phần đánh bại kế hoạch đánh nhanh, thắng nhanh của địch, buộc chúng phải rơi vào thế bị động. Quần thể danh thắng đá Chồng, Thác Mai, sông La Ngà và Tượng đài chiến thắng La Ngà là một quần thể du lịch kì thú của Định Quán. Vẻ đẹp kỳ thú của Hòn Ba Chồng, Núi Đá Voi, Hòn Dĩa, cùng với ngôi chùa thiên nhiên dưới chân núi đá là những cụm tiêu biểu tạo thành cảnh đẹp hài hòa cho khu danh thắng Đá Chồng. Quần thể Đá Chồng Định Quán còn là nơi lưu lại những dấu tích của cuộc sống người tiền sử. Tại đây dưới các mái đá, ven các khe suối và cả các sườn dốc ven thung lũng đã phát hiện nhiều công cụ sản xuất, sinh hoạt của người xưa bằng đá, đồng, đất nung. Trong suốt cuộc kháng chiến dài 30 năm. Định Quán là một phần quan trọng của Chiến khu Đ. Đá Chồng đã chứng kiến sự hình thành, phát triển, trú quân, triển khai chiến đấu của lực lượng cách mạng. Ngày nay, một phần đất của khu danh thắng Đá Chồng Định Quán đã được sử dụng, xây dựng thành khu Trung tâm văn hóa thể thao huyện Định Quán. Tương lai không xa khu danh thắng Đá Chồng Định Quán sẽ được đầu tư tôn tạo góp phần làm cho cảnh quan thiên nhiên ngày càng tươi đẹp, là địa điểm du lịch sinh thái hấp dẫn. Nguồn: Uỷ Ban Nhân Dân Huyện Định Quán
Đồng Nai 7518 lượt xem
Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh còn gọi là đình Bình Kính tọa lạc bên tả ngạn sông Đồng Nai, xưa kia thuộc ấp Bình Kính, thôn Bình Hoành, tổng Trấn Biên, nay là ấp Nhị Hòa, xã Hiệp Hòa, TP Biên Hòa, đã được Bộ Văn Hoá – Thông Tin – Thể Thao & Du Lịch xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 25-3-1991. Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ 18, ban đầu ngôi đền có qui mô nhỏ, vách làm bằng ván, mái ngói âm dương, cách ngôi đền hiện tại khoảng 400m về hướng Nam. Các tư liệu cho biết: ngôi đền được xây dựng lại lần đầu tiên vào năm Tự Đức thứ tư (1851); đến năm 1923, đền được tái thiết lại ở địa điểm hiện nay. Nguyễn Hữu Cảnh sinh vào năm 1650 tại Gia Miêu, huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa trong một gia đình có nhiều bậc danh tướng đương triều. Ông là người văn võ song toàn, lập được nhiều chiến công lớn và được chúa Nguyễn tin yêu, trọng vọng. Mùa Xuân năm Mậu Dần (1698), ông vâng lệnh chúa Nguyễn vào kinh lược xứ Đàng Trong khi ấy còn rất hoang vu. Đến đất Đồng Nai, ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố (nay là xã Hiệp Hòa); lấy đất Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn, đất đai mở mang ngàn dặm. Ông chiêu mộ lưu dân đến lập nghiệp, tổ chức bộ máy hành chính từng bước có qui củ, khuyến khích khai hoang, thúc đẩy Cù lao Phố phát triển thành một trong những cảng thị sầm uất, năng động nhất đàng Trong suốt thế kỷ 18 và chính thức sáp nhập vùng đất mới phương Nam vào bản đồ Đại Việt. Sau khi kinh lược phương Nam trở về, năm sau ông lại phụng mệnh chúa Nguyễn Phúc Chu thống lĩnh đại binh dẹp vua Chân Lạp giữ vững miền biên ải phương Nam. Tháng 4 năm Canh Thìn (1700), sau khi hoàn thành sứ mệnh, trên đường trở về đến Rạch Gầm (Tiền Giang) thì ông thọ bệnh qua đời nhằm ngày 16 tháng 5 âm lịch, thọ 51 tuổi. Trên đường di quan ông về quê an táng, quan tài của ông được đình lại khu đất khi xưa ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố để cho nhân dân địa phương có dịp bái biệt ông lần cuối. Nơi đình quan đã được nhân dân địa phương xây một ngôi mộ vọng để ghi nhớ sự kiện này. Khi hay tin Nguyễn Hữu Cảnh mất, Chúa Nguyễn vô cùng thương tiếc đã phong tặng ông là Thượng đẳng công thần đặc Trấn phủ Chưởng cơ với tước: Lễ Thành Hầu và đưa bài vị của ông vào thờ tại Thái miếu. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 7504 lượt xem
Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt, tọa lạc ấp Xóm Tháp, xã Tân Phong, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử - văn hóa ngày 23 tháng 7 năm 1993. Đồng thời là một trong ba công trình tháp cổ cuối cùng còn lại ở miền Nam nước ta. Trải qua nhiều lần trùng tu vào các năm 1938, 2003 và gần đây nhất là vào năm 2013. Mặc dù trải qua các đợt trùng tu tôn tạo, nhưng khu di tích tháp cổ Chót Mạt đã mang cho mình một diện mạo mới nhưng vẫn giữ nguyên được tinh thần kiến trúc cổ. Toàn bộ tòa Tháp được xây dựng bằng gạch và đá phiến với phần đỉnh tháp nhọn dần lên, từ mặt đất lên nơi cao nhất của đỉnh tháp được ước tính là 10m. Ngoài ra, ngọn tháp cổ này nằm trên gò đất cao giữa cánh đồng nên nhìn từ xa nó tựa như ngọn bút đang vươn lên cao dần. Năm 2003 Uỷ ban nhân dân tỉnh Tây Ninh quyết định phê duyệt dự án đầu tư trùng tu tôn tạo bảo tồn di tích tháp Chót Mạt và được tiến hành triển khai trùng tu tôn tạo phục hồi, trưng bày mở hố khai quật năm 2003 đưa vào sử dụng. Ngày 27/11/2019 UBND tỉnh ban hành Quyết định Quy định về phân cấp quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. Quyết định giao UBND huyện Tân Biên trực tiếp quản lý 4 di tích, trong đó có di tích cấp Quốc gia di tích Lịch sử- văn Hóa Tháp Chót Mạt. Đặc biệt Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt trên địa bàn xã Tân Phong, huyện Tân Biên được chọn nằm trong chũi liên kết phát triển du lịch của Tỉnh Tây Ninh. Đây là một địa điểm tham quan rất đáng để khám phá, góp phần phát triển du lịch trên địa bàn xã Tân Phong nói riêng và huyện Tân Biên nói chung. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Tây Ninh
Tây Ninh 6450 lượt xem
Thời kỳ nhà Mạc đóng đô ở Cao Bằng, để phòng bị quân nhà Lê tiến đánh, nhà Mạc đã tu bổ, sửa chữa thành Na Lữ (nay thuộc xã Hoàng Tung, Hòa An) và thành Bản Phủ (nay thuộc xã Hưng Đạo), thành Phục Hòa, ngoài ra còn xây dựng nhiều thành lũy khác ở Cao Bằng, làm cho Cao Bằng trở thành một trung tâm chính trị và quân sự ở vùng biên viễn Đông Bắc thời bấy giờ. Thành Na Lữ và thành Phục Hoà là hai thành được xây dựng từ trước. Theo ghi chép của Bế Hựu Cung trong Cao Bằng thực lục, thành Na Lữ và thành Phục Hòa mở đầu từ đời Đường Ý Tông năm Giáp Thân, niên hiệu Hàm Thông thứ 5 (874). Căn cứ vào sự hiện diện của nhiều ngôi mộ cổ có đá khắc ghi bia mộ tên, địa chỉ, quê quán những người phu dịch xây thành chết ở đây từ thời Hàm Thông có thể khẳng định hai thành này xây từ đời Đường. Thành Na Lữ được xây qua nhiều triều đại khác nhau. Khi nhà Mạc lên Cao Bằng đã cho xây lại bằng gạch. Thành Na Lữ có hình gần chữ nhật, có tổng diện tích khoảng 37,5 ha, chiều dài khoảng 800 m, chiều rộng khoảng 600 m, thành có 4 cửa. Thành Bản Phủ tại kinh đô Nam Bình, nước Nam Cương của Thục Phán khi xưa ở Cao Bình (Cao Bằng), nhà Mạc đã tu bổ thành Vương phủ tại vòng trong của kinh đô cũ Nam Bình và được gọi là thành Bản Phủ hay Vương phủ. Tại kinh đô Nam Bình xưa của nước Nam Cương và của nhà Mạc, thành Bản Phủ vẫn còn dấu tích khá rõ nét. Kinh đô Nam Bình gồm có hai vòng thành, để bảo vệ kinh thành, vòng ngoài có chu vi khoảng 5 km, gồm cả một vùng gò đồi thấp, quanh chân đồi được bạt dựng đứng như một bức tường thành, thuận lợi cho việc xây dựng phòng tuyến bảo vệ. Bờ thành phía Tây chạy song song với bờ sông Bằng đến đầu làng Bó Mạ, nối bờ thành Đông Nam chảy qua trước mặt Bản Phủ theo chân đồi ra gặp quốc lộ 4, phía Đông Bắc chạy theo chân đồi sát phía ngoài quốc lộ 4, lên đến Đầu gò là phía Tây Bắc tiếp tục chạy theo chân đồi, ra đến bờ sông gặp bờ thành phía Tây tạo thành một vòng thành khép kín. Khi nhà Mạc lên đóng đô đã tu sửa lại và xây dựng thêm một số công trình, trong đó thành Bản Phủ (thành nội - nơi của vua làm việc) được xây lên cao hơn trên các tường thành cũ từ thời kỳ Thục Phán, thành nằm trên một khu đất bằng phẳng. Cùng với việc xây dựng lại kinh thành, nhà Mạc còn xây dựng một hệ thống đồn bốt, thành lũy khá dày xung quanh kinh đô và một số điểm biên giới quan trọng, tạo thành một hệ thống bảo vệ kinh thành và bảo vệ biên giới. Thành Phục Hòa (huyện Phục Hoà) được xây theo kiểu hình vuông, mỗi chiều khoảng 400 m, gồm hai vòng thành, khoảng cách giữa hai vòng là 80 m. Hiện nay, tường thành phía Nam đã bị phá huỷ hoàn toàn. Thành Phục Hòa có 2 cổng chính: Cổng phía Bắc được mở thông ra quốc lộ đi Cửa khẩu Tà Lùng ngày nay, nhân dân thường gọi là Pác Cổng, cổng này được xây theo kiểu hình chữ nhật, rộng 8 m, cao 5 m, gồm hai cánh cổng làm bằng gỗ nghiến dày rất chắc chắn; cổng thứ hai ở phía Nam, mở thông ra bờ sông. Cả hai cổng đều bị san phẳng từ lâu, hiện nay không còn vết tích. Gần thành, tại phía Tây Bắc ngoại thành dọc bờ sông còn có nhiều vết tích lò nung gạch, nhân dân cho biết trong quá trình lao động, khai phá đã tìm thấy ở khu vực này nhiều lò gạch còn nguyên vẹn. Qua nghiên cứu, khảo sát cho thấy, tại Cao Bằng, nhà Mạc đã tu bổ, tôn tạo và xây dựng thêm nhiều thành, đồn luỹ, trong đó tu bổ, tôn tạo xây lại thành Bản Phủ, thành Na Lữ, thành Phục Hoà. Các đồn luỹ này đã tạo thành một hệ thống liên hoàn bảo vệ kinh thành khá vững chắc. Đến nay, những thành cổ nhà Mạc xây dựng thời kỳ đóng đô ở Cao Bằng, một số thành xây dựng bằng đất chỉ còn vết tích, nhưng các thành được xây bằng đá vẫn còn rất rõ. Nguồn: Báo Cao Bằng điện tử
Cao Bằng 6292 lượt xem
Dinh Quận Hóc Môn tọa lạc tại số 1, đường Lý Nam Đế, thị trấn Hóc Môn, (cạnh trụ sở UBND huyện) là nơi để lại nhiều sự kiện đấu tranh nổi bật suốt chặng đường dài lịch sử từ 1885 đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng của Nhân dân 18 Thôn vườn trầu. Sau khi hạ được Đại đồn Chí Hòa, thực dân Pháp xây dựng tại nơi đây một ngôi nhà gỗ cao 3 tầng dùng làm Đồn binh. Khi tên Trần Tử Ca về nhậm chức Đốc Phủ, dùng Đồn làm Dinh huyện Bình Long. Vốn là một tay say quỷ quyệt của thực dân Pháp, Trần Tử Ca bị nhóm do các ông Phan Văn Hớn (Quản Hớn) và Nguyễn Văn Quá (Chánh Lãnh Binh) cầm đầu gần 1.000 nghĩa quân tiến về đốt Dinh Quận, bắt và cắt đầu bêu giữa chợ. Đó là ngày 8/2/1885 Tết Ất Dậu. Sau đó, Dinh Quận Hóc Môn được xây dựng lại với nền móng đá xanh, tường gạch, có hệ thống phòng thủ từ lầu cao đến tận vòng rào. Lối kiến trúc y như Đồn binh nên người địa phương gọi là Đồn Hóc Môn. Trấn nhậm thay Trần Tử Ca là Đốc phủ Ngôn, đến Quận Trà rồi Quận Thọ. Đây là khoảng thời gian dài người dân vùng Hóc Môn hứng chịu bao cảnh tham tàn, bỉ ổi của thực dân Pháp và bọn tay sai đầu sỏ kể trên. Với truyền thống kiên cường bất khuất của Nhân dân Hóc Môn. Ngày 4/6/1930, khoảng 6 giờ sáng trước Dinh Quận, hàng trăm bà con Hóc Môn kéo biểu tình đòi “bãi bỏ thuế thân, giảm các thuế môn bài và thuế chợ, cấp đất cho dân cày nghèo”. Quận Trà cho mời những người cầm đầu vào Dinh thương lượng, nhưng chúng xảo quyệt bắt giữ họ trong đó có ông Lê Văn Uôi (Bí thư xã Tân Thới Nhì), là người cầm đầu cuộc biểu tình. Mọi người không nao núng, quyết liệt đòi hỏi Quận Trà phải thả những người bị cầm giữ. Đoàn biểu tình càng lúc càng đông, khí thế đấu tranh có phần lan rộng, khiến Quận Trà nhượng bộ. Một mặt chúng thả những người bị giữ, mặc khác chúng gọi điện cho quan thầy ở Sài Gòn cứu viện. 2 giờ sau, cuộc đấu tranh bị 2 tên Blachôlê và Nobbot chỉ huy bắn xối xả vào đoàn biểu tình, gây thương vong nhiều người. Nhưng sự kiện lịch sử gây ấn tượng nhất tại Dinh Quận Hóc Môn là cuộc khởi nghĩa Nam kỳ ngày 23/11/1940. Đồn Hóc Môn rất kiên cố, xây bằng đá xanh như là một pháo đài, cao khoảng 15 thước, có ụ súng và hệ thống phòng thủ lỗ châu mai do một trung đội lính khố xanh trấn giữ. Ngày 22/11/1940, Pháp tăng cường thêm 1 trung đội để đối phó với tình hình. Chiều 22/11/1940, cánh quân của ông Đỗ Văn Cội đột nhập vào thị trấn, giả dạng thường dân, phục kích sau lưng Đồn chờ lệnh cướp Đồn. Một cánh quân khác có nhiệm vụ phá cầu, đốn cây ngăn lộ, đánh chiếm các công sở, nhà việc... Cánh quân từ Phước Vĩnh An, Tân Thông, Tân An Hội, Tân Phú Trung do ông Phạm Văn Sáng và Đặng Công Bỉnh chỉ huy, xuất phát từ ấp Bến Đò, đánh chiếm nhà việc, diệt 1 tên, thu 4 súng, làm chủ tình hình tại đây (Tân Phú trung). Liền đó cánh quân này được lệnh kéo về Hóc Môn. Cánh quân Long Tuy Thượng do ông Bùi Văn Hoạt chỉ huy. Cánh quân thuộc Tổng Long Tuy Trung do ông Đỗ Văn Dậy và Lê Bình Đẳng chỉ huy. Khoảng 24 giờ đêm ngày 22/11/1940, vẫn chưa nghe thấy tiếng pháo lệnh ở Sài Gòn. Sau khi hội ý, các vị chỉ huy những cánh quân thống nhất tấn công Đồn giặc. Lập tức các cánh quân tiến thẳng về Đồn Hóc Môn, nơi trú ngụ của tên Quận trưởng Bùi Ngọc Thọ. 2 nghĩa quân tên Nghé và Kinh xung phong vào cổng trước, hy sinh. Nghĩa quân bốn phía xông vào Đồn như nước vỡ bờ. Trước sức mạnh của nghĩa quân và quần chúng, bọn lính trong Đồn không còn tinh thần kháng cự, bỏ chạy tán loạn. Nghĩa quân chiếm lĩnh hoàn toàn bên trong Đồn nhưng trên lầu, địch vẫn ngoan cố dùng súng bắn tẻ, cùng lúc gọi điện về Sài Gòn, Thủ Dầu Một cấp cứu. Vì nóng lòng bắt cho được tên Quận Thọ nên đồng chí Đỗ Văn Dậy bám ống máng nước để leo lên tầng trên Đồn. Đến lưng chừng bị trúng đạn, đồng chí bị rơi xuống và hy sinh sau đó. Cuộc chiến đấu đang thế giằng co thì viện binh địch đến. Không thể cầm cự, nghĩa quân rút khỏi thị trấn, phân tán về các làng, lực lượng vũ trang rút về ấp Bến Đò (Tân Phú Trung) rồi di chuyển sang ấp Mỹ Hạnh (Đức Hòa). Cuộc tiến công Đồn Hóc Môn (sau gọi là Dinh Quận Hóc Môn) tuy thất bại nhưng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng mọi người dân sự khâm phục lòng dũng cảm của các chiến sĩ cách mạng trong cuộc chiến đấu chống thực dân cướp nước. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, 7 giờ sáng ngày 30/4/1975, thị trấn Hóc Môn hoàn toàn được giải phóng, lá cờ Tổ quốc phất phới bay trên Dinh Quận, nơi tên Quận trưởng Nguyễn Như Sang và bọn tay sai đã chạy trốn từ tối đêm trước. Ngày nay Dinh Quận Hóc Môn được chọn làm Bảo tàng huyện, nơi đây tập trung nhiều tư liệu trưng bày, minh họa các giai đoạn lịch sử thăng trầm cũng như khí thế đấu tranh cách mạng của quân và dân trong huyện Hóc Môn qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Một Tượng đài đặt trước di tích Dinh Quận Hóc Môn thể hiện gương hy sinh bất khuất của quân và dân 18 Thôn Vườn trầu, được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn: Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 6259 lượt xem
Di tích tòa Đại sứ Mỹ còn được gọi "Nhà trắng phương Đông" là nơi xuất phát các âm mưu thâm độc về quân sự lẫn chính trị nhằm thôn tính lâu dài đất nước Việt Nam, địa điểm di tích là tòa nhà 5 tầng xây dựng theo kiến trúc hiện đại, tọa lạc tại góc đường Mạc Đĩnh Chi - Lê Duẩn, Phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, trên một mảnh đất rộng gần 5.000m2. Trước đó, tòa đại sứ Mỹ nằm tại số 39 đường Hàm Nghi. Khoảng 10 giờ sáng ngày 30/3/1963, tòa đại sứ Mỹ trên đường Hàm Nghi đã bị đội Biệt động F21 đánh chất nổ làm sập 3 tầng lầu: 1, 2, 3 do đó Mỹ đã quyết định xây lại. Tòa nhà được khởi công xây dựng vào năm 1965, hầu hết vật liệu cũng như máy móc xây dựng đều được chở từ Mỹ sang, dưới sự điều khiển của kỹ sư người Mỹ. Theo thiết kế, tòa nhà bao bọc bởi 7.800 viên đá Taredo có khả năng chống đỡ mìn, đạn pháo. Cửa chính trang bị bằng thép dầy, những cửa khác chắn bởi lớp kín dầy đặc biệt chống đạn. Tất cả cửa sử dụng hệ thống tự động kể cả cửa sắt chắn lối lên các tầng lầu. Bên trong tòa nhà gồm 140 phòng với 200 nhân viên phục vụ ngày đêm ngoài ra bên cạnh tòa nhà còn được xây thêm một dãy nhà phụ gọi là khu "Norodom" dành riêng cho nhân viên C.I.A. Khi khánh thành, tòa nhà chỉ có 3 tầng. Cuối năm 1966 xây thêm 2 tầng và 1 sân thượng dùng làm nơi hạ cánh cho máy bay lên thẳng. Bao quanh tòa nhà là bức tường cao 3m, hai đầu tường sát đường Lê Duẩn xây 2 lô - cốt cao, canh gác ngày đêm. Tòa Đại sứ hoàn thành tháng 9/1967 với một hệ thống phòng thủ như là một pháo đài có 60 lính gác, một hầm tránh bom, một hệ thống màn hình ra-đa nhằm kiểm soát mặt tiền. Ngay sau khi tòa nhà hoàn tất, ngày 24/9/1967, hàng ngàn sinh viên, học sinh kéo đến trước cổng Đại sứ quán Mỹ đấu tranh đòi "Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc", "Mỹ cút về nước" và ra thông báo tố cáo Mỹ "chà đạp và vi phạm nghiêm trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam". Nhưng sự kiện nổi bật xảy ra tại Tòa Đại sứ Mỹ là trận đánh của Biệt động thành trong Tổng Tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968. Mục tiêu đánh Đại sứ quán Mỹ được bổ sung ngày 24/ 1/1968 do Ngô Thành Vân phụ trách chung. Đội Biệt động 11 nhận lãnh nhiệm vụ quan trọng này gồm đội trưởng Út Nhỏ (đội trưởng trinh sát quân khu) và các chiến sĩ: Bảy Truyền, Tước, Thanh, Chức, Trần Thế Ninh, Chính, Tài, Văn, Đực, Cao Hoài Vinh, Mang, Sáu và 2 lái xe: Trần Sĩ Hùng và Ngô Văn Thuận. Một sự kiện khác cũng không kém phần tủi nhục cho Toà Đại sứ Mỹ là cảnh hỗn loạn tháo chạy xảy ra trong 2 ngày 29 và 30/04/1975 của Mỹ và đồng bọn. Trước sức tấn công thần tốc của quân và dân Việt Nam trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, trên 1.000 người Mỹ và hơn 5.000 người Việt thân Mỹ đã chen lấn, xô đẩy, đạp nhau để tranh giành một chỗ trên sân thượng của toà nhà hòng được trực thăng cứu thoát. Di tích này đã được cấp bằng công nhận của Bộ Văn hoá ngày 25/6/1976. Hiện nay, toà nhà Đại Sứ Mỹ đã bị phá bỏ, xây mới thành lãnh sự quán tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng cạnh đó một bia tưởng niệm ghi nhớ mãi chiến công của các chiến sĩ biệt động đã hy sinh trong trận đánh. Nguồn: Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 6183 lượt xem
Di tích Ngã Ba Giồng là di tích lịch sử cách mạng thuộc Ấp 5, xã Xuân Thới Thượng, huyện Hóc Môn. Được bao quanh bởi ba con đường: Phan Văn Hớn, Nguyễn Văn Bứa và tỉnh lộ 19. Khu di tích Ngã Ba Giồng là khu tưởng niệm về những sự kiện lịch sử trong hai cuộc khácg chiến chống ngoại xâm. Được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia vào năm 2002. Ngã ba Giòng (còn có tên gọi đầy đủ là Ngã ba Giòng Bằng Lăng) nằm trên địa phận thôn Xuân Thới Tây thuộc 18 thôn vườn trầu xưa được hình thành từ những năm 1698 đến năm 1731. Từ lâu đời, Ngã ba Giồng là 1 địa danh có tên gọi dân gian đã đi vào lịch sử của quê hương 18 thôn vườn trầu Hóc Môn – Bà Điểm. Tục truyền rằng xưa kia nơi đây là 1 vùng đất giồng tương đối cao ráo và là nơi mọc nhiều cây bằng lăng nên địa danh này có tên gọi từ đó. Sau khi cuộc khởi nghĩa Nam kỳ (23/11/1940) bị thất bại, thực dân Pháp đã tăng cường đàn áp, khủng bố khốc liệt phong trào cách mạng vùng Hóc Môn – Bà Điểm. Chúng đã lập ra ở Hóc Môn 3 trường bắn để giết hại các đồng chí lãnh đạo Đảng, các đồng chí đồng bào yêu nước của quê hương Hóc Môn và các vùng lân cận. Ngã ba Giồng là trường bắn thứ ba ghi lại tội ác tày trời của giặc pháp và bọn tay sai đối với nhân dân Hóc Môn. Rút kinh nghiệm từ 2 trường bắn trước (1 tại rạp hát cũ trung tâm Quận lỵ Hóc Môn, 1 cạnh giếng nước sau Bệnh viện Hóc Môn ngày nay), chúng xử bắn công khai, bắt nhân dân đến xem nhằm mục đích uy hiếp tinh thần cách mạng của nhân dân Hóc Môn. Nhưng cách xử bắn đó đã phản tác dụng, nhân dân Hóc Môn đã tận mắt chứng kiến sự tàn ác của thực dân Pháp, sự hy sinh cao cả của các chiến sĩ cộng sản nên ngọn lửa yêu nước của họ càng bùng lên mãnh liệt. Trường bắn thứ 3 này, chúng không dám xây dựng gần trung tâm Quận lỵ nữa mà đưa ra khu vực Ngã ba Giồng là vùng hoang vắng, thưa dân để tránh sự phản kháng của nhân dân. Tại đây, chúng xây dựng thành 1 trường bắn có mô đất kiên cố dài 12m, cao 2,2m, phía trước có trồng 6 cột bắn, mỗi cột cao 1.7m, hướng bắn quay về phía đồng ruộng (bưng Tràm Lạc). Vào năm 1941, tại đây chúng lén lúc xử bắn rất nhiều lần, không cho nhân dân xem, hàng trăm chiến sĩ cộng sản và đồng bào yêu nước bị chúng giết hại. Với ý nghĩa lịch sử vô cùng thiêng liêng của Ngã ba Giồng, nơi ghi dấu tội ác dã man của giặc Pháp, nơi thể hiện ý chí chiến đấu bất khuất kiên cường và sự hy sinh cao cả của đồng chí và đồng bào ta sau cuộc khởi nghĩa Nam kỳ (23/11/1940); sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (30/4/1975), huyện Hóc Môn đã nhanh chóng khôi phục và tôn tạo khu di tích lịch sử cách mạng Ngã ba Giồng nhằm giáo dục truyền thống cho các thế hệ thanh thiếu niên. Nơi đây đã trở thành điểm tham quan, nơi tổ chức lễ hội truyền thống trong những ngày lễ lớn hàng năm của huyện Hóc Môn và thành phố đặc biệt là lễ kỷ niệm ngày Nam kỳ Khởi nghĩa (23/11). Hiện nay được sự nhất trí của thành phố, huyện đang tiến hành tôn tạo xây dựng Ngã ba Giồng thành “Khu tưởng niệm liệt sĩ Ngã ba Giồng”. Nguồn: Cổng thông tin điện tử Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 5960 lượt xem
Mai Xuân Thưởng là người lãnh đạo phong trào Cần Vương chống Pháp cuối thế kỷ XIX ở Bình Định. Mai Xuân Thưởng sinh năm Canh Thân 1860, mất năm Đinh Hợi 1887 người thôn Phú Lạc, tổng Phú phong, huyện Tuy Viễn, tỉnh Bình Định (nay là thôn Phú Lạc, xã Bình Thành, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Cha là Mai Xuân Tín làm Bố chánh ở Cao Bằng, mẹ là Huỳnh Thị Nguyệt con của một nhà quyền quý trong làng. Mai Xuân Thưởng vốn là người thông minh, ham học. Năm 18 tuổi (1878) ông đỗ Tú tài tại Trường thi Bình Định. năm 25 tuổi (1885) thi đỗ cử nhân. Hưởng ứng chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi, Mai Xuân Thưởng về quê Phú Lạc, chiêu mộ nghĩa binh, lập căn cứ ở hòn Sưng dựng cờ cần vương chống Pháp, sau đó Mai Xuân Thưởng đã đem lực lượng của mình gia nhập vào nghĩa quân do Đào Doãn Địch lãnh đạo và được Đào Doãn Địch phong giữ chức Tán lương quân vụ (phụ trách về lương thực của nghĩa quân). Kể từ đó cho đến năm 1887, phong trào cần vương ở Bình Định phát triển mạnh mẽ và lan ra đến Quảng Ngãi, Phú Yên...thu hút hàng chục ngàn người thuộc mọi tầng lớp tham gia. Ngày 20/9/1885 Đào Doãn Địch mất, giao toàn bộ lực lượng cho Mai Xuân Thưởng. Ông chọn vùng núi Lộc Đổng (nay thuộc xã Bình Tường, huyện Tây Sơn) làm đại bản doanh và tổ chức lễ tế cờ , truyền hịch kêu gọi sỹ phu, văn thân, nhân dân tham gia phong trào cần Vương chống Pháp. Trong buổi lễ ấy, nghĩa quân nhiều vùng trong tỉnh Bình Định đã nhất trí suy tôn ông làm Nguyên soái lãnh đạo cuộc khởi nghĩa và nêu cao khẩu hiệu: “Tiền sát tả, hậu đả Tây”. Đầu năm 1887, quân Pháp dưới sự chỉ huy của Trung tá Cherrean và quân triều đình do Trần Bá Lộc chỉ huy cùng với Công sứ Trira đã mở cuộc tấn công lớn lên căn cứ đại bản doanh của phong trào Cần Vương Bình Định, trận giao chiến giữa lực lượng nghĩa quân với giặc Pháp diễn ra vô cùng ác liệt, cuộc chiến đấu không cân sức, cuối cùng lực lượng khởi nghĩa bị đẩy lùi. Tháng 3 năm 1887, sau trận ác chiến ở Bàu Sấu (thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định), Mai Xuân Thưởng bị thương nặng, nghĩa quân rút về Mật khu Linh Ðổng. Ngày 21 tháng 4 năm 1887, Trần Bá Lộc bao vây đánh chiếm căn cứ mật khu Linh Đổng và bắt được một số nghĩa quân, trong đó có thân mẫu Mai Nguyên Soái. Đêm 30 tháng 4 năm 1887, Mai Xuân Thưởng đã cử một đội quân cảm tử đột nhập doanh trại Trần Bá Lộc, giải vây cho những người bị bắt, ông cùng đoàn thuộc hạ gồm 50 người vượt núi vào Phú Yên, tiếp tục kháng chiến, nhưng khi đến đèo Phú Quý (ranh giới giữa Bình Định và Phú Yên) thị bị phục binh Trần Bá Lộc bắt và đưa ra xử trảm tại Gò Chàm (Phía đông Thành Bình Định). Di tích Lăng mộ nhà yêu nước Mai Xuân Thưởng tọa lạc trên ngọn đồi cao của dãy núi Ngang (thuộc thôn Hòa Sơn, xã Bình Tường, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định) cách thành phố Quy Nhơn khoảng 50km về hướng Tây Bắc; Lăng mộ được xây dựng trên khu đất rộng 1988m2, khánh thành ngày 22 tháng 1 năm 1961.Về tổng thể, Lăng được thiết kế theo kiểu lăng mộ cổ, xung quanh có thành thấp bao bọc. Cổng Lăng (tam quan) là 4 trụ vuông, phía trên thắt lại theo kiểu bầu lọ mang dáng dấp kiến trúc cổng đình, miếu cuối thế kỷ XIX. Giữa nhà Lăng là mộ phần Mai Xuân Thưởng hình khối chữ nhật theo hướng Đông - Tây; Phía đầu mộ dựng tấm Bia đá khắc bài ký ghi tiểu sử và sự nghiệp của Mai Xuân Thưởng: Di tích được Bộ Văn hóa Thông tin quyết định xếp hạng cấp Quốc Gia ngày 20 tháng 4 năm 1995. Nguồn: UBND Huyện Tây Sơn tỉnh Bình Định
Gia Lai 5951 lượt xem