Đến đền Cùng giếng Ngọc hòa mình vào không khí tâm linh của những câu chuyện truyền miệng, từ thế hệ này qua thế hệ khác, địa điểm này ở Bắc Ninh hiện nay đã trở thành điểm đến tâm linh hấp dẫn cho khách du lịch cả trong và ngoài nước. Đền Cùng - Giếng Ngọc nằm tại Viêm Xá (hay làng Diềm) thuộc phường Hòa Long, thành phố Bắc Ninh, địa danh linh thiêng được coi là nơi hiển ứng thờ Mẫu Tam Phủ từ hàng ngàn năm trước. Từ thời Tiền Lý, Tiền Lê và thời kỳ Lý, quân triều đình đã tung ra đợt đánh đối phó với quân xâm lược dọc theo con sông Cầu, mỗi lần như vậy đều đến đây cầu đảo và nhận được sự che chở từ linh thánh của đền Cùng, đánh bại quân địch không ít lần. Sự nổi tiếng của đền Cùng lan tỏa khắp trong văn hóa dân gian từ xa xưa. Ngày nay, đây là điểm đến thu hút một lượng lớn du khách quốc tế đến tham quan, cầu tình duyên, sự nghiệp thành công và hạnh phúc gia đình. Bước qua cổng tam quan của Đền Cùng, bạn sẽ ngay lập tức được chìm đắm trong một quần thể kiến trúc hài hòa và cổ kính. Khuôn viên ở đây rất rộng rãi rợp bóng cây cổ thụ tạo nên sự mát mẻ, yên bình và rất trong lành. Bạn có thể ghé thăm đền Cùng giếng Ngọc bất cứ lúc nào trong năm, đặc biệt là vào dịp đầu năm, mùng 1 hoặc rằm âm lịch. Lúc này, rất nhiều du khách từ khắp nơi đổ về đây để cầu tình duyên, công danh sự nghiệp, sức khỏe,... Khuôn viên ở đây rất thoáng đãng nhờ những bóng cây cổ thụ lâu năm, luôn xòe tán lá xanh biếc, mang lại cảm giác thư thái, trong lành cho du khách. Đền Cùng Bắc Ninh là chốn tâm linh linh thiêng, thờ Mẫu Tam Phủ từ ngàn xưa. Sự linh hiển của ngôi đền này đã nổi tiếng khắp dân gian từ thời Tiền Lý, Tiền Lê, thời Lý. Trước mỗi trận chiến, quan quân triều đình đều ghé chốn này cầu nguyện và được phù hộ để đánh bại quân xâm lược. Truyền thuyết kể rằng, vua Lý Thần Tông từng mắc bệnh lạ và hóa sói nhưng khi đến đền Cùng cầu đảo, nhà vua đã dần khỏi bệnh, tai qua nạn khỏi. Vào thời vua Bảo Thái đầu thế kỷ 17, đã xây dựng một đền trên cột đá với quy mô lớn, vẫn để lại dấu ấn cho tới ngày nay. Các triều đại kế tiếp sau này đều không quên thờ tụng Mẫu tại ngôi đền này. Lịch sử của đền Cùng - giếng Ngọc ở Bắc Ninh không biết chính xác từ bao giờ, nhưng dựa vào nhiều tài liệu cho rằng có thể nó đã tồn tại hơn 1.500 năm. Khi vượt qua cổng Tam quan, bạn sẽ được chìm đắm trong một không gian kiến trúc hài hòa và cổ kính. Khám phá từng ngóc ngách của đền Cùng là cơ hội để du khách hiểu sâu hơn về đời sống văn hóa và kiến trúc của thế hệ ông cha. Ngoài ra, không gian thơ mộng cùng bầu không khí trong lành, địa điểm này cũng là nơi lý tưởng để bạn đến để tĩnh tâm và xua tan đi mọi muộn phiền. Đền Cùng xưa kia từng sở hữu bộ sưu tập bia đá và thần phả đồ sộ, nhưng trải qua chiến tranh, nhiều hiện vật đã bị hư hại và thất lạc. Ngày nay, đền Cùng giếng Ngọc vẫn còn giữ được hai pho tượng bà chúa Giếng và một số hoành phi câu đối quý giá. Để phục vụ tốt hơn nhu cầu của du khách thập phương, đền Cùng đã được xây dựng thêm nhà khách và nhà ghi bia công đức. Giếng Ngọc hình bán nguyệt với độ rộng 20m2, đi xuống là 11 bậc gạch, tiếp đến 4 bậc đá và cuối cùng là 1 bậc gỗ lim ở sát mép giếng. Nước giếng trong vắt lạ thường, có thể thấy tận đến lớp đá ong độc đáo ở đáy, đặc biệt nước giếng uống vào cảm giác mát, ngọt vì chảy ngầm từ trên núi và được thấm qua lớp đá ong. Du khách có thể uống trực tiếp nước giếng mà không cần lọc nhưng muốn đi xuống phải đi chân trần xuống và để giày, dép trên bờ. Người làng Diềm rất trân trọng nước trong giếng Ngọc và cũng thường hay lấy mang về dùng trong nhiều dịp quan trọng. Họ thường lấy nước giếng về để pha trà đãi khách, nấu rượu dùng trong các lễ nghi trọng đại của gia đình và dòng họ. Kinh nghiệm du lịch Bắc Ninh, đối với du khách đến tham quan và cúng lễ đây không chỉ đơn thuần là nước uống giải khát, mà còn mang theo niềm tin về sức khỏe, sự minh mẫn. Đền Cùng và giếng Ngọc có truyền thuyết về ba ông thần cá cũng rất hút khách đến tham quan. Tất cả thần cá đều có kích thước lớn và nổi bật hơn hẳn so với cá thường, sống trong giếng từ rất lâu rồi. Kể cả những trận lũ lụt lịch sử khiến giếng Ngọc ngập sâu khiến nhiều con rùa và cá không thể sống nổi, nhưng ba ông thần cá vẫn không hề rời đi, tồn tại kiên cường. Sự kiện này được truyền miệng qua bao thế hệ, càng tô điểm thêm sự huyền bí và linh thiêng cho giếng Ngọc. Người dân địa phương tin rằng cá thần trong giếng Ngọc chính là hiện thân của hai công chúa nhà vua Lý Thánh Tông. Mùa thu, nước trong giếng thường rút xuống thấp nhất, đến đây lúc này bạn có thể dễ dàng chiêm ngưỡng ba cá thần bơi lội tung tăng trong giếng. Giếng Ngọc, thực chất là giếng nước được người xưa khai thác để phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày. Nhờ mạch nước ngầm từ hai ngọn núi Kim Sơn và Kim Lĩnh, nước trong giếng Ngọc ở đền Cùng rất mát và trong. Người dân làng Diềm xưa đến nay đều truyền tai nhau rằng cũng nhờ uống nước trong giếng Ngọc mà sở hữu được chất giọng quan họ uyển chuyển, vang, rền, khiến lòng người say đắm. Đến với đền Cùng - Giếng Ngọc, để thư giãn, hiểu biết thêm về chốn tâm linh lâu đời mà còn có cơ hội được đến tận làng Diềm - được biết đến là cái nôi của quan họ Bắc Ninh. Dạo quanh làng ngắm cảnh, thưởng thức những làn điệu quan họ đằm thắm, ngọt ngào để thêm yêu mến văn hóa cũng như con người tại xứ Kinh Bắc.
Bắc Ninh
Từ tháng 01 đến tháng 03.
1525 lượt xem
Đến với Bắc Ninh người ta nghĩ ngay tới cái nôi văn hóa Lạc Việt, những làn điệu dân ca quan họ dịu ngọt… Vậy nhưng đừng quên tại đây còn có Nhà thờ Chính tòa Bắc Ninh – ngôi Thánh Đường 127 tuổi cổ kính với kiến trúc nghệ thuật có một không hai. Nhà thờ Chánh tòa Bắc Ninh tọa lạc tại đường Ngô Gia Tự, Ninh Xá, tỉnh Bắc Ninh. Vị trí nhà thờ đắc địa ngay giữa trung tâm thành phố Bắc Ninh và chỉ cách thành cổ Bắc Ninh 300m. Năm 1889, Đức cha Antonio Lễ – Giám mục tiên khởi đã chọn mua mảnh đất tại đây và bắt đầu cho xây dựng nhà thờ cùng với Tòa Giám Mục. Sau 3 năm xây dựng, đến năm 1892 Nhà thờ Chánh tòa Bắc Ninh chính thức được khánh thành. Từ đó đến nay, đây là nơi tập trung sinh hoạt thường xuyên tín ngưỡng tôn giáo của giáo dân Bắc Ninh và các khu vực xung quanh. Trong những năm chiến tranh ác liệt, nhiều công trình lịch sử bị tàn phá nặng nề. Vậy nhưng trải qua hơn một trăm năm thăng trầm, nhà thờ Chính tòa Bắc Ninh vẫn sừng sững vững vàng vượt qua bom đạn, rêu phong của năm tháng và trở thành biểu tượng cho giáo phận Kinh Bắc, là “di sản Đức Tin” lưu giữ những minh chứng lịch sử hùng hồn của dân tộc. Nhờ thế mà dù gặp biết bao khó khăn trong đời sống đức tin, nhưng niềm tin sắt son của giáo phận Bắc Ninh vẫn mãi kiên vững không lay. Nhà thờ Chính tòa Bắc Ninh được xây dựng theo lối kiến trúc Baroque độc đáo của Ý được hình thành vào thế kỉ XVI. Không gian nhà thờ được xây dựng theo cấu trúc hình chữ thập và tuân theo quy tắc đối xứng đặc trưng của kiến trúc nhà thờ thời kỳ Phục Hưng. Nhà thờ có chiều dài khoảng 45m, chiều ngang rộng 12m được tạo thành từ 12 cột chính hình chữ nhật cao hai tầng tượng trưng cho 12 vị thánh tông đồ, chia đều hai hàng mỗi bên sáu chiếc. Nhìn từ xa, bạn sẽ cực kì ấn tượng với ngoại hình bên ngoài của Nhà thờ Chính tòa Bắc Ninh. Điểm nhấn đầu tiên là mặt tiền nhà thờ với hai ngọn tháp cao 22m. Ngọn tháp này được tạo thành từ 4 khối hình hộp xếp chồng lên nhau và trên cùng là tháp chóp. Có ý kiến cho rằng hai ngọn tháp này tượng trưng cho liền anh và liền chị đang đứng nâng chiếc nón quai thao. Phía trong hai ngọn tháp có treo ba quả chuông bằng đồng được đúc từ khi xây dựng nhà thờ. Suốt hơn một thế kỉ qua, tiếng chuông nhà thờ Bắc Ninh cao vút quen thuộc vẫn vang lên đều đặn lan tỏa khắp các phố phường. Tiếng chuông ấy đã trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống tín ngưỡng nói riêng và trên miền quê hương Quan họ nói chung. Phía mặt trước nhà thờ ta có thể dễ dàng nhận ra rất nhiều hình ảnh tượng trưng về Đức Mẹ. Trên cùng là biểu tượng của Mẫu Tâm với hình trái tim kết hợp cùng vương miện. Ngay bên dưới đó là hình ảnh triều thiên cùng bốn bông hoa tượng trưng cho Đức Mẹ Mân Côi. Hai bên cạnh chạm khắc hai huy hiệu Giám mục được cho là của Đức Cha An-tô-ni-ô Cô-lô-mơ Lễ Lễ và Ðức cha Mac-xi-mi-nô Van-lát-cô Khâm. Phía dưới là bốn bông hồng được khắc thêm trong dịp kỉ niệm nhà thờ tròn 100 tuổi, biểu tượng cho lòng sùng mến Đức Mẹ. Dưới sảnh đường nhà thờ bố trí ba cửa vào, một cửa lớn ở chính diện và hai cửa phụ nhỏ hai bên. Điều này khá tương đồng với cổng làng Tam quan ở các làng quê Việt Nam. Đi vào bên trong nhà thờ, có lẽ bạn sẽ còn ấn tượng hơn nữa với không gian nơi đây. Một không gian rộng lớn, thoáng đãng và tràn ngập ánh sáng lung linh mỗi buổi sớm khi nắng mai chiếu xuống. Gian cung thánh chính là trung tâm nhà thờ với thiết kế vô cùng độc đáo và tinh tế với hàng ngàn mảnh gỗ Hương đỏ xếp xen kẽ nhau. Mái trần nhà thờ được xây bằng gỗ dồi theo kiểu đan mắt cáo. Hai bên là các bức tranh kính khắc họa chân dung 4 vị Thánh sử và diễn tả 20 mầu nhiệm kinh Mân côi. Điểm nhấn của gian cung thánh chính là cây Thánh giá được làm bằng gỗ hương đỏ lớn cùng tượng “Chịu nạn” được trạm trổ bằng gỗ Pơmu nguyên khối. Bên trên gác đàn có 12 bức phù điêu vẽ 12 nhà thờ giáo xứ đầu tiên được thiết lập khi giáo phận mới được khai sinh vào năm 1883. Phía cuối nhà thờ là Chính toà - nơi đặt ngai Giám mục thể hiện cho sự hiện diện diện và cai quản của Đấng Bản Quyền giáo phận. Bàn Thánh, Ghế và bục đều được làm từ gỗ Hương đỏ chạm khắc tinh tế tượng trưng cho sự giao hoà đất trời và sự trường tồn vĩnh cửu của Đạo Chúa. Bên trái gian cung thánh là bức tượng Nữ Vương Thánh Mân Côi cổ nhất Giáo phận. Theo tài liệu ghi chép lại, bức tượng này được các Cha Dòng Đa Minh Tây Ban Nha tặng nhà thờ nhân dịp khánh thành năm 1892. Dáng vẻ mềm mại, dịu dàng làm cho bức tượng thêm sống động và mang đậm hơi thở của đời sống Đức Tin. Đối diện sang phía bên phải gian cung thánh là tượng Thánh Giuse Hoàng Lương Cảnh, trong tay cầm cành thiên tuế. Thời vua Minh Mạng ngài đã can trường giữ vững Đức tin qua việc khẳng định “Thiên Chúa là thượng phụ” và chịu phúc tử đạo vào ngày mồng 5 tháng 9 năm 1838 tại pháp trường Cổ Mễ. Đến ngày 27 - 5 - 1900, Đức Giáo Hoàng Lê-ô XIII suy tôn Ngài lên bậc Chân Phước của Giáo Hội. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn Ngài lên bậc Hiển Thánh. Du khách có thể lựa chọn nhiều thời gian khác nhau, tùy theo mục đích và sở thích khi đến thăm Nhà thờ Bắc Ninh. Nhìn chung, du khách muốn chiêm ngưỡng vẻ đẹp kiến trúc và nghệ thuật của nhà thờ thì có thể đến vào bất kỳ ngày nào trong năm. Nếu bạn đến thăm Nhà thờ Bắc Ninh để cầu nguyện và hành hương thì có thể chọn các ngày lễ lớn của Giáo hội Công giáo, như Giáng sinh, Phục sinh, Lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu,... Những ngày này, nhà thờ chính tòa Bắc Ninh sẽ tổ chức nhiều Thánh lễ và hoạt động tôn giáo cho giáo dân và du khách. Nhà thờ Chính tòa Bắc Ninh đã trải qua một lần trung tu vào năm 1990 nhưng nơi đây vẫn còn nguyên vẹn nét kiến trúc cổ kính vốn có. Ngày nay, nơi đây điểm sinh hoạt tôn giáo thường xuyên của các giáo dân. Vào mỗi chủ nhật hàng tuần, mọi người đều cùng tới nhà thờ và cầu nguyện. Ngày nay, nơi đây trở thành một điểm đến của rất nhiều giáo dân trong khu vực cũng như khách du lịch và các bạn trẻ tới tham quan khám phá.
Bắc Ninh
Từ tháng 01 đến tháng 12.
1430 lượt xem
Làng nghề đúc đồng Đại Bái một cái tên khá quen thuộc đối với người dân Việt Nam. Đây là một địa chỉ nổi tiếng với hàng trăm năm làm nghề gò đồng thủ công. Sau một thời gian dài xây dựng và phát triển hiện nay đúc đồng chính là công việc chính của người dân làng này. Về lịch sử hình thành thì theo những dữ liệu ghi chép lại ở khu di tích người ta biết được rằng nghề đúc đồng đã có từ xa xưa nhưng phải đến khoảng đầu thế kỉ thứ 11 thì nó mới được phát triển rộng rãi nhờ công của ông Nguyễn Công Truyền. Sau này ông đã truyền dạy cho những người trong làng và nhờ đó đúc đồng đã trở thành nghề chính của người dân nơi đây. Một thời gian dài phát triển với rất nhiều mẫu mã đẹp, đa dạng nghề gò đồng đã biến làng Đại Bái trở thành làng nghề với tên gọi là làng nghề đúc đồng Đại Bái. Và Nguyễn Công Truyền đã được tôn vinh trở thành tiền tiên sư của nghề này. Với làng Đại Bái hiện nay chia làm 4 xóm chính và mỗi xóm sẽ chuyên sản xuất một loại đồ đồng riêng. Chẳng hạn như xóm Sông thì chuyên làm đồ thờ, xóm Tây chuyên làm chiêng, cồng, mâm, xóm Giữa thì chuyên làm xiêu, niêu còn xóm Ngoài thì chuyên làm nồi,…. Ở thời điểm hiện tại trên địa bàn làng đang có trên 70 doanh nghiệp, gần 700 hộ chuyên làm nghề với tổng số lao động lên tới hơn 1.700 người. Khi đến với làng nghề đồng Đại Bái mọi người không chỉ được xem các sản phẩm được làm từ đồng, xem quy trình sản xuất ra chúng mà còn được khám phá những khu di tích văn hóa lịch sử về làng như: chùa Diên Phúc, đình Văn Lãng, khu lăng của ông tổ nghề đồng Nguyễn Công Truyền, lễ hội truyền thống của làng Đại Bái,…..Vậy nên nếu như có thời gian hãy dành ra một chút để có thể tham quan và khám phá hết những nét văn hóa hay, độc đáo của người dân làng nghề nơi đây nhé. Để tham quan làng nghề đúc đồng Đại Bái mọi người có thể đến vào bất cứ lúc nào. Bởi làng nghề hoạt động quanh năm cho nên du khách đến vào thời gian nào cũng đều có thể tham quan và tìm hiểu về văn hóa của làng. Tuy nhiên nếu như bạn muốn trải nghiệm thử mùa lễ hội tại đây thì có thể đến vào khoảng đầu tháng tư âm lịch. Bởi hàng năm vào ngày 10/4 người dân nơi đây sẽ tổ chức lễ hội truyền thống của làng hay còn gọi là lễ hội truyền thống làng Đại Bái. Vậy nên nếu có thể hãy lựa chọn khoảng thời gian này để thấy được nhiều nét văn hóa của người dân nơi đây nhé. Đến với làng nghề đúc đồng Đại Bái khách du lịch sẽ không phải mất tiền vé vào. Bởi đây là một làng nghề thủ công nó rất rộng rãi mọi người có thể thoải mái tham quan và tìm hiểu những nét đặc trưng nơi đây. Người dân ở làng cũng rất thân thiện, mến khách họ sẵn sàng giới thiệu cũng như chia sẻ những kinh nghiệm, quy trình mà mình làm ra những sản phẩm từ đồng. Đến tham quan làng nghề đúc đồng Đại Bái chiêm ngưỡng rất nhiều sản phẩm mỹ nghệ từ đồng. Ngoài việc chế tác thủ công truyền thống, việc tiếp cận các công nghệ chế tác hiện đại giúp làng nghề tạo ra nhiều sản phẩm phong phú, năng suất cao được thị trường ưa chuộng. Nếu trước kia làng Đại Bái chỉ sản xuất đồ thờ cúng thì nay đã chuyển sang các loại tượng đồng, đỉnh đồng, lư hương, tranh tứ quý, bình hoa, các bộ đồ trà, các bộ đồ thờ, tranh chạm khảm, hoành phi, câu đối… đòi hỏi kỹ thuật cao, xuất khẩu sang thị trường một số nước châu Á, Đông Nam Á. Các sản phẩm luôn có giá thành tốt và độ bền cao, lưu giữ được giá trị nghệ thuật. Và không dừng lại ở việc trau chuốt, trơn nhẵn, mà người ta còn khảm, cẩn các chi tiết hoa văn cầu kỳ lên bề mặt sản phẩm cho thêm phần sinh động. Với nội lực từ chính đôi bàn tay khéo léo, sự cần cù, sáng tạo của những người thợ đúc đồng đã và đang góp phần tạo dựng cho nghề truyền thống của quê hương Đại Bái ngày càng khởi sắc, vươn xa. Có thể thấy rằng làng nghề đúc đồng Đại Bái là một làng nghề vô cùng lâu năm và nổi tiếng. Đây là một minh chứng cho lịch sử phát triển của nghề đồng và cũng là nơi chứa đựng một nền văn hóa cực kỳ sâu sắc của con người Việt Nam. Với sự nỗ lực và cố gắng không ngừng giờ đây Đại Bái đã vô cùng phát triển trở thành một điểm đến du lịch thu hút đông đảo khách tham quan.
Bắc Ninh
Từ tháng 01 đến tháng 12.
1235 lượt xem
Thành cổ Luy Lâu có kiến trúc cổ kính, nơi chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử quan trọng và lưu giữ nhiều cổ vật quý giá. Không gian cảnh quan thiên nhiên tuyệt đẹp, bạn có thể đến đây để thư giãn cũng như tìm hiểu về lịch sử và văn hóa đặc sắc. Thành Luy Lâu ở Bắc Ninh còn có các tên gọi khác như: Lũng Khê, Siêu Loại,... Toà thành cổ này có niên đại khoảng 2000 năm hiện nay nằm ở xã Thanh Khương, Thuận Thành, Bắc Ninh. Được đánh giá một trong những tòa thành cổ nhất của Việt Nam chỉ đứng sau thành Cổ Loa ở Đông Anh, Hà Nội. Vào thế kỷ thứ 2, Luy Lâu cũng được ví như kinh đô thứ 2 của nước ta, đồng thời cũng là trung tâm giáo dục, văn hoá quan trọng. Từ Hà Nội đến Thành Luy Lâu chỉ khoảng 30km, sau khi được hình thành nơi đây đã phát triển thịnh vượng không ngừng trong nhiều thế kỷ. Luy Lâu lúc bấy giờ gắn liền với tên tên tuổi của Sĩ Nhiếp, Ngài đã có công đưa Nho Giáo vào nước ta tại nơi mình cai trị là xứ Giao Châu, không những thế còn cho thực hiện nhiều chính sách nhằm phát triển và được nhiều người biết đến hơn. Theo lịch sử ghi lại thì Luy Lâu là trung tâm Phật giáo cổ xưa nhất và lớn hàng đầu đối với người Việt ta. Với con đường truyền bá đạo Phật từ Ấn Độ đến các nước, địa danh này cũng là dấu mốc quan trọng. Do đó, khu thành cổ Luy Lâu mang rất nhiều dấu ấn lịch sử, một điểm tham quan nổi tiếng tại Bắc Ninh mà nếu có dịp bạn nhớ ghé đến tham quan. Khám phá khu thành cổ này trở thành một trong những hành trình thú vị hút khách quanh năm tại vùng đất quan họ, nên bạn cũng có thể đến tham quan bất cứ thời điểm nào. Nếu muốn tham gia thêm nhiều hoạt động trải nghiệm văn hoá hơn thì hãy đến vào khoảng đầu năm từ tháng 1 - tháng 3. Sẽ có nhiều lễ hội lớn diễn ra như: hội Đình Bảng, hội Lim,... với nhiều hoạt động đặc sắc. Mùa hè, khoảng thời gian từ tháng 4 - tháng 5 thời tiết chưa quá nóng, khá khô ráo cho chuyến đi khám phá thành Luy Lâu Bắc Ninh. Ngoài tham quan, chụp ảnh ở thành cổ, bạn đừng quên ghé check in cánh đồng hoa cải nở vàng vào dịp cuối năm nhé. Nhìn chung mỗi thời điểm đều sẽ mang lại những cảm nhận và nét đẹp riêng cuốn hút níu chân bạn khó lòng rời xa. Với sự kết hợp của kiến trúc đẹp và lịch sử phong phú, cảnh quan ở thành cổ Luy Lâu thực sự tạo được sức cuốn hút lớn. Ngôi thành cổ này thời xưa được làm hoàn toàn bằng đất, do sự biến thiên của thời gian mà giờ đây đã bị sàn bằng gần hết. Hiện nay chỉ còn một đoạn thành dài nằm ven sông Dâu nhưng vẫn gợi nhắc về cả một quá khứ huy hoàng, cuộc sống tấp nập bên trong thành thời xưa. Ngoài cảnh quan thiên nhiên trầm lặng, cổ kính đi sâu vào bên trong thành bạn sẽ được tận mắt chiêm ngưỡng nhiều cổ vật quý hiếm. Nổi bật nhất là tấm bia cổ cách trung tâm chỉ vài trăm mét đặt cạnh đền thờ con trai của Sĩ Nhiếp - Sĩ Huy ở làng Thanh Hoài. Tấm bia có nên đại từ năm 314 đến năm 450, được đánh giá là xuất hiện sớm nhất ở nước ta thời bấy giờ. Cầu đá Lũng Khê là cây cầu đá cổ bắc ngang qua một ao nước lớn, đi qua đây bạn mới vào được đền thờ Sĩ Nhiếp. Đó cũng là một trong những địa điểm du lịch Bắc Ninh kết hợp check in “sống ảo” được nhiều bạn trẻ tìm đến. 20 tấm đá to được dùng để lát lên bề mặt của cầu, ngồi trên đó chụp ảnh sẽ có cảm giác an yên và rất thư thái. Ngoài ra khi đến thành cổ Luy Lâu du khách có thể ghé thăm các điểm du lịch tâm linh gần đó như Đền thờ Sĩ Nhiếp, khám phá chùa Bình Văn, chùa Phi Tướng, chùa Dâu. Đến xứ quan họ Bắc Ninh ngoài những cảnh đẹp hay lễ hội, văn hoá truyền thống thì ẩm thực cũng mang nét đặc sắc riêng. Trên đường ghé thăm vùng đất Luy Lâu, bạn nhớ dành thời gian thưởng thức các món ăn nổi tiếng ở nơi đây như: nem Bùi Ninh Xá, gà Hồ, bánh tro Đình Tổ... Khu thành cổ Luy Lâu tuy hiện nay chỉ còn một vài dấu tích nhỏ gợi nhắc về một vùng đất quy mô thời xưa. Tuy nhiên, đến đây tham quan và tìm hiểu bạn sẽ có thêm nhiều trải nghiệm văn hoá thú vị, không chỉ xung quanh vùng đất Luy Lâu mà còn cả địa điểm nổi tiếng khác tại Bắc Ninh.
Bắc Ninh
Từ tháng 01 đến tháng 03.
1405 lượt xem
Suối Rêu còn được gọi là Vực Rêu, có chiều dài 3km và nằm trong khe núi Lòng Thuyền. Đây là một địa điểm có phong cảnh hùng vĩ, lý tưởng cho những chuyến du lịch trải nghiệm và khám phá. Để đến được suối Rêu, từ trung tâm huyện Lục Nam, bạn có thể đi theo quốc lộ 37 hướng đi Sao Đỏ khoảng hơn 10 km để đến xóm Giáp Sơn, nơi có suối Rêu. Suối Rêu và dòng thác của nó luôn tung ra bọt trắng xóa, tạo nên phong cảnh huyền bí và thu hút du khách quanh năm. Trên đường đi đến địa điểm du lịch Lục Nam này bạn sẽ có cơ hội thưởng thức màu xanh bạt ngàn của núi rừng sườn Tây Yên Tử. Khi đến gần suối, bạn sẽ cảm nhận được sự mát mẻ và trong lành của không khí, cùng với âm thanh của tiếng chim rừng thánh thót. Nơi suối chảy ra, dòng nước sẽ tạo thành một dòng thác cao khoảng 15 mét, luôn tung bọt trắng xóa cả ngày lẫn đêm. Ở chân thác, có một hồ rộng đủ cho vài chục người tắm thỏa thích. Để đặt chân được đến thượng nguồn, phải vượt qua quãng đường 3km dọc theo một vách đá hiểm trở. Khi đi qua con suối, du khách có thể nghe thấy tiếng lạo xạo từ những viên sỏi trắng trong veo dưới dòng nước. Kinh nghiệm du lịch Bắc Giang, từ đỉnh núi Mã Yên, du khách có thể tận hưởng khung cảnh toàn cảnh của sườn Tây Yên Tử, núi Đống Thóc bên kia, núi Hình Nhân ở phía này và khe núi Lòng Thuyền có hình thù giống cái tên của nó. Mùa này ít nước, lòng suối chỉ có mạch nước nhỏ mát lạnh từ thượng nguồn, len lỏi qua những kẽ đá chảy róc rách. Đây cũng là thời gian lòng suối có dịp phô hết vẻ đẹp khoẻ khoắn thiên tạo của mình. Thảm thực vật hai bên suối khá phong phú: sim, mua, trúc, bìm bìm và nhiều loại cây khác chưa được biết tên. Trên vách đá thỉnh thoảng chúng tôi gặp những cây cổ hàng trăm năm tuổi với những rễ cây to xù xì ôm chặt vào vách, vừa hiên ngang vừa kiêu dũng, những dải lá thả xuống lòng suối mềm như liễu rủ…Ở trên cao nhìn xuống có thể thấy những hồ nước nhỏ trong veo, xanh biếc - là những hồ tắm thiên tạo mà thiên nhiên đã ưu ái ban tặng cho du khách. Từ trên đỉnh núi Mã Yên phóng tầm mắt xa hàng trăm dặm ngắm nghía cả một vùng rộng lớn, hùng vĩ đến diệu kỳ của sườn tây Yên Tử, ta mới thấy con người nhỏ bé trước thiên nhiên đến mức nào. Mùa hè, con suối ở Vực Rêu là bồn tắm thiên tạo lý tưởng mà ai đã có dịp đến đây khó có thể bỏ qua. Còn đến mùa mưa, ở độ dốc cao như thế, Vực Rêu đẹp hơn nhiều bởi đủ loại thác nước cao, thấp giữa vùng núi non hoang sơ của rừng đại ngàn Tây Yên Tử. Cùng với khu du lịch Suối Mỡ, suối Nước Vàng, Thác Giót, Vực Rêu là món quà mà thiên nhiên ưu ái ban tặng cho miền sông Lục – núi Huyền.
Bắc Ninh
Từ tháng 04 đến tháng 06
1320 lượt xem
Vân Hà là một làng nổi tiếng thuộc huyện Bắc Giang. Nơi đây du khách đắm say bởi thứ rượu đặc sản Vân Hà đã từng được dâng tiến vua. Thứ rượu ngon ấy đã khiến Đế vương Lê Hy Tông, người từng nếm biết bao của ngon vật lạ vẫn phải ban sắc những lời khen: “Vân hương mỹ tửu lừng biển Bắc Chiến công Như Nguyệt rạng trời Nam” Làng rượu Vân Hà nằm tại xã Vân Hà, huyện Việt Yên tỉnh Bắc Giang. Làng nằm dọc tả ngạn sông Cầu, trải dài hơn 1km. Mặc dù là làng quê, nhưng điều đặc biệt là người dân ở đây không có ruộng. Họ không cấy lúa, chăn nuôi mà làm chủ yếu bằng nghề giao thương, trong đó, tiêu biểu nhất là nghề nấu rượu. Rượu làng Vân tao nhã, vị êm nồng nhưng đắm say. Cái tên rượu làng Vân đã trở thành một mỹ tửu dâng vua, một niềm tự hào sâu sắc của người Vân Hà nói riêng và Bắc Giang nói chung. Theo người dân nơi đây kể lại, nghề nấu rượu tại làng Vân Hà đã bắt đầu được hơn 400 năm. Tổ nghiệp nghề rượu là cụ bà Nghi Định. Bà mang nghề rượu từ Trung Hoa và truyền dạy cho dân làng Vân Hà. Từ đó, người dân trong vùng cũng dần dần khấm khá hơn, không còn cái nghèo đói. Chính vì vậy, mà người dân nơi đây tôn thờ bà Nghi Định làm thánh sư. Và cứ vào mùng 4 Tết Nguyên đán, mỗi nhà trong làng sẽ cử một người ra chùa Rộc cắt máu ăn thề. Lời thế giữ gìn bí quyết nghề tổ, không được truyền ra ngoài thiên hạ. Rượu làng Vân nổi tiếng bao đời, là thức tinh hoa được nhiều “vua biết mặt, chúa gọi tên”. Dưới triều đại phong kiến, thức rượu này luôn được chọn tiến dâng lên vua, xuất hiện trong các buổi yến tiệc linh đình. Rượu làng Vân đã có mặt ở khắp nơi, từ Nam ra Bắc, và cả nước ngoài. Ngoài Đế vương Lê Hy Tông, còn có vua Bảo Đại cũng rất ưa thích. Hãng rượu Phông – Ten (Fontaine) nổi tiếng của Pháp, cũng dùng rượu làng Vân là rượu cốt để pha chế. Rượu làng Vân trong vắt, có hương vị nồng nàn, cay bùi. Nhưng điều đặc biệt, thức rượu ấy khiến người ta mơ màng nhưng lúc tỉnh dậy không có cảm giác đau đầu, uể oải mà còn thấy khoẻ mạnh, sảng khoái hơn. Tất cả bắt nguồn từ những sự cầu kỳ, tỉ mỉ trong các khâu chuẩn bị, nấu và ủ cũng như là các nguyên liệu sạch và không chất bảo quản trong quá trình làm rượu. Nguyên liệu được chọn để nấu rượu là những bông nếp cái hoa vàng thơm ngon. Hạt gạo được lựa chọn không được là gạo non hay đổ lúa mà phải đủ chín. Từng hạt gạo cũng phải đủ độ căng, mọng, vàng. Một điều nữa để quyết định hương vị và chất lượng rượu làng Vân là thứ men đặc biệt. Thứ men đó được làm nên từ 35 vị men thuốc Bắc. Sau khi lên men gạo nếp và ủ, rượu sẽ được chưng cất qua một hệ thống lọc và xử lý đa tầng. Nhờ đó, mà rượu giữ được hương vị ngon lại không ảnh hưởng đến sức khoẻ. Sau khi chưng cất, rượu đã có thể đi vào sử dụng. Nhưng để giữ được cái vị êm ái, rượu làng Vân dược đem đi hạ thổ bằng bình sành sứ. Thời gian càng lâu, rượu càng thêm đượm vị ngon. Sự cầu kỳ ấy đã tạo nên cho rượu làng Vân một hương vị đắm say. Rượu làng Vân đã tồn tại rất lâu đời, nổi danh khắp tứ phương với vị riêng biệt. Đã từng có người làng Vân đem các quy trình đó đến các vùng quê khác như Phú Thọ, Nam Định… Nhưng vẫn loại gạo, men và công thức ấy cũng không sao tạo được cái chất, cái hồn của rượu làng Vân. Có lẽ bởi thiếu vị nước sông Cầu. Cái hồn của rượu làng Vân chính là sự hoà quyện của các thức ẩm thực quê Hương. Là vị Hương đậm đà, thanh khiết. Thứ rượu ấy khiến người say, say trong cái nền nã, ngọt dịu. Rượu làng Vân được ưa chuộng không chỉ ở trong nước mà còn cả nước ngoài. Hương vị đắm say có thể sánh ngang với bất kỳ một loại whisky hảo hạng nào trên thế giới. Tuy nhiên, do nấu từ các nguyên liệu địa phương nên giá của rượu làng Vân khá rẻ chỉ khoảng 260.000 đồng/bình (500ml). Rượu làng Vân đã trở thành niềm tự hào với người dân Bắc Giang. Với nhiều người, đây là một món không thể thiếu trong những bữa cơm hoặc dịp lễ tết. Chầm chậm nhấp từng hơi, chất men thấm từ từ trong miệng, đọng lại vị ngọt thơm của lúa nếp, của hồn quê làng Vân.
Bắc Ninh
Từ tháng 01 đến tháng 12
1396 lượt xem
Hồ Suối Nứa được biết đến với một mặt hồ rộng lớn, mang đến nguồn thủy sản đa dạng và phong phú. Ngoài việc cung cấp nước tưới cho hơn 1.000ha diện tích đất nông nghiệp thuộc vùng hạ lưu, hồ Suối Nứa đang trở thành điểm đến hấp dẫn cho du khách muốn khám phá và trải nghiệm cảnh thiên nhiên kỳ thú. Do mặt hồ rộng lớn, lòng hồ sâu nên nguồn thủy sản ở đây rất đa dạng, phong phú. Và vì thế, đã và đang hình thành loại hình dịch vụ câu cá trên hồ. Tại đây, bạn có thể tham gia các dịch vụ câu cá với giá khoảng 50.000 đồng cho một ngày câu. Buổi sáng, khung cảnh yên bình tạo nên không gian tuyệt vời và nếu có cơ hội xuống thuyền dạo trên mặt hồ Suối Nứa, bạn sẽ được ngắm nhìn những hòn đảo xanh tươi nổi bật giữa dòng nước trong veo. Nếu có dịp xuống thuyền dạo trên mặt hồ Suối Nứa, du khách sẽ được ngắm những hòn đảo xanh soi mình bên dòng nước trong. Vườn cam chín đỏ trên bán đảo, cũng tạo sức lôi cuốn du khách đến với hồ Suối Nứa. Hồ Suối Nứa là vùng bảo tồn sinh thái tự nhiên, đa dạng sinh học và văn hóa đặc thù riêng của dân cư sinh sống tại địa phương. Hiện nay, hồ Suối Nứa đang trở thành điểm đến hấp dẫn cho những du khách muốn khám phá, trải nghiệm trước cảnh thiên nhiên kỳ thú trong lành với những hòn đảo xanh nằm độc lập trong khuôn viên hồ. Xung quanh hồ, có nhiều bãi đất trống cho du khách dựng lều, cắm trại và tận hưởng không gian riêng tư cho các cặp đôi tại Bắc Giang. Trải nghiệm đầu tiên bạn có thể thử đó là thả hồn trên du thuyền cảm nhận sự mênh mông, tĩnh lặng của mặt hồ, ngắm cảnh trời mây, non nước. Đến hồ Suối Nứa , bạn có thể ghé thăm 5 hòn đảo nổi ở lòng hồ. Không gian thơ mộng, ngồi trên thảm có xanh mát, thưởng thức những trái cây đặc trưng của vùng Bắc Giang sẽ khiến bạn được đắm chìm trong vẻ đẹp bình yên của thiên nhiên. Ngoài những trái cây đặc sản, tại hồ Suối Nứa, bạn còn được thưởng thức những “sản phẩm” từ thiên nhiên như mật ong, rượu tắc kè, hạt dẻ,... Đây đều là những thứ khó kiếm được ở nơi thành thị xô bồ. Ngoài ra , du khách có thể trải nghiệm cuộc sống của đồng bào dân tộc thiểu số với những giá trị văn hoá đặc sắc. Đặc biệt, người dân nơi đây rất thân thiện, hiếu khách, họ luôn sẵn sàng chào đón khách đến thăm với sự chân thành. Ngoài ra, bạn còn có thể tham gia cùng họ trong những điệu hát Sloong, hao, Sì, Lượn, thẹn của người Sán Chí, Cao Lan, Tày, Nùng… Mỗi nơi sẽ có một thời điểm riêng để thể hiện hết vẻ đẹp vốn có mà thiên nhiên ban tặng. Với hồ Suối Nứa , bạn có thể đến đây ở mọi thời điểm trong năm để tận hưởng không khí mát mẻ và trong lành của nơi đây. Tuy nhiên, thời điểm được yêu thích nhất vẫn là mùa hè.Khác hẳn với không khí oi bức, cái nắng chói chang của thành phố, tại nơi đây, mùa hè mang lại cho bạn cảm giác mát mẻ. Làn gió dịu nhẹ, không khí bình yên, thiên nhiên trong lành sẽ cuốn đi hết những muộn phiền trong cuộc sống của bạn. Hồ Suối Nứa là một nơi bình yên, phù hợp cho những ai yêu thích kiểu du lịch trải nghiệm cộng đồng, thể thao leo núi hay đơn giản là tìm chốn nghỉ ngơi sau những tháng ngày làm việc mệt mỏi. Nếu bạn có hứng thú và muốn ghé thăm Lục Nam Bắc Giang thì đừng quên ghé thăm địa điểm du lịch này nhé !
Bắc Ninh
Từ tháng 04 đến tháng 06.
1434 lượt xem
Thác nước Hang Chiêng là một trong những kỳ quan thiên nhiên nổi tiếng nhất của Việt Nam, đặc biệt là vùng Bắc Giang núi Tây Bắc. Hình ảnh một dòng nước chảy mạnh mẽ từ trên cao đổ xuống, tạo nên những màn mây trắng xóa giữa khung cảnh núi non hùng vĩ đã trở thành biểu tượng của vùng đất này. Hang Chiêng là một thác nước tự nhiên, được hình thành bởi quá trình xói mòn của đá vôi trong hàng triệu năm. Nước chảy xiết từ trên cao xuống, tạo thành những lớp mây trắng xóa, tung bọt trắng xóa. Tiếng nước chảy ào ào hòa quyện với tiếng gió rừng tạo nên một bản giao hưởng tự nhiên hùng tráng. Thác nước nằm tại vùng núi Tây Bắc của Việt Nam, một trong những khu vực có địa hình hiểm trở và đa dạng sinh học nhất cả nước. Vị trí địa lý đặc biệt này đã góp phần tạo nên vẻ đẹp hoang sơ và hùng vĩ của thác nước. Với độ cao hàng trăm mét, thác nước như một dải lụa trắng khổng lồ đổ xuống từ trên cao. Chiều rộng của thác cũng rất ấn tượng, tạo nên một bức tranh toàn cảnh hùng vĩ. Nguồn nước của Hang Chiêng là từ các con suối nhỏ đổ về. Qua hàng triệu năm, dòng nước này đã không ngừng bào mòn đá vôi, tạo nên những hang động và thác nước kỳ ảo như ngày nay. Thác nước này không chỉ nổi tiếng với dòng nước đổ mạnh mà còn bởi cảnh quan xung quanh vô cùng hùng vĩ và thơ mộng. Giữa đại ngàn vùng núi Tây Bắc, thác nước như một viên ngọc quý, tỏa sáng rực rỡ. Địa hình nơi đây được tạo nên bởi những khối đá vôi xếp chồng lên nhau, tạo thành những vách đá dựng đứng, hùng vĩ. Nước chảy xiết từ trên cao xuống, qua những khe đá, tạo nên những âm thanh trầm hùng, như một bản giao hưởng của thiên nhiên. Cảnh quan này không chỉ mang đến vẻ đẹp hoang sơ mà còn là một thử thách lớn cho những ai muốn khám phá. Đá ở đây mang nhiều hình thù kỳ lạ, được bào mòn bởi nước chảy và gió tạo nên những hình thù độc đáo. Cây xanh bao phủ khắp các vách đá, tạo nên một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp. Từ trên đỉnh thác, du khách có thể ngắm nhìn toàn bộ cảnh quan xung quanh. Núi non trùng điệp, mây trôi lững lờ, sông uốn lượn như một dải lụa mềm mại. Cảm giác như lạc vào một thế giới thần tiên, nơi con người hòa mình vào thiên nhiên.Thác nước Hang Chiêng không chỉ là một kỳ quan thiên nhiên mà còn là ngôi nhà chung của hàng trăm loài động vật hoang dã. Vùng núi Tây Bắc với địa hình hiểm trở và khí hậu đặc trưng đã tạo nên một môi trường sống lý tưởng cho nhiều loài sinh vật quý hiếm. Rừng xung quanh thác nước là nơi sinh sống của nhiều loài thú như khỉ, hươu, nai, thậm chí cả những loài mèo lớn như báo và cọp. Đặc biệt, Hang Chiêng với hệ thống hang động kỳ bí là nơi trú ẩn của nhiều loài dơi. Vào ban đêm, hàng ngàn con dơi bay ra khỏi hang tạo nên một khung cảnh huyền ảo. Động vật lưỡng cư như ếch và nhái cũng tìm thấy nơi trú ẩn trong những vũng nước nhỏ xung quanh thác. Xung quanh thác nước, thực vật phát triển xanh tốt, tạo nên một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp. Rừng nguyên sinh bao phủ với nhiều loài cây cổ thụ, cây bụi và cây cỏ. Cây xanh không chỉ cung cấp oxy mà còn là nơi trú ẩn và nguồn thức ăn cho nhiều loài động vật. Rừng quanh thác nước còn có nhiều loài cây thuốc quý được người dân địa phương sử dụng để chữa bệnh. Cây dược liệu này đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống của người dân nơi đây. Thời điểm tốt nhất để đến du lịch thác nước Hang Chiêng - Khe Nương Dâu : Mùa xuân và mùa thu chính là hai mùa đẹp nhất để bạn đến với Hang Chiêng. Khi mùa xuân về, thiên nhiên như bừng tỉnh sau giấc ngủ đông. Rừng núi khoác lên mình tấm áo mới với muôn hoa khoe sắc. Thác nước trở nên trong xanh hơn bao giờ hết, róc rách dưới ánh nắng ấm áp. Còn khi mùa thu đến, Hang Chiêng lại khoác lên mình một vẻ đẹp trầm mặc, lãng mạn. Lá cây chuyển màu vàng, đỏ, tạo nên một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp. Không khí se lạnh, sương giăng kín lối, càng làm tăng thêm vẻ huyền ảo cho nơi đây. Bạn nên tránh đến Hang Chiêng vào mùa mưa vì đường đi khá trơn trượt và nguy hiểm. Ngoài ra, tầm nhìn cũng bị hạn chế do mưa lớn. Một trong những hoạt động hấp dẫn nhất khi đến Hang Chiêng chính là trekking. Bạn sẽ được hòa mình vào thiên nhiên hoang sơ, chinh phục những con đường mòn đầy thử thách để đến được những góc khuất của thác nước. Cảm giác chinh phục đỉnh núi, đứng trước vẻ đẹp hùng vĩ của thác nước sẽ mang lại cho bạn những trải nghiệm khó quên. Cắm trại bên bờ thác nước là một trải nghiệm tuyệt vời cho những ai yêu thích sự yên tĩnh và muốn tận hưởng không khí trong lành. Bạn có thể dựng lều, nhóm lửa, cùng bạn bè tổ chức tiệc nướng BBQ và ngắm nhìn sao trời vào ban đêm. Hang Chiêng với khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp là một địa điểm lý tưởng để bạn thỏa sức sáng tạo với những bức ảnh. Thác nước, rừng núi, hoa cỏ... đều là những góc ảnh đẹp mà bạn không thể bỏ qua. Đến Hang Chiêng, bạn đừng quên thưởng thức những món ăn đặc sản của người dân địa phương. Những món ăn dân dã, đậm đà hương vị núi rừng chắc chắn sẽ làm hài lòng khẩu vị của bạn. Thác nước Hang Chiêng là một điểm đến lý tưởng cho những ai yêu thích thiên nhiên và muốn khám phá những truyền thuyết huyền bí. Sự kết hợp giữa thiên nhiên hoang sơ và các tiện ích du lịch hiện đại chắc chắn sẽ mang đến cho du khách những kỷ niệm khó quên tại đây.
Bắc Ninh
Từ tháng 01 đến tháng 06.
1389 lượt xem
Giữa nhịp sống hối hả như hiện nay, chúng ta có xu hướng tận hưởng thời gian nghỉ ngơi ở những nơi bớt xô bồ như: những resort gần biển, homestay trên núi, hay những khu cắm trại ven ngoại ô. Thế nhưng có một nơi “trú ẩn" khác cũng không kém thư giãn đâu nhé. Hãy cùng mình khám phá làng Thổ Hà với nét đẹp đậm chất làng quê Bắc Bộ xưa. Đến nơi đây, ta thấy cảnh tấp nập ngược xuôi, trên bến dưới thuyền của dòng sông Cầu, được ngắm những cây đa cổ thụ sừng sững vươn lên giữa đất trời, thăm những công trình kiến trúc vô cùng độc đáo như: Đình, chùa, từ chỉ Thổ Hà, cổng làng, miếu làng, điếm làng, giếng cổ, hay những con ngõ nhỏ cổ kính và rêu phong được làm bằng gạch nung, gốm, tiểu sành; thăm các gia đình làm mì gạo, nấu rượu, làm bánh đa nem...Tất cả đã tạo nên vẻ đẹp mộc mạc nhưng vô cùng độc đáo, mang dấu ấn đặc trưng của một làng quê vùng đồng bằng Bắc Bộ. Dọc theo đường quốc lộ 1 từ cầu Chương Dương, Hà Nội về hướng Bắc chừng hơn 30km tới bến xe Bắc Ninh, theo đường Thiên Đức thêm chừng 3km qua bến đò Vạn Phúc, khách du lịch sẽ có cơ hội vào một ngôi làng cổ kính mang đậm bản sắc Việt - làng Thổ Hà. Thổ Hà là tên gọi của một làng nghề nổi tiếng nay thuộc xã Vân Hà, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Không giống như bao ngôi làng Việt, trải qua những thăng trầm lịch sử và sự tàn phá của thời gian, làng Thổ Hà vẫn hiện lên với tất cả những nét cổ kính, rêu phong. Kiến trúc và những nét sinh hoạt văn hóa độc đáo của làng có sức hút mãnh liệt với khách du lịch trong và ngoài nước. Ngôi làng nằm dọc theo dòng chảy của bờ Bắc sông Cầu, ba mặt là sông nước mênh mông, làng Thổ Hà hiện lên như một hòn đảo nhỏ. Du khách đến Thổ Hà hay người Thổ Hà ra khỏi làng phần lớn đều phải đi đò. Chính bởi nét đặc trưng đó, đến với Thổ Hà ta cảm nhận rõ hơn sự lãng mạn, bồng bềnh như lạc về miền quan họ cổ với khung cảnh trên bến, dưới thuyền cùng làn điệu quan họ mượt mà say đắm lòng người. Được biết đến sớm nhất với nghề gốm nổi tiếng khắp gần xa, Thổ Hà xưa kia vốn là một trong ba trung tâm gốm sứ cổ xưa nhất của người Việt, là cái nôi đầu tiên của nghề gốm sứ. Gốm Thổ Hà nức danh khắp chốn Kinh Bắc về chất lượng, kỹ thuật nung, màu sắc và độ tinh xảo. Đây từng là nơi qua lại, buôn bán gốm sứ lớn bậc nhất của vùng Kinh Bắc. Ngày nay, ngôi làng cổ này không còn là làng nghề gốm sứ nhưng dấu tích của nó vẫn in đậm trên các bức tường cổ được xây bằng các mảnh gốm sứ kết hợp với bùn đất của sông Cầu. Nét cổ xưa tạc vào dáng hình thôn quê từ con đường ngõ chật hẹp đến cây đa, bến nước, sân đình. Tất cả đều toát lên vẻ xưa cũ, rêu phong và cuốn hút đến say lòng. Đặt chân đến, ta sẽ bị choáng ngợp ngay trước cổng làng với kiến trúc đẹp, bề thế và cổ kính, là một trong những chiếc cổng đẹp nhất ở vùng hạ và trung lưu sông Cầu. Đây cũng là một phần máu thịt trong trái tim mỗi người con quê hương Thổ Hà xa xứ! Thấp thoáng trong chiều buồn, nét cong cong của những mái đình rêu phong hòa vào nét cổ xưa của những cây đa hàng trăm năm tuổi quanh khu vực cổng làng đưa ta vào thế giới cổ tích với cảm giác bâng khuâng, hoài cổ. Theo lối bước chân khoan thai đầy kì thú, du khách sẽ thấy một số ngôi nhà cổ xây dựng cách đây trên 100 năm, tiêu biểu cho những ngôi nhà cổ thuộc kiến trúc đồng bằng Bắc Bộ. Do đặc thù của làng ba mặt giáp sông nước mênh mông, người dân Thổ Hà không canh tác nông nghiệp mà chủ yếu sống bằng nghề truyền thống. Làng Gốm nổi tiếng của xứ kinh kỳ xưa nay đã thay bằng một làng nghề trù phú, nổi tiếng với việc sản xuất bánh đa nem và làm mì gạo. Mì gạo Thổ Hà nổi tiếng khắp xa gần bởi độ dẻo, dai và thơm ngon, hấp dẫn. Bánh đa nem Thổ Hà sản xuất không kịp đáp ứng nhu cầu tiêu thụ của thị trường trong và ngoài nước mỗi dịp tết đến, xuân về. Không chỉ vậy, món bánh đa vừng của Thổ Hà còn nức tiếng xa gần và sớm khẳng định thương hiệu bởi độ béo, ngọt, bùi. Đến với Thổ Hà, du khách có thể đến bất kỳ mùa nào trong năm. Trên con đường du xuân trẩy hội, được ghé đến Thổ Hà, hẳn lữ khách ngẩn ngơ chẳng muốn về bởi những câu quan họ dùng dằng đầy lưu luyến của các liền anh, liền chị. Đây cũng là nơi còn lưu giữ được nhiều nét đẹp văn hóa, trong sinh hoạt cộng đồng và trong tiệc cưới, lễ tang. Người Thổ Hà có câu: "Ma không đợ, vợ không cheo", ý nói đến phong tục đẹp của làng: Người đi đám ma chỉ thực hiện đến viếng mà không nặng việc điếu phúng, trả nợ, còn đám cưới thì cốt ở hạnh phúc lứa đôi chứ không có tục thách tiền cheo, tiền sính lễ. Vì lẽ đó, vua Tự Đức đã ban tặng cho làng bốn chữ: “Mỹ tục khả phong”, tức là làng có nhiều phong tục tập quán đẹp. Ngày nay, bốn chữ vua ban vẫn được treo ở tiền tế đình làng. Nhân dân trong làng coi đó là một niềm tự hào không gì sánh bằng và cùng nhau gìn giữ, phát huy nét đẹp văn hóa đó. Đến với Thổ Hà, du khách còn dễ dàng ghé thăm làng Vân – làng nghề nấu rượu nổi tiếng khắp mọi miền đất nước, thăm đền Bà chúa kho và thăm Chùa Bổ Đà – ngôi chùa có nhiều tháp cổ đẹp nhất Việt Nam, tất cả chỉ trong bán kính chừng 6km. Tạm chia tay Thổ Hà – ngôi làng với những yêu thương, lưu luyến mãi không rời. Nghe văng vẳng trong tim lời ru của mẹ, nghe thấm đượm vị ngọt ngào của bánh đa, mì sợi và chút say nồng của rượu Vân còn vương nơi đầu lưỡi, nghe vị ngọt giọng dân ca quan họ còn níu kéo bước chân. Nghe hồn cốt đất Việt ấp ôm từng ngõ nhỏ và mái nhà rêu phủ - tìm về chốn quê với tất cả những ấm áp, dịu dàng.
Bắc Ninh
Từ tháng 01 đến tháng 03
1541 lượt xem
Đồi dứa Bảo Sơn Bắc Giang từ lâu đã trở thành địa điểm sống ảo cực chill, đầy độc đáo và thu hút. Sự độc đáo đến từ những màu vàng ươm của những trái thơm/khóm và xanh lục của những hình dáng sắc nhọn của lá cho đến màu xanh lam ngát của đồi dứa, hòa quyện cùng sắc xanh mây trời, đượm màu vàng của nắng. Tất cả tạo nên khung cảnh trời, mây, và nông sản tạo nên những bức ảnh có một không hai, tạo nên sự hấp dẫn đặc biệt với những thợ săn ảnh. Chẳng cần những ánh đèn lấp lánh huyền ảo, trang trí decor lộng lẫy. Những cánh đồng nông sản như đồi dứa Bảo Sơn, trước vụ thu hoạch đã khiến biết bao nhiêu người ngẩn ngơ, mê mẩn. Nếu đã từng đi qua đồi chè xanh ngút ngát, hay vườn nho với những chùm quả trĩu mọng mà vẫn chưa thỏa lòng. Bạn có thể đến với Bảo Sơn - Bắc Giang. Nơi có những đồi dứa chín vàng trải dài suốt 170 ha đang chờ bạn đến trải nghiệm. Không chỉ mang đến tên tuổi và niềm tự hào, dứa Bảo Sơn còn là loại nông sản tạo ra nguồn thu nhập chính cho nhiều hộ nông dân tại Bắc Giang. Hai vụ mỗi năm, bà con sẽ tập trung trồng hái vào 3 tháng đầu năm. Sau đó, để cho đất nghỉ trong 3 tháng tiếp theo. Bởi thế, vụ dứa lần hai thường chiếm trọn “chất” của cả mùa hè nóng bỏng; kéo dài từ tháng 6 tới tháng 8. Thời điểm lý tưởng nhất để check-in tại cánh đồng dứa Đồ Sơn sẽ rơi vào khoảng đầu tháng 7 đến giữa tháng 8. Đó là khi dứa trong vụ thu hoạch. Như vậy, không chỉ được thỏa thích ngắm nhìn cả cánh đồng dứa ngút ngát tầm mắt. Mà bạn còn có cơ hội cảm nhận hương thơm ngọt ngào của từng quả dứa chín. Đã có dịp đi du lịch Bắc Giang, nhất định bạn nên ghé thăm cánh đồng dứa Bảo Sơn. Vào những tháng hè, bạn sẽ được thỏa thích check-in trên đồi dứa Bảo Sơn Bắc Giang bao la bất tận. Với concept chính là sắc màu vàng cam của dứa chín quyện cùng màu xanh trùng điệp của cây lá. Đây chính là background thú vị, độc đáo cho mọi bức hình. Và dần dần cứ thế, danh tiếng của đồi dứa Bắc Giang được lan truyền như một thiên đường chụp ảnh khiến nhiều bạn trẻ yêu thích. Song, check in đồi dứa Bảo Sơn Bắc Giang đẹp nhất có lẽ là vào khoảng thời gian từ tháng 03 đến tháng 8 dương lịch. (Khi dứa nơi đây đang vào mùa chín). Cả ngọn đồi xanh bỗng khoác lên mình màu áo mới màu vàng tươi của những quả chín e ấp. Với sắc xanh mát lành của cây và lá và không gian thoáng đãng nơi đây mang đến một vẻ mê hoặc lòng người. Nếu như bạn muốn có những bộ ảnh nổi bật chân dung thì những chiếc váy với màu sắc nổi bật là một lựa chọn sáng suốt. Ngoài tạo dáng freestyle trên nền cánh đồng đồi dứa Bảo Sơn rộng lớn. Đừng ngần ngại sử dụng đạo cụ chụp ảnh là những trái dứa căng mọng giúp bức ảnh thêm phần sinh động. Ý tưởng này sẽ khiến bạn sở hữu những hình ảnh vừa tươi sáng, trong trẻo, vừa độc đáo, ấn tượng. Vào thời điểm mùa hè, dứa chín, ngoài việc thưởng thức khung cảnh đẹp như mơ. Bạn còn có cơ hội nhấm nháp những trái chín vàng, thơm ngon tại đồi dứa Bảo Sơn. Dứa hay khóm là loại nông sản nổi tiếng, đồng thời cũng là niềm tự hào của người Bắc Giang. Quả dứa nơi đây to, đều mẫu mã đẹp, màu vàng tươi, mang vị ngọt và thơm hiếm nơi nào có được. Vì thế, sau khi vui chơi, trải nghiệm thưởng thức tại chỗ, bạn cũng có thể mua làm quà với giá siêu rẻ tại vườn. Ngoài nông trại đồi dứa Bảo Sơn Bắc Giang đã quá nổi tiếng, cánh đồng dứa Đồng Giao (Tam Điệp, Ninh Bình) cũng là một địa điểm check-in siêu lý tưởng. Nếu đang ấp ủ một ý tưởng về một bộ ảnh đậm hương vị mùa hè nhiệt đới độc lạ hoặc chỉ đơn giản tìm kiếm một không gian thoáng mát để làm mới tâm hồn, bạn nhất định không nên bỏ qua điểm đến thú vị này nhé !
Bắc Ninh
Từ tháng 03 đến tháng 08.
1470 lượt xem
Cao nguyên Đồng Cao là một trong những điểm đến du lịch nổi tiếng tại miền Bắc Việt Nam. Với khung cảnh hùng vĩ, thiên nhiên tươi đẹp và văn hóa đặc sắc, nơi đây hứa hẹn mang lại cho du khách những trải nghiệm đáng nhớ. Đồng Cao nằm ở bản Gà, cách Hà Nội hơn 150km về phía Đông Bắc. Độ cao của nơi đây chỉ khoảng 600m so với mực nước biển nhưng địa hình rất bằng phẳng và thoáng đãng. Cao nguyên Đồng Cao Bắc Giang là một điểm đến hoàn hảo cho dã ngoại cuối tuần. Đặt chân tới đây, bạn sẽ được thỏa sức tận hưởng bầu không khí trong lành, thiên nhiên hoang sơ được ví như chốn tiên cảnh. Đồng Cao là nơi lý tưởng để cắm trại, khám phá và tận hưởng thiên nhiên tuyệt vời. Nhiều tín đồ đam mê khám phá thường lựa chọn tới đây để nghỉ ngơi, thư giãn cũng như "reset" lại bản thân sau chuỗi ngày làm việc mệt mài. Chính vì thế mà nơi từng hoang sơ như Đồng Cao bỗng trở nên nổi tiếng, được nhiều người yêu thích và trở thành điểm đến thu hút đông đảo người ghé tham quan mỗi năm. Đồng Cao có khí hậu mát mẻ vào mùa hè và lạnh vào mùa đông. Đường đi đến đây khá dốc và đất nên bạn cần tránh đi vào mùa mưa. Thời điểm lý tưởng để phượt Đồng Cao là từ tháng 9 đến tháng 11, khi tiết trời khô ráo và mùa thu sang. Bạn sẽ có những trải nghiệm tuyệt vời khi dã ngoại và cắm trại ở đây vào thời điểm này. Nếu đi vào mùa hè từ tháng 6 đến tháng 8, bạn cần chú ý thời tiết vì có thể gặp mưa bão. Đồng Cao là một miền cao nguyên xinh đẹp nằm ẩn mình giữa những ngọn núi hùng vĩ của Bắc Giang. Nơi đây có khí hậu mát mẻ quanh năm như một Mẫu Sơn hay Tam Đảo thu nhỏ. Những cánh đồng cỏ xanh ngát, những áng mây trắng bay lượn, những dòng suối trong vắt tạo nên một bức tranh thiên nhiên thơ mộng, yên bình. Đến với Đồng Cao, bạn sẽ được trải nghiệm những hoạt động thú vị và khám phá những điều kỳ thú. Bạn có thể đứng trên đỉnh núi cao nhất ở Đồng Cao, khoảng 600m so với mực nước biển, để ngắm nhìn bình minh và hoàng hôn rực rỡ, khiến trời đất hòa làm một. Bạn cũng có thể lạc bước vào những thung lũng sâu, những vách đá cổ kính với nhiều hình dạng kỳ lạ. Đây cũng là nơi cho ra đời những tấm ảnh đẹp lung linh, ghi lại biết bao khoảnh khắc đáng nhớ khi đến Đồng Cao. Hơn nữa, bạn sẽ được hòa mình vào thiên nhiên trong lành, thưởng thức hương vị của cỏ cây hoa lá cùng tiếng chim hót líu lo. Mọi lo toan, phiền muộn của cuộc sống thường ngày dường như tan biển, chỉ còn lại niềm vui và sự thư giãn. Đồng Cao Bắc Giang chính là một điểm đến lý tưởng cho những ai yêu thiên nhiên và muốn tìm kiếm một chốn bình yên. Cao nguyên Đồng Cao Bắc Giang là nơi lý tưởng để tổ chức team building vui nhộn, hấp dẫn. Bạn có thể chơi nhiều trò hay như cướp cờ, kéo co, board game… trên những thảm cỏ xanh mướt. Tất tần tật những trò chơi thú vị mà bạn tham gia đều sẽ để lại cho bạn vô vàn kỷ niệm đẹp với cao nguyên lộng gió này. Bên cạnh đó, đã đến Đồng Cao thì chắc chắn bạn sẽ không muốn bỏ lỡ trải nghiệm cắm trại và tận hưởng không khí trong lành. Bạn có thể tổ chức tiệc BBQ ngon lành dưới bầu trời đầy sao, hòa mình vào âm nhạc và tâm sự cùng bạn bè. Chuyến đi sẽ mang lại nhiều kỷ niệm đẹp và gắn kết tình cảm của mọi người. Đồng Cao là một điểm đến lý tưởng cho những ai yêu thích khám phá thiên nhiên và văn hóa địa phương của Bắc Giang. Nơi đây không chỉ có cảnh sắc hùng vĩ, mát mẻ mà còn có nhiều món ăn ngon miệng, đậm đà hương vị quê hương. Bạn có thể thử những đặc sản nổi danh khi đi du lịch Bắc Giang như vải thiều ngọt ngào, xôi trứng kiến béo ngậy, bánh đúc Đồng Quan dai dai, bánh vắt vai thơm lừng… Vẻ đẹp của Đồng Cao khiến bất cứ ai lần đầu chiêm ngưỡng cũng không thể rời mắt. Thiên nhiên trong lành, bầu không khí mát mẻ, dễ chịu tại đây giúp bạn xóa tan đi mọi ưu phiền còn đang bủa vây. Nếu bạn vẫn đang kiếm tìm một nơi chốn thanh bình để "reset" lại tâm hồn, hãy đến với cao nguyên Đồng Cao.
Bắc Ninh
Từ tháng 09 đến tháng 11.
1492 lượt xem
Thác Tiên Bắc Giang với vẻ đẹp tuyệt mỹ là điểm dừng chân lý tưởng được nhiều tín đồ mê khám phá tìm đến check-in và vui chơi. Nằm ẩn mình trong công viên giải trí Wedding Land, làng Phúc Thượng cách trung tâm chỉ 4km, khu du lịch Thác Tiên Bắc Giang là một điểm đến lý tưởng cho những ai yêu thích thiên nhiên và khám phá. Được khai trương vào năm 2020, khu du lịch Thác Tiên - Bắc Giang trải rộng trên diện tích hơn 10ha mang đến cho bạn những trải nghiệm đa dạng và thú vị. Bạn có thể ngắm nhìn vẻ đẹp hùng vĩ của Suối Rồng và Thác Tiên, thử thách bản thân với Trường đua xe và Đồi trượt cỏ, tận hưởng không gian yên bình của vườn Nhật Bản hay khám phá những kiến trúc độc đáo của Phố cổ Hội An và Làng cổ Bukchon Hanok. Ngoài ra, bạn cũng có thể thưởng thức những món ăn vô cùng hấp dẫn khi đến đây. Khu du lịch Thác Tiên Bắc Giang là nơi mang đến cho bạn những cảm giác mới lạ và thú vị khi được chiêm ngưỡng vẻ đẹp tuyệt vời của thiên nhiên. Bạn sẽ như lạc vào một thế giới khác khi đứng trước thác Tiên nơi nước trắng xóa như tơ chảy róc rách từ độ cao 25m tạo ra những bọt nước lấp lánh dưới ánh nắng. Bạn sẽ không thể rời mắt khỏi những góc đẹp của khu du lịch nơi bạn có thể chụp ảnh với những kiểu ảnh thơ mộng cùng với cảnh quan thiên nhiên. Nơi đây mang tới cho bạn cảm giác hòa quyện giữa núi và nước, giữa con người và thiên nhiên. Đây là một cảm giác mới lạ mà không phải bất kỳ điểm tham quan nào cũng mang lại được. Nếu bạn là một người yêu thích nhiếp ảnh, bạn không thể bỏ qua khu du lịch Thác Tiên Bắc Giang - nơi có nhiều công trình thiết kế, kiến trúc độc đáo và đẹp mắt. Bạn sẽ có cơ hội chụp ảnh với những không gian khác nhau từ những thiết kế hiện đại như lâu đài đá, trường đua xe, đồi trượt cỏ đến những khu vực mang đậm nét văn hóa của các quốc gia khác nhau như phố cổ Hội An, làng cổ Bukchon Hanok của Hàn Quốc, vườn Nhật Bản… Tuy nhiên điểm nổi bật nhất của khu du lịch này chính là thác Tiên và suối Rồng - nơi bạn có thể ngắm nhìn vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên và chụp ảnh với những bức tranh sơn thủy hữu tình. Một trong những điều khiến mọi người yêu thích nơi đây chính là những trải nghiệm mà khu du lịch mang lại. Đến với Thác Tiên Bắc Giang, bạn có thể tham gia những trò chơi giải trí cùng với gia đình, bạn bè. Các em nhỏ cực kỳ yêu thích điểm đến này và thường xuyên được ba mẹ dẫn tới đây tham quan. Bên trong khu du lịch còn có vườn cây ăn quả, bể bơi dành riêng cho người lớn lẫn trẻ em. Chắc chắn rằng khoác balo lên đường tới đây tham quan sẽ không khiến bạn hối hận. Trong hành trình khám phá sắp tới, sẽ thật tuyệt vời nếu bạn dành thời gian vui chơi và chiêm ngưỡng Khu du lịch Thác Tiên Bắc Giang đẹp như tranh vẽ. Điểm tham quan, vui chơi hấp dẫn này mỗi năm đều đón một lượng lớn người tới khám phá. Vì thế còn chần chờ gì nữa mà không nhanh tay rủ rê ngay bạn bè, người thân tới Thác Tiên. Vô vàn điều thú vị vẫn đang chờ đón bạn tới khám phá.
Bắc Ninh
Từ tháng 04 đến tháng 06.
1702 lượt xem
Vốn nổi tiếng với giá trị lịch sử lâu đời đầy oai hùng, ngày nay, Bắc Giang còn được nhiều người biết đến và ghé thăm bởi những địa điểm du lịch nổi tiếng. Không chỉ nổi bật bởi cảnh vật non nước hữu tình cùng hệ sinh thái động thực vật phong phú, các địa điểm du lịch ở nơi đây mang một màu sắc rất hoang sơ nhưng lại rất chỉn chu khiến cho bất kỳ ai cũng muốn ghé thăm một lần. Và nếu bạn cũng là một người yêu du lịch và khám phá thiên nhiên, chắc chắn bạn không thể bỏ qua cơ hội trải nghiệm chinh phục núi rừng tại khu bảo tồn thiên nhiên Tây Yên Tử nổi tiếng tại Bắc Giang. Yên Tử - địa danh gắn liền với những câu chuyện xưa và hình ảnh mộc mạc hoang sơ là một dãy núi cao, một khu rừng bảo tồn lớn nhất vùng Đông Bắc. Thuộc địa bàn của các xã An Lạc, Thanh Sơn, Thanh Luận, huyện Sơn Động và xã Lục Sơn, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang, khu Bảo tồn thiên nhiên Tây Yên Tử nằm trong dãy núi Yên Tử, phân bố ở độ cao từ 200m đến hơn 1.000m so với mặt biển và có địa hình cao dốc phức tạp. Đây là dãy núi cao chính nằm trong vòng cung Đông Triều kéo dài từ tỉnh Quảng Ninh qua Hải Dương - Bắc Giang và kết thúc ở bờ tả của sông Lục Nam. Mạch núi này nổi tiếng với hai thảm thực vật nguyên sinh, đó là rừng nhiều tầng và rừng khô hạn. Theo nhiều nguồn tin, rừng Yên Tử vẫn giữ được nguồn tài nguyên rừng khá lớn và là một trong số ít rừng còn đủ điều kiện để xây dựng nên một khu tồn thiên nhiên rộng lớn với diện tích tới trên 17.000 ha và tổng lượng gỗ đạt tới gần 1.000.000m3. Hiện tại, khu vực rừng Yên Tử này vẫn còn giữ lại được vẹn nguyên những nét hoang sơ, một phần nhờ vào địa hình hiểm trở, gây ra sự khó khăn trong việc ra vào đặc biệt là những dòng thác và những con đường dốc cao và nhiều sỏi đá khó xâm nhập. Theo kết quả điều tra đã được công bố rộng rãi, tính nguyên trong khu vực rừng Yên Tử có tới 728 loài thực vật và 226 loài động vật, trong đó số đó có hàng chục loài động thực vật thuộc loại quý hiếm được nhắc tên trong sách đỏ Việt Nam đang có nguy cơ bị tuyệt chủng. Một số ví dụ về thực vật rừng quý hiếm rất nổi tiếng như là các loài: pơ mu, đinh, lim, sến mật, gụ, lát hoa, trầm hương, thông tre, thông nàng, lim xanh, táu lá nhỏ…. Các loại dược liệu quý hiếm như sa nhân, hoàng tinh lá có cánh, ngũ gia bì, chân chim, râu hùm, mộc hoa trắng, ba kích, sa nhân…. Cùng với đó, khu bảo tồn thiên nhiên Tây Yên Tử cũng có một số loại động vật rừng hết sức đặc trưng như: beo, cu li, voọc đen, chó sói, gấu ngựa, khỉ vàng, hươu vàng, sơn dương, kỳ đà, sóc bay lớn, gà tiền, gà lôi, rùa vàng, rắn hổ mang chúa… Hệ thống sinh vật, đất đai ở khu vực Yên Tử nói chung cũng không đồng nhất. Nổi bật nhất phải kể đến khu vực này có nhiều con khe lao xuống các vách đá tạo nên có những thác nước lớn, như: thác nước vàng, thác Giót,,.... Còn ở phía bên rừng sa van thì lại là hình ảnh của cỏ tranh xen lẫn cây chịu hạn nguồn nước ít, chủ yếu chỉ ẩm ướt ở dưới chân khe do đó cây xanh chỉ phát triển dọc theo ven theo các khe mà hầu như không có ở các sườn núi. Nhìn toàn cảnh, Yên Tử là một dãy núi lớn, một danh sơn của vùng Đông Bắc. Khu bảo tồn thiên nhiên Tây Yên Tử được biết đến với nhiều nguồn gen động thực vật rừng quý hiếm, mang một nét đặc trưng cho vùng đông bắc Việt Nam, điều mà nhiều khu bảo tồn thiên nhiên khác không có. Cũng chính vì điều này mà các đơn vị chính quyền, các công ty du lịch luôn cần tiếp tục điều tra, đánh giá và bảo vệ ở mức tối đa các hệ động, thực vật hiện còn, để một phần hoàn chỉnh danh mục thực vật, động vật chi tiết một phần để bảo tồn và phát triển thảm sinh thái nơi đây. Yên Tử là địa danh nổi tiếng mang đậm văn hoá và chất phật giáo, là nơi gìn giữ và bảo tồn những di tích lịch sử từ ngàn đời xưa, nên cũng nhờ thế mà trải nghiệm khám phá Bảo tồn thiên nhiên Tây Yên Tử, du khách không chỉ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp núi rừng hoang sơ mà còn được hiểu thêm nhiều về lịch sử của nước Việt Nam ta từ ngàn đời nay. Trên địa phận khu bảo tồn thiên nhiên Tây Yên Tử có nhiều thắng tích nổi tiếng đã được sử sách xưa ghi nhận, tập hợp thành một quần thể rộng và hầu hết, những khu di tích nằm trên địa bàn tỉnh Bắc Giang là những khu di tích cổ, có từ thời Lý - Trần. Cũng vì thế mà Yên Tử luôn nổi tiếng là một quần thể với những di tích có ý nghĩa lịch sử, văn hoá mang đậm màu sắc Phật giáo do vua là Trần Nhân Tông sáng lập trong lịch sử nước ta. Như thế, khu bảo tồn thiên nhiên Tây Yên Tử là nơi có đủ các yếu tố về cảnh vật, xã hội, lịch sử vốn được sử sách ghi chép với cảnh quan môi trường hùng vĩ, cây rừng còn khá nguyên vẹn và ít bị tàn phá. Có thể nói đây chính đây là một nơi sơn thuỷ hữu tình, danh sơn thắng tích. Ngoài ra, đây cũng là vùng rừng rất xung yếu của tỉnh Bắc Giang, có tác dụng to lớn trong phòng hộ, cảnh quan môi trường và nghiên cứu khoa học và đặc biệt, khu bảo tồn thiên nhiên Tây Yên Tử còn là địa điểm du lịch tuyệt vời dành cho những người yêu thiên nhiên và thích du lịch tâm linh. Mùa xuân hoặc mùa hè là thời gian lý tưởng nhất để đến trải nghiệm không khí tuyệt vời tại khu bảo tồn thiên nhiên Tây Yên Tử: Vào mùa xuân đặc biệt là ngay sau tết, tại khu bảo tồn thiên nhiên Tây Yên Tử có rất nhiều lễ hội với nhiều hoạt động đặc sắc mang bản sắc văn hoá để các bạn có thể tham gia. Nếu ghé nơi đây vào mùa hè thì bạn sẽ được tham gia ra nhiều chương trình tham quan du lịch. Đặc biệt, mặc dù vào mùa hè nhưng trên khu bảo tồn thiên nhiên Tây Yên Tử lúc nào không khí cũng thoáng mát, dễ chịu, vì thế nên bạn hoàn toàn yên tâm ghé thăm. Đối với khu bảo tồn thiên nhiên Tây Yên tử, bạn đặc biệt nên tránh ghé thăm vào những tháng mưa từ tháng 8 đến tháng 11 hàng năm. Do ở đây, những ngày mưa sẽ khiến đường lên Yên Tử khó khăn và nguy hiểm hơn, điều này làm cản trở rất nhiều cho việc di chuyển và vui chơi. Nên chú ý thời tiết nếu bạn thật sự muốn du lịch Bắc Giang vào thời điểm này. Hành trình khám phá Khu bảo tồn Tây Yên Tử là một trải nghiệm đầy ấn tượng, nơi du khách không chỉ bị cuốn hút bởi vẻ đẹp hùng vĩ của núi rừng mà còn được chìm đắm trong không khí tâm linh và văn hoá đặc sắc. Qua mỗi bước chân, du khách sẽ hiểu rõ hơn về lịch sử lâu dài và giá trị bảo tồn thiên nhiên của khu vực này.
Bắc Ninh
Từ tháng 01 đến tháng 06.
1536 lượt xem
Việt Nam luôn được ưu ái với những cảnh sắc thiên nhiên độc đáo, các danh lam thắng cảnh trải dài từ Bắc vào Nam để lại ấn tượng khó phai trong trí nhớ của hàng ngàn khách du lịch. Mặc dù tỉnh Bắc Giang với diện tích khá khiêm tốn trên bản đồ hình chữ S nhưng nơi đây vẫn sở hữu nền du lịch phát triển đáng kể. Đến với Bắc Giang bạn có thể khám phá các địa điểm du lịch như chùa Vĩnh Nghiêm, cao nguyên Đồng Bằng,... và đặc biệt không thể bỏ lỡ điểm du lịch tâm linh Thiền Viện Trúc Lâm Phượng Hoàng. Thiền viện Trúc Lâm Phượng Hoàng nằm ở xã Nham Sơn, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang. Vào năm 2011, nơi đây bắt đầu khởi công có diện tích hơn 18ha, đến thời điểm hiện tại đã hoàn thiện. Thiền viện được xây dựng trên đỉnh Non Vua, đây chính là đỉnh núi cao nhất của dãy Nham Biền. Đỉnh núi còn có Giếng trời hay còn gọi là Thiên huyệt chứa dòng nước tươi mát trong xanh. Ngoài ra, dưới chân núi Non Vua là khe Hang Dầu nơi quy tụ Nguyệt Nham của 9 ngọn núi Phượng với nguồn nước dồi dào cùng thảm thực vật phong phú. Vì vậy, bao quanh lấy Thiền viện là thiên nhiên núi rừng hùng vĩ, trùng trùng điệp điệp mang đến cảm giác thoải mái, giúp khách du lịch hòa mình với thiên nhiên quên đi muộn phiền. Thiền viện Trúc Lâm Phượng Hoàng bao gồm các công trình như Cổng Tam Quan, lầu chuông, lầu trống, nhà tổ, tòa điện chính, thư quán,... Các công đều được thiết kế với phong cách uy nghiêm nhưng vẫn mang đậm nét độc đáo của lối kiến trúc truyền thống văn hóa Phật Giáo Việt Nam. Điểm nhấn đầu tiên là con đường bên sườn núi từ chân Thiên viện đến cổng Tam Quan với hơn 300 bậc đá lớn. Đến cổng Tam Quan du khách dễ dàng nhìn thấy dòng chữ “Thiền viện Trúc Lâm Phượng Hoàng” nằm uy nghi trên cổng. Ngoài ra, Khu chính điện - hạng mục chính của công trình với tổng diện tích bao gồm cả tầng 1 và tầng 2 là 3000 m2. Ở phía trước chính điện là 2 công trình lầu chuông và lầu trống được đặt cạnh cổng Tam Quan tạo nên thế cân xứng, hài hòa. Bên trong chính điện được trang trí tranh vẽ tường kể về cuộc đời của của Đức Phật Thích ca từ khi ngài mới chào đời. Đồng thời, hệ thống các tượng điêu khắc khác như Bổn sư Thích Ca Mâu Ni, ngài Phổ Hiền , ngài Văn Thù sư Lợi, Tổ sư Đạt Ma và tượng Tam Tổ Trúc thời nhà Trần là Giác Hoàng Điều Ngự Trần Nhân Tông, Trúc Lâm Đệ Nhị Tổ Đồng Kiên Cương Pháp Loa và Trúc lâm Đệ Tam Tổ Huyền Quang Lý Đạo Tái. Thiền viện Trúc Lâm Phượng Hoàng trồng nhiều cây xanh tạo cảm giác an lành, là nơi thanh tịnh dành cho cho các phật tử và du khách có thể tìm đến sự an yên, bình thản trong tâm hồn khi đến với nơi đây. Theo kinh nghiệm du lịch Thiền viện Trúc Lâm Phượng Hoàng mà du khách tích lũy được, khí hậu Bắc Giang chia thành 2 mùa rõ rệt gồm mùa mưa và mùa khô vì thế nên nơi đây luôn khoác lên mình vẻ đẹp tươi xanh độc đáo quanh năm, mỗi mùa sở hữu vẻ đẹp độc đáo riêng. Tuy nhiên, thời điểm tuyệt nhất để tham quan Thiền viện là từ tháng 6 đến tháng 9. Du khách ngoài thuận lợi viếng thăm Thiền viện với thời tiết dễ chịu và thoải mái còn bị mê hoặc bởi những cung đường đỏ rực màu vải đỏ trên những tán lá xanh. Thiền viện Trúc Lâm Phượng Hoàng tại Bắc Giang là một địa điểm du lịch tâm linh nổi tiếng cả trong và ngoại tỉnh. Khi viếng thăm nơi đây, du khách sẽ được chiêm bái, cầu nguyện bình an và sức khỏe cho bản thân và gia đình. Đồng thời, với nét kiến trúc mang đậm nét truyền thống của Phật giáo và những công trình có sự gắn kết chặt chẽ với nhau tạo nên một không gian tâm linh lý tưởng dành cho du khách và Phật tử. Đặc biệt, mỗi năm tại Thiền viện còn tổ chức các khóa tu dành cho nhiều lứa tuổi khác nhau đến và trải nghiệm tại nơi đây. Những khóa tu này sẽ giúp bạn biết thêm nhiều điều, tìm ra giá trị và ý nghĩa của cuộc sống, càng thêm yêu cuộc sống hơn. Thiền viện Trúc Lâm Phượng Hoàng tại Bắc Giang với những công trình văn hóa, thể thao, du lịch tâm linh hứa hẹn sẽ góp phần quan trọng trong việc bảo tồn, phát huy giá trị truyền thống đồng thời tạo nên nhiều giá trị thúc đẩy phát triển kinh tế văn hóa và xã hội tại tỉnh Bắc Giang.
Bắc Ninh
Từ tháng 06 đến tháng 09
2207 lượt xem
Làng gốm Phù Lãng là một trong những làng nghề có tuổi đời hàng trăm năm tuổi, tọa lạc tại xã Phù Lãng, thị xã Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh. Làng gốm nằm cạnh bên con sông Lục Đầu, rất thuận tiện cho việc sản xuất và vận chuyển hàng hóa. Làm gốm được xem là hoạt động kinh tế chính của người dân nơi đây. Khi đến thăm làng gốm Phù Lãng bạn sẽ bắt gặp rất nhiều sản phẩm gốm và củi khô được phơi dọc theo hai bên đường. Các sản phẩm của làng gốm Phù Lãng sản xuất cũng vô cùng phong phú về mẫu mã, kiểu dáng và màu sắc. Nhìn chung sẽ bao gồm ba nhóm sản phẩm chính đó là: đồ gia dụng, đồ dùng trong thờ cúng và đồ trang trí. Việc làm gốm yêu cầu người nghệ nhân phải thực sự tỉ mỉ và khéo léo qua nhiều công đoạn khác nhau. Từ việc chọn và xử lý đất, tạo hình, tráng men, nung gốm đều đòi hỏi trình độ tay nghề nhất định. Đến thăm làng gốm Phù Lãng và tận mắt chứng kiến thì bạn mới có thể cảm nhận hết sự tài hoa của những nghệ nhân làm gốm Du khách có thể đến khám phá làng gốm Phù Lãng vào bất kỳ thời điểm nào trong năm. Làng nghề luôn mở cửa chào đón du khách thập phương với nhiều hoạt động hấp dẫn. Nếu như bạn có đam mê sưu tầm đồ gốm thì hãy đến làng gốm Phù Lãng vào tháng chạp. Thời điểm cuối năm là giai đoạn mà làng gốm nâng cao năng suất hoạt động, cho ra nhiều mẫu mã mới, đẹp mắt để phục vụ cho nhu cầu vui xuân đón Tết. Bên cạnh đó, Bắc Ninh cũng có rất nhiều lễ hội hấp dẫn như hội Lim, lễ hội Đình Bảng, lễ hội Chùa Dâu, lễ hội đền Bà Chúa Kho, lễ hội chùa Phật Tích… Bạn có thể đến làng gốm Phù Lãng vào những tháng có lễ hội để vừa có thể khám phá làng nghề, vừa có thể trải nghiệm không khí lễ hội trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. Làng gốm Phù Lãng mang trong mình vẻ đẹp thanh bình, mộc mạc của làng quê Bắc bộ. Những ngôi nhà với mái ngói nhấp nhô, các lò nung gốm, các đống củi khô được chất cao qua đầu chạy dài tăm tắp. Những chum, vại, bình gốm, chậu cảnh… xếp tầng chờ được hoàn thiện. Check in tại làng gốm Phù Lãng hứa hẹn sẽ mang đến cho bạn những bộ ảnh đẹp để đời. Các sản phẩm của làng gốm Phù Lãng có một nét đẹp riêng, vô cùng tinh xảo và đầy tính nghệ thuật. Điểm đặc trưng là nên sự khác biệt cho gốm Phù Lãng đó là lớp men phủ có hoa văn màu da lươn, kết hợp với phương pháp đắp nổi theo kiểu chạm kẹp. Điều này giúp cho các sản phẩm gốm bền, đẹp nhưng vẫn giữ được nét nguyên sơ của đất và lửa. Đến làng nghề bạn sẽ thỏa sức ngắm nhìn những tác phẩm gốm vô cùng đẹp mắt của các nghệ nhân Phù Lãng. Không chỉ dừng lại ở việc tham quan hay mua sản phẩm về làm kỷ niệm, khi đến làng gốm Phù Lãng bạn còn có thể hóa thân thành các nghệ nhân. Việc làm nên một sản phẩm gốm đẹp ngay lần đầu tiên là không hề dễ dàng. Tuy nhiên đây sẽ là một trải nghiệm vô cùng thú vị khi có được sản phẩm do chính tay mình làm ra. Bạn sẽ được các nghệ nhân hướng dẫn các bước cơ bản và thỏa sức sáng tạo, biết đâu bạn cũng là một bậc thầy làm gốm đấy.
Bắc Ninh
Từ tháng 1 đến tháng 12
3233 lượt xem
Làng tranh Đông Hồ ở đâu hay làng tranh Đông Hồ thuộc tỉnh nào là câu hỏi được nhiều du khách quan tâm khi tìm hiểu về địa điểm du lịch nổi tiếng này. Làng tranh dân gian này nằm bên bờ sông Đuống, thuộc địa phận xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, cách trung tâm thành phố Bắc Ninh khoảng 16km. Do cách Hà Nội không xa, khoảng 35km nên địa điểm này còn được gọi là làng tranh Đông Hồ Hà Nội. Ghé thăm nơi đây, khách du lịch sẽ được các nghệ nhân giới thiệu về lịch sử làng tranh Đông Hồ. Bắt đầu từ thế kỷ 17 ở làng Đông Hồ, xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, đến nay, nghề làm tranh tại đây đã có tuổi đời hơn 400 năm. Theo ghi chép của lịch sử, khoảng năm 1945, làng Đông Hồ có 17 dòng họ, tất cả các dòng họ này đều làm tranh. Trải qua thăng trầm của lịch sử, hiện làng Đông Hồ còn 2 gia đình theo nghề làm tranh là gia đình nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế và Nguyễn Hữu Sam. Tranh làng Hồ được yêu thích bởi thể hiện những đề tài quen thuộc, gắn liền với hình ảnh làng quê, cuộc sống bình dị hằng ngày của người Việt. Người làng Hồ biết cách chắt lọc, áp dụng các chất liệu từ thiên nhiên để tạo nên màu sắc truyền thống, vừa tươi, vừa có độ bền cao: màu chàm từ cây lá Chàm, c, màu đỏ thắm từ vỏ cây Van, màu đen từ tro cây lá Tre hoặc tro Voan,... Những bức tranh đặc sắc được in trên giấy Dó. Đây là loại giấy được gia công thủ công từ cây Dó mọc trên rừng. Nền giấy thường được quét một lớp nhựa thông hoặc lớp hồ pha ít bột từ vỏ sò Điệp để tạo màu sáng lấp lánh. Vì vậy, giấy Dó còn được gọi là giấy Điệp. Để làm nên những bức tranh sinh động, người thợ cần có ván in. Ván khắc in tranh gồm 2 loại: ván in màu và ván in nét. Ván in nét thường được làm từ gỗ thừng mực hoặc gỗ thị. Dụng cụ khắc ván in là những mũi đục hay còn gọi là bộ ve được làm từ thép cứng. Ván in màu làm từ gỗ mỡ vì có khả năng giữ màu cao hơn. Quy trình làm tranh dân gian Đông Hồ gồm các bước như sau: Bước 1 - Chuẩn bị giấy Dó: Sau khi hái từ rừng về, người thợ sẽ giã nhỏ, rây thành bột mịn và chế biến thành giấy Dó. Bước 2 - In tranh: Người thợ in màu lên tranh để tạo hình thù. Thông thường, một bức tranh cần có 5 bản khắc, in trong 5 lần. Bước 3 - Phơi tranh: Sau khi in xong, tranh cần phơi khô để không bị lem và bền màu. Làng tranh Đông Hồ là một trong những địa điểm du lịch gần Hà Nội nổi tiếng. Đến đây, du khách sẽ được trải nghiệm nhiều hoạt động thú vị, góp phần làm chuyến du lịch làng tranh Đông Hồ thêm hấp dẫn và đáng nhớ.
Bắc Ninh
Từ tháng 1 đến tháng 12
3923 lượt xem
Bà Chúa Kho sinh ra trong một gia đình nghèo khó ở làng Quả Cảm, xã Hòa Long, TP Bắc Ninh. Sau khi lấy vua Lý, Bà đã xin vua cho về lại làng chiêu dân lập ấp, khai khẩn ruộng đất hoang hóa. Nhân đó nhà vua giao cho Bà trông coi kho quân lương thực tại Núi Kho (Bắc Ninh). Năm Đinh Tỵ 1077, Bà bị giặc giết trong lúc phát lương cứu đỡ dân làng. Để tưởng nhớ công ơn của bà đã hết lòng chăm lo cho dân ấm no, khai khẩn đất hoang, nhân dân đã lập nên đền thờ tại kho lương thực cũ của triều đình ở Núi Kho và gọi Bà với một niềm tôn kính là: Bà Chúa Kho, đền thờ bà được sắc phong là “Chủ khổ linh từ” (Đền thiêng thờ Bà Chúa Kho). Đầu thế kỷ XX, người Pháp xây dựng nhà máy giấy Đông Dương với quy mô lớn bao trùm gần như toàn bộ núi Kho và có ý định phá bỏ ngôi đền nhưng đã gặp phải sự phản đối quyết liệt của người dân địa phương. Năm 1967, giặc Mỹ bắn phá miền Bắc, TP Bắc Ninh là một trong những trọng điểm bị dội bom tàn phá ở nhiều nơi nhưng đền vẫn còn giữ được nguyên vẹn cho đến ngày nay. Năm 1989, đền Bà Chúa Kho được Nhà nước xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia và được tỉnh Bắc Ninh trùng tu tôn tạo, mở rộng với quy mô lớn như hiện nay. Đền Bà Chúa Kho tọa lạc trên lưng chừng ngọn núi Kho, tại khu Cô Mễ, Phường Vũ Ninh, TP Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh. Đền Bà Chúa Kho ngày nay mang kiến trúc thời Nguyễn theo kiểu chữ Nhị, gồm 3 gian tiền tế và 3 gian hậu cung nhìn về hướng nam. Các công trình kiến trúc chính của đền có cổng tam quan, sân đền, hai dải vũ, tiền tế, công đệ nhị và hậu cung. Tất cả tạo nên một quần thể thống nhất, trang nghiêm. Sau hậu cung đền Bà Chúa Kho vẫn còn một đường hầm có kết cấu hình mái vòm nằm lùi sâu trong chân núi, đào xuyên qua lòng núi Kho sang phía sông Cầu. Tương truyền đường hầm này do Bà Chúa Kho xây dựng trong cuộc kháng chiến chống quân Tống. Hiện nay, đền còn lưu giữ rất nhiều cổ vật có giá trị lịch sử cao, đó là 2 đạo sắc phong niên hiệu Khải Định, tượng đồng, trâm bạc, lục bình sứ cổ,… Hàng năm, vào ngày 14 tháng Giêng, Đền Bà Chúa Kho chính thức khai hội. Tuy nhiên, ngay từ những ngày đầu xuân năm mới kéo dài hết cả tháng Giêng, rất đông người đổ về đền Bà Chúa Kho dự lễ. Đi lễ Bà Chúa Kho đã trở thành một thói quan hàng năm với nhiều người. Người cầu an, cầu lộc cho gia đình nhưng phần lớn là giới kinh doanh đến để “vay vốn” Bà Chúa Kho, mong cho một năm vốn liếng dồi dào, làm ăn thuận lợi. Bởi người ta quan niệm rằng Bà Chúa Kho là người cai quản kho lương, là người ban phát “nguồn sống” cho mọi người. Nghi thức “vay – trả” cũng rất rõ ràng, người ta ghi trong sớ là vay bao nhiêu, làm gì, và bao lâu sẽ trả. Thậm chí có người còn hứa là vay 1 trả 3, trả 10,… Với quan niệm “đầu năm đi vay, cuối năm đi trả”, nên dù có làm ăn tốt hay không, người ta vẫn giữ đúng lời hứa, cuối năm tạ lễ ở đền Bà Chúa Kho, mang trả số “vốn” để cảm ơn Bà đã phù hộ trong suốt một năm. Trong suốt thời gian diễn ra lễ hội du khách sẽ được hòa mình trong không khí trang nghiêm của các nghi lễ tế truyền thống cùng các trò chơi dân gian truyền thống náo nhiệt như chọi gà, kéo co,… thu hút sự quan tâm của rất nhiều du khách.
Bắc Ninh
Từ tháng 1 đến tháng 12
3166 lượt xem
Bắc Ninh là nơi nổi tiếng với những ngôi chùa linh thiêng lâu đời. Một trong số đó chắc chắn không thể không nhắc tới Chùa Bút Tháp. Chùa có kiến trúc vô cùng độc đáo sẽ là điểm đến lý tưởng nếu du khách muốn tìm về một chốn dung dị. Chùa nằm ngay khu vực ven sông Đuống, quanh chùa có dòng sông uốn lượn quanh co là khung cảnh vô cùng nên thơ. Chùa còn có tên khác là Ninh Phúc tự, thuộc xã Đình Tổ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Đây là một trong số ít những ngôi chùa còn giữ được vẻ đẹp sơ khai lúc ban đầu. Chùa Bút Tháp là một ngôi chùa cổ với nét kiến trúc vô cùng độc đáo tại Bắc Ninh. Ninh Phúc tự được cho xây dựng vào khoảng thế kỷ thứ 17 thời Hậu Lê. Kiến trúc xây dựng của chùa theo kiểu “Nội công ngoại quốc”.Tuy đã trải qua hàng trăm năm lịch sử nhưng chùa vẫn giữ nguyên vẻ đẹp cổ kính. Đây cũng là một trong những di tích lịch sử Quốc Gia mà du khách nên ghé tới. Đặc biệt bạn sẽ không muốn bỏ lỡ cơ hội tham gia lễ hội chùa Bút Tháp. Kiến trúc xây dựng chính của chùa quay về hướng Nam. Theo đạo phật đây là hướng thể hiện trí tuệ. Chùa được xây dựng theo bày trí cân xứng chặt chẽ. Khu trung tâm của tháp được xây dựng bao gồm 8 nếp nhà chạy song hành với một trục dọc theo mô hình đường thần đạo. Khu vực ngoài cùng tháp bút là Tam Quan, rồi đến Gác Chuông và các tòa thờ khác. Bên trái của chùa là nơi thờ tự Chiết Tuyết và tháp đá Báo Nghiêm bao gồm 8 mặt và 5 tầng cao đến 13m. Dọc hai bên tòa Tiền Đường là hai nhà bia và hai dãy hành lang được xây dưng chạy dọc theo chiều dài của ngôi chùa. Nếu có cơ hội được đến tham dự lễ hội chùa Bút Tháp, du khách nên dành thời gian tham quan một số địa điểm được đề xuất. Đảm bảo bạn sẽ có một chuyến du lịch tâm linh trọn vẹn. Đầu tiên là Tượng phật Quan Âm. Tượng phật là 1 trong 4 bảo vật quốc gia được Nhà nước công nhận được đặt tại chùa. Ngoài tượng Phật Quan Âm, du khách sẽ có cơ hội chiêm ngưỡng: Bộ Tượng Phật Tam Thế, cùng Hương Án và tòa Cửu Phẩm Liên Hoa.Một trong những địa điểm được nhiều du khách đặc biệt quan tâm trong Chùa Bút Tháp đó chính là tượng Quan Âm nghìn tay nghìn mắt. Pho tượng này đã có tuổi đời rất lâu năm được xác nhận điêu khắc vào năm 1656. Tượng có bề ngang là 2.1m và chiều cao 3.7m, độ dày là 1.15m. Được gọi là tượng phật nghìn tay nghìn mắt bởi tượng Quan Âm có tất cả là 11 đầu với 952 cánh tay ngắn và 42 cánh tay dài. Đây thật sự là một tác phẩm nghệ thuật độc nhất mang đậm ý nghĩa Phật Giáo. Thứ hai là Tháp Báo Nghiêm, Một địa điểm mà du khách nhất định phải ghé đến khi thăm Chùa Bút Tháp đó là tháp Báo Nghiêm. Tháp được đặt nằm ngay bên trong khuôn viên của chùa. Đây chính là nơi thờ tự Hòa thượng Chuyết Chuyết. Tháp Báo Nghiêm được tiến hành xây dựng từ năm 1647 thời vua Lê Chân Tông. Đây cũng là công trình được công nhận có tuổi đời lâu năm. Cửa chính của tháp cũng được xây dựng quay về hướng Nam với dòng chữ “Báo Nghiêm Tháp” ngay tại thân của công trình. Tháp có kiến trúc tương đối độc đáo xây dựng nhỏ dần từ thấp đến cao. Nhìn từ trên cao trông tháp Báo Nghiêm như một chiếc bút khổng lồ giữa bầu trời xanh.
Bắc Ninh
Từ tháng 1 đến tháng 12
3274 lượt xem
Chùa Dâu còn có tên là chùa Cả, Cổ Châu tự, Diên Ứng tự, Pháp Vân tự. Chùa Dâu tọa lạc tại xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành. Chùa Dâu là công trình văn hóa tín ngưỡng có giá trị lịch sử về văn hóa hết sức lớn lao và sâu sắc, bao gồm giá trị lịch sử văn hóa, tôn giáo tín ngưỡng và kiến trúc nghệ thuật. Năm 2013, chùa Dâu được công nhận là Di tích Quốc gia đặc biệt. Quá trình hình thành và tồn tại của chùa Dâu gắn bó mật thiết với lịch sử phát triển của nước ta. Cùng với một số chùa lân cận, chùa Dâu tạo nên một trung tâm Phật giáo lớn nhất của Việt Nam và khu vực. Đây là trung tâm Phật giáo được hình thành sớm hơn cả hai trung tâm Phật giáo nổi tiếng của Trung Quốc thời kỳ nhà Hán là Bành Thành và Lạc Dương. Nhiều đại sư danh tiếng thời xưa đã từng tu hành, trụ trì ở chùa Dâu như: Mâu Bác ở thế kỷ II, Khương Tăng Hội, Chi Cương Lương ở thế kỷ III và Thiển sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi ở thế kỷ VI. Chùa Dâu còn là chùa Cả trong hệ thống chùa thờ Tứ Pháp, chùa Dâu thờ Thần Mây (Pháp Vân), chùa Thành Đạo thờ Thần Mưa (Pháp Vũ), chùa Phi Tướng thờ Thần Sấm (Pháp Lôi), và chùa Phương Quan thờ các lực lượng thiên nhiên của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước và cũng là sự biểu hiện của cả tục thờ Mẫu, một tôn giáo bản địa thuần Việt. Chùa còn thờ “Đức Thạnh Quang” – biểu tượng của thần SiVa trong Ấn Độ giáo. Như vậy, chùa Dâu đã dung hội, cải tiến một cách điển hình các tín ngưỡng, tôn giáo bản địa với các tôn giáo lớn trong khu vực nhưng vẫn mang đậm đà bản sắc dân tộc. Hội Dâu tổ chức vào ngày 8 tháng 4 Âm lịch hàng năm, đây là lễ hội lớn của cả tổng Dâu xưa với nhiều nét văn hóa truyền thống độc đáo vẫn được duy trì. Trải qua trường kỳ lịch sử, chùa Dâu đã trải qua nhiều lần trùng tu tôn tạo. Đại tu toàn bộ các hạng mục công trình, tu sửa tháp Hòa Phong, sơn thếp hệ thống tượng, khôi phục Tam quan, giải phóng mặt bằng phía trước chùa để kè hồ, xây dựng tường bao bảo vệ di tích. Chùa Dâu gồm các hạng mục công trình: Tiền thất, tháp Hòa Phong, Tiền Đường, nhà Tả vu – Hữu vu, Tam Bảo, Hậu đường, hành lang và các công trình phụ trợ. Nhà Tiền thất gồm 7 gian, 2 chái, bên trong bày một số bộ bàn ghế để khách thập phương sắp lễ trước khi vào lễ Phật. Nổi bật nhất trong các công trình của chùa là tòa tháp Hòa Phong. Theo thư tịch cổ, vào thời Trần, Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi cho trùng tu chùa Dâu, xây tháp cao 9 tầng. Nhưng kiến trúc của tòa tháp hiện còn là của thời Lê Trung Hưng. Tháp được xây bằng gạch nung già, với 3 tầng, cao 15m. Bên ngoài tháp có tượng một con cừu làm bằng đá dài 1,33 m, cao 0,8 m. Trong tháp có 4 tượng Thiên Vương - 4 vị thần trong truyền thuyết cai quản 4 phương trời. Trong tháp, treo một quả chuông đồng đúc năm 1793 và một chiếc khánh đúc năm 1817. Nhà Tiền đường gồm 7 gian, 2 chái. Trước nền nhà là tam cấp chạy suốt 5 gian giữa. Ở gian chính giữa có 2 thành bậc đá chạm rồng, mang phong cách nghệ thuật thời Trần. Tại Tiền đường có các ban thờ Hộ Pháp, Đức Ông, Đức Thánh Hiền, Bát Bộ Kim Cương. Tượng Pháp Vân được thờ trong nhà Thượng điện. Đây là một trong 4 pho tượng trong hệ thống tượng Tứ pháp vùng Dâu -Luy Lâu được công nhận là Bảo vật quốc gia. Tượng Pháp Vân uy nghi, trầm mặc, màu đồng hun, cao gần 2m. Tượng có gương mặt đẹp với nốt ruồi to đậm giữa trán gợi liên tưởng tới những nàng vũ nữ Ấn Độ, tới quê hương Tây Trúc. Khu vực nối Tiền thất và Hậu đường là nơi thờ Thập bát La Hán (18 đệ tử đắc đạo của Phật đã tu đến cảnh giới La Hán). Ngoài ra, các pho tượng Bồ Tát, Tam Thế, Đức Ông, Thánh Tăng được đặt ở phần hậu điện. Trải qua bao biến đổi, thăng trầm của lịch sử. Chùa Dâu là điểm đến của Phật tử của cả nước, du khách đến với chùa Dâu là về với đạo Phật và cùng chiêm ngưỡng những vẻ đẹp, giá trị mà ngôi chùa mang lại. Như cái tên bình dị, chùa Dâu ngôi chùa cổ bậc nhất xứ Kinh Bắc.
Bắc Ninh
Từ tháng 1 đến tháng 12
3462 lượt xem
Nhắc đến Bắc Ninh không chỉ là nhắc đến những làn điệu dân ca đi sâu vào tiềm thức của người dân Kinh Bắc, mà còn là nhắc đến mảnh đất cổ lâu đời với nét truyền thống văn hóa đặc sắc. Nét văn hoá đó thể hiện qua các làng nghề như Tranh Đông Hồ, làng nghề Đúc Đồng, Gốm Phù Lãng… hay các địa điểm tâm linh như đền Đô, chùa Dâu, chùa Phật Tích, chùa Bút Tháp. Đình làng Đình Bảng là một ngôi đình nằm ở làng Đình Bảng (xưa là làng Cổ Pháp) - quê hương Lý Công Uẩn (tức Lý Thái Tổ), người lập ra triều Lý và khai sáng kinh đô Thăng Long (năm 1010). Đây được coi là là ngôi đình cổ kính và nổi tiếng nhất của đất Kinh Bắc. Từ xa xưa, dân gian xứ Bắc đã có câu: "Thứ nhất là đình Đông Khang/ Thứ nhì đình Báng, vẻ vang đình Diềm" cũng là để ca ngợi vẻ đẹp kiến trúc và giá trị lịch sử văn hoá mà Đình Bảng đem lại. Đình làng Đình Bảng được xây dựng năm 1700. Người hưng công là quan Nguyễn Thạc Lương (từng làm trấn thủ Thanh Hóa) và vợ là Nguyễn Thị Nguyên. Ông bà đã mua gỗ lim, một loại gỗ quý và bền đem về cúng để dựng ngôi đình. Công trình này đã mất gần 40 năm để xây dựng. Cũng như nhiều đình làng Việt Nam dựng vào cuối thế kỷ 17, đầu thế kỷ 18, đình Báng có kiến trúc bề thế, hòa hợp với thiên nhiên Việt Nam. Nguyên trước có cả tam quan, cửa giữa xây hai trụ gạch kiểu lồng đèn cao, hai bên có cửa cuốn tò vò giả mái, phía sau là khoảng sân rộng, hai bên là hai dãy tả vu và hữu vu. Đình có mái dài, cao, các đầu đao uốn cong vút, lợp ngói mũi hài dày bản, rộng khổ. Góc mái tức "tàu đao" làm cong uốn ngược. Đình làng Đình Bảng gồm tòa đại đình đồ sộ nối với hậu cung phía sau theo dạng mặt bằng hình chuôi vồ. Công trình đồ sộ nhất và quan trọng nhất là Đại đình (Bái đường). Đại đình hình chữ nhật, dài 20 m, rộng 14 m. Đình có kết cấu hệ kèo chồng rường, gồm bảy gian hai chái (gian phụ). Nội thất đình được trang trí với rất nhiều chủ đề phong phú như tứ quý, tứ linh, thanh gươm, bầu rượu. Nghệ thuật điêu khắc thể hiện xu hướng của thời điểm cuối thế kỷ 17, đầu 18 là nghệ thuật cung đình lấn át nghệ thuật dân gian.
Bắc Ninh
Từ tháng 1 đến tháng 12
3480 lượt xem
Vào mỗi dịp đầu xuân, ai nấy cũng hứng khởi và chờ đón những lễ hội diễn ra hàng năm tại nhiều nơi. Và một trong số những lễ hội truyền thống nổi tiếng ai cũng biết chính là Hội Lim Bắc Ninh. Hội Lim là hội của những làng xã cổ nằm quanh núi Lim và đôi bờ sông Tiêu Tương, là lễ hội lớn của vùng, thể hiện một cách sâu nhất văn hóa nghệ thuật và tín ngưỡng tâm linh của người dân xứ Kinh Bắc. Lịch sử Hội Lim được truyền miệng lại với rất nhiều phiên bản khác nhau. Có quan niệm cho rằng: Hội Lim có nguồn gốc từ hội chùa, hội hát, liên quan đến tiếng hát của chàng Trương Chi mà dấu xưa để lại là hình vết dòng sông Tiêu Tương khá rõ ở các làng quê vùng Lim. Giả thuyết này căn cứ vào truyền thuyết Trương Chi – Mỵ Nương. Hội Lim vốn có lịch sử rất lâu đời, và phát triển tới quy mô hội hàng tổng (tổng Nội Duệ). Trên cơ sở lễ hội truyền thống của các làng trong tổng Nội Duệ (bao gồm 6 xã phường: Nội Duệ (Đình Cả và Lộ Bao), Nội Duệ Khánh, Nội Duệ Nam, Lũng Giang, Xuân Ổ và phường hát cửa đình Tiên Du (sau là Duệ Đông) với nhiều nghi lễ rước, tế lễ và các hoạt động nghệ thuật dân gian hết sức phong phú. Như: hát trống quân, hát chèo, ca trù, hát tuồng và hát quan họ…, viên quận công Đỗ Nguyên Thụy – người thôn Đình Cả, Nội Duệ, xứ Kinh Bắc đã tự hiến nhiều ruộng vườn và tiền của cho tổng Nội Duệ trùng tu đình chùa, mở mang hội hè, gìn giữ thuần phong mỹ tục. Ông đã quy định lễ nhập tịch cầu phúc vào dịp tháng Giêng hàng năm, theo truyền thống “xuân thu nhị kỳ”. Như vậy, quận công Đỗ Nguyên Thụy là người có công phát triển từ lễ hội đình tế thần cầu phúc của các làng xã vùng Lim lên lễ hội hàng tổng Nội Duệ vào dịp mùa thu, tháng Tám, với những quy định chung, đồng thời ông cũng chính là người xây dựng bước đầu những lệ tục của lễ hội vào mùa xuân, tháng Giêng. 40 năm sau, vào nửa sau thế kỷ XVIII, cũng chính người làng Đình Cả, tướng công Nguyễn Đình Diễn lại tiếp tục phát triển và đổi mới hội Lim. Ông đã cấp ruộng và tiền cho hàng tổng để chuyển hội hàng tổng từ mùa thu tháng Tám sang hẳn mùa xuân tháng Giêng. Ông cũng bỏ tiền mua nửa quả núi Hồng Vân (tức núi Lim) để xây lăng mộ của mình trên đỉnh núi. Hội Lim được duy trì trong suốt thế kỷ XIX và nửa đầu thế kỷ XX. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống Mỹ cứu nước, hội Lim không được mở trong nhiều thập kỷ cho đến tận những năm sau đổi mới. Ngày nay, hội được mở vào ngày 13 tháng Giêng âm lịch hàng năm. Do được mở rộng cả về diện tích lẫn quy mô nên phải nói rằng hội Lim là một lễ hội lớn và được tổ chức công phu, hoành tráng. Không gian lễ hội lấy đồi Lim làm trung tâm, có chùa Lim – nơi thờ ông Hiếu Trung Hầu – người sáng lập tục hát Quan họ và diễn ra tại 3 địa phương bao quanh là: xã Nội Duệ, xã Liên Bão và thị trấn Lim. Hội Lim thường được kéo dài trong khoảng 3 ngày (từ ngày 12 đến 14 tháng Giêng âm lịch hàng năm), trong đó ngày 13 là chính hội với nhiều hoạt động tập trung. Bởi vậy mà du khách cũng tập trung du lịch Bắc Ninh vào ngày 13 để có mặt tại hội Lim trong chính hội. Hội Lim bắt đầu bằng một lễ rước. Thành phần đoàn rước là những người dân được mặc bộ lễ phục thời xưa với màu sắc sặc sỡ. Trong ngày lễ chính (ngày 13 tháng Giêng) với các nghi thức rước, tế lễ các thành hoàng các làng, các danh thần liệt nữ của quê hương tại đền Cổ Lũng, lăng Hồng Vân, lăng quận công Đỗ Nguyên Thụy, dâng hương cúng Phật, cúng bà mụ Ả ở chùa Hồng Ân. Ngoài phần lễ, hội còn có nhiều trò chơi dân gian như đấu võ, đấu vật, đấu cờ, đu tiên, thi dệt cửi, nấu cơm… và đặc sắc hơn cả là phần hát hội. Truyền thống xa xưa để lại một phong tục cuốn hút và say mê đặc biệt mà chỉ Bắc Ninh mới có, đó là các sinh hoạt văn hóa hát dân ca Quan họ – loại hình dân ca đã trở thành tài sản văn hóa chung của dân tộc. Hát dân ca Quan họ diễn ra từ ngày 12 tháng Giêng tại Lim (sân chùa Hồng Ân và các trại Quan họ) và khắp tại các chùa, đình. Hội hát Quan họ Bắc Ninh diễn ra ở bất cứ nơi đâu: trong nhà, trên sân đình, trước cửa chùa hay bồng bềnh trên những thuyền thúng giữa ao, hồ – dấu tích xưa của dòng Tiêu Tương đã một thời vang vọng tiếng hát Trương Chi làm say đắm nàng Mỵ Nương xinh đẹp. Chỉ cần nơi đó có các liền anh, liền chị. Liền anh khăn xếp áo the, liền chị áo mớ ba mớ bẩy, nón thúng quai thao đến hẹn lại lên, gặp gỡ, đón tiếp nhau thân tình, nồng hậu, tinh tế và lịch lãm theo lề lối của người hát Quan họ, bằng làn điệu dân ca đạt tới trình độ nghệ thuật cao, là sự kết hợp nhuần nhuyễn, mê đắm của thơ cà và nhạc điệu nhằm bảy tỏ tình yêu trong sáng, hết lòng vì người kia, chung thủy một lòng ngóng chông của tình yêu đôi lứa. Nếu bạn có dịp được thưởng thức những khúc quan họ do chính những nghệ nhân mảnh đất Kinh Bắc hát, chắc hẳn sẽ là một trải nghiệm khiến bạn “nhớ mãi không quên”.
Bắc Ninh
Tháng 2
3526 lượt xem
Nằm ở làng Đình Bảng, xã Đình Bảng, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, đền Đô được xây dựng từ thế kỉ thứ 11 và còn được gọi tên là Cổ Pháp Điện hay đền Lý Bát Đế. Đền là nơi thờ 8 vị vua nhà Lý: Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông, Lý Thần Tông, Lý Anh Tông, Lý Cao Tông và Lý Huệ Tông. Với diện tích hơn 31,000m2, đền Đô có 21 công trình lớn nhỏ được chia làm khu nội thành và khu ngoại thành và với trung tâm là đền thờ chính. Đến đây, bạn sẽ phải trầm trồ trước một cảnh quan rộng lớn với những công trình đại điện hoành tráng, hậu cung uy nghi, thuỷ đình thư thái và những văn bia tĩnh mịch. Trong đền chùa cổ kính, mùi hương trầm như lan toả khắp không gian và khiến ta suy tưởng về một triều đại anh hùng linh kiệt hào hùng. Trải qua nhiều triều đại, đền được nhiều lần tu sửa và mở rộng. Không chỉ sở hữu những giá trị văn hoá và lịch sử đặc sắc, đền Đô còn sở hữu kiến trúc cung đình dân gian độc đáo trong một tổng thể cảnh trí hữu tình và hài hoà với thiên nhiên. Đây cũng là một công trình kiến trúc tiêu biểu với nghệ thuật khắc đá, gỗ, tạc tượng với nhiều đường nét chạm khắc tinh xảo, công phu. Sự độc đáo trong kiến trúc ở đền Đô không mang tính giá trị nghệ thuật cao và phần nào thể hiện đậm nét giá lịch sử và văn hoá của triều đại Lý nói riêng và văn hoá lịch sử dân tộc nói chung. Hàng năm, lễ hội đền Đô được tổ chức vào các ngày 14, 15 và 16 tháng 3 Âm lịch nhân kỉ niệm ngày Lý Công Uẩn lên ngôi vua và ban “Chiếu dời đô”. Đây là một lễ truyền thống có từ lâu đời và đã trở thành một phong tục ăn sâu vào đời sống văn hoá tinh thần của người dân nơi đây. Lễ hội thu hút nhiều du khách đến dâng hương và tỏ lòng thành kính với các vị vua nhà Lý.
Bắc Ninh
Tháng 4
3672 lượt xem
Chùa Phật Tích là một trong những ngôi chùa có lịch sử lâu đời mang đậm dấu ấn thời Lý. Chính những di sản văn hoá quý báu này là nguồn tư liệu sống động, đầy tính nhân văn trong hành trình tìm về cội nguồn dân tộc. Vì vậy nếu bạn là người quan tâm đến tín ngưỡng Phật giáo và các giá trị lịch sử truyền thống thì chùa Phật Tích sẽ là địa điểm tham quan không thể bỏ qua. Chùa thuộc địa phận xã Phật Tích, đây chính là nơi diễn ra cuộc gặp gỡ giữa tín ngưỡng dân gian Việt cổ và Phật giáo. Sự kết hợp hài hòa đó đã hình thành nên trung tâm Phật giáo đầu tiên của nước ta. Với những giá trị to lớn về mặt lịch sử và văn hóa chùa Phật Tích thu hút rất nhiều du khách đến nghiên cứu, ngắm cảnh hàng năm. Theo sử sách ghi lại thì chùa được khởi dựng vào năm Thái Bình thứ tư tức năm 1057. Mục đích xây dựng chùa là để đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng tâm linh và gửi gắm niềm tin của đông đảo nhân dân. Ban đầu, chùa được xây lên với nhiều tòa ngang dãy dọc. Tiếp đó tại nơi đây vua Lý Thánh Tông cho xây dựng thêm một ngọn tháp Linh Quang vào năm 1066. Về sau khi tháp đổ thì lộ ra bên trong có tượng Phật A-di-đà được làm từ đá xanh nguyên khối dát vàng. Dân làng đã đổi tên thành Phật Tích và di chuyển và sinh sống trên sườn núi trước sự kỳ diệu của bức tượng Phật. Cho đến thời điểm hiện tại dù đã trải qua nhiều biến động của thời gian ngôi chùa vẫn giữ được nhiều nét cổ kính, trầm mặc. Chùa được thiết kế theo lối Nội công ngoại quốc. Sân chùa Phật Tích là bậc nền thứ nhất. Nơi đây gắn liền với vườn sự tích hoa mẫu đơn khoe sắc lưu truyền trong truyền kỳ nổi tiếng “Từ Thức gặp tiên”. Bậc nền thứ hai của chùa là nơi có các kiến trúc cổ nhưng theo thời gian ngày nay không còn được thấy. Nền thứ ba ở vị trí cao nhất, có Long Trì là một cái ao hình chữ nhật nay cạn nước. Điểm độc đáo của chùa là bức tượng Phật A Di Đà bằng đá xanh ngồi trên tòa sen cao đến 1,87 m. Đây là một trong những tác phẩm điêu khắc đặc sắc của kỹ thuật tạc tượng đỉnh cao.Ngoài ra, ở chùa Phật Tích còn có bức tượng người chim đánh trống. Bức tượng này đã thể hiện sự thoát tục và khát vọng vươn tới ước mơ của con người. Ngay phía trước chùa có một dãy thú 10 con: trâu, tê giác, voi, ngựa… có kích thước lớn. Tất cả được làm từ đá đã thể hiện tài hoa của các nghệ nhân thời Lý. Ngày nay, chùa có tất cả 7 gian tiền đường để dùng vào mục đích đón tiếp khách gần xa. Chùa có 5 gian bảo thờ Phật, đức A Di Đà và các vị tam thế. Ngoài ra chìa còn có 7 gian nhà thờ Mẫu, 8 gian nhà Tổ.Lối đi lên chùa có ba bậc nền bạt vào sườn núi có kè bằng đá tảng dựng đứng như bức tường dài 58m. Ba bậc nền có cao từ 3–5m và khoảng giữa tường là lối đi bằng đá rộng 5m có đến 80 bậc. Bạn có thể tham quan chùa Phật Tích bất cứ thời điểm nào trong năm nhưng phù hợp nhất là tháng Giêng. Lúc này, tiết trời mát mẻ, hoa cỏ sinh sôi nên rất phù hợp để vãn cảnh chùa. Ngoài ra, lễ hội Khán hoa mẫu đơn ở chùa Phật Tích còn là một trong những lễ hội diễn ra sớm và có quy mô lớn nhất Bắc Ninh. Lễ hội gắn liền với chuyện tình cảm động Từ Thức gặp tiên. Lễ hội chùa Phật Tích thường được diễn ra trong ba ngày, từ mồng 3 đến mồng 5 Tết âm lịch hàng năm. Ngày chính của hội là mồng 4. Từ ngày mồng 3 đã có rất đông du khách kéo về chùa để lễ Phật, cầu may mắn, bình an. Hàng vạn du khách đã nô nức có mặt tại đây dự lễ hội. Một lưu ý nho nhỏ là khi đến vãn cảnh chùa khách du lịch nên ăn mặc lịch sự, kín đáo để thể hiện lòng tôn kính đối với đạo Phật. Chùa Phật Tích thực sự là nơi lưu giữ những giá trị lịch sử đã có từ hàng ngàn năm của dân tộc. Du khách đến đây không chỉ là để hành hương bái Phật mà còn để chiêm nghiệm những giá trị cổ xưa của dân tộc.
Bắc Ninh
Từ tháng 1 đến tháng 12
3758 lượt xem
Thành cổ Xương Giang, tọa lạc chính xác tại ở phường Xương Giang, ngay khu vực trung tâm TP Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang. Nhắc đến Bắc Giang, người ta nhắc tới một vùng đất địa linh nhân kiệt, với bề dày lịch sử dựng, giữ nước, ghi dấu những chiến công vang dội. Trong đó, không thể không kể đến địa danh Chi Lăng – Xương Giang lững lẫy bao thời và từ đó tới nay, Thành cổ Xương Giang đã trở thành một điểm đến tâm linh, du lịch, được vinh danh là di tích lịch sử đặc biệt cấp Quốc gia, một điểm đến thú vị khi ghé thăm vùng đất Bắc Giang. Xương Giang là tên ngôi thành cổ do quân Minh xây dựng vào thế kỷ thứ XV (1407). Thành được xây bằng đất, theo các dấu tích còn lại mà người ta khai quật được, thành được xây dựng thành hình chữ nhật, dọc theo hướng Đông - Tây với chiều dài đo được là 600m, chiều rộng đo được theo hướng Bắc - Nam là 450m và với tổng diện tích là 27ha. Bao quanh Thành cổ Xương Giang là tường đắp đất cao dày dặn chắc chắn, bốn góc có pháo đài, hào rộng bao quanh, mở 4 cửa, cửa chính trông về phía Tây. Theo khảo sát thực tế và hồ sơ di tích để lại của Thành cổ Xương Giang thì dấu tích ngôi thành cổ xưa nay còn lại không nhiều trong đó, tường thành cao hơn mặt bằng xung quanh khoảng 3- 4m, chân rộng 25m và mặt rộng từ 16- 20m. 4 góc thành cổ Xương Giang có 4 pháo đài cao hơn mặt thành 4m, nhô hẳn ra ngoài và phía bên ngoài thành là hệ thống hào bao bọc chạy vòng quanh để đảm bảo chiến lược quân sự ngày xưa. Theo sử sách lưu truyền lại, Thành cổ Xương Giang là địa danh gắn liền với chiến thắng Xương Giang của quân dân Đại Việt lừng lẫy năm nào do Lê Lợi lãnh đạo. Tại nơi đây, đoàn quân đã đập tan 10 vạn quân xâm lược Minh trong trận chiến kéo dài gần 1 tháng trải dài dọc địa bàn Lạng Sơn và Bắc Giang ngày nay với bốn trận thắng lớn: Ngày 10/10: dẹp tan quân địch và kết liễu vị Thái tử Liễu Thăng tại cửa ải Chi Lăng; Trận ngày 15/10 đánh tan quân dịch tại khu vực Cần Trạm, ngày nay là Hương Sơn- Lạng Giang, khiến cho tướng giặc là Bảo Định Bá Lương Minh phải tự vẫn; Trận đánh Hố Cát ngày 18/10 nằm trên địa bàn Vôi, Xương Lâm, Phi Mô - Lạng Giang ngày nay, làm cho Thượng thư Lý Khánh tự tử. Đặc biệt là trận Xương Giang ngày 3/11/1427, trên cánh đồng Xương Giang (ngày nay thuộc các xã Tân Dĩnh, Xuân Hương, Mỹ Thái huyện Lạng Giang và Thọ Xương, thành phố Bắc Giang) quân ta đã chiến thắng sau 10 ngày bị bao vây. Trong trận chiến ấy, nghĩa quân đã đánh tan tới bảy vạn quân giặc, cầm quân là hai vị tướng tài Thôi Tụ và Hoàng Phúc, buộc quân Minh lúc bấy giờ đang đóng ở Đông Đô - Hà Nội phải xin hàng rút về nước. Chiến thắng năm nào của nghĩa quân Lam Sơn do vị tướng tài ba Trần Nguyên Hãn chỉ huy để chiếm lấy thành Xương Giang và phá tan đạo quân hùng hậu của Liễu Thăng đã góp phần quan trọng vẽ nên chiến thắng lịch sử để từ đó làm cơ sở giúp nước ta lật đổ ách thống trị bạo tàn của nhà Minh đã kéo dài suốt 20 năm, quyết định nền độc lập của đất nước ta thế kỷ thứ XV. Khi ấy, Thành cổ Xương Giang được coi là trung tâm của trận đánh và liên tục là nhân chứng lịch sử cho nhiều sự kiện lịch sử trọng đại của quê hương đất nước thời bấy giờ, nhất là cuộc khởi nghĩa nổi tiếng với sự lãnh đạo của vị tướng Nguyễn Hữu Cầu, hay còn được biết tới là Quận He xảy ra vào nửa sau thế kỷ 18. Là nhân chứng lịch sử của nhiều sự kiện lịch sử lẫy lừng, Thành cổ Xương Giang hàng năm vẫn được tỉnh Bắc Giang lựa chọn là địa điểm tổ chức lễ hội, thường là vào ngày 6-7 tháng Giêng. Trong lễ hội có nhiều nghi lễ và trò vui đặc sắc để kỷ niệm lịch sử chiến thắng của nghĩa quân Lam Sơn tại Thành cổ Xương Giang năm nào. Trước ngày khai hội, thường sẽ vào tối mùng 5 tháng Giêng, thanh niên nơi đây lại tổ chức đốt lửa trại và tại các đình, chùa và nhà văn hoá sẽ tổ chức đốt đèn đuốc suốt đêm để đợi đến canh năm để sắp hàng ngũ, khua chiêng múa trống kéo về nơi quy tụ để khai hội. Vì thế, cứ tới sáng sớm ngày mùng 6 tháng giêng âm lịch hàng năm, chúng ta sẽ được tận hưởng không khí lễ hội tuyệt vời với đoàn người từ các phường xã, giương cờ, đánh trống, với đủ loại xe kiệu, quần áo rực rỡ, lần lượt đổ từ các ngả đường tiến về trung tâm khai hội và bắt đầu lễ hội lớn nhất trong năm tại nơi đây. Với ý nghĩa lịch sử đó, ngày 22-01-2009, Bộ Văn hoá - Thể thao và Du lịch đã có Quyết định xếp hạng Thành cổ Xương Giang là di tích lịch sử cấp Quốc gia, với 14 điểm di tích là: Cửa đông bắc, cửa đông, cửa bắc, cửa tây nam, cửa nam, khu trung tâm, dấu vết thành, đoạn sông Xương Giang chảy qua thành; địa điểm khai quật khảo cổ học số 2, 3, giếng Phủ, đền Thành và 2 điểm ngoài khu bảo vệ là: cửa đông nam, cửa tây.
Bắc Ninh
Từ tháng 1 đến tháng 12
3066 lượt xem
Hồ Cấm Sơn có toạ lạc tại xã Sơn Hải, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang, được xem là công trình đại thủy nông lớn thứ tư trong cả nước. Nhiệm vụ chính của hồ là cung cấp nước cho sản xuất nông nghiệp. Dù có diện tích trung bình 2.600ha, nhưng vào mùa hè và những lúc có mưa nhiều, mặt hồ có thể mở rộng lên tới hơn 3.000ha. Hồ Cấm Sơn được bao bọc bởi những dãy núi cao hùng vĩ và rừng cây xanh mướt, tạo thành một không gian thiên nhiên đẹp mê hồn. Để đến được Hồ Cấm Sơn, bạn có thể đi xe từ trung tâm Hà Nội theo con đường dài khoảng 100km. Trên đường đi, bạn sẽ phải đi qua cầu Long Biên và thị xã Từ Sơn, sau đó đi đến Bắc Ninh và chạy thêm khoảng 22km để đến Bắc Giang. Tại đây, bạn sẽ tiếp tục đi theo Quốc Lộ 31 để tới thị trấn Chũ (Lục Ngạn) và tìm đường rẽ trái để đi đến hồ Khuôn Thần (tỉnh lộ 289). Khi đến ủy ban xã Kiên Thành, bạn chỉ còn cách Hồ Cấm Sơn khoảng 15km nữa. Tuy nhiên, vì đường đi khá xa và gồm nhiều đoạn đường khác nhau, để đảm bảo an toàn cho chuyến đi của mình, bạn nên đi cùng một nhóm đông người và nghỉ ngơi định kỳ trên đường. Ngoài ra, bạn cũng có thể hỏi đường người dân địa phương để được hướng dẫn cụ thể hơn tránh bị lạc đường và mất thời gian nhé. Hồ Cấm Sơn là một địa điểm du lịch phù hợp để ghé thăm vào bất kỳ thời điểm nào trong năm. Tuy nhiên, theo kinh nghiệm từ những người từng đến đây, mùa hè là thời điểm đẹp nhất để trải nghiệm không gian thoáng đãng và thưởng ngoạn cảnh đẹp của hồ. Bạn có thể cắm trại cùng bạn bè hay trải nghiệm tắm hồ tại đây. Ngoài ra, mùa thu cũng là thời điểm tuyệt vời để du lịch Hồ Cấm Sơn, lúc này khí hậu mát mẻ và cây cối bắt đầu thay lá, tạo nên một không gian thiên nhiên lãng mạn. Nếu bạn muốn trải nghiệm mùa vụ vải chín đỏ rực của vùng đồi Lục Ngạn, bạn có thể lên kế hoạch đến đây vào khoảng tháng 6 hoặc tháng 7. Đây cũng là thời điểm để hòa mình vào không khí thu hoạch của các dân cư địa phương. Hồ Cấm Sơn giống như một bức tranh thiên “sơn thủy hữu tình”, khi đặc thù nơi đây là bờ hồ được bao quanh bởi các ngọn núi điệp trùng. Người dân đi lại chủ yếu bằng thuyền, lưu giữ nhiều nét văn hóa truyền thống cổ truyền. Khi đến đây, du khách sẽ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp hoang sơ của những dãy núi cao và hàng cây xanh mướt tạo bóng xuống mặt hồ trong lành. Thêm vào đó, hàng trăm hòn đảo lớn nhỏ nhấp nhô giữa mặt hồ càng tôn lên cảm giác như bạn đang sống trong một phiên bản thu nhỏ của Hạ Long, tại Bắc Giang. Có thể bạn chưa biết, sự lãng mạn và thơ mộng của thiên nhiên ở đây từng truyền cảm hứng sáng tác cho nhạc sĩ Phó Đức Phương tạo nên bài hát "Hồ trên núi", trở thành một tác phẩm nổi tiếng đến ngày nay. Ngoài ra, bạn có thể cùng người thân du ngoạn tới những hòn đảo nhỏ và chiêm ngưỡng mây trời, núi non hùng vĩ tại hồ Cấm Sơn bằng một chiếc thuyền máy. Ngoài việc chiêm ngưỡng thiên nhiên tuyệt đẹp, du khách còn có thể tham gia nhiều hoạt động thú vị tại Hồ Cấm Sơn như chèo thuyền, leo núi, câu cá,... Điều này chắc chắn sẽ khiến cho chuyến du lịch của bạn trở nên đầy phấn khích và ý nghĩa. Không chỉ thế, khu du lịch Hồ Cấm Sơn còn là điểm đến "hot" ở Bắc Giang, thu hút rất nhiều du khách trẻ đến đây cắm trại, dã ngoại. Sau khi khám phá đảo trên thuyền, bạn có thể ghé qua xóm chài để mua những sản phẩm đặc sản như tôm, cá tươi sống. Ngoài ra, bạn có thể ghé vào các căn nhà xung quanh để mua gà đồi và thuê bếp của chủ nhà để tự tay nấu nướng món ăn đặc trưng của vùng đất này. Đây thực sự là trải nghiệm tuyệt vời để tìm hiểu về văn hóa, phong tục tập quán địa phương và cảm nhận sự ấm áp, thân thiện của người dân nơi đây.
Bắc Ninh
Từ tháng 1 đến tháng 12
3804 lượt xem
Chùa Đức La (hay còn được biết đến là chùa Vĩnh Nghiêm) nằm trên một quả đồi thấp tại thông Đức La, xã Trí Yên, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang. Chùa Đức La nằm cách trung tâm thành phố khoảng hơn 18 km. Có lẽ vì vậy, mà nơi đây không vướng những cái ồn ào, tấp nập của thành thị. Chùa được xây dựng từ đầu thời Lý Thái Tổ (1010-1028) cho tới thời vua Trần Thành Tông (1258-1278), chùa là nơi có nhiều vị cao tăng tu hành. Do đó, chùa đã được tu tạo nguy nga và lộng lẫy hơn. Chùa cũng là nơi mà vua Trần Nhân Tông đến thụ giới và sáng lập nên Thiền phái Phật giáo Việt Nam. Tại chùa Đức La, vua Trần Nhân Tông cùng Pháp Loa và Huyền Quang đã tạo nên Trúc Lâm Tam Tổ của thiền phái Trúc Lâm. Chùa Đức La nổi bật với phong cảnh thiên nhiên hữu tình, nên thơ. Chùa nằm trên một quả đồi thấp, ở nơi lưu hợp của sông Lục Nam và sông Thương. Bao quanh chùa là núi Cô Tiên. Một vị trí tuyệt vời, giao thoa giữa núi sông. Không ồn ào, nhộn nhịp, đứng ở nơi đây, con người như được hoà mình vào giữa mênh mông trời đất. Chùa Đức La được đặt trên khuôn viên rộng với diện tích khoảng 10000 mét vuông. Mở đầu là cổng Tam Quan và sau đó là Tiền Đường. Bước vào sân chùa, những dấu ấn xưa cũ vẫn còn được lưu trữ hiển hiện ngay trước mắt. Trong đó, tấm bia to 6 mặt năm Hoằng Định được xem là lâu đời nhất. Chùa Đức La có lối kiến trúc độc đáo, được lưu giữ từ hàng ngàn năm. Chùa có cấu trúc với 4 khối: chùa hình chữ “công”, hai bên có các dãy Tả vu, Hữu vu. Các dãy trong chùa đều rộng rãi gồm 18 gian. Chùa Đức La còn được biết đến bởi các giá trị điêu khắc tinh xảo, điệu nghệ. Thể hiện rõ nét nhất thông qua hệ thống tượng Phật được sắp xếp ở 3 khối nhà chính: Tam bảo, Nhà Tổ đệ nhất và Nhà Tổ đệ nhị. Bên cạnh đó, trong chùa còn lưu giữ lại nhiều di vật có giá trị. Phải kể đến bức hoành phi – câu đối cùng hệ thống văn bia với 8 tấm ghi lại tiến trình lịch sử và phát triển của Trung tâm Phật giáo Vĩnh Nghiêm.
Bắc Ninh
Từ tháng 1 đến tháng 12
3440 lượt xem
Khu du lịch sinh thái Suối Mỡ nằm trên tuyến đường tâm linh từ TP Bắc Giang đến thị trấn Thanh Sơn (Sơn Động) kết nối với nhiều khu, điểm du lịch hấp dẫn như: Chùa Vĩnh Nghiêm (Yên Dũng); khu du lịch tâm linh - sinh thái Tây Yên Tử, Khe Rỗ (Sơn Động), đồng thời tiếp giáp với hai tỉnh Quảng Ninh và Hải Dương trở thành điểm du lịch cầu nối trung chuyển với các điểm du lịch trong quần thể di tích - danh thắng phía Đông và Tây Yên Tử, cùng di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc và các điểm du lịch khác của 3 tỉnh. Khu du lịch sinh thái Suối Mỡ có giá trị về mặt lịch sử, văn hóa và tín ngưỡng, gồm hệ thống 3 ngôi đền chính: Hạ - Trung - Thượng thờ Thánh Mẫu Thượng ngàn công chúa Quế Mị Nương con của vua Hùng Vương thứ IX - người có công khai mở ra vực mỡ, dẫn nước nhập điền, dạy nhân dân cách trồng trọt chăn nuôi. Đền Suối Mỡ với những nét cổ kính và những giá trị văn hóa lịch sử được lưu giữ tại đây đã được công nhận là Di tích lịch sử cấp quốc gia vào năm 1988. Lễ hội đền Suối Mỡ diễn ra hằng năm vào ngày 30 tháng 3 và mồng 1, mồng 2 tháng 4 Âm lịch nhằm cầu mong mùa màng tốt tươi và cũng là dịp để mọi người tỏ lòng biết ơn với công chúa Quế Mỵ Nương thu hút hàng nghìn du khách thập phương đến cầu phúc, cầu tài... Lễ hội mang đậm bản sắc dân tộc đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia năm 2015. Cùng đó, Khu du lịch sinh thái Suối Mỡ còn có những di tích phụ cận khác như: Đền Trần, đền Cậu Bé Lệch, đền Cô Bé Cây Xanh, đền Quan...; những di tích lịch sử về một thời hào hùng của dân tộc như: Bãi Quần Ngựa, khu Ba Dinh Bảy Nền thời nhà Trần...; những di tích mang đậm dấu ấn Phật giáo Trúc Lâm Yên Tử như: Chùa Hồ Bấc, chùa Hòn Trứng... tạo ra quần thể du lịch văn hóa, tâm linh Suối Mỡ. Một trong những điểm khiến bất cứ du khách nào đã từng đến Suối Mỡ không thể quên được đó chính là vẻ đẹp sinh thái của núi, rừng, suối, thác nơi đây. Nằm trải dài trên diện tích hàng ngàn ha, hệ thống rừng nguyên sinh của Suối Mỡ hết sức phong phú và đa dạng là điều kiện phát triển bền vững loại hình du lịch sinh thái - nghỉ dưỡng. Suối Mỡ có hai hệ thống thác chính là thác Suối Mỡ và thác Thùm Thùm mang vẻ đẹp kỳ vĩ và nên thơ. Mỗi hệ thống thác lại có nhiều bậc thác hùng vĩ, mỗi bậc mỗi vẻ và đặc biệt dưới chân những bậc thác này đều có những bồn tắm tự nhiên hết sức kỳ thú. Đến với Suối Mỡ vào những buổi trưa hè nắng nóng, du khách sẽ được ngâm mình trong làn nước trong mát rồi để mặc cho làn nước từ trên cao dội xuống mơn man khắp cơ thể như một môn vật lý trị liệu giúp xua tan đi những căng thẳng mệt mỏi sau những ngày làm việc vất vả hay chọn cho mình không gian riêng trên những chiếc ghế, chiếc giường bằng đá để nghỉ ngơi và cảm nhận vẻ đẹp của núi rừng Suối Mỡ. Trong Khu du lịch sinh thái Suối Mỡ còn có hồ chứa nước Suối Mỡ với tổng diện tích mặt nước hơn 30 ha, quanh lòng hồ là những bãi cỏ xanh bằng phẳng thích hợp cho các loại hình du lịch như: Dã ngoại cắm trại, câu cá, bơi thuyền… Cùng đó, với hệ thống rừng nguyên sinh, cao nguyên đá Suối Mỡ là điểm đến hấp dẫn của các bạn trẻ đam mê loại hình du lịch phượt, leo núi khám phá vẻ đẹp của thiên nhiên nơi đây. Suối Mỡ được xác định là điểm nhấn quan trọng trong phát triển du lịch của tỉnh Bắc Giang, luôn được chú trọng đầu tư xây dựng. Thời gian qua, cơ sở hạ tầng Khu du lịch sinh thái Suối Mỡ từng bước được hoàn thiện. Nhiều hạng mục đầu tư quan trọng với tổng số tiền hàng trăm tỷ đồng như: Công trình hồ Suối Mỡ, khu rừng bảo vệ cảnh quan Suối Mỡ, dự án đầu tư hạ tầng khu du lịch; nâng cấp sửa chữa đền Hạ, nhà hát Văn và khuôn viên; cầu treo Đền Trần; công trình tuyến đường du lịch quanh hồ Suối Mỡ; công trình tu bổ, tôn tạo khu di tích đền Trung…
Bắc Ninh
Từ tháng 1 đến tháng 12
3760 lượt xem
“Tháng Tám giỗ Cha, tháng Ba giỗ Mẹ”, hàng năm vào ngày 30-3 và 1-4 âm lịch, nhân dân các dân tộc vùng chân núi sườn Tây Yên Tử, huyện Lục Nam (Bắc Giang) lại nô nức trẩy hội Suối Mỡ. Lễ hội tưởng nhớ vị nữ thần Mỵ Nương Quế Hoa được suy tôn là Thánh Mẫu Thượng Ngàn đã có công khai phá đất đai, khơi dòng suối mát, dạy dân cày cấy để có cuộc sống ấm no. Theo các tài liệu xưa ghi chép lại, đền Suối Mỡ thờ Thánh Mẫu Thượng Ngàn từng được sắc phong: “Thần thông quảng đại càn, thập nhị tôn nàng Vực Mỡ”. Mẫu Thượng Ngàn được thờ ở Suối Mỡ là Mỵ Nương Quế Hoa, con Vua Hùng Định Vương và Hoàng hậu An Nương. Hoàng hậu sinh ra nàng bên gốc quế rồi mất. Lớn lên, Quế Hoa luôn nhớ thương mẹ nên đã đi vào rừng sâu để tìm dấu vết người mẹ hiền. Tới khu thung lũng là xã Nghĩa Phương ngày nay, vùng đất phẳng phiu rộng rãi nhưng cây cỏ héo tàn, xơ xác do thường xuyên hạn hán, Quế Hoa nghĩ rằng phải tìm nước về cho người dân sinh sống. Sau nhiều ngày đường vất vả, công chúa bắt gặp hồ nước mênh mông, đang băn khoăn tìm cách mở đường đưa dòng nước mát về nơi khô hạn, thì được một cụ già râu tóc bạc phơ cho quyển sách luyện phép lạ cứu đời. Quế Mỵ Nương bèn lập một hành cung làm nơi tu luyện và đã thành công. Nàng xoè năm ngón tay ấn xuống tạo thành sức mạnh kỳ lạ khiến núi nứt ra, đá ầm ầm xô chuyển, nước từ các khe ào ào dốc xuống vùng đất thấp rồi chảy thành dòng êm ả. Từ đó cây cối mọc lên, chim chóc kéo tới, đời sống nhân dân ngày càng no ấm. Khi đó, Mỵ Nương Quế Hoa cùng 12 thị nữ bay về trời trên đám mây ngũ sắc. Để tưởng nhớ công ơn bà, dân bản lập bàn thờ tại nơi bà đưa nước nguồn về và gọi là đền Suối Mỡ. Đời sau đều tôn là Thánh Mẫu Thượng Ngàn. Suối Mỡ quanh năm nước chảy rì rào bắt nguồn từ khu vực Đá Vách và Hố Chuối rồi xuôi dòng qua năm bậc thác mẹ, thác con nối tiếp. Tương truyền đó chính là dấu năm ngón tay của nàng công chúa Mỵ Nương. Dọc theo con suối thiêng, nhân dân xây dựng một quần thể di tích gồm: Đền Hạ, đền Trung và đền Thượng. Dấu tích cũ cho biết, quần thể di tích có niên đại từ thời Lê – Mạc và đã được tu sửa, tôn tạo qua nhiều giai đoạn. Đến với lễ hội Suối Mỡ là đến với vẻ đẹp sơn thuỷ hữu tình. Với quãng đường 7 km, du khách có thể chiêm ngưỡng toàn cảnh nơi đây với nước suối trong lành và cây lá xanh tươi cùng hệ thống công trình: Đền Hạ, Đền Trung, Đền Thượng, Bãi Quần Ngựa, Đền Trần, Khu Ba Dinh Bẩy Nền, Chùa Hòn Trứng, Đình Xoan và chùa Hồ Bấc… Đền Thượng nằm ở lưng chừng núi Vực Mỡ. Từ đây có thể bao quát cả khu đền Trung, Đền Hạ và một phần thung lũng xã Nghĩa Phương. Đền vốn được tạo ra từ mái đá của sườn núi. Mặt nhìn xuống Suối Mỡ chảy từ thác Thùm Thùm. Từ đây trở xuống Suối Mỡ rộng dần và có nhiều thác lớn nhỏ. Đền Trung ở chân núi Vực Mỡ thuộc hữu ngạn suối này, có không gian rộng rãi thoáng mát. Nước suối trong mát chảy dài xuống Đền Hạ. Đền Hạ quy mô lớn hơn nằm ở giữa thung lũng. Trong ngày hội, đây là nơi tập trung khách thập phương các nơi về lễ đền. Lễ hội đền Suối Mỡ là ngày hội văn hoá của nhân dân các dân tộc thuộc nhiều làng, xã dưới chân núi thuộc sườn tây Yên Tử (Lục Nam). Các làng Dùm, làng Quỷnh thuộc xã Nghĩa Phương từ thượng cổ tới nay, vào ngày hội đều có lễ rước sắc, bài vị và lễ vật về đền Suối Mỡ. Ngoài ra, hội đền còn tổ chức thi bắn cung, võ dân tộc, đấu vật, cờ bỏi, đánh đu, chọi gà... Một nét văn hoá độc đáo và đặc sắc không thể thiếu trong lễ hội Suối Mỡ, gắn với nhân vật thờ chính ở ngôi đền là nghi lễ hầu Thánh trong ngày lễ hội. Những năm gần đây được sự quan tâm và chỉ đạo của ngành văn hoá, lễ hội Suối Mỡ còn tổ chức liên hoan nghi lễ chầu văn, nhằm tôn vinh bảo tồn nét đẹp văn hoá thờ Mẫu.
Bắc Ninh
Từ tháng 1 đến tháng 12
3709 lượt xem
Mỗi tỉnh thành Việt Nam đều được ưu ái cho những cảnh sắc thiên nhiên phong phú, các danh lam thắng cảnh độc đáo. Bắc Giang cũng không nằm ngoài sự ưu ái đó. Nhắc đến Bắc Giang là nhắc đến các khu di tích tâm linh như chùa Vĩnh Nghiêm, chùa Bổ Đà, đình Lỗ Hạnh, Lăng Dinh Hương, Lăng Họ Ngọ gắn với nền văn hóa truyền thống độc đáo và lâu đời. Nhắc đến Bắc Giang là nhắc đến các địa điểm du lịch nổi tiếng như Đồng Cao, Suối Nước Vàng, Hồ Cấm Sơn,… và không thể không nói đến Rừng nguyên sinh Khe Rỗ. Sở dĩ nơi đây có cái tên như vậy là do đặc trưng địa hình với những khe sâu, núi cao, rừng già và đặc biệt khi thời tiết thay đổi thì ở Khe Rỗ lại vang lên những âm thanh như thác đổ. Chính vì vậy người dân nơi đây mới gọi tên là "Khuổi Lồ" đọc theo tiếng phổ thông có nghĩa là Khe Rỗ. Nằm trong khu bảo tồn Tây Yên Tử, cảnh sắc thiên nhiên ở rừng nguyên sinh Khe Rỗ vô cùng hoang sơ và có một chút bí ẩn đủ sức làm các du khách tò mò. Chính vì thế, nơi đây nhanh chóng trở thành điểm đến thú vị đối với những du khách ưa khám phá và muốn thư giãn cùng thiên nhiên. Rừng nguyên sinh Khe Rỗ có tổng diện tích tự nhiên 7.153ha, nằm trong ba lưu vực Khe Rỗ, Khe Đin và Khe Nước Vàng. Rừng ở đây rất phong phú về động, thực vật đặc biệt là những loài quý hiếm. Đặc biệt, rừng nguyên sinh Khe Rỗ rất nổi tiếng với cây đa tình đã trên 500 tuổi, vừa là nơi hò hẹn, vừa là nơi kết duyên, vừa là nơi chứng kiến biết bao câu chuyện tình đẹp của những chàng trai, cô gái An Lạc. Do đặc điểm địa hình mà nơi đây nhanh chóng trở thành một khu du lịch nghỉ dưỡng, sinh thái cuối tuần hấp dẫn. Đến Khe Rỗ, du khách không chỉ được đắm mình trong làn nước suối trong vắt, mà còn được trải nghiệm nhiều hoạt động vui chơi thú vị, đặc biệt là hoạt động trải nghiệm cuộc sống, văn hóa của đồng bào. Hiện trong bản có nhiều hộ gia đình có dịch vụ lưu trú qua đêm cho khách du lịch với sức chứa vài chục khách mỗi đêm.
Bắc Ninh
Từ tháng 1 đến tháng 12
3688 lượt xem
Khu du lịch nổi tiếng Khuôn Thần có vị trí tại huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang. Điểm đến nay cách Hà Nội khoảng 100km và cách thành phố Bắc Giang khoảng 50 km (phố Chũ). Từ trung tâm thị trấn Chũ rẽ trái khoảng 10 km, một khung cảnh tuyệt sắc hiện lên trước mắt. Hồ nước trong xanh soi bóng mây trời cùng với những hòn đảo nhấp nhô. Hồ Khuôn Thần không chỉ mang vẻ đẹp đơn thuần mà còn khiến du khách đắm say. Nơi đây mang vẻ đẹp giao hoà giữa khí – trời – đất. Một cảnh quan, môi trường sinh thái trong lành. Hồ Khuôn Thần hiện lên nổi bật giữa một bức hoạ thiên nhiên muôn màu sắc. Bức hoạ ấy được thuê dệt từ màu xanh bạt ngàn của rừng, trời, mây, non nước. Với diện tích khoảng 240ha, nơi đây được bao bọc bởi những rừng thông, chàm, keo tai tượng tươi tốt. Cảnh sắc ấy lại được điểm tô thêm bởi màu đỏ rực rỡ của những đồi vải đang vào mùa thu hoạch. Thêm vào đó là những rặng liệu nghiêng mình toả bóng. Nét đẹp của Hồ Khuôn Thần càng trở nên cuốn hút hơn bởi những hòn đảo to nhỏ nổi lên giữa mặt nước. Trên các đảo được phủ thông và các cây loại cây ăn quả khác nhau. Tạo hoá đã ban cho khu du lịch Khuôn Thần một cảnh sắc tuyệt tác. Đến nơi đây, du khách có thể thả hồn trên du thuyền. Lênh đênh giữa hồ, cảm nhận sự mênh mông, yên bình và đắm mình trong cảnh sắc thiên nhiên huyền ảo. Vẻ đẹp của trời, mây, non nước hoà quyện lại trước mắt. Khi lên tởi đỉnh đập nước hồ Khuôn Thần, du khách có thể cảm nhận thêm cảnh mênh mông, hùng vĩ, và thơ mộng của trùng điệp nủi rừng. Đặc biệt, vào mùa mưa, nước chảy từ đỉnh đập Khuôn Thần ào ào xuống thung lũng ven hồ tạo thành cảnh sắc ngoạn mục. Trên đường đi, du khách có thể dừng chân ghé thăm các đảo nổi. Trên các đảo này được trồng thông và các cây ăn quả: vải, nhãn,..Không giãn bao la bình yên, trữ tình và thi mộng. Ngồi trên những thảm cỏ xanh mát, dưới những hàng thông vi vu toả bóng. Hay ngả mình trên những chiếc võng đu đưa dưới những cây nhãn. Hoà mình trọn vẹn vào thiên nhiên, làn gió nhẹ thổi cuốn đi hết những ưu phiền. Mỗi nơi sẽ có những thời điểm riêng để phô ra trọn vẹn những vẻ đẹp vốn có của mình. Với hồ Khuôn Thần, nơi đây có không khí mát mẻ, trong lành nên bạn có thể đến vào mọi thời điểm trong năm. Tuy nhiên, mùa hè có lẽ là mùa đến đây lý tưởng nhất. Trái ngược với cái nắng nóng bụi bặm của thành phố. Vào mùa hè, các bạn có thể dành thời gian để đến với khu Khuôn Thần. Nơi đây mang lại cho bạn cái mát lạnh của hồ cùng không khí trong lành. Không những thế, bạn còn được ngắm nhìn sắc đỏ của đồi vải rực rỡ, thưởng thức những trái vải thơm ngon. Một cảm giác thoải mái, dễ chịu tại nơi đây. Không gian, cảnh vật, con người nơi đây đã khiến khu du lịch Hồ Khuôn Thần trở thành một điểm đến lý thú. Trải nghiệm Hồ Khuôn Thần chắc chắn sẽ là một kỷ niệm khó quên với vẻ đẹp của con người, cảnh sắc mộng mơ mang sức hấp dẫn kỳ lạ giữa chốn sơn trang. Nơi đây chính là một điểm đến lý tưởng dành cho những ai yêu thích, khám phá thiên nhiên. Cũng là nơi dừng chân dành cho những ai muốn tìm một nơi bình yên, thư giãn.
Bắc Ninh
Tháng 3 đến tháng 10
3473 lượt xem