Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch Travelviet
Tải ứng dụng Travelviet
Cánh Đồng Hoa Rễ Hải Dương Tự Túc tọa lạc tại xã Côn Sơn, huyện Chí Linh, một vùng đất nổi tiếng với vẻ đẹp thiên nhiên hoang sơ và những giá trị văn hóa lâu đời. Được xem là một trong những điểm đến du lịch nông thôn đặc sắc của Hải Dương, cánh đồng này không chỉ thu hút những người yêu thích thiên nhiên mà còn hấp dẫn những ai muốn khám phá và tìm hiểu văn hóa làng quê miền Bắc.Cánh Đồng Hoa Rễ có vẻ đẹp suốt bốn mùa, nhưng thời điểm lý tưởng nhất để tham quan là vào mùa thu hoạch, từ tháng 9 đến tháng 11. Đây là lúc cánh đồng hoa rễ khoe sắc tươi đẹp nhất, với những cây rễ vươn cao, rực rỡ dưới ánh nắng vàng nhẹ. Không khí mát mẻ, trong lành của mùa thu cũng tạo điều kiện lý tưởng cho việc tham quan và chụp ảnh. Ngoài ra, nếu bạn muốn trải nghiệm không gian yên bình, tránh xa sự ồn ào, thì thời điểm từ sáng sớm hoặc cuối chiều cũng là lựa chọn tuyệt vời. Vào những thời điểm này, không gian tĩnh lặng, mát mẻ sẽ giúp bạn tận hưởng vẻ đẹp của cánh đồng một cách trọn vẹn, đồng thời chụp được những bức ảnh tuyệt vời dưới ánh sáng tự nhiên. Khu vực này nổi bật với cảnh sắc bình dị, không gian trong lành và yên bình, khiến du khách cảm nhận được sự tĩnh lặng và mộc mạc, khác biệt hoàn toàn với nhịp sống hối hả của thành phố. Cánh Đồng Hoa Rễ nổi bật với những cây rễ kỳ lạ, vươn lên từ mặt đất với những cành lá mềm mại, tạo nên một khung cảnh thiên nhiên đặc biệt. Đây là một loài cây có sự kết hợp độc đáo giữa vẻ đẹp của một cây thông nhỏ và những rễ cây dài vươn xuống đất, mang đến một hình ảnh ấn tượng và khác biệt. Ngoài vẻ đẹp tự nhiên, Cánh Đồng Hoa Rễ còn chứa đựng nhiều câu chuyện truyền thuyết gắn liền với lịch sử và văn hóa địa phương. Các câu chuyện dân gian, truyền thuyết về những nhân vật lịch sử, hay những phong tục tập quán của người dân làng quê cũng góp phần tạo nên một bức tranh văn hóa sống động tại nơi đây. Điều đặc biệt khi đến với Cánh Đồng Hoa Rễ là không chỉ được ngắm nhìn vẻ đẹp thiên nhiên, mà du khách còn có cơ hội tham gia vào các hoạt động của cuộc sống nông thôn, từ việc cấy rễ đến thu hoạch, và trải nghiệm những món ăn đặc sản mang đậm hương vị vùng miền.Khi đến Cánh Đồng Hoa Rễ Hải Dương Tự Túc, du khách có thể tham gia vào nhiều hoạt động thú vị như: Chụp ảnh: Đây là một trong những hoạt động không thể thiếu khi tham quan cánh đồng hoa rễ. Bạn có thể lưu lại những khoảnh khắc đẹp nhất giữa thiên nhiên và hoa rễ, đặc biệt là vào mùa thu hoạch. Khám phá văn hóa nông thôn: Hòa mình vào nhịp sống của người dân địa phương, tham gia vào các hoạt động sản xuất nông nghiệp, từ việc cấy rễ cho đến thu hoạch. Thưởng thức ẩm thực: Hải Dương nổi tiếng với nhiều món ăn đặc sản, như bánh đậu xanh, bánh gai, hoặc các món ăn dân dã như cơm rễ, giúp bạn trải nghiệm một phần văn hóa ẩm thực của vùng đất này.
Hải Dương
Từ tháng 08 đến tháng 11
222 lượt xem
Thuộc địa phận xã Hoàng Hoa Thám, thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương, rừng phong khu vực chùa Thanh Mai vào dịp cuối mùa thu, sang những ngày mùa đông là thời điểm hoàn hảo để du khách có thể chiêm ngưỡng cảnh sắc tuyệt đẹp. Với diện tích khoảng 15 hecta, rừng phong ở khu vực chùa Thanh Mai khá dày đặc. Chiều cao của cây phong lên tới hàng chục mét, mọc từ chân lên đến đỉnh núi, trong đó có những cây kích thước thân rất lớn, khoảng 2-3 người ôm mới trọn. Theo sư thầy Thích Chí Trung, Trụ trì chùa Thanh Mai, ngôi chùa là nơi gắn liền với cuộc đời và sự nghiệp của Đệ nhị tổ Thiền phái Trúc Lâm Pháp Loa tôn giả - một trong ba chốn tổ của Thiền phái Trúc Lâm được xây dựng vào thời nhà Trần. Ngôi chùa được xây vào khoảng năm 1329 trên sườn núi Tam Ban (xa xưa gọi là núi Phật Tích), ở độ cao khoảng 200 mét và ẩn mình giữa núi, rừng phong. Đặc biệt, trong rừng phong hiện còn nền móng của ngôi chùa cổ và chiến hào khi cụ Hoàng Hoa Thám về đóng quân. Năm 1996, Bảo tàng tỉnh Hải Dương đã về đây khảo sát và phát hiện gạch nền, chân tảng cùng những bức tường của chùa còn sót lại. Nhiều năm gần đây, rừng phong ở khu vực Chùa Thanh Mai là địa chỉ của nhiều du khách khắp nơi tìm về khám phá, tìm hiểu… nhất là dịp những tán lá chuyển màu.Ngoài phong hương, ở đây còn có những cây dẻ, cây trám lâu năm mọc xen kẽ bên đường. Hoa dẻ trắng nở chen giữa lá trám xanh và phong hương vàng - đỏ tạo nên khung cảnh thiên nhiên độc đáo giúp chùa Thanh Mai thu hút du khách trong dịp Tết cận kề. Các bạn trẻ thường đến để leo núi trải nghiệm, chụp ảnh check-in và không quên mang những chiếc lá phong về làm kỷ niệm. Cùng với đó, một số câu lạc bộ nhảy dù cũng tìm đến khu vực có khung cảnh lý tưởng này.
Hải Dương
Từ tháng 11 đến tháng 04
260 lượt xem
Nếu như Hà Nội có Bát Tràng thì Hải Dương cũng tự hào với làng nghề gốm Chu Đậu. Làng nghề này là địa danh được nhiều người yêu mến và tìm đến để khám phá dòng chảy lịch sử của một làng nghề truyền thống vang danh đất Bắc. Hải Dương là một trong những địa phương mạnh về du lịch di sản, văn hóa, nơi này có rất nhiều điểm đến mang dấu ấn lịch sử và nét đặc trưng của miền quê Bắc Bộ. Làng gốm Chu Đậu chính là một trong những điểm đến hấp dẫn du khách bởi truyền thống làm gốm lâu đời và những giá trị, tinh hoa của làng nghề còn được lưu giữ đến ngày nay. Du lịch Hải Dương và ghé thăm làng nghề làm gốm Chu Đậu bạn sẽ có cơ hội khám phá những nét đẹp văn hóa làng nghề cổ nhất xứ Đông. Làng nghề làm gốm Chu Đậu nằm ở xã Thái Tân, huyện Nam Sách của tỉnh Hải Dương ở tả ngạn của con sông Thái Bình. Làng nghề này được hình thành từ thế kỉ 14 và phát triển cực thịnh trong thế kỉ 15 và 16. Sau đó, do chiến tranh loạn lạc, nghề làm gốm ở Chu Đậu dần bị mai một và thất truyền. Đến năm 1980, bí thư đại sứ quán Nhật Bản tại Việt Nam là Makato Anabuki khi đến Thổ Nhĩ Kỳ đã thấy một chiếc bình gốm hoa lam ở viện bảo tàng Takapisaray có ghi dòng chữ Hán “Thái Hòa bát niên Nam Sách châu, tương nhân Bùi thị Hý bút" nên đã nhờ bí thư tỉnh ủy Hải Dương thời bấy giờ tìm kiếm nguồn gốc của chiếc bình gốm. Từ những thông tin đó, tỉnh Hải Dương đã thúc đẩy việc điền dã và khai quật được di tích Chu Đậu, phát hiện nhiều di vật của một trong tâm gốm mỹ nghệ lớn ở xã Thái Tân và Minh Tân và từ đây việc khôi phục làng nghề gốm Chu Đậu trứ danh trong quá khứ lại được bắt đầu. Những người con của Chu Đậu bắt đầu khôi phục làng nghề truyền thống của ông cha, thậm chí mở xí nghiệp để giúp sản phẩm của làng nghề phát triển., Ngày nay không chỉ trong nước mà sản phẩm của làng gốm Chu Đậu đã có mặt ở nhiều nước trên thế giới. Làng nghề gốm Chu Đậu được hồi sinh không chỉ giúp lưu giữ những giá trị truyền thống, tạo ra sản phẩm gốm trứ danh mà còn biến nơi này trở thành một điểm du lịch hấp dẫn của Hải Dương. Ghé thăm làng gốm Chu Đậu, du khách sẽ được đắm chìm trong không gian bình yên của một ngôi làng đồng quê Bắc Bộ đồng thời được thăm quan, tìm hiểu về quy trình tạo nên những sản phẩm gốm sứ lừng danh bốn phương. Gốm của làng Chu Đậu là từ đất sét trắng của vùng Trúc Thôn thuộc thị xã Chí Linh. Sau khi lấy đất về, người ta sẽ mang hòa trong nước để lọc rồi thêm phụ gia để phối luyện thành hồ làm gốm. Khi đất sét đã mềm, dẻo và đạt được độ mịn cần thiết thì sẽ mang đi chuốt và nặn trên bàn xoay. Từ xưa đến nay, các sản phẩm gốm của làng Chu Đậu đều được làm thủ công, từ khâu nặn, đúc gốm cho đến khâu vẽ và trang trí hoa văn đều được những người thợ gốm tài hoa của làng nghề thực hiện, chính vì vậy, gốm khi ra lò luôn chất lượng và có những đặc điểm riêng phân biệt với gốm sứ ở những nơi khác. Gốm làng Chu Đậu có đặc điểm nổi bật là men trắng rất trong với hoa văn màu xanh nhờ sử dụng men trắng chàm và hoa văn đỏ nâu, xanh lục vàng nhờ sử dụng men tam thái. Kiểu dáng và họa tiết của hoa văn trên gốm rất tinh xảo và mang đậm bản sắc văn hóa Việt. Bí quyết để có những sản phẩm gốm đạt đến sự tinh xảo của người dân nơi đây chính là kỹ thuật vẽ dưới men rồi mang nung trong lò sau đó mới phủ men tam thái và mang nung lại một lần nữa. Chính bởi vậy mà những sản phẩm gốm của làng Chu Đậu từ xa xưa dù đã bị chôn vùi dưới lòng đất hay chìm dưới đáy biển qua hàng thế kỷ vẫn giữ được nguyên vẹn cả màu sắc và kiểu dáng. Ghé thăm làng gốm Chu Đậu, du khách sẽ phải ngỡ ngàng bởi thế giới của gốm ở đây rất nhiều màu sắc và tuyệt đẹp. Du khách sẽ được chiêm ngưỡng những bộ sưu tập đồ gốm cổ, các sản phẩm gốm đương đại, thăm quan công ty cổ phần Gốm Chu Đậu, làng cổ gốm Chu Đậu Đặc biệt hẳn du khách sẽ phải thích thú với trải nghiệm thăm quan khu sản xuất cũng như tự mình trải nghiệm làm gốm hay khám phá các di chỉ khảo cổ. Đặc biệt, nhiều điểm đến hấp dẫn xung quanh làng gốm cổ như đền thờ ông tổ gốm Chu Đậu Đặng Huyền Thông, bảo tàng gốm Chu Đậu hay các lò gốm cổ cũng sẽ mang đến những trải nghiệm hấp dẫn cho hành trình khám phá của du khách. Nếu như yêu mến văn hóa làng nghề truyền thống, đặc biệt là nghề gốm thì khi đến với Hải Dương , bạn đừng quên ghé thăm làng gốm Chu Đậu để tự mình khám phá thế giới đa màu sắc của gốm Việt nhé.
Hải Dương
Từ tháng 01 đến tháng 12.
582 lượt xem
Về Hải Dương du khách hẳn sẽ khó lòng bỏ qua hồ Bạch Đằng - một thắng cảnh đẹp và nổi tiếng được nhiều người yêu thích, đây cũng là điểm check -in quen thuộc của các bạn trẻ và người dân địa phương bởi không gian thoáng mát, view đẹp và tụ hội khu ẩm thực hấp dẫn. Hồ Bạch Đằng tọa lạc trong công viên cùng tên ở phường Quang Trung thành phố Hải Dương. Đây là điểm đến hấp dẫn ở trung tâm thành phố được nhiều du khách yêu thích bởi vẻ thơ mộng đầy ấn tượng. Đặc biệt, nơi này còn gần rất nhiều điểm đến nổi tiếng của Hải Dương nên luôn xuất hiện trên bản đồ check-in của các tín đồ xê dịch. Hồ Bạch Đằng ở Hải Dương được coi là lá phổi xanh của thành phố bởi đây là hồ tự nhiên có diện tích lớn nhất tỉnh lại tọa lạc ngay khu vực trung tâm. Khuôn viên rộng cộng với không gian thoáng đãng, nhiều cây xanh tạo nên một khu vực cảnh quan đẹp mắt. Du khách đến với hồ Bạch Đằng có thể tận hưởng cảm giác thoải mái, hít hà những cơn gió nhẹ thổi từ lòng hồ, ngắm nhìn khung cảnh thơ mộng với những hàng liễu đong đưa trong gió hay dạo bước trên những con đường nhỏ ven hồ. Mùa hè là thời điểm mà người dân địa phương và du khách thường tìm đến Hồ Bạch Đằng, giữa cái nóng oi ả được tận hưởng không khí mát lạnh tại đây là trải nghiệm tuyệt vời chẳng ai muốn bỏ lỡ. Mặt hồ trong veo, xung quanh là những tán cây phủ rợp bóng in xuống mặt hồ. Nhìn từ xa, hồ Bạch Đằng chẳng khác nào một chiếc gương soi lớn giữa lòng thành phố. Một điều đặc biệt ở Hồ Bạch Đằng khiến du khách mê mẩn đó chính là khung cảnh nơi đây vào thời khắc hoàng hôn tuyệt đẹp, đây cũng là một trong những nơi ngắm hoàng hôn yêu thích của cư dân và du khách tại thành phố này. Mặt trời lặn tạo nên những ráng chiều đỏ rực, ánh nắng le lói phán chiếu lấp lóa trên mặt nước, không gian lúc này có vẻ đẹp kỳ ảo rất riêng và thấm đẫm chất thơ. Bất cứ ai đến với hồ Bạch Đằng và có cơ hội ngắm nhìn hoàng hôn tại đây đều không khỏi mê mẩn và cảm thấy tâm hồn dường như được lắng đọng, bình yên. Đêm đến Hồ Bạch Đằng lại mang vẻ đẹp riêng, mặt hồ phẳng lặng, in bóng những ánh đèn màu lấp lánh, gió hiu hiu thổi tạo cảm giác bình yên và thư giãn cho những lữ khách dừng chân. Không chỉ ngắm cảnh và tận hưởng không gian bình yên tuyệt vời giữa phố thị sôi động, đến với hồ Bạch Đằng ở Hải Dương du khách có thể tham gia nhiều trải nghiệm thú vị. Tại khu vực hồ có dịch vụ đạp vịt để du khách và người dân có thể thoải mái ngắm cảnh từ lòng hồ và hóng mát, chính vì vậy, khi đến đây nếu muốn bạn có thể đạp vịt quanh hồ để ngắm cảnh và tận hưởng cảm giác thư giãn. Xung quanh khu vực hồ Bạch Đằng có rất nhiều quán cafe và quán ăn nên nếu muốn bạn có thể ghé một quán cafe để thưởng thức những ly đồ uống mát lạnh và ngắm nhìn cảnh sắc bên hồ hoặc làm một food tour quanh hồ với những món ngon hấp dẫn. Một số cái tên bạn có thể tham khảo nếu muốn ăn uống quanh hồ Bạch Đằng Hải Dương là Gió coffee, bún, bánh đa cá rô Hoàng Hiệp, Korea Fastfood, bánh giò Nhung Béo, Gin’s - Thai Food & Hot Pot, Làng Nướng Restaurant, Miyabi - Ẩm Thực Nhật Bản…Ngoài ra, gần hồ Bạch Đằng cũng có nhiều điểm thăm quan hấp dẫn và nổi tiếng như đảo cò Chi Lăng, chùa Côn Sơn, Đền Kiếp Bạc… nên bạn cũng có thể kết hợp thăm quan. Check-in hồ Bạch Đằng ở Hải Dương là trải nghiệm tuyệt vời đưa bạn về với không gian tuyệt đẹp giữa lòng thành phố để tận hưởng khung cảnh bình yên tuyệt đẹp và đón những cơn gió mát lạnh từ lòng hồ. Nếu như có cơ hội đến với Hải Dương bạn đừng bỏ qua điểm đến hấp dẫn này nhé.
Hải Dương
Từ tháng 04 đến tháng 06.
586 lượt xem
Quần thể di tích Côn Sơn – Kiếp Bạc là di tích Quốc gia đặc biệt quan trọng của nước ta, có quy mô bề thế với phong cảnh sơn thủy hữu tình thu hút khách du lịch đến tham quan hàng năm. Khu di tích bao gồm các di tích lịch sử gắn liền với chiến công lừng lẫy 3 lần đánh thắng quân xâm lược Mông Nguyên lừng lẫy của quân dân nhà Trần ở thế kỷ XIII và cuộc kháng chiến 10 năm của nghĩa quân Lam Sơn chống quân Minh ở thế kỷ XV. Khu di tích Côn Sơn nằm giữa hai dãy núi Phượng Hoàng và Kỳ Lân cùng với núi non, chùa tháp, rừng thông, khe suối và các di tích nổi tiếng gắn liền với cuộc đời của nhiều danh nhân trong lịch sử. Chùa Côn Sơn (tục gọi là chùa Hun) tọa lạc dưới chân núi Côn Sơn có tên chữ là Thiên Tư Phúc Tự nghĩa là chùa được trời ban cho phúc lành. Chùa được xây dựng vào đầu thế kỷ XIV là một trong ba trung tâm của thiền phái Trúc Lâm bên cạnh chùa Yên Tử và chùa Quỳnh Lâm (Quảng Ninh). Trải qua những biến thiên của lịch sử, Chùa Côn Sơn ngày nay bị thu nhỏ lại so với kiến trúc thời Lê, bao gồm các công trình như Tam quan, Tiền đường, Thiêu hương và Thượng điện. Ghé vãn cảnh chùa Côn Sơn, ngoài các công trình kiến trúc đặc sắc, du khách sẽ còn có cơ hội tìm hiểu về giếng Ngọc. Giếng Ngọc tọa lạc ở chân núi Kỳ Lân, trên đường lên Bàn Cờ Tiên, phía sau là Đăng Minh bảo tháp – nơi đặt xá lị Huyền Quang tôn giả. Nằm ở vị trí cao hơn mái ngói chùa Côn Sơn nhưng mùa nào giếng Ngọc cũng luôn đầy nước. Người xưa quan niệm rằng giếng Ngọc là huyệt mạch của núi Côn Sơn và chính là mắt của Kỳ Lân. Đây không chỉ là nguồn nước quý của di tích mà còn là một điểm tham quan mang nhiều giá trị tâm linh. Từ giếng Ngọc, bạn men theo các bậc đá leo lên đỉnh Côn Sơn có đặt Bàn Cờ Tiên – nơi Nguyễn Trãi cũng các bậc tiền nhân dừng chân chơi cờ. Từ đỉnh Côn Sơn, một vùng núi non hùng vĩ thu gọn lại trong tầm mắt người lữ hành. Năm 1330, Đệ Tam Thánh Tổ Huyền Quang mở rộng chùa, lập ra Cửu phẩm Liên Hoa. Năm 2017, công trình này đã được tôn tạo thành công tạo nên điểm nhấn kiến trúc trong cảnh quan thanh tịnh, linh thiêng của chốn Côn Sơn. Tòa Cửu phẩm Liên Hoa gồm cây Phẩm 9 tầng và nhà Phẩm. Nhà Phẩm được dựng hoàn toàn bằng gỗ lim, gỗ vàng tâm, đá xanh Thanh Hóa, ngói mũi hài phục chế và hàng nghìn viên gạch Bát Tràng. Với kết cấu 3 tầng, 12 mái, cả công trình tựa như một bông sen thanh thoát với 3 lớp cánh hoa mãn khai. Còn tòa tháp Cửu phẩm Liên Hoa hình bát giác 9 tầng cao 10.3 m với những chi tiết chạm trổ, điêu khắc tinh xảo. Tất cả tạo nên một công trình nghệ thuật sáng tạo độc đáo của Phật giáo chỉ có duy nhất ở Việt Nam. Điểm nổi bật trong khu di tích danh thắng Côn Sơn đó là đền thờ Anh hùng dân tộc, Danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Trãi có tên chữ là “Ức Trai linh từ”. Ngôi đền tọa lạc dưới chân núi Ngũ Nhạc, Kỳ Lân, tựa lưng vào Tổ Sơn tạo thành thế “tả thanh long, hữu bạch hổ”. Đền bao gồm các công trình như đền Chính, Tả vu, Hữu vu, Nghi môn nội, Nghi môn ngoại, cầu Thấu Ngọc, miếu Giải oan,… mang đậm phong cách kiến trúc thời hậu Lê. Quanh đền là dòng suối Côn Sơn ngày đêm chảy rì rầm như tiếng đàn cầm vang vọng giữa núi rừng xanh ngắt đã đi vào thơ ca, sử sách. Đặc biệt, ở Hậu cung của đền Chính có đặt bức tượng đồng Nguyễn Trãi cao 1.4m, nặng 600kg và tượng song thân phụ mẫu của ngài. Đền thờ Nguyễn Trãi chính là nơi lưu giữ tâm hồn, cốt cách, tài đức lớn lao của vị Danh nhân văn hóa thế giới này. Đền Kiếp Bạc cách khu di tích Côn Sơn khoảng 5km là nơi thờ phụng Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn. Cái tên Kiếp Bạc là do đền tọa lạc trên một thung lũng giao giữa hai làng Vạn Yên (làng Kiếp) và Dược Sơn (làng Bạc). Đền Kiếp Bạc có địa thế vô cùng thuận lợi nhìn ra con sông Thương, sau lưng là núi Rồng sừng sững, bên tả có núi Bắc Đẩu, bên hữu là núi Nam Tào là nơi tụ khí để gây dựng cơ nghiệp. Đền bao gồm các công trình Tam quan, giếng Ngọc, các tòa điện thờ Hưng Đạo Vương, Phạm Ngũ Lão, công chúa Thiên Thành – phu nhân Hưng Đạo Vương và hai con gái Nhị vị Vương cô. Hiện đền có lưu giữ 7 pho tượng đồng mang giá trị văn hóa, tâm linh lớn.
Hải Dương
Từ tháng 1 đến tháng 12
2182 lượt xem
Đến với vùng đất Hải Dương, ngoài thăm quan các danh lam thắng cảnh, thưởng thức các sản vật địa phương thì du khách chắc chắn khó lòng bỏ lỡ cơ hội ghé thăm các làng nghề truyền thống đặc biệt là điểm đến mang nét đẹp văn hóa Bắc Bộ đặc trưng như làng rối nước Thanh Hải. Nơi đây là cái nôi của bộ môn nghệ thuật múa rối của Việt Nam với tuổi đời hàng trăm năm, Trải qua bao biến thiên của lịch sử, các thế hệ của làng Thanh Hải vẫn đang miệt mài đam mê và giữ lửa cho bộ môn nghệ thuật tuyệt vời này. Làng rối nước Thanh Hải hay còn gọi là phường rối nước Thanh Hải nằm ở xã Thanh Hải, huyện Thanh Hà tỉnh Hải Dương, địa danh này được coi là nơi khởi nguồn của bộ môn nghệ thuật truyền thống độc đáo chỉ có ở Việt Nam này. Theo các bậc cao niên thì làng rối nước Thanh Hải đã có lịch sử hình thành và phát triển hàng trăm năm từ thời nhà Lý. Hầu hết các nghệ nhân của làng rối nước này đều xuất thân từ nông dân, quanh năm quen với việc đồng áng, chân lấm tay bùn. Thế nhưng với tình yêu mãnh liệt với nghệ thuật truyền thống cho cha ông để lại, họ vẫn thường xuyên tập luyện và biểu diễn dù vẫn canh cánh nỗi lo cơm áo hằng ngày. Điểm độc đáo ở làng rối nước Thanh Hải đó chính là những tích trò biểu diễn đều do các trưởng phường hoặc các phường viên nghĩ ra, đa số là nội dung về tình yêu quê hương đất nước, những hoạt động đời thường, nét văn hóa, phong tục truyền thống, tập quán thờ thần thánh, răn dạy người ta biết sống theo điều hay lẽ phải. Hiện tại ở làng rối nước Thanh Hải có câu lạc bộ hoạt động với 36 người, trong đó có nhiều người thường xuyên đi biểu diễn rối nước ở các tỉnh/ thành trong cả nước. Rối nước Thanh Hải thậm chí đã xuất hiện ở nhiều sự kiện, cuộc thi lớn như liên hoan múa rối tại Huế liên hoan múa rối tại Hà Nội, Festival tuần Văn hóa Huế, lễ hội đền Hùng, các lễ hội lớn nhỏ ở trong tỉnh và ngoài tỉnh. Trong đó ở nhiều cuộc thi, phường rối làng Thanh Hải đã đạt được giải thưởng lớn. Cũng như những làng quê khác ở Bắc Bộ, làng rối nước Thanh Hải cũng mang vẻ yên bình với vẻ đẹp của mái đình, bến nước. Đến đây điều đầu tiên du khách sẽ được tận hưởng đó chính là khung cảnh tuyệt đẹp, đậm chất quê nơi mang đến cảm giác yên bình, thư thái. Đặc biệt vẻ đẹp của làng quê này trở nên nổi bật hơn với nghệ thuật rối nước truyền thống. Thăm quan làng Thanh Hải, du khách sẽ có cơ hội tìm hiểu về bộ môn nghệ thuật truyền thống tứ danh này. Các nghệ nhân cho biết, khâu quan trọng đầu tiên trong nghệ thuật rối nước ở làng Thanh Hải chính là chế tác được các con trò sao cho có thể quay người và quay cổ một cách uyển chuyển. Con trò được làm từ gỗ sung và được đục, đẽo với những đường nét cách điệu theo từng nhân vật rồi đánh bóng, vẽ, sơn… Con rối thường sẽ có hai phần là phần thân nổi trên mặt nước và phần đế là nơi lắp máy điều khiển chìm dưới nước. Khi trình diễn các nghệ nhân sẽ nắn và điều khiển hoạt động của rối cho khớp với nhạc, lời ca, trống… Ghé thăm làng rối nước Thanh Hải bạn cũng đừng quên chiêm ngưỡng thủy đình, đây là nơi được dựng giữa ao, tượng trưng cho mái đình của nông thôn Việt. Nếu đến làng vào đúng các dịp lễ hội, cuối năm hoặc đầu năm du khách sẽ được thưởng thức những màn trình diễn rối nước đỉnh cao của các nghệ nhân trong làng. Được tận mắt thưởng thức những màn trình diễn độc đáo, bạn mới thấy hết được nét tài hoa của các nghệ nhân và cái hay, cái đẹp của bộ môn nghệ thuật này. Sau khi ghé thăm làng rối nước Thanh Hải bạn cũng đừng quên ghé thăm các địa điểm du lịch nổi tiếng khác cũng nằm trong khu vực huyện Thanh Hà như chùa Bạch Hào, chùa Động Ngọ, Khu du lịch sinh thái sông Hương để có hành trình vi vu thật trọn vẹn.
Hải Dương
Từ tháng 1 đến tháng 12
2731 lượt xem
Động Kính Chủ nằm ở sườn dãy núi đá vôi có tên Dương Nham, Bổ Đà hoặc Xuyến Châu. Đó là dãy núi nằm trên bờ sông Kinh Thầy, duyên dáng soi bóng mình xuống dòng nước. Cửa động quay hướng Nam đón gió mùa hè mát rượi. Đứng ở đây, du khách có thể nhìn thấy núi chợ Trời và Tháp Bút- hai ngọn cao nhất của dãy núi đồ sộ này; thấy cả đỉnh An Phụ nơi có đền thờ Trần Liễu và chùa Cao; thấy ruộng đồng, làng xóm và xa xa là thị trấn Kinh Môn sầm uất. Nhưng khi vào trong động, du khách còn ngỡ ngàng trước bàn tay đẽo gọt khéo léo của tạo hóa để tạo ra hai vòm hang hình quả chuông, cao hun hút. Sâu vào trong là dòng suối nước trong vắt và mát lạnh. Suối chảy tới đâu chưa ai biết. Vòm động từng là nơi sinh sống của bày dơi quạ hàng mấy ngàn con, cứ chập tối là đập cánh vù vù, túa ra khỏi hang đi kiếm ăn. Đây cũng là nơi sơ tán của nhà máy đóng tàu Hải Phòng thời chiến tranh chống Mỹ cứu nước. Trong động có chùa thờ Phật và thờ vua Lý Thần Tông. Một nhánh của động cửa quay hướng Tây, nằm thấp hơn, dẫn du khách vào với cung thờ Mẫu Tam Phủ. Nét độc đáo nhất ở Động Kính Chủ là Bảo vật quốc gia- hệ thống bia ma nhai. Tất cả bia ở đây được khắc ngay vào vách đá với 54 tấm bia, là số bia có nhiều nhất trong các hang động ở Việt Nam. Có bia ở thấp. Có bia ở cao. Lại có bia chót vót trên vòm động. Các văn bia này đến nay nét chữ vẫn còn nguyên vẹn vì không bị mưa nắng bào mòn. Hơn 50 văn bia nói trên có niên đại chính xác từ thế kỷ XIV đến thế kỷ XX. Tác giả của những văn bia cũng thật đa dạng: từ nhà Vua đến quan Đại Thần; từ quan Phủ, quan huyện đến du sĩ, giáo học cho đến chức dịch địa phương. Nội dung bia rất phong phú: bia ghi việc trùng tu chùa Dương Nham ở trong động. Bia ghi việc xây tam quan, tạc tượng đá, bắc cầu vào cổng chùa, bia ghi tên các vị đỗ đạt của cả huyện từ đời Trần đến đầu thế kỷ 17. Đặc biệt là có gần 20 bia khắc thơ. Có bài thơ hoàn chỉnh. Có bài thơ là bài minh cho văn bia. Về ký tự thì các văn bia này nhiều bia chữ Hán. Một số bia chữ Nôm, một số là chữ quốc ngữ. Tất cả đều do bàn tay tài hoa của người thợ đá sở tại (thôn Dương Nham) chạm khắc. Những nét chữ rất nhỏ, mềm mại, sắc cạnh; Những họa tiết trang trí như rồng uốn, hoa leo, chim đậu cùng các đường triện phức tạp và tinh xảo khiến ta ngạc nhiên và vô cùng thán phục. Các bài thơ khắc trên vách đá trong động hầu hết là thơ vịnh cảnh và bày tỏ cảm xúc của mình với đất nước, với quê hương. Ngay vách đá cửa động là tấm bia khắc bút của vị quan Đại Thần đời Trần: Phạm Sư Mạnh. Cụ quê ngay xã Hiệp Thạch cùng tổng Dương Nham. Nhân chuyến đi duyệt quân các lộ, cụ đã chọn Động Kính Chủ làm nơi ở và đọc sách. Cảm xúc trước cảnh đẹp của quê hương, cụ đã làm bài thơ ngũ ngôn, có 18 câu. Chính tay cụ viết lên vách đá rồi cho thợ đục theo nét bút. Giọng thơ hào sảng gợi lại không khí hào hùng của một thời ông cha ta đánh giặc trên sông Bạch Đằng: Bạch Đằng sóng cuồn cuộn/ Tưởng tượng thuyền vua Ngô/.../ Mặt bể ngàn chiến hạm/ Cửa non vạn bóng cờ Vào trong động, nhìn lên đỉnh động là bài thơ của vua Lê Thánh Tông, một vị minh vương giỏi cả văn lẫn võ, người đã minh oan cho Nguyễn Trãi, Người sáng lập Hội Tao đàn. Bài thơ gồm 22 câu theo thể thất ngôn, không chỉ ca ngợi sông núi Kính chủ Ngoảnh nhìn tám hướng mênh mông thế/ Trời xanh bất tận núi muôn nơi mà còn bộc lộ tư tưởng thiền, tâm thiền mang đầy tính nhân văn của Người. Những người yêu thơ văn không thể không say sưa với mấy bài thơ vừa khắc chữ Hán, chữ Nôm, vừa khắc ngữ Quốc ngữ. Hay những bài thơ xuất hiện đầu thế kỷ XX (trước Cách mạng tháng Tám) của Du sĩ Trần Hữu Đáp, Trần Quốc Trinh, của ông quan thượng thư đã hưu trí Nguyễn Văn Đào. Ở những bài thơ này, bên những câu thơ ca ngợi cảnh đẹp Kính chủ: Dương Nham một thú yên hà/ Ấy là Làng Uyển hay là Bồng Lai khiến du khách đứng trước Tranh Lục động, cảnh ngàn thu đều có cảm giác Bụi trần cũng sạch, phúc tu cũng dầy (thơ Trần Hữu Đáp), ta còn gặp những câu thơ ẩn ý sâu xa chứa đựng nỗi niềm về thời cuộc mà vì lí do nào đó không tiện nói ra: Kính Chủ là đây hỏi chủ đâu? là câu thơ mở đầu. Câu thứ tám, kết bài Cảnh vẫn bền nguyên, dạ khác nhau. Đặt bài thơ vào năm 1935- năm ra đời của bài thơ ta có thể hiểu được phần nào những điều Trần Quốc Trinh muốn gửi gắm. Sang bài thơ của cụ Nguyễn Văn Đào, quan Thượng Thư đã về hưu ta cũng gặp những câu thơ đầy ám ảnh Tang thương mấy mặt vòng trần thế/ Sinh sự làm chi hỡi hóa công. Bài thơ cụ làm trước Cách mạng tháng Tám 6 năm. Đất nước lúc ấy như thế nào? Dân tình lúc ấy ra sao? Trả lời hai câu hỏi trên là ta hiểu cụ muốn nói gì. Với hơn 20 bài thơ khắc trên đá và nhiều dấu tích lịch sử, nhiều di tích, cảnh quan đẹp, quần thể di tích An Phụ- Kính Chủ- Nhẫm Dương có thể nói là điểm du lịch hấp dẫn. Tuy nhiên, hiện nay việc kết nối điểm du lịch này với các điểm đến khác của tỉnh Hải Dương và các tỉnh/ thành lân cận chưa hiệu quả. Có lẽ, muốn di tích này thu hút được nhiều khách du lịch, ngành Du lịch tỉnh Hải Dương và huyện Kinh Môn cần tăng cường xây dựng các sản phẩm du lịch đặc trưng, hấp dẫn gắn với Động Kính Chủ và cụm di tích quốc gia đặc biệt; đồng thời có những bài thuyết minh đặc sắc cho điểm đến; đẩy mạnh việc quảng bá văn hoá, xúc tiến du lịch huyện Kinh Môn.
Hải Dương
Từ tháng 1 đến tháng 12
2288 lượt xem
Là mảnh đất gắn bó với tên tuổi và sự nghiệp của nhiều danh nhân đất Việt như Trần Nguyên Đán, Huyền Quang và đặc biệt là người anh hùng dân tộc - danh nhân văn hoá thế giới Nguyễn Trãi, Côn Sơn đã hội tụ được các giá trị to lớn về nhiều mặt: lịch sử, văn hoá, tôn giáo và thắng cảnh như Côn Sơn. Chùa Côn Sơn thuộc xã Cộng Hoà, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Đây là một di tích lịch sử văn hoá và danh thắng nổi tiếng đất nước, được trùng tu xây dựng tôn tạo năm 1304. Ngay từ thời Trần, chùa Côn Sơn là một trong ba trung tâm của thiền phái Trúc Lâm cùng chùa Yên Tử và chùa Quỳnh Lâm (Quảng Ninh). Đây là một vùng núi đất và sỏi kết, cao xấp xỉ 200m, rộng trên 1km2 với phong cảnh u tịch, điển hình là rừng thông mã vĩ. Từ cảnh quan tự nhiên đã được tôn tạo thành thắng cảnh. Đến với Côn Sơn du khách có thể thưởng ngoạn nhiều giờ, với nhiều di tích khác nhau, trong quần thể di tích Côn Sơn, Quý khách có thể thăm: Chùa Côn Sơn, Giếng Ngọc, Thạch bàn, Am Bạch Vân (có sự tích Bàn cờ tiên), Đền thờ Nguyễn Trãi, rừng thông bạt ngàn. Chùa Côn Sơn ngụ dưới chân núi Côn Sơn có tên chữ là "Thiên Tư Phúc Tự", nghĩa là chùa được trời ban cho phước lành trong dân gian quen gọi theo tên núi là chùa Côn Sơn hay còn gọi là Chùa Hun. Vào đời Lê, chùa được trùng tu và mở rộng rất nguy nga đồ sộ. Trải qua biến thiên về lịch sử và thời gian, chùa Côn Sơn ngày nay chỉ còn là một ngôi chùa nhỏ ẩn mình dưới tán lá xanh của các cây cổ thụ. Kiến trúc chùa được xây theo kiểu chữ công bao gồm Tiền đường, Thiêu lương, Thượng điện, nhà thờ Tổ. Thượng điện là nối là nơi thờ Phật, trong đó có những tượng Phật từ thời Lê cao tới 3 mét. Phía sau chùa là nhà Tổ, có tượng Trúc Lâm tam tổ (Trần Nhân Tông - Pháp Loa - Huyền Quang), tượng ông bà Trần Nguyên Đán, hai pho tượng Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ. Đường vào Tam quan lát gạch, chạy dài dưới hàng thông trăm năm phong trần xen lẫn những tán vải thiều xum xuê xanh thẫm. Tam quan được tôn tạo năm 1995, kiểu cổ, có 2 tầng 8 mái với các hoạ tiết hoa lá, mây tản cách điệu của nền nghệ thuật kiến trúc thời Lê. Sân chùa có 4 nhà bia. Sân chùa có cây đại 600 tuổi, 4 nhà bia, đặc biệt là bia "Thanh Hư động" có từ thời Long Khánh (1373-1377) với nét chữ của vua Trần Duệ Tông và bia hình lục lăng. Tọa lạc bên sườn núi Kỳ Lân, bên phải là lối lên Bàn Cờ Tiên, phía dưới chân Đăng Minh Bảo Tháp là Giếng Ngọc. Tương truyền đây là giếng nước do Thiền sư Huyền Quang được thần linh báo mộng ban cho chùa nguồn nước quý. Nước giếng trong vắt, xanh mát quanh năm, uống vào thấy khoan khoái dễ chịu. Nước ở giếng được các sư dùng làm nước cúng lễ của chùa. Từ chùa Côn Sơn leo khoảng 600 bậc đá là đến đỉnh núi Côn Sơn (cao 200m). Đỉnh Côn Sơn là một khu đất bằng phẳng, tại đây có một phiến đá khá rộng, tục gọi là Bàn Cờ Tiên. Hiện nay Bàn Cờ Tiên có dựng nhà bia theo kiểu Vọng Lâu đình, hai tầng cổ các tám mái. Đứng từ đây, du khách có thể nhìn bao quát cả một vùng rộng lớn. Từ chân núi đi theo lối mòn có kê đá xuống phía chân núi có một tảng đá lớn, mặt phẳng và nhẵn nằm kề ven suối gọi là Thạch Bàn lớn. Tương truyền khi xưa Nguyễn Trãi lấy làm "chiếu thảm" nghỉ ngơi, ngắm cảnh, làm thơ và suy tư việc nước. Tại đây, văn hóa Phật giáo, Nho giáo và Lão giáo cùng tồn tại và phát triển qua nhiều thế kỷ, nhưng tất cả đều thấm đẫm bản sắc văn hóa Việt, đều để lại dấu ấn qua từng chi tiết kiến trúc, chạm khắc, qua các bia đá, tượng thờ, hoành phi, câu đối… Hàng năm, lễ hội chùa Côn Sơn được cộng đồng cư dân phường Cộng Hòa, xã Lê Lợi, thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương cùng với Ban Quản lý Di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc tổ chức vào tháng Giêng hằng năm, từ ngày 15 đến ngày 22.
Hải Dương
Từ tháng 1 đến tháng 12
2519 lượt xem
Đảo Cò Chi Lăng Nam là một khu du lịch sinh thái nổi tiếng ở Hải Dương. Nơi đây có cảnh quan thiên nhiên rộng mở, thoáng đãng, bình yên đậm chất nông thôn Bắc Bộ. Đến với Đảo cò Chi Lăng Nam du khách sẽ được ngồi thuyền thưởng ngoạn cảnh sắc cực kỳ ấn tượng. Một hòn đảo nhỏ nằm giữa mặt hồ mênh mông nước. Từng đàn cò trắng bay rợp trời ríu rít gọi nhau về tổ. Hồ nước rộng thênh thang xanh mát, trên đảo cò đậu san sát trên cây nhìn như những bông hoa trắng nổi bật trên cụm cây xanh tốt. Tất cả tạo nên một không gian vô cùng tuyệt vời để mỗi du khách sau khi thưởng ngoạn sẽ cảm thấy thêm quý, thêm yêu cuộc sống tươi đẹp mà tạo hóa đã ban tặng cho con người. Đảo cò Chi Lăng Nam trực thuộc thôn An Dương, xã Chi Lăng Nam, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương. Khu du lịch sinh thái Đảo cò cách thành phố Hải Dương tầm 30 km, cách thủ đô Hà Nội hơn 60 km về phía Nam. Người dân trong vùng các thế hệ truyền lại rằng vùng hồ An Dương ngày xưa từng là cánh đồng chiêm trũng ở giữa có một gò đất nổi lên cao. Vào khoảng thế kỉ XV một trận đại hồng thủy đã làm vỡ đê sông Luộc nước tràn vào ngập trắng cả một vùng. Quanh gò đất cao giữa cánh đồng trũng xuất hiện những xoáy nước khổng lồ rồi tạo thành một hồ nước lớn. Đất lành chim đậu dần dần hòn đảo trở thành nơi trú ngụ của hàng trăm, hàng nghìn con cò. Nhận thấy đây là cảnh quan thiên nhiên "độc nhất vô nhị" chính quyền địa phương và nhân dân huyện Chi Lăng Nam đã quyết định đề xuất xây dựng khu bảo tồn thiên nhiên. Từ đây Đảo cò Chi Lăng Nam ra đời và dần trở thành khu du lịch sinh thái nổi tiếng trên địa bàn tỉnh Hải Dương. Có tổng diện tích là 31,673 ha Khu sinh thái Đảo cò Chi Lăng Nam có hệ sinh thái động thực vật vô cùng đa dạng với hơn 170 loài ở cả trên đảo và dưới lòng hồ. Đảo cò là nơi trú ngụ của rất nhiều loài cò, vạc, chim nước quý. Các loài vạc như vạc lưng xanh, vạc xám, vạc sao...Các loài chim nước như iệc xám, chim bói cá, chim trả, cú mèo, cuốc, bồng chanh...Và đặc biệt không thể kể đến cơ man các loại cò như cò ghềnh, cò trắng, cò bợ, cò lửa, có diệc, cò ruồi. Hiện nay ở Đảo cò Chi Lăng Nam thường có khoảng 16.000 con cò và 6.000 con vạc sinh sống. Đảo là nơi trú ngụ của họ nhà cò vạc còn dưới hồ An Dương sâu và rộng lại là nơi sinh sống của rất nhiều loại cá quý như cá vược, cá chạch, cá bơn, cá nheo, cá chép, cá quả...hay các loại ba ba, rùa, tôm, cua...
Hải Dương
Từ tháng 1 đến tháng 12
2229 lượt xem
Cách thành phố Hải Dương khoảng 40km về phía Đông Bắc, có một ngôi đền thiêng thờ An Sinh Vương Trần Liễu, thân phụ của Đức Thánh Trần Hưng Đạo. Di tích đã được công nhận là Di tích Quốc gia đặc biệt nhưng chưa được nhiều người biết tới. Quần thể di tích Đền Cao An Phụ, tục được gọi là Đền Cao, nằm ở xã An Sinh, huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương là điểm đến tâm linh và văn hóa đầy hấp dẫn. Đền có tên tự là “An Phụ Sơn Từ”, tọa lạc trên đỉnh núi An Phụ với chiều dài 17 km, cao 246m. Phía Đông Bắc nhìn về dãy Yên Tử sừng sững, phía Tây Bắc là Động Kính Chủ được mệnh danh là “Nam Thiên đệ lục động” có dòng sông Kinh Thầy uốn lượn sát chân núi, phía Tây Nam là miền châu thổ mênh mông. Nơi đây phong thủy hữu tình, là một cảnh đẹp đáng du ngoạn. Trần Liễu sinh năm Kiến Gia thứ nhất (1211) là anh ruột của Trần Cảnh - vị vua đầu tiên triều Trần. Năm 1237 triều đình cắt đất An Phụ, An Sinh, An Dưỡng, An Hưng, An Bang cho Trần Liễu làm thái ấp và lấy tên đất phong vương cho ông là: An Sinh Vương Trần Liễu. Ông cùng phu nhân Thiên Đạo Quốc Mẫu đã góp phần tạo nên thiên tài Quốc Công Tiết Chế Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, người con trung hiếu, người anh hùng dân tộc, văn võ song toàn có công lao to lớn trong 3 cuộc kháng chiến chống giặc Nguyên Mông. An Sinh Vương Trần Liễu mất vào mồng 1 tháng 4 năm 1251. Sau khi ông mất, người dân lập đền thờ trên đỉnh núi An Phụ, từ đó ngày 1 tháng 4 âm lịch hàng năm trở thành ngày hội đền cao An Phụ, nhân dân khắp nơi về làm lễ dâng hương tri ân công đức. Đền được xây dựng theo kiểu kiến trúc tiền nhất hậu đinh, gồm có tiền tế, trung từ và hậu cung. Hậu cung có thờ tượng Trần Liễu và 2 cháu nội Đệ Nhất Vương Cô và Đệ Nhị Vương Cô là 2 con gái của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn nổi tiếng linh thiêng. Tại Quần thể di tích An Phụ còn có chùa Tường Vân cổ kính, tục gọi là Chùa Cao, được xây dựng vào thế kỷ thứ XIII, dưới triều Trần. Trước chùa có 2 cây đại trên 700 năm tuổi như một nhân chứng lịch sử chứng kiến những biến thiên trên đỉnh núi này. Trải qua những biến cố thăng trầm lịch sử, ngôi chùa đã bị tàn phá nặng nề và được trùng tu nhiều lần. Ngày nay, chùa Tường Vân cùng với nhà mẫu, lầu cô và một số hạng mục khác tại An Phụ đã được tôn tạo khang trang. Năm 1992, di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh Đền Cao An Phụ đã được xếp hạng là di tích cấp Quốc gia. Ngày 22/12/2016, khu di tích An Phụ - Kính Chủ - Nhẫm Dương của huyện Kinh Môn đã được nhà nước xếp hạng quần thể di tích quốc gia đặc biệt, là di tích thứ 2 của Hải Dương được công nhận sau Côn Sơn - Kiếp Bạc.
Hải Dương
Từ tháng 1 đến tháng 12
2663 lượt xem
Đền Kiếp Bạc cách thủ đô Hà Nội khoảng hơn 70km về phía Đông Bắc, thuộc quần thể di tích Côn Sơn Kiếp Bạc. Nơi đây lưu giữ rất nhiều hiện vật, công trình, câu chuyện liên quan đến cuộc kháng chiến nhà Trần chống quân Mông Nguyên vào thế kỷ XIII và cuộc kháng chiến của nghĩa quân Lam Sơn chống quân Minh xâm lược vào thế kỷ XV. Hành trình tham quan đền Kiếp Bạc nói riêng và Côn Sơn - Kiếp Bạc nói chung sẽ là chuyến đi về nguồn vô cùng ý nghĩa. Đến đây, bạn sẽ có cơ hội hiểu hơn về cuộc đời, thân thế và sự nghiệp những vị anh hùng dân tộc, danh nhân văn hoá, lắng nghe những câu chuyện gắn liền với hành trình hàng ngàn năm bảo vệ dân tộc đầy gian nan. Ngoài ra, đền Kiếp Bạc còn là nơi lưu giữ và trưng bày rất nhiều những món cổ vật quan trọng của đất nước liên quan đến cuộc đời Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn. Vì vậy, Chính phủ đã công nhận Khu di tích Côn Sơn – Kiếp Bạc là Di tích Quốc gia đặc biệt, mở cửa đón khách đến tham quan để hiểu hơn văn hóa, lịch sử nước nhà. Từ trung tâm thủ đô Hà Nội đến Kiếp Bạc khoảng 70km nên di chuyển bằng phương tiện tự lái được rất nhiều bạn trẻ lựa chọn. Đi xe máy hoặc ô tô thì sẽ mất khoảng 2 giờ chi chuyển thẳng theo hướng Quốc lộ 1A. Khi đến thành phố Bắc Ninh thì bạn tra cứu thêm GoogleMap để tới đền Kiếp Bạc. Nếu không tự tin với tay lái, muốn chọn phương thức di chuyển an toàn hơn thì bạn có thể cân nhắc mua vé xe khách. Bạn nên mua vé từ bến Mỹ Đình về Quảng Ninh, nói với tài xế cho xuống tại ngã 3 Sao Đỏ, Chí Linh, cách khu di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc khoảng 5km. Sau đó, bạn bắt xe ôm hoặc taxi để đến đây. Còn với các bạn từ miền Trung và miền Nam thì có thể cân nhắc chọn bay ra Hà Nội du lịch Thủ đô, sau đó dành thêm một ngày thuê xe máy lên khám phá quần thể di tích nổi tiếng này. Đền Kiếp Bạc là công trình toạ lạc tại vị trí trung tâm của thung lũng Kiếp Bạc. Xung quanh đền là cánh rừng rộng lớn, không gian rất yên tĩnh, tịch mịch. Công trình này được xây dựng vào đầu thế kỷ XIV, trải qua nhiều lần trùng tu vẫn giữ được vẻ đẹp kiến trúc truyền thống cùng những dấu vết rõ nét của thời gian. Đền Kiếp Bạc thờ Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, khuôn viên rộng đến 13.5 km2. Nơi đây đang lưu giữ 7 pho tượng được đúc bằng đồng là tượng Trần Hưng Đạo, phu nhân, hai người con gái, Phạm Ngũ Lão, Nam Tào và Bắc Đẩu. Ngoài ra, khuôn viên đền còn bao gồm nhiều hạng mục công trình đặc biệt như đường thần đạo, trạm hạ mã, tả hữu canh gác… Bên trong các gian điện thờ được trang trí rất cầu kỳ, tinh xảo, đúng chất kiến trúc đền chùa xưa. Đi dạo một vòng khuôn viên đền, bạn sẽ cảm thấy rất thư thái, thoải mái vì không gian ở đây cực kỳ trong lành, mát mẻ, yên tĩnh. Người dân tại Chí Linh, Hải Dương rất tôn thờ và biết ơn công lao của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn đối với dân tộc. Vì vậy, đền vẫn luôn được hương khói đầy đủ trong suốt hơn 7 thế kỷ từ khi được xây dựng. Ngày nay, có nhiều khách phương xa đổ về đền để thờ cúng, chiêm bái với mong muốn cầu nguyện những điều bình an và may mắn. Lễ hội đền Kiếp Bạc thường được tổ chức vào ngày 15 đến 20 tháng Tám âm lịch hàng năm, là ngày giỗ của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn. Lễ hội này để tưởng nhớ ngày mất của người anh hùng dân tộc, sự biết ơn đối với những đóng góp của ông trong hành trình bảo vệ đất nước, ba lần đánh đuổi quân Mông Nguyên. Lễ hội được tổ chức cực kỳ long trọng, theo chuẩn nghi lễ xưa. Trong 5 ngày lễ hội sẽ diễn ra các nghi thức như Lễ rước cỗ tiến Thánh, Lễ duyệt quân trên sông Lục Đầu, Lễ cầu an, Lễ ban ấn của Đức Thánh Trần. Phần hội sẽ có hội hoa đăng và các trò chơi dân gian (kéo co, đua thuyền…) để phục du khách gần xa ghé đến.
Hải Dương
Từ tháng 1 đến tháng 12
2272 lượt xem