Di tích lịch sử

Khánh Hòa

Danh lam thắng cảnh Vịnh Vĩnh Hy

Vịnh Vĩnh Hy nằm trên địa bàn xã Vĩnh Hải, huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận. Vĩnh Hy có nghĩa là mong muốn việc buôn bán sầm uất, náo nhiệt với nhiều cơ hội, nhiều may mắn, hướng về 1 cuộc sống an hòa, vui vẻ, bình yên. Vịnh Vĩnh Hy còn có tên gọi khác là Vũng Căng và Vũng Găng. Vịnh Vĩnh Hy cách trung tâm thành phố Phan Rang – Tháp Chàm khoảng 42km về phía Đông Bắc. Địa danh này là một trong những điểm đến thu hút đông đảo khách du lịch và được Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Thuận đưa vào đề án “Xây dựng và phát triển tuyến du lịch trọng điểm tỉnh Ninh Thuận” bao gồm: Làng nghề gốm Bàu Trúc, dệt Mỹ Nghiệp, tháp Pô Klong Garai, vườn nho Thái An và vịnh Vĩnh Hy. Vịnh Vĩnh Hy là một danh thắng đã được Tổ chức kỷ lục Việt Nam xác lập vào top 10 vịnh đẹp nhất của Việt Nam, nằm trong Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030. Từ bến tàu Vĩnh Hy đi theo hướng trái khoảng 5 phút đường biển, đầu tiên sẽ gặp Bãi Cóc trong và ngoài liền kề nhau. Đây là một bãi đá nổi lên mặt nước với hình dáng của 1 con cóc là “Cậu ông trời”. Tiếp đến là mũi Cá Voi hay còn gọi là mũi Tây Sa, là hình ảnh của một chú cá voi khổng lồ nhô lên mặt nước, hướng về phía biển như trấn giữ, che chở một cách thầm lặng nhằm mang lại sự bình yên cho vùng biển, vùng đất Vĩnh Hy. Đây là tác phẩm của thiên nhiên, là sự kiến tạo của đá núi và biển khơi, nhưng với người dân Vĩnh Hy, nó còn mang ý nghĩa tâm linh sâu sắc. Vì cá voi hay cá ông được vua triều Nguyễn ban sắc phong với danh hiệu là Nam Hải Cự Tộc Ngọc Lân tôn thần và người dân nơi đây luôn tôn kính loài cá Ông vì đã có công lao che chở, bảo vệ và đem lại may mắn cho những vụ mùa bội thu. Tiếp đến là Hòn Tai, rồi đến Đá Cột Buồm, Hòn Quy được thiên nhiên tạo ra trên vùng biển Vĩnh Hy.Tiếp theo về phía hướng tay phải, điểm dừng chân đầu tiên sẽ là Bãi Bà Điên, Hòn Gan (còn gọi là Hòn Sư tử) - là những bãi tắm đẹp, sản phẩm của thiên nhiên ban tặng cho vịnh Vĩnh Hy, với bãi cát mịn trắng, nước biển trong xanh là điểm dừng chân lý tưởng của du khách khi đến thăm quan vịnh. Tiếp đến là địa điểm Đá Robot với những phiến đá ngang, dọc nằm chồng lên nhau tạo nên hình dáng robot. Điểm đến tiếp theo trên vịnh chính là Hang Yến, là nơi cư ngụ của loài chim yến và cũng là điểm nhấn riêng của vịnh Vĩnh Hy. Hang được tạo thành bởi những khối đá đa dạng về kích cỡ, phong phú về hình thái, vừa gồ ghề, vừa không kém phần sinh động, tạo ra một bức tranh đầy màu sắc sinh được pha phối một cách ngẫu hứng. Tiếp sau là Gành Đen, Bãi Hỏm, Bãi Kinh, mũi Đá Vách… hình ảnh những mỏm núi đang vươn ra biển. Khí hậu nơi đây là nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ trung bình năm khoảng 27 độ C, độ ẩm trung bình 71%, vịnh tập trung nhiều loài cá, tôm, đồi mồi, víc,…và đặc biệt có nhiều rạn san hô tuyệt đẹp. Nằm ngay sát vịnh khoảng 10m còn có 1 công trình kiến trúc Lăng Thần Nam Hải thôn Vĩnh Hy, được xây dựng bằng xi măng cốt thép kiên cố. Lăng có diện tích 1.016m2, chiều dài lăng 36m, rộng 28m gồm các công trình: cổng lăng, án phong, cột cờ, sân võ ca, nhà chánh bái, nhà tiền hiền, nhà kho, nhà bếp, miếu thủy long. Với những giá trị về thẩm mỹ nêu trên, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã xếp hạng vịnh Vĩnh Hy là Danh lam thắng cảnh quốc gia tại Quyết định số 44/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao Du Lịch ngày 07/01/2020. Nguồn Cục Di Sản Văn Hóa.

Khánh Hòa 1403 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Chùa Ông

Chùa Ông có diện tích xây dựng 400 mét vuông tọa lạc tại phường Kinh Dinh, Thành phố Phan Rang- Tháp Chàm. Đây là cơ sở thờ Đức Quan Thánh của cộng đồng người Hoa có kiến trúc đặc sắc phản ảnh đỉnh cao kỹ năng xây dựng đình chùa của cư dân địa phương vào cuối thế kỷ XIX. Chùa Ông được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cấp Bằng xếp hạng di tích Quốc gia vào ngày 14/4/2011. Ông Hàng Thái Châu, Trưởng Ban quản lý di tích Chùa Ông cho biết, theo các bia ký tại chùa cho thấy đồng bào Hoa từ các tỉnh Phúc Kiến, Triều Châu di dân đến Ninh Thuận vào đầu thế kỷ XIX. Năm 1831, bà con lập miếu thờ ngài Quan Công biểu thị lòng trung nghĩa nhằm mục đích động viên cộng đồng Hoa kiều đoàn kết, trung thực, hiếu nghĩa. Ngôi miếu xây cất nhỏ nằm ven đường thiên lý Bắc Nam rất thuận lợi cho việc đi lại giao lưu của cộng đồng Hoa kiều. Đến năm 1909, Chùa Ông chính thức được trùng tu xây dựng có quy mô lớn mang đậm văn hóa tín ngưỡng của đồng bào Hoa tồn tại đến ngày nay. Chùa Ông xây cất theo hình chữ Tam gồm có ba gian: Gian thánh điện thờ Quan Công; gian bái đình có khoảng sân rộng cho nhân dân đến cúng bái; gian hội quán làm nơi trao đổi của cộng đồng Hoa kiều. Hệ thống cột cái, đòn dông, vĩ kèo được chạm khắc tinh xảo, phản ảnh đỉnh cao trong nghệ thuật kiến trúc đình chùa vào cuối thế kỷ XIX. Trên nóc chùa được trang trí hình tượng lưỡng long tranh châu; các mái được chạm khắc lân, phụng, hoa lá đường nét sinh động, sắc màu tươi thắm. Chùa Ông còn lưu trữ nhiều vật dụng thờ cúng cổ có giá trị về nghệ thuật đúc đồng, gốm sứ, liễn thờ. Và bốn sắc phong của các đời vua Thiệu Trị, Tự Đức, Đồng Khánh. Chùa Ông diễn ra các hoạt động tế lễ hàng năm vào các ngày 13 tháng Giêng âm lịch cúng “ Đào viên kết nghĩa”; ngày 13 tháng năm âm lịch vía Quan Bình; ngày 24 tháng sáu vía Ngài Quan Thánh. Đặc biệt vào đêm Giao thừa, người Hoa địa phương đến thắp hương cầu mong quốc thái dân an, gia đình làm ăn thịnh vượng trong năm mới. Chùa Ông có kiến trúc đẹp nằm giữa trung tâm Tp. Phan Rang- Tháp Chàm là điểm đến tham quan của du khách . Nguồn Cổng thông tin điện tử thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận

Khánh Hòa 1325 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Tháp Pô Klông Garai

Tháp Pô Klong Garai (còn được gọi là Tháp Pô Klông Giarai, tháp Pô Klaung Garai, PoKlaun Garai, tháp Bửu Sơn), thuộc phường Đô Vinh, thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận. Theo truyền thuyết của người Chăm, tháp Pô Klaung Garai được Chế Mân (vua Jaya Simhavarman III) cho xây dựng để thờ Pô Klaung Garai - vị vua có nhiều công trạng đối với người Chăm trong việc chống giặc ngoại xâm, khai mương, đắp đập làm cho ruộng đồng tươi tốt… Chính vì lẽ đó mà ông đã được người Chăm coi như một vị vua - tối thượng thần (Shiva) và được thờ phụng trong tháp Pô Klong Garai đến nay. Tháp Pô Klong Garai gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển của Panduranga - vùng đất cực Nam của vương quốc Chămpa xưa, nay thuộc địa bàn các tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận. Dựa trên bia ký, phong cách kiến trúc, nghệ thuật trang trí, cùng hiện vật gắn với di tích và một số tư liệu khác…, có thể tin rằng, tại vị trí đền tháp hiện nay từng có một đền tháp thờ Siva (?), được xây dựng từ thế kỷ XI, sau đó được chuyển hóa thành tháp thờ vua Pô Klong Garai (kết hợp với Siva). Tức là, tháp Pô Klong Garai hiện nay có thể được xây dựng trên nền móng hoặc được tu bổ, tôn tạo trên cơ sở của một ngôi tháp cũ vào khoảng cuối thế kỷ XIII - đầu thế kỷ XIV. Đây là một vấn đề hết sức lý thú, cần được tiếp tục nghiên cứu và giải mã. Tuy nhiên, với đối tượng chính là tháp Pô Klong Garai gắn với chức năng thờ Pô Klong Garai, chúng tôi tạm xác định, ngôi tháp hiện nay có niên đại vào khoảng cuối thế kỷ XIII - đầu thế kỷ XIV. Di tích tọa lạc trên khu đất có tổng diện tích 86.969,3m2 (khu vực bảo vệ I: 1.571,5m2, khu vực bảo vệ: II 8.5397,8m2). Trong phạm vi di tích hiện nay, ngoài các hạng mục sân, vườn, tường rào, đường nội bộ, cổng (cổng vào di tích và cổng phía Đông), tổ hợp công trình phục vụ du lịch - văn hóa, kiến trúc phụ trợ, miếu thờ, phế tích kiến trúc…, còn 3 kiến trúc gốc tương đối hoàn chỉnh, gồm tháp trung tâm (KaLan), tháp cổng (Gopura) và tháp nhà. 1.Tháp trung tâm (KaLan) : Là tháp thờ chính, được xây dựng trên vị trí trung tâm ngọn đồi, có quy mô lớn nhất, cao trên 20m, bình đồ mặt bằng hình vuông, kích thước 10,5 x 10,5 mét. 2. Tháp cổng (Gopura) : Tháp có mặt bằng hình vuông và là hình ảnh thu nhỏ của tháp chính, cao khoảng 10m, nằm ở phía Đông tháp thờ chính, mở hai cửa theo hướng Đông Tây đồng trục với cửa ra vào lòng tháp thờ. 3. Tháp nhà : Được xây dựng phía trước tháp thờ, nằm xế về phía Đông - Nam, là tháp chứa đồ thờ trong nghi lễ hay còn cho là tháp thờ thần Hỏa (thần lửa Anhi). Tháp có mặt bằng hình chữ nhật, quay hướng Đông - Tây, dài 8m, rộng 4m, cao gần 10m. Lòng tháp chia làm hai phòng, mở ba cửa, hai cửa thông nhau theo trục Bắc - Nam và một cửa quay về hướng Đông. Tại di tích, hằng năm diễn ra nhiều sinh hoạt văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng của cộng đồng và khách thập phương, nhưng nổi bật và thu hút được sự quan tâm đặc biệt, chính là lễ Katê - Tết của người Chăm theo đạo Bàlamôn, với nhiều nghi lễ và trò diễn đặc trưng của người Chăm. Hiện chưa tư liệu nào khẳng định, lễ hội Katê/T ết Katê của người Chăm ở nước ta xuất hiện từ khi nào, nhưng chỉ biết rằng, lễ này thường được đồng bào Chăm theo đạo Bàlamôn tại 2 tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận tổ chức hằng năm vào ngày 30/6, 01/7 đến 10/7 theo lịch Chăm, tương ứng với khoảng thời gian vào tháng 9, 10 hoặc tháng 11 (Dương lịch), với ngày đầu tiên ở trên các đền - tháp; ngày thứ hai ở ngôi nhà chung của làng; ngày thứ ba ở nhà cả sư; từ ngày thứ tư đến hết ngày 10/7 lịch Chăm, thường dành cho các hộ gia đình. Với những giá trị đặc biệt tiêu biểu, di tích kiến trúc nghệ thuật Tháp Pô Klong Garai (thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận) được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt (tại Quyết định số 2499/Quyết Định -Thủ Tướng ngày 22/12/2016)./. Nguồn Cục Di Sản Văn Hóa.

Khánh Hòa 1423 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt. Mở cửa

MŨI ĐÔI - HÒN ĐÔI (HÒN ĐẦU)

Danh lam thắng cảnh Mũi Đôi – Hòn Đôi (Hòn Đầu) ở bán đảo Hòn Gốm, thuộc xã Vạn Thạnh, huyện Vạn Ninh, nơi đón ánh bình minh trên đất liền đầu tiên của Tổ quốc. Mũi Đôi – Hòn Đôi (Hòn Đầu) có hai mũi đất liền nhô ra biển, mũi xa nhất nằm ở toạ độ khoảng 109028’0" kinh độ Đông và 12039’0" vĩ độ Bắc. Người dân địa phương thường gọi là Mũi Đôi và cách đó khoảng 500 mét, có một đảo nhỏ rộng khoảng 20.000 m2 là Hòn Đầu. Địa danh Mũi Đôi – Hòn Đầu được người dân Khánh Hoà biết đến nhiều hơn vào dịp lễ hội Festival biển Nha Trang năm 2005, khi cùng với vịnh Nha Trang được Bộ Văn hoá – Thông tin (nay là Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch) xếp hạng Danh lam thắng cảnh Quốc gia ngày 25/3/2005. Nhờ cấu tạo địa chất, những nhánh núi phía Nam Trường Sơn vươn xa ra biển Đông bị nước biển phủ kín nên vùng biển Khánh Hòa xuất hiện nhiều đảo lớn nhỏ, tạo thành nhiều đầm, vịnh. Bờ biển Khánh Hòa đa phần là vách đá chiếm 2/3, còn lại là bờ biển cát mịn. Do vậy, chính sóng biển từ biển Đông tràn vào đã xâm thực, bào mòn núi đá và thềm lục địa, tạo cho vùng bờ biển Khánh Hòa nhiều vách núi đá, gành đá rất hùng vĩ, đầy ấn tượng và những bãi biển xinh đẹp, đầy thơ mộng. Trong số đó, cảnh đẹp vùng biển bán đảo Hòn Gốm, có danh thắng quốc gia Mũi Đôi – Hòn Đôi (Hòn Đầu) là một điển hình. Đứng ở đây, ta có thể nhìn thấy tàu thuyền qua lại trên hải phận quốc tế. Nếu có dịp đến nơi Mũi Đôi – Hòn Đôi (Hòn Đầu), trú lại qua đêm để đón chờ bình minh ló dạng trên biển Đông mênh mông thì mới cảm nhận trọn vẹn cảnh đẹp của địa danh này. Cảnh sắc nơi đây có môi trường thiên nhiên còn nguyên sơ, trong lành, có chỗ như chưa có dấu chân người. Biển trời một màu xanh ngắt mênh mông bát ngát. Mắt thường có thể nhìn thấy ở độ sâu dưới biển cả chục mét. Lác đác, vài ba chiếc thuyền đánh cá ven đảo và các góc biển càng làm tăng thêm vẻ đẹp hoang sơ, hữu tình của một vùng biển đảo. Nguồn Bộ Văn hóa Thể Thao và Du Lịch.

Khánh Hòa 1440 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

HÒN CHỒNG – HÒN ĐỎ

Danh thắng Hòn Chồng – Hòn Đỏ nằm bên bờ vịnh Nha Trang, thuộc hai phường Vĩnh Phước và Vĩnh Thọ, thành phố Nha Trang. Danh thắng gồm: Hòn Chồng, Hòn Đỏ, và Hội quán vịnh Nha Trang. Năm 1998, danh thắng được xếp hạng di tích Quốc gia. Danh thắng Hòn Chồng – Hòn Đỏ hình thành do sự kiến tạo của tự nhiên. Đó là những khối đá lớn nhỏ xếp chồng lên nhau thành nhiều tầng nhiều lớp trải dài từ chân đồi La San ra biển Đông tạo thành bố cục khá ấn tượng trong cảnh sắc thiên nhiên vịnh Nha Trang. Ở đó tạo nên những hình tượng kỳ thú và những bãi tắm tự nhiên đẹp và kín gió. Nhóm đá phía Bắc gọi là Hòn Chồng và nhóm đá nhỏ, thấp hơn ở phía Nam gọi là Hòn Vợ. Tạo hóa khéo sắp đặt bãi đá lô nhô thành những hình tượng kỳ thú như “Cổng trời”, “Cánh tay bám đá”, “Nụ hôn của biển”, “Tiên ông” … đã hình thành nên những truyền thuyết dân gian lôi cuốn, hấp dẫn và đậm chất nhân văn. Truyền thuyết về “Vợ chồng ngư phủ”: có một đôi vợ chồng ngư dân rất nghèo sống bằng nghề chài lưới ven biển. Hai vợ chồng thường ra khơi đánh bắt tôm cá nuôi sống gia đình. Một hôm sóng to gió lớn đánh dạt thuyền họ vào đây. Những khối đá lớn cùng sóng to nhấn chìm con thuyền nhỏ. Sóng đánh thuyền vỡ tan tành và cuốn người vợ ra xa, người chồng lao theo cứu vợ. Song mỗi lần kéo vợ gần vào đến bờ, những con sóng lớn dập vào đá lại đẩy hai vợ chồng ra xa. Người chồng cố cứu vợ, một tay bám vách đá, một tay níu giữ người vợ yêu dấu. Nhưng sóng lớn ào ạt dữ dội đã nhấn chìm đôi vợ chồng ngư dân và họ đã chết bên nhau. Ngày nay, tại danh thắng Hòn Chồng vẫn còn tảng đá lớn in hằn bàn tay năm ngón của người chồng, minh chứng cho tình nghĩa vợ chồng mặn nồng, sâu sắc và thủy chung. Truyền thuyết về chàng khổng lồ ngao du sơn thủy: thuở xa xưa ở trần gian đầy hoa thơm cỏ lạ, phong cảnh kì vĩ và nên thơ, cho nên các vị tiên thường xuống trần ngao du. Các tiên ông đánh cờ, các tiên nữ vui đùa thỏa thích, các chàng khổng lồ dạo chơi ngắm cảnh… Mỗi dịp giáng trần, các tiên nữ lại tha hồ đùa vui thỏa thích, trút bỏ xiêm y ngâm mình trong những suối nước mát hay phơi mình bên bờ biển xanh sóng vỗ rì rào… Một hôm có một chàng khổng lồ đang đi tìm cảnh đẹp thú vui, điểm lạ, vô tình chàng nhìn thấy các tiên nữ đang ngâm mình bên làn nước biển trong xanh. Mải mê ngắm nhìn, chàng bước sẩy chân suýt ngã. Trong khi chới với, chàng khổng lồ bám tay vào tảng đá, làm cho đá núi lở, rơi vương vãi khắp nơi, một hòn đá có dấu tay chàng lăn ra nằm lại Hòn Chồng, còn hòn đá có dấu chân chàng nằm lại suối Tiên (Diên Khánh). Ngày nay, hòn đá in dấu tay vẫn còn và trở thành minh chứng của tự nhiên về chàng khổng lồ ngẩn ngơ si tình ngắm các tiên nữ. Còn bãi tắm nơi các tiên nữ từng tắm được dân gian gọi là bãi tắm cô Tiên cách Hòn Chồng không xa. Cách Hòn Chồng khoảng 100m về phía Nam là Hòn Vợ, nhỏ nhắn và nằm ở vị trí kín đáo hơn. Trông từ xa Hòn Vợ như hình ảnh người vợ thủy chung ôm con ngồi hóa đá mòn mỏi chờ chồng ra khơi chưa trở về. Cũng có người hình dung đó là cảnh âu yếm của người vợ thủy chung. Từ Hòn Vợ nhìn sang Hòn Chồng trông giống như chú gà con mới nở mũm mĩm đang nằm nghỉ, đầu hướng về đất liền. Cách Hòn Chồng khoảng 300m về phía Đông Nam là Hòn Đỏ. Tên gọi Hòn Đỏ bắt nguồn từ hiện tượng có những phiến đá ánh lên sắc đỏ mỗi khi ánh nắng mặt trời chiếu rọi xuống đây. Trên Hòn đảo nhỏ vẫn còn lưu giữ những cảnh sắc thiên nhiên còn nguyên sơ, thơ mộng. Đó là những sắc đỏ của những cảnh hoa ti gôn, sắc trắng của hoa sứ bên những vách đá lớn. Trong tương lai đây sẽ là điểm đến hấp dẫn quý khách khi đến Nha Trang, được dạo chơi trên hòn đảo nhỏ chỉ cách đất liền vài trăm mét. Đứng ở Hòn Chồng – Hòn Đỏ ngắm núi Cô Tiên nằm ở phía Bắc, bên bờ vịnh Nha Trang là một điều lí thú khi quý khách đến với Nha Tang – Khánh Hòa. Lúc hoàng hôn và khi chiều tà ánh nắng vàng rực ôm lấy ngọn núi Cô Tiên càng làm cho ngọn núi thêm phần rực rỡ, lôi cuốn. Không cần tưởng tượng nhiều quý khách cũng có thể nhìn ngắm hình ảnh cô gái trẻ tràn đầy sức sống đang nằm bên vịnh Nha Trang. Mái tóc suôn dài ra tận biển, khuôn mặt bầu bĩnh, khuôn ngực thanh xuân căng đầy và vòng eo nhỏ nghiêng mình bên bờ biển. Xa xa phía trước Hòn Chồng là Hòn Rùa và đảo Yến như tiền tiêu và điểm nhấn cho du khách ngắm vịnh Nha Trang. Chếch về phía Đông Nam là đảo Hòn Tre như bức tường giữ cho vịnh Nha Trang luôn lặng sóng êm đềm. Trên đảo là khu du lịch Vinpearl land – Hòn ngọc Việt . Nguồn Bộ Văn hóa Thể Thao và Du lịch.

Khánh Hòa 1235 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đình Phú Cang

Đình Phú Cang là tên gọi gắn liền với tên làng Phú Cang (thôn Phú Cang) thuộc xã Vạn Phú, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa. Đình do những cư dân người Việt di cư vào đây xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XVIII để thờ Thành Hoàng làng, phối thờ Thiên Y Thánh Mẫu, Tiền Hiền, Hậu Hiền (những người có công khai khẩn đất đai, quy dân, lập ấp, tạo dựng xóm làng…) và thờ các liệt sĩ là con dân của làng đã hy sinh trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Đình được xây dựng trên vị trí cao, rộng ngay đầu làng. Đình nằm trong một khuôn viên khá rộng, trên một khu đất cao, diện tích khoảng 1.700m2, quay về hướng Đông Bắc. Từ ngoài nhìn vào di tích gồm các công trình kiến trúc: Nghi môn (cổng), Án phong, Đại đình, nhà Đông, nhà Tây. Đại đình được xây dựng theo kết cấu truyền thống với bộ khung gỗ có 04 cột gỗ lớn chính giữa trông rất bề thế, vững chắc đỡ lấy hệ mái có cổ lầu là kiến trúc truyền thống của Khánh Hòa. Cùng với mái ngói âm dương, hệ cửa theo kiểu “Thượng song hạ bản” và những hình tượng linh vật: Lưỡng long tranh châu, con nghê, con dơi trên đỉnh mái, bờ dải và các đầu đao nổi bật lên nền trời xanh biếc. Đó là những giá trị kiến trúc nghệ thuật cổ đặc sắc của đình làng Việt Nam. Ngoài yếu tố kiến trúc nghệ thuật còn được bảo lưu khá hoàn chỉnh trải qua hàng trăm năm chịu nhiều biến thiên, ngôi đình còn mang đậm dấu ấn lịch sử cách mạng qua các thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Đặc biệt, đây là một trong những di tích tiêu biểu của thời kỳ đầu Cách mạng Tháng Tám năm 1945 tại tỉnh Khánh Hoà nói chung và huyện Vạn Ninh nói riêng. Năm 1885, hưởng ứng chiếu Cần Vương chống Pháp của vua Hàm Nghi, phong trào Cần Vương ở Khánh Hòa được các sĩ phu, văn thân yêu nước đứng lên tập hợp quần chúng nhân dân chống Pháp. Lãnh đạo phong trào là Bình Tây Đại tướng Trịnh Phong, và Phó tướng – tổng trấn phía Bắc Trần Đường. Ở Vạn Ninh và Ninh Hòa với sự chỉ huy của Tổng trấn Trần Đường đã đánh cho Pháp nhiều phen kinh hoàng và đình Phú Cang là nơi tập hợp quân sĩ tập luyện để đánh Pháp từ đèo Cả trở vào. Do thực dân Pháp được trang bị vũ khí tối tân, còn nghĩa quân chủ yếu sử dụng vũ khí thô sơ nên thế lực của nghĩa quân yếu dần và bị thực dân Pháp đàn áp, nghĩa quân phải rút lui. Năm 1886, quân Pháp không bắt được Trần Đường, nên ra sức đàn áp nhân dân và người nhà của Ông, Trần Đường đã ra hàng để thực dân Pháp không đàn áp nhân dân. Chúng đã giết ông và chặt đầu bêu ở chợ nhằm uy hiếp phong trào yêu nước. Sau khi ông chết, nhân dân đưa bài vị của Ông về thờ tại đình Phú Cang với tấm lòng thành kính tri ân vị anh hùng của địa phương. Năm 1930, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời đã lãnh đạo phong trào cách mạng yêu nước của nhân dân ta. Năm 1936, một số Đảng viên Đảng Cộng sản đang hoạt động tại quê nhà, trong đó có đồng chí Mai Dương đã tập hợp các đồng chí đảng viên tại đình Phú Cang để thành lập Chi bộ Đảng đầu tiên tại huyện Vạn Ninh. Từ đây, đình Phú Cang là cơ sở hoạt động của Đảng bộ huyện Vạn Ninh trong suốt thời kỳ kháng chiến chống Pháp đến khi giành độc lập dân tộc. Năm 1945, để chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân, tổ chức Việt Minh ở đây đã tập hợp thanh niên tập luyện vào ban đêm ngay tại sân đình, có người canh gác, cảnh giới báo động khi Pháp đi tuần. Cũng tại sân đình là nơi tổ chức hội họp, học tập 10 chính sách Mặt trận của Việt Minh, qua đó giác ngộ cho nhân dân về tư tưởng cách mạng, lòng yêu nước, yêu quê hương và trách nhiệm của toàn dân đánh Pháp giải phóng dân tộc. Từ đó, khí thế phong trào cách mạng ngày càng lên cao. Khi thời cơ chín muồi, ngày 14/8/1945 Mặt trận Việt Minh ở Vạn Ninh đã tập hợp nhân dân Vạn Ninh về đình Phú Cang, sử dụng trống của đình để làm hiệu lệnh tập hợp nhân dân phát động nhất tề đứng lên giành chính quyền. Trong giai đoạn 1945 – 1954, đình Phú Cang vẫn là nơi luyện tập của tự vệ, du kích địa phương, tăng cường cho cho Mặt trận Nha Trang – Khánh Hòa 101 ngày đêm chống Pháp (23/10/1945 – 02/02/1946) và bổ sung lực lượng cho đơn vị 365 của Liên khu. Lực lượng này đã tham gia chiến đấu dũng cảm tạo nên trận đánh oanh liệt, diệt xe tăng, xe bọc thép của Pháp ở đèo Cổ Mã. Thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đình Phú Cang vẫn là địa điểm gắn liền với cách mạng ở địa phương. Tại đây là nơi nuôi dấu cán bộ cách mạng, tiếp nhận thương binh của trận đánh tết Mậu Thân năm 1968. Trong những năm 1971 – 1972, đình Phú Cang là căn cứ cơ sở cách mạng của các đồng chí ở căn cứ địa cách mạng Đá Bàn (Ninh Hòa – Vạn Ninh), hoặc từ Vạn Ninh qua đèo Cổ Mã sang Phú Yên. Với những truyền thống đấu tranh cách mạng bao đời của nhân dân địa phương gắn liền với ngôi đình, đặc biệt là nơi phát động quần chúng nhân dân địa phương đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân sớm nhất ở Khánh Hòa, năm 1998 Bộ Văn hóa – Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) đã xếp hạng đình Phú Cang là di tích lịch sử – văn hóa Quốc gia. Nguồn Bộ Văn hóa Thể Thao và Du Lịch.

Khánh Hòa 1360 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Miếu thờ Trịnh Phong

Trịnh Phong sinh ra ở làng Phú Vinh, tổng Xương Hà, huyện Vĩnh Xương (nay là thôn Phú Vinh, xã Vĩnh Thạnh, thành phố Nha Trang). Thuở nhỏ, ông là người thông minh, học giỏi, thi đậu Cử nhân võ (1864) và được triều đình nhà Nguyễn phong chức Đề đốc, nhậm chức tại Quảng Nam. Chứng kiến cảnh người dân cực khổ, triều đình chia bè phái dưới sự xâm lược của thực dân Pháp, ông đã từ quan, trở về quê hương chờ đợi thời cơ đánh đuổi quân xâm lược. Hưởng ứng lời kêu gọi của Vua Hàm Nghi qua “Chiếu Cần Vương”, cuộc khởi nghĩa “Bình Tây cứu quốc đoàn” do Trịnh Phong lãnh đạo diễn ra năm 1885 đã chiếm lại Thành Diên Khánh và làm chủ phần lớn tỉnh Khánh Hòa. Đến năm 1886, trước thế mạnh của địch, phong trào Cần Vương ở Khánh Hòa bị dập tắt nhưng tinh thần chiến đấu anh dũng kiên cường, bất khuất đã để lại trong lòng nhân dân địa phương một tình cảm đặc biệt sâu sắc. Trịnh Phong cùng hai thủ lĩnh khác là Trần Đường, Nguyễn Khanh được suy tôn là “Khánh Hòa tam kiệt”. Trong ảnh, tượng Trịnh Phong được đặt ở chính giữa bái đường trong miếu thờ. Di tích Miếu Trịnh Phong có tổng diện tích hơn 639 m2, nằm bên đường 23/10, bao quanh bởi nhiều nhà dân, ngay dưới tán cây Dầu đôi hơn 350 năm tuổi. Miếu được khởi dựng năm 1886, gắn liền với câu chuyện lưu truyền trong dân gian. Chuyện kể rằng khi Bình Tây Đại tướng Trịnh Phong thất trận, kẻ thù đã chém đầu ông rồi đưa về Thành Diên Khánh để thị uy. Sau đó thủ cấp của ông được người thân lén đem về chôn cất, nhưng bị kẻ thù theo dõi, đành treo túi vải đựng đầu người lên bụi duối bên cạnh cây Dầu đôi. Hôm sau, người dân địa phương đã phát hiện và đem đầu người đi chôn cất, lập am thờ nhưng không biết người xấu số là ai. Mãi đến khi có một người đàn ông “lên đồng” tự xưng là Trịnh Phong bị kẻ thù sát hại, bêu đầu, được bà con chôn cất, lập am thờ cúng, nay xin có lòng cảm tạ. Từ đó, am nhỏ được người dân gọi là Miếu Trịnh Phong hay miếu Cây Dầu Đôi. Sau đó, Miếu Trịnh Phong được vua Thành Thái thứ 13 (1901) ban tặng sắc phong cho “Đại Đức Khôi Tinh”, sau đó vào đời vua Khải Định thứ 9 (1924) tiếp tục phong tặng sắc phong với mỹ tự “Dực Bảo Trung Hưng Linh Phò Thuần Chính”, ghi nhớ người anh hùng vì nước quên thân. Miếu được xây theo lối kiến trúc một gian hai chái, ba cửa ra vào được thiết kế theo kiểu thượng song hạ bản, kết cấu khung gỗ mang nét đặc trưng di tích truyền thống ở Khánh Hòa. Chánh điện treo một bức hoành phi bằng gỗ khắc chữ Hán Nôm “Vạn An Miếu”. Hệ cửa thiết kế theo kiểu thượng song hạ bản. Chính giữa bái đường đặt một ban thờ gỗ đơn giản nhưng thể hiện sự cổ kính, trang nghiêm. Trải qua thời gian, miếu đã qua nhiều lần được tu bổ, tôn tạo. Bốn cột gỗ vuông đỡ hệ mái chánh điện, trên thân cột chạm khắc hai cặp câu đối bằng chữ Hán Nôm và được sơn son thếp vàng, phía trên chạm trổ hoa văn hình hoa lá. Phía trong chính điện treo hai cặp câu đối ca ngợi công đức của Trịnh Phong. Giữa chính điện đặt ban thờ hội đồng, hai bên đặt cặp lọng vải, phía trên ban thờ treo một bức chấn bằng vải. Giáp với tường hồi phía sau là khám thờ bằng gỗ được chạm trổ rất tỉ mỉ và khắc chữ Hán Nôm “Thần”. Còn cây Dầu đôi cao khoảng 30m, 4-5 người ôm không xuể đứng cạnh bên đã che chở cho Miếu Trịnh Phong trải qua bao thăng trầm của lịch sử. Theo các vị cao niên, không ai biết rõ cây Dầu đôi bao nhiêu tuổi, nhưng theo ghi chép, Chúa Nguyễn Phúc Tần cho cai cơ Hùng Ngọc Hầu khai hoang rừng, mở mang bờ cõi năm 1653 đã thấy cây Dầu đôi to lớn vượt trội giữa rừng già, cai cơ hạ lệnh không chặt phá để tạo bóng mát. Năm 2016, cây Dầu đôi được công nhận là cây di sản Việt Nam. Miếu thờ Trịnh Phong được Bộ Văn Hóa Thể Thao Du Lịch công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia năm 1991. Nguồn Bộ Văn hóa Thể Thao và Du Lịch.

Khánh Hòa 1567 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đình Tấn Lộc

Đình Tấn Lộc thuộc khu phố 4, phường Tấn Tài, thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận. Đình được xây dựng ở đầu làng. Theo các cụ già trong làng thì vào năm Minh Mạng thứ 11 sau khi ông Phan Văn Nghi xin thành lập làng Tấn Lộc thuộc Kinh Dinh, phủ Ninh Thuận thì Đình Tấn Lộc lúc bấy giờ có tên là Đình Dinh Thủy, mới được xây dựng ở cuối làng bằng các vật liệu thanh tre đơn giản. Đến năm Giáp Dần (1853) đời vua Tự Đức, Đình Dinh Thủy mới được dời về địa điểm hiện nay. Đình thờ Thần Thành Hoàng, Thiên Y A Na và Chưởng Thái Giám Bạch Mã. Theo tục lệ của tiền nhân lưu lại, hàng năm thôn Tấn Lộc tổ chức tại đình làng làm đại lễ theo Xuân kỳ vào tháng 2 Âm lịch và làm trung lễ theo thu lệ vào tháng 8 Âm lịch. Mỗi đợt tế được chia làm ba phần, với những nghi thức rất trang trọng, từ lễ Khai sắc, đến lễ kỵ Tiền hiền và lễ Tế tại Chánh điện. Đình Tấn Lộc phường Tấn Tài đã được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích lịch sử văn hoá , kiến trúc nghệ thuật. Đình Tấn Lộc được xây dựng trên một khu đất có diện tích là 1.950 mét vuông, xung quanh có tường rào bao bọc. Mặt trước của Đình hướng ra sông Dinh, mặt sau nhìn ra xa có ngọn núi Cà Đú là điểm tựa lưng vững chãi. Đình Tấn Lộc là một tổng thể kiến trúc bao gồm: từ ngoài vào là nghi môn, bình phong, sân gạch, cách chừng 15m là tòa chánh điện, nối chánh điện với nhà Kiều là một khoảng sân nhỏ mà các cụ thường gọi là Thiên Tĩnh (giếng trời). Liền với nhà Kiều là nhà Tiền Hiền. Hai bên hông của tòa Chánh điện là nhà Đông và nhà Tây, phía trước nhà Đông và nhà Tây là hai ngôi miếu nhỏ, miếu Đông thờ Ngũ hành, miếu Tây thờ Thổ thần, còn hai bên hông của nhà Kiều là hai nhà Trù (nhà bếp) nhưng chỉ còn một căn phía Đông, còn căn phía Tây đã bị đổ nát. Ở phía Đông, giữa nhà Đông với nhà Trù có một cổng nhỏ (còn gọi là cổng Đông) dùng để ra giếng lấy nước. Đình Tấn Lộc là một công trình kiến trúc, điêu khắc gỗ có giá trị. Về mặt kiến trúc Đình là một quần thể gồm nhiều ngôi nhà Tứ trụ ghép lại, sự có mặt của các kèo đâm, kèo khuyết làm cho diện tích của ngôi đình được nới rộng ra xung quanh. Đề tài trang trí ở Đình khá phong phú, hầu hết các mô típ cổ điển đều được sử dụng và mang tính triết lý sâu sắc như: “Tứ linh”: Rồng biểu trưng cho quyền lực, Lân biểu trưng cho ước vọng Thái Bình, Quy ngoài biểu trưng cho sự chịu đựng và sống lâu thì nó còn được quan niệm là hợp thể trong quan hệ đối đãi của trời cha đất mẹ, Phụng biểu hiện về ước vọng muôn đời của người dân Việt trong mối quan hệ với thần linh. Với đề tài bát bửu thì có Hoa mặt trời (trời) tượng trưng cho nơi ngự trị của thần linh mang tính linh thiêng. Gươm biểu hiện cho sức mạnh của con nhà võ diệt trừ xấu xa, ma quỷ. Quạt vả nhằm tiêu trừ độc hại ma quỷ. Đàn biểu hiện sự thanh cao của đạo nhân. Bầu rượu biểu trưng của Lý Thiết Quài đi tìm “lẻ quên” thoát khỏi sự ràng buộc xấu xa của cuộc đời và cây gậy Như Ý biểu hiện cho quyền lực… Hơn 100 năm qua, do sự tác động của thiên nhiên nên Đình đã qua nhiều lần tu bổ. Trong những lần tu sửa đó, do nhận thức có hạn nên một số kiến trúc như nhà Đông, nhà Tây đã được làm mới lại hoàn toàn trên nền cũ song cơ bản Chánh điện và nhà Tiền hiền vẫn giữ được những yếu tố nguyên gốc nên vẫn không làm mất đi dáng vẻ uy nghi, cổ kính của ngôi đình. Nguồn: Trung tâm Thông tin Xúc tiến Du lịch Ninh Thuận

Khánh Hòa 3479 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Am Chúa

Am Chúa tọa lạc trên núi Đại An hay còn gọi là Qua Sơn (Qua Lãnh, núi Chúa, núi Cấm), xưa nay tên Đại An thông dụng nhất. Núi Chúa là một thổ sơn, cao 284 thước, Am Chúa nằm ở lưng chừng núi, có độ cao 80m so với mực nước biển, thuộc địa phận thôn Đại Điền Trung, xã Diên Điền, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa. Cho đến nay, chưa có tư liệu nào xác định thời gian cụ thể mà Am Chúa được xây dựng; song qua lời kể của hào lão địa phương thì khởi đầu Am Chúa là một thảo am nhỏ nằm cùng Đại An sơn tự (chùa Đại An) trên ngọn Hoa Sơn và sau nhiều lần trùng tu thảo am đã trở thành nơi thờ Thiên Y Thánh Mẫu khang trang như ngày nay. Mặc dù hiện nay ngôi chùa nhỏ mang tên Đại An không còn nữa, nhưng sự hòa quyện giữa tục thờ Mẫu và những lễ nghi mang màu sắc Phật giáo thì vẫn còn nguyên vẹn và là nét văn hóa đặc trưng ở Am Chúa. Hệ thống kiến trúc thờ tự tại Am Chúa có nhiều nét tương đồng với kiến trúc các đình làng Khánh Hòa. Cấu trúc thờ tự có sự phối thờ, phối tế gần giống với các công trình kiến trúc tín ngưỡng trong tỉnh và đây chính là một đặc điểm tín ngưỡng của người dân Khánh Hòa. Các công trình kiến trúc ở Am Chúa gồm: Tam quan, mộ ông bà Tiều, bia ký, miếu Sơn Lâm, miếu Ngũ hành, chánh điện. Ngôi chánh điện được trùng tu lần thứ 3 vào năm Mậu Tuất (1958), lần thứ 4 năm Mậu Thìn (1988), đại trùng tu năm Kỷ Sửu (2009) với dạng thức kiến trúc ba gian. Am Chúa bài trí thờ tự với lỗ bộ, các cặp liễn đối, hoành phi được khắc, chạm tinh tế, sắc sảo. Án thờ đầu tiên là hương án thờ thần vị của Tiều công phu phụ. Khám thờ Thiên Y Thánh Mẫu được trang hoàng lộng lẫy, là điểm tập trung nhất của cấu trúc thờ tự trong Chánh điện; hai bên là khám thờ Lục vị Tiên cô và Thập nhị Tiên Nương. Bên tả ban thờ Thánh Mẫu là ban thờ Tứ vị Thái tử và Thập nhị hành khiển, còn được gọi là ban thờ Cậu (Hoàng tử Trí – con trai Thánh Mẫu); bên hữu là ban thờ Lục vị Tiên cô và Thập nhị Tiên Nương, còn gọi là ban thờ Cô (Công chúa Quý – con gái Thánh Mẫu). Tất cả các ban thờ trong Chánh điện đều được làm bằng gỗ quý, chạm khắc hoa văn, họa tiết tinh tế, đặc sắc. Toàn bộ chánh điện có kết cấu vì nóc kiểu vì kèo, các hàng cột cái và cột quân được làm từ gỗ quý có giá trị cao. Am Chúa còn lưu giữ được hai sắc phong do các vua triều Nguyễn ban tặng. Theo quan niệm dân gian, tháng Ba là tháng Vía Bà, “Tháng Tám giỗ cha, tháng Ba giỗ Mẹ”. Lễ hội Am Chúa từ ngày mùng 1 đến ngày mùng 3 tháng Ba âm lịch hàng năm và diễn ra theo một diễn trình truyền thống: Lễ mộc dục (tắm tượng), lễ tam hiến trơn, lễ tế chính, hát văn Mẫu, tế Nữ quan, lễ cúng Hậu thường, nghi thức dâng hương và múa bóng. Qua các truyền thuyết, truyện kể dân gian đến thờ phụng thể hiện sự tiếp nối liên tục về văn hóa, tín ngưỡng, Am Chúa đã mang trong mình những giá trị của hai nền văn hóa Chăm – Việt. Tuy rằng có những dấu ấn khác nhau, song phải khẳng định hình tượng Thiên Y A Na là một sáng tạo của người Việt, có cội nguồn từ hình tượng Pô Nagar của dân tộc Chăm và đều xuất phát từ hình tượng hiện thân cho người mẹ sáng tạo muôn loài. Với những giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể, năm 1999 Am Chúa được Nhà nước xếp hạng là Di tích lịch sử – văn hóa Quốc gia. Nguồn: Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh Khánh Hòa

Khánh Hòa 2431 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Khu tưởng niệm bác sĩ Alexandre Yersin

Di tích lịch sử lưu niệm nhà bác học Alexan drơ Yersin đã được Bộ Văn hóa – Thông tin, Thể thao và Du lịch xếp hạng là Di tích quốc gia ngày 28/9/1990. Di tích là một quần thể các địa điểm riêng lẻ, tiêu biểu, nổi bật, gắn bó trực tiếp với cuộc đời và sự nghiệp của nhà bác học Alexan drơ Yersin, bao gồm 3 địa điểm là thư viện tại Viện Pasteur Nha Trang (đường Trần Phú, Phường Xương Huân, TP Nha Trang), chùa Linh Sơn, mộ Alexan drơ Yersin (xã Suối Cát, Huyện Cam Lâm). Bác sĩ Alexan drơ Yersin sinh ngày 22/9/1863 tại Thụy Sỹ, đến năm 20 tuổi, ông tốt nghiệp Đại học Paris (Pháp), năm 1886 ông làm việc tại viện Pasteur Paris và cộng tác với bác sĩ Roux tìm độc tố vi khuẩn bạch cầu. Đến năm 1890, ông được chuyển lại quốc tịch Pháp. Sau khi ông đã gặt hái được những thành công nhất định trong ngành y học, Yersin bất ngờ rời bỏ ngành vi trùng học - sống đời thủy thủ và thám hiểm - mở đầu một cuộc đời khác kéo dài 50 năm. Năm 1891, ông xin thôi việc ở Messageries và đã sang Đông Dương làm y sĩ cho hãng tàu thủy Messageries để thực hiện ước mơ khám phá những chân trời mới. Tháng 7-1891 ông đến Nha Trang lần đầu tiên, đến năm 1895, Yersin sáng lập Viện Pasteur Nha Trang và điều chế huyết thanh chữa bệnh dịch hạch. Một năm sau, bệnh dịch tái phát ở Trung Quốc, Yersin lại sang Trung Quốc và cứu được nhiều người thoát khỏi căn bệnh hiểm nghèo đã giết 50 triệu người ở thượng cổ. Đến cuối năm 1899 ông đã trở lại Nha Trang và thành lập viện Pasteur. Gần 50 năm sống độc thân ở Nha Trang ông đã dành trọn cuộc đời cho sự nghiệp khoa học, nghiên cứu thành công cho việc sản xuất thuốc chữa bệnh dịch hạch vào ngày 20/6/1894. Bởi vì ông sống tương đối giản dị và gần gũi với nhân dân xóm Cồn nên rất được mọi người yêu mến. Sau đó, ông dành khoảng hai năm (1902-1903) để ra Hà Nội mở trường Cao đẳng y khoa Đông Dương và làm hiệu trưởng đầu tiên tại đây. Năm 1924, ông giữ chức vụ Tổng Thanh Tra Các Viện Pasteur ở Đông Dương. Năm 1933, ông làm viện trưởng danh dự viện Pasteur ở Paris. Ngày 28/6/1935, trường trung học Yersin được khánh thành ở Đà Lạt, Yersin trở về Đà Lạt lần cuối cùng trước khi mất. Khoảng thời gian còn lại của cuộc đời mình, Yersin chỉ sống và làm việc tại Viện Pasteur Nha Trang. Khi về già, ông đã lên đỉnh núi phía trên Suối Dầu để dựng một ngôi nhà gỗ, vừa trồng cây thuốc, vừa nghiên cứu ra loại thuốc sốt rét. Cho đến những ngày tháng cuối cùng, ông để lại di chúc với mong muốn được chôn cất ở Suối Dầu. Tất cả tài sản của mình, ông xin dành tặng hết cho viện Pasteur Nha Trang. Ngày 1/3/1943 ông mất, đám tang được diễn ra rất giản dị, rất nhiều người đã đến đưa tiễn ông, nối theo nhau từ Nha Trang đến tận Suối Dầu. Theo di chúc, khi khâm liệm người ta đặt ông nằm sấp, đầu quay về biển để ông mãi mãi ôm mảnh đất quê hương của mình. Ngôi mộ của ông được xây hình chữ nhật bằng xi-măng, sơn màu xanh, trên bề mặt có chữ Alexan drơ Yersin (1863. 1943). Nguồn: Cổng thông tin du lịch Nha Trang

Khánh Hòa 3090 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Trùng Sơn Cổ Tự

Trùng Sơn cổ tự là một tổng thể công trình kiến trúc hoành tráng được hòa thượng Thích Bửu Hiền tạo lập vào năm 1973 tại di tích lịch sử núi Đá Chồng (núi Phụng Hoàng), thuộc huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận. Ban đầu, chùa chỉ là một ngôi nhà thờ Phật giản dị trên núi, là nơi hàng ngày nhà sư Bửu Hiền dùng làm nơi tu tập, đồng thời cũng là nơi để bà con, phật tử viếng thăm, khấn phật, cầu an. Dần về sau, ngôi am nhỏ được nhà sư mở rộng, xây thêm các hạng mục, tiểu cảnh nhằm mục đích làm nơi nghỉ ngơi, ngắm cảnh cho bà con, phật tử gần xa mỗi khi lên viếng phật. Qua đời của Hòa thượng Thích Bưu Hiền, đến đời của Thượng tọa Thích Tâm Tường. Ngôi am được mở rộng xây dựng trên diện tích, quy mô hoành tráng gồm nhiều hạng mục như cổng tam quan, chánh điện, nhà thờ tổ, … Năm 2012, do hạn hẹp về kinh phí nên chùa chỉ hoàn thành trước hạng mục chính điện, nhà thờ tổ, sân hiện, bậc cấp tam quan lên xuống … riêng hạng mục tam quan, các tiểu cảnh, khu vực đặt thờ các tượng phật, bồ tát ngoài trời, … vẫn đang trong quá trình hoàn thiện. Do việc xây dựng theo địa hình đồi núi nên rất khó phân biệt đâu là tiền đường, bái đường, chính điện, cổng tam quan hay nhà thờ tổ. Chính vì thế mà tổng thể công trình chùa vừa tạo ra tính sinh động theo mô típ kiến trúc độc đáo, đồng thời cũng tạo ra tính phức tạp khi nhận diện. Sau hơn 40 năm xây dựng và hoàn thiện. Cho đến ngày nay, chùa đã trải qua ba đời trụ trì. Trong đó gồm: Hòa thượng Thích Bưu Hiền (người sáng lập), Thượng tọa Thích Tâm Trường (người kế nhiệm thứ hai và cũng là đệ tử của Hòa Thượng Thích Minh Tâm, sư huynh Hòa Thượng Thích Bưu Hiền), Đại đức Thích Nguyên Minh (trụ trì hiện nay, đệ tử Thượng tọa Thích Tâm Trường). Nhìn chung, các đời trụ trì của chùa Trùng Sơn đều có mối gắn kết của “tông môn pháp phái”. Trùng Sơn Cổ Tự có độ cao hơn 60m so với mặt nước biển. Đường dẫn lên chùa là đường tam cấp dốc, thẳng đứng với gần 500. Đi hết đường tam cấp, cảnh sắc mở ra đầu tiên chính là hạng mục tam quan còn đang xây dựng theo phong cách kiến trúc cổ thuần Việt. Tuy chưa hoàn thành, nhưng khi nhìn tổng thể, tam quan Trùng Sơn Cổ Tự là hạng mục vững chắc, bền bỉ, rộng lớn khi nguyên vật liệu hoàn toàn và bê tông, cốt thép và đá xanh. Qua tam quan, tiếp tục đi lên là khoảng sân hiên phía dưới, với điểm nhấn là nhiều cây cảnh và đôi rồng thời Lý Trần uy nghi, dũng mãnh. Từ sân hiên đi lên theo bậc tam cấp, chính là quần thể công trình kiến trúc gồm sân, chính điện, nhà thờ tổ, nhà khách, … mà ba đời trụ trì xây dựng. Chùa Trùng Sơn cổ tự còn nổi tiếng là nơi rất linh thiêng khi đây là nơi ngự trị của hai ngôi chùa Thiền Viện Trúc Lâm Viên Ngộ và Tổ đình chùa Trùng Khánh. Sự hội tụ này thể hiện cho một vùng đất linh khí của đất trời. Nguồn: Du lịch Ninh Thuận

Khánh Hòa 4497 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích Đề-pô xe lửa Tháp Chàm

Đề-pô xe lửa Tháp Chàm là cơ sở hạ tầng của Sở Hỏa xa do người Pháp lập ra bao gồm: Nhà ga, Khu bảo trì, sửa chữa đầu máy toa xe, Khu ở công chức. Người dân Ninh Thuận quen gọi là Đề-pô xe lửa Tháp Chàm (thuộc phường Đô Vinh, Tp. Phan Rang–Tháp Chàm hiện nay). Đề-pô xe lửa Tháp Chàm phục vụ vận chuyển hành khách, hàng hóa, kỹ thuật duy tu, sửa chữa... Được biết đường sắt xuyên Việt hoạt động thông suốt từ năm 1936. Trước đó có các đoạn hoàn thành và hoạt động như đoạn đường sắt Nha Trang-Tháp Chàm-Sài Gòn hoạt động từ năm 1903, đoạn đường sắt từ Tháp Chàm đi Đà Lạt dài 84 km, trong đó có 16 km đường sắt răng cưa, khởi công xây dựng năm 1906 đến năm 1933 bắt đầu hoạt động. Với đặc điểm này, Đề-pô xe lửa Tháp Chàm là một trong các cơ sở đường sắt nhất nước ta thời đó như Gia Lâm (Hà Nội), Bến Thủy (Vinh), Touran (Đà Nẵng), Dĩ An (Sài Gòn–Bình Dương)... Theo sử liệu, với quy mô khoảng 200 công nhân, Đề-pô xe lửa Tháp Chàm là ga hành khách và ga kỹ thuật thực hiện tác nghiệp kỹ thuật đầu máy, toa xe và một số chức năng khác. Do vậy, đây là nơi hội tụ nhiều cá nhân ưu tú từ các tỉnh khác vào làm việc, từ đây họ trở thành hạt nhân tuyên truyền các tư tưởng chính trị tiến bộ. Cuối năm 1928, họ thành lập Chi bộ Tân Việt tại làng Bảo An. Tháng 4-1929, đảng Tân Việt chuyển thành Đông Dương Cộng sản liên đoàn, cơ sở đảng Tân Việt tại Ninh Thuận cũng đổi tên và hoạt động theo phương hướng mới. Sau ngày 3-2-1930, Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập, tháng 4-1930, các chi bộ Tân Việt tại Ninh Thuận chuyển thành các chi bộ Đảng Cộng sản theo chủ trương chung của cả nước, bao gồm Chi bộ Đề-pô xe lửa Tháp Chàm và Chi bộ Cầu Bảo, Chi bộ Sở Muối Cà Ná. Từ đó, tổ chức Đảng lãnh đạo Nhân dân đấu tranh, tiêu biểu là tổ chức cuộc biểu tình ngày Quốc tế Lao động 1-5-1930. Sáng sớm ngày 1-5, công nhân đi làm thấy cờ đỏ búa liềm xuất hiện trên đỉnh tháp nước ga Tháp Chàm và trên cây me cổ thụ làng Bảo An; truyền đơn rải nhiều khu vực ga, khu dân cư Bảo An. Cùng lúc đó, 120 công nhân Đề-pô xe lửa Tháp Chàm tổ chức mít-tinh kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động và yêu cầu giới chủ thực hiện các quy định lao động. Có thể nói, vừa ra đời, chi bộ Đảng tại Đề-pô xe lửa Tháp Chàm đã tổ chức đấu tranh trực diện với Pháp. Với những sự kiện, dấu ấn lịch sử trên, Đề-pô xe lửa Tháp Chàm được công nhận Di tích Lịch sử Cách mạng cấp tỉnh vào năm 2003. Nguồn: Báo Ninh Thuận

Khánh Hòa 4917 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Miếu Năm Bà

Ngày 28/02/2023, Miếu Năm Bà, phường Bảo An, thành phố Phan Rang - Tháp Chàm được xếp hạng là Di tích Lịch sử cấp tỉnh. Miếu Năm Bà là cơ sở tín ngưỡng có ý nghĩa quan trọng trong đời sống tâm linh của người dân trong khu vực phường Bảo An, thành phố Phan Rang - Tháp Chàm. Miếu không chỉ có giá trị về lịch sử văn hóa mà còn gắn với các phong trào cách mạng, phong trào kháng chiến quan trọng trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận. Trong cách mạng Tháng 8 năm 1945, Miếu là nơi tổ chức các cuộc họp bí mật của chính quyền Việt Minh, là nơi tổ chức các hoạt động nuôi giấu cán bộ cách mạng, nơi hội họp của Dân quân du kích địa phương. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ (1954 - 1975), Miếu là nơi tổ chức các hoạt động tuyên truyền chủ trương, đường lối cách mạng của Đảng, phát động các phong trào tham gia kháng chiến bảo vệ Tổ quốc và nhiều hoạt động yêu nước, đưa tiễn con em địa phương lên đường nhập ngũ. Khi đất nước hòa bình, Miếu là nơi tổ chức các hoạt động văn hóa cộng đồng, tín ngưỡng của người dân địa phương. Ngày nay, hàng năm tại Miếu Năm Bà, Tỉnh Đoàn thường xuyên tổ chức các buổi sinh hoạt truyền thống và nghe các đồng chí lão thành cách mạng kể chuyện về diễn biến cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở tỉnh ta (ngày 21/8/1945) cho các đoàn viên, thanh niên, học sinh; qua đó, giáo dục, bồi đắp lòng tự hào dân tộc, lý tưởng cách mạng, tình yêu quê hương, đất nước trong thế hệ trẻ hôm nay. Việc xếp hạng di tích lịch sử Miếu Năm Bà nhằm xác lập cơ sở pháp lý và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động bảo tồn và phát huy các giá trị di tích lịch sử - văn hóa danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cộng đồng, tổ chức, cá nhân tham gia thực hành di sản văn hóa tại Miếu Năm Bà. Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh giao Ủy ban nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp Chàm trực tiếp quản lý, bảo vệ, tu bổ, phục hồi và phát huy các giá trị của Miếu Năm Bà theo quy định; đồng thời, nghiêm cấm mọi hoạt động khai thác trong khu vực di tích đã khoanh vùng để kinh doanh những dịch vụ không phù hợp; trong trường hợp đặc biệt sử dụng đất đai ở di tích vào mục đích khác phải được phép của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh. Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Đảng Bộ Tỉnh Ninh Thuận

Khánh Hòa 3447 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Di tích Tháp Hòa Lai

Tháp Hòa Lai, một ngôi tháp cổ được cho là một trong những công trình lâu đời nhất của người Chăm còn tồn tại. Tháp Hòa Lai tọa lạc ngay trên đường quốc lộ 1A, thuộc địa phận thôn Ba Tháp, xã bắc Phong, huyện Thuận Bắc, tỉnh Ninh Thuận. Tháp được xây dựng vào khoảng thế kỷ 6 đến thế kỷ 9, có kiến trúc nghệ thuật độc đáo của vương quốc Chăm Pa vùng Panduranga xưa. Tháp Hòa Lai đã được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận là Di tích Lịch sử Quốc gia năm 1997. Đến ngày 22/12/2016, được xếp hạng di tích cấp quốc gia đặc biệt. Trong quá khứ, nơi đây từng có ba ngôi tháp nên từng có tên gọi là Ba Tháp, tuy nhiên do sự bào mòn của thời gian và những biến động trong lịch sử, một ngôi tháp đã bị sập. Người dân bản địa còn hay gọi tháp này là tháp Hòa Lai thay cho tên Ba Tháp ngày trước. Khác với kiến trúc của tháp Po Klong Garai, phong cách kiến trúc của tháp Hòa Lai nổi bật với những cánh cửa hình vòm có nhiều mũi tròn, các trụ tường hình bát giác với phong cách trang trí hình lá uốn cong. Đến với tháp Hoà Lai, bạn sẽ được tận mắt ngắm nhìn nghệ thuật xây dựng và điêu khắc cực kỳ tinh tế của dân tộc Chăm Pa. Ngôi tháp vốn là một tổng thể kiến trúc bao gồm tháp Bắc, tháp giữa và tháp Nam. Hiện nay, ngọn tháp trung tâm chỉ còn lại phần nền do bị phá vỡ nghiêm trọng vào thế kỉ 9. Nơi đây được biết đến là khu di tích cổ có khá nhiều công trình phụ bao quanh tháp nhưng theo thời gian chỉ còn một ít vết tích lưu lại như tường thành, lò gạch… Nét đặc sắc của cụm tháp Hòa Lai chính là phong cách trang trí hết sức tinh xảo với những đường nét hoa văn bên ngoài mặt tháp chỉ giới hạn ở vòm cửa, các trụ ốp và bộ diềm mái. Mỗi công trình tháp mang trong mình một nét đẹp riêng nhưng lại được xây dựng vô cùng hòa hợp với nhau. Tháp Bắc được xây bằng gạch, trên tường chạm trổ hoa văn hình mặt chim, thú, lá, hoa… rất ấn tượng. Ở hướng Đông của tháp Bắc chỉ có duy nhất một cửa vào, ba hướng còn lại đều là cửa giả. Bên trong tháp có sẵn các ô hình tam giác để gắn đèn lên mỗi khi cúng tế. Tháp Nam là ngọn cao nhất, cũng được xây bằng gạch và chạm khắc hoa văn trên tường nhưng chưa hoàn thiện. Toàn bộ thân tháp trông như một khối lập phương đồ sộ nhô lên từ một bệ vuông và nâng đỡ cả một hệ thống các tầng nhỏ hơn. Trải qua hơn 1000 năm cùng biết bao thăng trầm lịch sử, vẻ đẹp của tháp Hoà Lai vẫn trường tồn theo năm tháng và giữ nguyên những giá trị nghệ thuật đặc sắc trong lối kiến trúc và điêu khắc của người Chăm xưa. Nguồn: Du lịch Ninh Thuận

Khánh Hòa 3835 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Đình Đắc Nhơn

Đình Đắc Nhơn toạ lạc tại thôn Đắc Nhơn, xã Nhơn Sơn, huyện Ninh Sơn, tỉnh Ninh Thuận. Ngôi đình xây dựng trên một khu đất bằng và rộng. Năm 1999, Đình Đắc Nhơn được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là Di tích lịch sử cấp Quốc gia. Theo hồ sơ lý lịch di tích của Bảo tàng tỉnh Ninh Thuận, đình Đắc Nhơn do một vị sư người Trung Quốc đến Phan Rang xây dựng vào thế kỷ thứ 18 tên là Hoà thượng Liễu Minh - Đức Tạng. Lúc mới xây dựng, đình Đắc Nhơn chỉ là một ngôi miếu nhỏ mang tên “Đắc Nhơn Từ Miếu”. Điều bí ẩn tồn tại hàng trăm năm nay mà không ai lý giải được tại sao ngôi đình Đắc Nhơn của người Việt lại thờ vua Po Klaong Garay của người Chăm? Và việc vua Po Klaong Garay của người Chăm trở thành vị thần hoàng trong ngôi đình của người Việt là một hiện tượng giao lưu văn hoá rất độc đáo. Nhân dân thôn Đắc Nhơn còn lưu truyền câu chuyện rằng, xưa kia vùng đất mà họ đang sinh sống là thuộc nước Chiêm Thành. Để ghi ơn những bậc tiền hiền đã khai khẩn đất hoang, dẫn thuỷ nhập điền nên họ thờ phụng ngài để cầu mong sự bình an, sung túc, lúc gặp hoạn nạn cầu mong ngài phù hộ và che chở. Qua 6 đời vua triều Nguyễn, đình Đắc Nhơn vinh dự 7 lần được trao sắc phong từ thời vua Minh Mạng (1840), đến vua Khải Định (1924). Trong đó, thời vua Thiệu Trị trao 2 tấm sắc phong. Như vậy, đình Đắc Nhơn có tất cả là 8 sắc phong. Nội dung của các tờ sắc phong cho biết vị thần hoàng được dân gian thờ phụng chính ở đình Đắc Nhơn mang tên là “Lạc Phiên Dương thần”, mà trong dân gian hay gọi là vua Lác. Về mặt kiến trúc đình Đắc Nhơn thể hiện đầy đủ tiêu chí của một ngôi đình truyền thống. Nhưng, kiến trúc của đình Đắc Nhơn mang dáng vẻ của một ngôi nhà truyền thống của người Chăm gồm có 3 gian chính. Tại chánh điện có để một cái tấm phản đặt theo hướng bắc nam, nhìn lên trần nhà là cổ lầu làm bằng tấm ván gỗ kết lại như biểu tượng bức màn Lemlir biểu tượng cho bầu trời trong văn hoá Chăm hay là biểu tượng Thang Sa xuất hiện ở kiến trúc đền tháp Po Klaong Garay dùng để treo tấm màn lễ Panil mỗi khi dâng lễ vật trong đền tháp. Những dấu vết, bàn tay tài hoa của người thợ vẫn còn hằn in lên trên các nét chạm trổ, điêu khắc ở công trình kiến trúc tôn giáo đình Đắc Nhơn là một bằng chứng sống động về giao thoa văn hoá Việt - Chăm. Việc một vị vua của người Chăm trở thành thần hoàng được thờ phụng trong ngôi đình của người Việt là một hiện tượng kì lạ và độc đáo phản ánh sự giao lưu, tiếp biến văn hoá Việt - Chăm. Người Việt thờ vua Po Klaong Garay với tên gọi Lạc Phiên Dương thần mà trong dân gian gọi là vua Lác. Đồng thời, người Việt còn sáng tạo thêm về nguồn gốc của vua Lác từ những câu chuyện cổ tích của người Chăm để phù hợp với quan niệm, tư duy người Việt. Khi cúng lễ cho vua Po Klaong Garay trên đền tháp người Chăm cúng con dê, con gà. Khi tiếp nhận văn hoá Chăm, mỗi năm tế thần ở đình Đắc Nhơn bao giờ lễ vật cũng có một con dê. Như vậy, những đường biên văn hoá Việt - Chăm trong việc thờ phụng thần hoàng và xây dựng nhà ở càng làm giàu thêm hệ giá trị văn hoá hai dân tộc. Nguồn: Trang Tin Điện Tử Trung Tâm Nghiên Cứu Văn Hóa Chăm

Khánh Hòa 2985 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Làng Tri Thủy

Đình làng Tri Thủy thuộc thôn Tri Thủy, xã Tri Hải, huyện Ninh Hải. Đình được xây dựng cách đây trên 200 năm để thờ thần Thành Hoàng. Đình còn thờ các bậc tiền nhân có công khai khẩn lập làng, dựng đình. Hiện nay, tại đình Tri Thủy vẫn còn lưu giữ những sắc phong của các triều vua Nguyễn ban cho Thành Hoàng. Đình làng Tri Thủy được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận Di tích cấp quốc gia vào tháng 4-2011. Đình Tri Thủy được xây trên khu đất nằm ngay đầu làng Tri Thủy có diện tích 3231,82m2. Mặt trước của Đình hướng ra Đầm Nại, bên phải là chùa Kim Sơn, bên trái là trục đường chính liên xã, phía sau Đình Trị Thủy là Núi Đình và khu dân cư. Tên Đình Tri Thủy lấy theo tên làng Tri Thủy (trước đây có tên làng Bến Đò, thuộc tổng Mỹ Tường, đạo Ninh Thuận nay thuộc thôn Tri Thủy, xã Tri Hải, huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận), được hình thành cách đây 200 năm do những người cánh họ Dương (Bình Định) theo chân Chúa Nguyễn di cư vào Ninh Thuận. Đình được xây dựng để thờ thần Thành Hoàng, theo tín ngưỡng dân gian thì đây là vị Thần bảo trợ cho dân làng, vì không có thần phả để lại nên ngày nay rất khó xác định được lai lịch của Thần. Ngoài Thành Hoàng là đối tượng thờ chính, ở Đình còn thờ thêm các vị tiền bối có công khai khẩn, lập làng, dựng Đình và Bà Thủy Long. Tại Đình còn lưu giữ những sắc phong của các vua Nguyễn ban cho Thành Hoàng . Đình Tri Thủy là một tổng thể kiến trúc công trình xây dựng bao gồm từ ngoài vào là cổng Tam Quan, bức Bình phong, sân Đình, tòa Chánh Điện. Hai bên là tòa Chánh điện là nhà Đông, nhà Tây. Phía sau Chánh điện là 1 khoảng sân nhỏ nối Chánh điện với nhà Tiền Hiền. Kết cấu kiến trúc và nghệ thuật của một số bộ phận chính: – Cổng Tam Quan: kiến trúc theo phong cách cổ, dáng tứ trụ; trên các cột đắp nổi câu đối có nội dung ca ngợi vùng đất hiển linh, phù hộ cho dân làng sống giàu sang, hạnh phúc. – Bình phong: được xây dựng trước sân Đình đối diện với tòa chánh điện. Theo quan niệm của dân gian, bình phong có tác dụng ngăn ngừa luồng khí độc thổi vào thôn. – Chánh điện: là công trình kiến trúc chính nên có quy mô và uy nghi hơn so với các kiến trúc còn lại được chia làm hai phần: Tiền đàng và Hậu tẩm. Tiền đàng là ngôi nhà dành cho việc hành lễ nên còn gọi là nhà Tiền bái. Tiền đàng là một ngôi nhà tứ trụ, tường xây bằng đá, chất kết dính vữa vôi, mái lợp ngói Tây. Tòa Chánh điện là nơi thờ Thành Hoàng nên nội thất được treo các câu đối và nhiều đồ thờ tự khác. Chính giữa là án thờ thần, trên án và xung quành án thờ được bài trí các đồ tự khí và các vật trang trí rất tinh xảo nhưng không kém phần uy nghiêm; các hiện vật được lưu giữ tại Đình. Trong năm tại Đình Tri Thủy tổ chức một số lễ nghi thức long trọng như Tết Nguyên đán, Tiết Thanh Minh, Rằm tháng 7 âm lịch…. Nguồn: Du lịch Ninh Thuận

Khánh Hòa 3702 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích lịch sử cách mạng quốc gia Bẫy đá Pi Năng Tắc

Bẫy đá Pi Năng Tắc còn có tên gọi là “Bẫy đá Bác Ái” nằm tại triền núi Gia Túc, thuộc xã Phước Bình, huyện Bác Ái, cách trung tâm thành phố Phan Rang - Tháp Chàm khoảng 70km về hướng Tây Bắc. Vào cuối năm 1959, tại địa điểm này Pi Năng Tắc - Anh hùng Lực lượng vũ trang tìm cách ngăn địch vào sâu trong vùng Phước Bình để tàn phá. Tận dụng sự hiểm trở của đèo Gia Túc với dốc cao, một bên là vách đá dựng đứng, phía dưới là dòng sông Trương chảy xiết, vực sâu, chỉ có con đường dẫn vào Phước Bình, ông Pi Năng Tắc cho lập 17 chiếc bẫy đá liên hoàn trên đoạn đường dài khoảng 500 mét, phía dưới đoạn đường cho cắm chông, xoa bẫy, mang cung có tẩm độc. Tại nơi đây đã ghi lại trận địa phục kích địch bằng bẫy đá vào trưa ngày 10/8/1961 của du kích Raglai do Pi Năng Tắc - Anh hùng Lực lượng vũ trang đã chỉ huy dân quân du kích đồng loạt cho sập bẫy, đá trên vách núi đổ xuống đội hình địch, địch hoảng loạn bỏ chạy lại bị tên ná bắn ra, bị đạp chông, mắc bẫy do du kích gài sẵn, khiến cho hơn 100 tên địch thiệt mạng tại chỗ. Bẫy đá Pi Năng Tắc đã cho chúng ta thấy giá trị to lớn về lịch sử kháng chiến nói lên tinh thần dũng cảm, thông minh sáng tạo của đồng bào dân tộc Raglai. Chiến thắng ngày 10/8/1961 là một trong những trận đánh điển hình về nghệ thuật chiến tranh nhân dân chỉ với vũ khí thô sơ. Trải qua mấy chục năm, bãi chiến trường xưa đã có nhiều biến đổi nhưng bẫy đá vẫn còn đó và đã đi vào lịch sử truyền thống của địa phương, ở trong trái tim của mọi người dân Raglai, là niềm tự hào về một quá khứ anh hùng của dân tộc – Pi Năng Tắc. Để ghi nhớ chiến công của anh hùng Pi Năng Tắc, Bảo tàng tỉnh Ninh Thuận đã dựng bia kỷ niệm chiến tích tại đèo Gia Túc gắn với tên Anh hùng Lực lượng vũ trang Pi Năng Tắc và đã được Bộ Văn hóa Thông tin và Thể thao (nay Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng địa danh Bẫy đá Pi Năng Tắc là Di tích lịch sử cách mạng Quốc gia vào ngày 31/08/1992. Hiện nay, Bẫy đá Pi Năng Tắc đã trở thành địa chỉ tham quan, giáo dục truyền thống lịch sử cho thế hệ học sinh, sinh viên. Mặc dù thời gian đã lùi xa về quá khứ hơn 63 năm, dấu tích về những bẫy đá vẫn hiện hữu sinh động, minh chứng hùng hồn về nghệ thuật chiến tranh du kích, tinh thần thông minh, sáng tạo tuyệt vời và ý chí quyết chiến, quyết thắng của quân và dân Ninh Thuận. Nguồn: Bảo Tàng Tỉnh Ninh Thuận

Khánh Hòa 4923 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Núi Cà Đú

Núi Cà Đú là một địa danh có tiếng trên ngã ba quốc lộ 1A Bắc – Nam đi Ninh Chử, nằm bên núi Cà Đú có độ cao 318m. Cà Đú là gọi trại tiếng Chăm: Chơk Du’, nghĩa là núi có hình giống con vích; quả thật nếu đứng từ Gò Đền nhìn núi, ta thấy như con vích, con rùa đang bò ra phía biển. Càng lên cao núi Cà Đú càng thoáng mát bởi cấu trúc của các hang động. Từ đây du khách được ngắm nhìn bao quát khu du lịch biển Ninh Chử, cánh đồng muối Phương Cựu, Đầm Vua, đồng lúa vàng của huyện Ninh Hải và xa xa là hòn núi Đá Chồng. Chính vẻ đẹp này đã góp phần tôn thêm vẻ đẹp của núi Cà Đú. Với những tảng đá chồng chất lên nhau và nhiều hang lớn, lắm ngõ ngách nên núi Cà Đú khá hiểm trở. Chính địa thế này từ những năm đầu của phong trào Cần Vương, nghĩa quân đã chọn núi Cà Đú làm căn cứ chống pháp. Cũng từ đây, các đội trinh sát, các lực lượng vũ trang và cán bộ cách mạng suốt những năm tháng kháng chiến chống Mỹ đã bám trụ gầy dựng cơ sở , tổ chức diệt tề, trừ gian. Cùng các chiến khu cách mạng lúc bấy giờ như Bác Ái, Anh Dũng, CK 7, 19, 35, căn cứ núi Cà Đú có một vị trí rất quan trọng nằm giữa vùng bị tạm chiếm, gần dân nhất và cũng gần địch nhất, nhưng căn cứ Cà Đú lại bất khả xâm phạm. Mặc dù quân địch tìm mọi cách tiêu diệt nhưng các trận càn quét, bao vây, phản kích của địch đều bị quân kháng chiến bám trụ ở núi Cà Đú đánh lui. Bao năm bám trụ chịu đựng mọi gian khổ, lực lượng kháng chiến ở núi Cà Đú đã giữ vững niềm tin cách mạng. Núi Cà Đú là một nơi không thể sản xuất ra lương thực, ngay cả nguồn nước uống cũng cần phải tiếp tế, nắm được điều này địch đã dùng mọi thủ đoạn quyết triệt tiêu mọi nguồn tiếp tế của dân cho lực lượng cách mạng. Nhưng với lòng yêu nước nồng nàn, niềm tin sắc son vào Cách Mạng, nhân dân ở khu vực xóm Dừa, Dư Khánh… đã không ngại gian khó, hy sinh tìm đủ mọi cách để tiếp tế lương thực cho du kích. Địch chặn đường bộ, nhân dân lại vận chuyển bằng đường thuỷ qua Đầm Nại. Chính sự đùm bọc của nhân dân quanh vùng đã tiếp thêm sức mạnh cho cán bộ cách mạng và tạo nên các huyền thoại về các trận đánh “xuất quỷ nhập thần” của lực lượng kháng chiến. Chứng tích ấy ngày nay vẫn còn lưu lại trong kí ức của nhân dân tỉnh Ninh Thuận. Chính ý nghĩa lịch sử cách mạng trong hai cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc đúng vào ngày 16/4/1999 – ngày kỷ niệm giải phóng Ninh Thuận, Uỷ ban nhân dân tỉnh có quyết định công nhận núi Cà Đú là một di tích lịch sử của tỉnh. Nguồn: Trang Thông Tin Điện Tử Huyện Ninh Hải - Ninh Thuận

Khánh Hòa 3777 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Miếu Xóm Bánh

Miếu Xóm Bánh nằm trên khu phố 1, phường Đài Sơn, thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, từ trung tâm thành phố Phan Rang - Tháp Chàm dọc theo đường Nguyễn Văn Cừ khoảng 400m, rẽ theo một con hẻm về phía tay trái hơn 100m là tới di tích. Thời Minh Mạng, Ấp Thanh Sơn (hiện nay là phường Đài Sơn) là vùng đất thuộc thôn Văn Sơn, huyện An Phước, tỉnh Bình Thuận, cư dân nơi đây đã xây dựng một ngôi Miếu nhỏ để thờ phụng nhằm đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng của cộng đồng. Miếu có tên chữ là Thanh Sơn Miếu, nhưng tên thường gọi là Miếu Xóm Bánh. Nơi đây thờ nữ thần Thiên Y - A Na (bà Chúa Ngọc), một hiện tượng thờ phổ biến của cư dân người Việt trong quá trình di dân và sinh sống trên vùng đất mới. Ban đầu chỉ là một ngôi miếu nhỏ, đến năm Thành Thái thứ 14 được chuyển dời đến địa điểm hiện nay và xây dựng với quy mô lớn còn giữ nguyên vẹn cho đến ngày nay. Miếu Xóm Bánh nằm trong khu vực đông dân cư nhưng lại được xây dựng trên một khu đất khá rộng đến 4629m2, toàn bộ kiến trúc được bao quanh bởi tường thành xây bằng đá, vữa vôi, chừa hai cổng đi vào khu vực Miếu. Cổng phía trước miếu gọi là Nghi môn nằm hướng Nam, cổng phía sau nằm hướng Bắc. Nghi môn có cấu trúc giống như một ngôi nhà nhỏ có 6 trụ bằng vữa vôi, phân đều hai bên theo chiều dọc, nâng đỡ phần mái ở trên, trụ ở giữa được gắn hai cánh cửa gỗ, mái lợp ngói âm dương, ở hai đầu đường bờ nóc đắp nổi vân mây xoắn tạo dáng hình thuyền. Hai bên sân xây am thờ sơn thần, ngũ hành. Bên trong xây dựng khá bề thế, thể hiện những mảng chạm khắc gỗ với nhiều đề tài phong phú như: tứ linh, bát hữu, hoa lá, chim thú; các dải hoa dây, hoa lá tập trung ở các khám thờ, hương án, các bức hoành phi, câu đối, đầu dư, đầu bẩy,…với đường nét tỉ mỉ, tinh xảo, đòi hỏi người nghệ nhân phải dày công mới hoàn thành. Hàng năm, vào rằm tháng giêng, tháng 7 và tháng 10 tiến hành lễ cúng Thượng Nguyên, Trung Nguyên và Hạ Nguyên. Vào ngày 25 tháng chạp âm lịch cúng đưa Chư thần về trời. Ngày 30 tháng chạp âm lịch cúng rước Chư thần về Miếu đón năm mới. Ngoài ra Miếu Xóm Bánh còn tổ chức Lễ Kỳ Yên với đầy đủ nghi thức cổ truyền gần giống nghi thức tế Đình ở Ninh Thuận, được bắt đầu từ sáng hôm trước đến trưa ngày hôm sau, đây là lễ lớn nhất trong năm cầu thần phù hộ cho làng xã bình yên, cơm no áo ấm, lễ diễn ra vào Tiết Thanh Minh. Miếu Xóm Bánh được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích quốc gia năm 2002. Nguồn: Trang Thông Tin Điện Tử Thành Phố Phan Rang - Tháp Chàm

Khánh Hòa 3151 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Văn Sơn

Đình Văn Sơn thuộc khu phố 4, phường Văn Hải, thành phố Phan Rang - Tháp Chàm. Đình được xây dựng trên một khu đất rộng, cửa hướng về phía Nam, phía trước có hồ sen hình bán nguyệt, xa dần ở phía sau là ngọn núi Cà Đú. Vào năm 1829, sau khi việc trùng tu Đình hoàn thành các Hương chức bây giờ dựng bia kỷ niệm, tấm bia được đặt trước sân nhà Tiền hiền, ở giữa là chữ “ Văn Sơn Thôn Đình” , bên trái là “ Minh mạng thập niên tuế thứ Ất Hợi cốt ngoạt kiết đán” (ngày 1 tháng tốt năm Ất hợi đời vua Minh Mạng thứ mười 1892). Đây là niên đại duy nhất đề cập tới quá trình hình thành của Đình được khắc trên văn bia và lưu giữ đến ngày nay, vì vậy đời sau đã lấy đó làm mốc cho việc thành lập Đình nhưng thật chất ngôi Đình đã có trước đó. Đình Văn Sơn gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển của thôn Văn Sơn, nó chính là kết quả của một công trình kiến trúc nghệ thuật có giá trị. Từ cổng Tam quan vào, qua một sân gạch đất tòa Chánh điện, nhà Tiền hiền nằm ở phía Tây tòa Chánh điện, nhà Nhóm nằm ở phía Đông tòa Chánh điện, liên kết giữa Tiền hiền- Chánh điện- Nhà nhóm bằng hai cửa phụ ở hai đầu hồi tòa Chánh điện, toàn bộ kiến trúc liên hoàn với nhau tạo thành một công trình khép kín. Chính điều này, khi bước chân vào Đình, du khách cảm nhận được không khí trang nghiêm đầm ấm, gần gũi. Đình Văn Sơn là một ngôi đình có nhiều nhà vuông ghép lại, toàn bộ kiến trúc được đặt trên nền móng cao gia cố kỹ, tránh được mưa gió, xây dựng tuân thủ theo nguyên tắc đối xứng, với kỷ thuật xây dựng này tạo cho ngôi Đình nét khỏe khoắn và vững chãi. Đình có nhiều mảng chạm khắc đẹp, đề tài trang trí phong phú gồm: “Tứ linh” (Lân - Ly - Quy - Phụng), Rồng, Bát Tiên, Bát Bửu, từ một dải hoa dây, từ cây trúc, cây mai, từ một dải vân mây qua sự khéo léo của các nghệ nhân cũng được cách điệu thành Rồng. Các tác phẩm chạm khắc của các nghệ nhân không bị gò bó theo một khuôn khổ mà thường có sự ngẫu hứng và luôn dẫn dắt người xem đến những điều mới lạ. Ngày 24 tháng chạp âm lịch hàng năm, Đình tổ chức Lễ đầu năm và cuối năm, đưa chư Thần Thành Hoàng về báo công và tội của làng, ngày 26 tháng giêng âm lịch có lễ tạ Thần để tạ ơn thần phù hộ cho dân làng và cầu mong những điều lành cho năm tới. Lễ Tam Nguyên diễn ra trong 3 ngày rằm lớn trong năm, rằm tháng giêng, tháng 7, tháng 10, lễ này để tạ ơn thần Thiên Quan Đại Đế đã làm cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi. Lễ Kỳ Yên đây là lễ chính ở Đình, hằng năm tổ chức 2 lần vào mùa Xuân (tháng 2 hoặc tháng 3 Âm lịch) và mùa Thu (tháng 7 hoặc tháng 8 Âm lịch), với mục đích cầu thần cho mùa màng sắp tới và báo đáp thần sau mùa thu hoạch. Ngày hội đình được tổ chức hằng năm vào tiết Thanh minh, đặc biệt là tại đây đã tổ chức Lễ giỗ tổ Hùng Vương mùng 10 tháng 3 (âm lịch), từ năm 2004 đến nay. Đình Văn Sơn được Bộ Văn hóa- Thông tin công nhận là di tích quốc gia năm 1999. Nguồn: Trang Thông Tin Điện Tử Thành Phố Phan Rang - Tháp Chàm

Khánh Hòa 3059 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Văn miếu Diên Khánh

Văn miếu Diên Khánh tọa lạc tại khóm Phú Lộc Tây, thị trấn Diên Khánh, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa. Văn miếu là nơi thờ Đức Khổng Tử, người sáng lập Nho Giáo và những bậc hiền triết là học trò của Ngài; đồng thời cũng là nơi sinh hoạt của giới nho sĩ, khoa mục ở địa phương, tôn vinh những người đỗ đạt thành danh trong các kỳ khoa bảng. Năm 1803, vua Gia Long ra chỉ dụ lập Văn Miếu tại xã Phú Lộc, huyện Hoà Châu - thị trấn Bình Hoà, nay thuộc khóm Phú Lộc Tây - thị trấn Diên Khánh - tỉnh Khánh Hoà. Văn Miếu được xây dựng với quy mô lớn từ năm 1853 và đến năm sau thì cơ bản hoàn thành: phía trước có nhà bi đình, chính giữa có tòa tiền đường và chánh đường cao rộng, làm bằng gỗ xây tường gạch bao, các cột kèo được chạm trổ sơn son thếp vàng đẹp đẽ, uy nghiêm. Văn miếu Diên Khánh được xây trên một khu đất rộng, bằng phẳng, với tổng diện tích 1.500m2. Khi khởi dựng, Văn miếu có các công trình kiến trúc: miếu Chính và miếu Khải Thánh, được lợp bằng cỏ tranh. Năm 1849, Văn miếu được tu bổ hệ mái, thay mái tranh bằng mái ngói và dựng thêm Tả vu, Hữu vu, Khải miếu, Quan cư, Từ miếu… với quy mô rất bề thế, vững chắc. Năm 1959, Văn miếu được xây dựng lại trên nền cũ ở thôn Phú Lộc, nhưng quy mô nhỏ hơn, bao gồm: Nghi môn ngoại và tường thành; Nghi môn nội ; nhà bia (Thạch Bi đình); sân miếu; cột cờ; nhà Đông, nhà Tây (Tả Vu – Hữu Vu); Bái đường; Chánh tẩm. Về cơ bản kết cấu gian Chánh tẩm và Bái đường đưa từ Văn chỉ Phước Điền chuyển về, xây dựng thêm Tả vu, Hữu vu theo kiểu nhà cấp bốn ba gian. Tường vách xây bằng gạch thẻ, không có chái. Mái lợp ngói âm dương, sau này trùng tu thay bằng ngói Tây; hệ cửa gỗ đóng theo kiểu ván bưng, thay kiểu thượng song hạ bản cổ xưa; không phục dựng lại Khải miếu, Quan cư và Từ miếu. Hiện tại, Văn Miếu chỉ còn giữ được 2 tấm bia đá thời Tự Đức 11 (1858) giúp ta hiểu biết hơn về lịch sử, văn hoá, sinh hoạt của nhân dân Khánh Hoà và quá trình hoàn thiện khu Văn Miếu năm 1854. Ngoài ra còn có một Bài minh ở Bái Đường nói rõ hơn về sự đỗ đạt của các vị văn võ, khoa bảng, hào mục, chức sắc và các học sinh địa phương từ đầu triều Nguyễn đến thời Tự Đức. Với bề dày lịch sử, khu Văn Miếu mang giá trị to lớn về quá trình học tập, tiếp nhận tri thức và biểu hiện sự tôn sư trọng đạo, làm phong phú thêm kho tàng di sản văn hoá dân tộc. Di tích Văn miếu Diên Khánh được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích Quốc gia ngày 15/10/1998. Nguồn: Sở văn hoá thể thao tỉnh Khánh Hoà

Khánh Hòa 4794 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Thành cổ Diên Khánh

Thành cổ Diên Khánh nằm trên đường Lý Tự Trọng, khóm Đông Môn, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa. Đây là nơi đã diễn ra nhiều sự kiện lịch sử quan trọng của dân tộc ta thời Nhà Nguyễn. Thành cổ Diên Khánh nằm trên diện tích khoảng 36.000m2; gồm 6 đoạn tường thành chạy uốn khúc theo hình lục giác, dài khoảng 2.694m, xây cao khoảng 3,5m. Thành Diên Khánh được xây dựng vào năm 1793 dưới thời chúa Nguyễn Phúc Ánh. Sau khi nhà Tây Sơn suy yếu, Nguyễn Ánh cùng Võ Tánh và Nguyễn Văn Trương đã xây dựng Diên Khánh thành một căn cứ vững chắc. Hoàng tử Cảnh đã trực tiếp trông coi công cuộc xây dựng thành với hơn 3000 nhân lực từ Bình Thuận và Thuận Thành, chỉ sau hơn một tháng thì thành được xây xong. Khi xây xong, thành Diên Khánh do hoàng tử Cảnh và Bá Đa Lộc chỉ huy trấn giữ. Trước đây trong thành có hoàng cung, bên trái là dinh Tuần Vũ, phía sau là dinh Án Sát, sâu trong phía sau nữa là dinh Lãnh Binh, phía dưới là dinh Tham Tri, ngoài ra còn có nhà kho, nhà lao kiên cố. Thành cổ Diên Khánh được đắp trên một khu đất trống, có hình dáng nhô cao giống như lưng con rùa - linh vật tượng trưng cho sự trường tồn và vững chắc. Thành có hệ thống hào sâu bên ngoài và hai bậc thang bên trong dùng làm đường lên xuống. Các góc thành được đắp nhô ra ngoài để dễ dàng quan sát, mỗi góc có một khoảng đất rộng dùng làm chỗ trú quân với một ụ đất cao khoảng 2m để đặt súng đại bác, gọi là pháo đài góc - đặc điểm nổi bật của kiến trúc quân sự theo kiểu Vauban. Trên thành được trồng nhiều tre và cây gai để tăng độ vững chắc và tạo thành một hàng rào phòng ngự theo truyền thống của người Việt. Hệ thống hào bên ngoài thành có độ sâu từ 3m đến 5m, rộng hẹp không đều tùy theo địa hình. Dưới lòng hào thường xuyên có nước và nhiều chướng ngại vật. Phía ngoài hào có đường hào ngoại. Để vào trong thành phải đi qua cầu bắc qua hào nước. Ban đầu, thành Diên Khánh có 6 cửa (cổng), nhưng 2 cửa Tả và cửa Hữu đã bị lấp năm 1823, đến nay chỉ còn 4 cửa Ðông - Tây - Tiền (Nam) - Hậu (Bắc). Các cổng của thành được xây bằng gạch nung và trát vôi vữa tạo thành hình khối dài khoảng 15m. Các cổng có vòm cuốn ở giữa, rộng 2,88m và cao 2,44m, có lối đi phía dưới. Mặt ngoài cổng xây thẳng đứng, mặt trong xây tường gạch cao 1,7m dài 5m. Đường đi trên bờ thành rộng 5,35m. Hai bên cổng xây bậc cấp rộng 3m để đi lên phía trên cổng thành. Phía trên cổng thành có lầu tứ giác và bốn cửa ở bốn hướng, trên cùng là cổ lầu có mái uốn cong lợp ngói âm dương. Cổ lầu cao 4,1m so với nền. Hai bên lầu tứ giác có lan can cao 0,85cm. Nối liền với bốn cổng là hệ thống tường thành đắp bằng đất thoai thoải phía bên trong, thẳng đứng phía bên ngoài. Ngày nay các đoạn tường bằng đất không còn nối liền mạch như xưa. Tổng chiều dài tường thành bằng đất hiện nay dài khoảng 1.656m, cao 3m và bề mặt rộng 5m. Qua hơn 200 năm lịch sử, Thành Cổ Diên Khánh đã trải qua nhiều biến động thăng trầm. Để bảo tồn giá trị lịch sử, văn hóa của di tích này, ngày 16/11/1988, Bộ Văn Hóa quyết định xếp hạng nơi đây là di tích lịch sử - văn hóa Quốc Gia. Trải qua sự tàn phá theo thời gian, Thành cổ Diên Khánh ngày nay đã mất nhiều đoạn tường và hào. Năm 2003, Thành Diên Khánh đã được trùng tu, sơn sửa bốn cổng và gia cố những nơi bị nứt tường do mưa. Năm 2010 thành được tỉnh triển khai tu bổ và bảo vệ các khu vực xung quanh. Cuối năm 2014 thì nơi đây được xây dựng thành phố đi bộ và phục hồi các công trình có giá trị lịch sử để phục vụ du lịch. Nguồn: Sở văn hoá thể thao tỉnh Khánh Hoà

Khánh Hòa 4043 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền thờ Trần Quý Cáp

Đền Trần Quý Cáp tọa lạc tại tổ 5, thị trấn Diên Khánh, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa. Trần Quý Cáp tự là Thích Phu, hiệu Thái Xuyên, sinh năm 1870 tại thôn Thai La, làng Bất Nhị, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Trần Quý Cáp khi nhỏ là người thông minh, học giỏi, ham hiểu biết và là người có chí khí lớn. Trần Quý Cáp sinh ra và lớn lên trong bối cảnh xã hội Việt Nam đầy biến động. Ngay từ khi 13 tuổi ông đã chứng kiến đám tang của Tổng đốc Hoàng Diệu, khi thành Thăng Long thất thủ (1882); ba năm sau ông lại chứng kiến một biến động chính trị to lớn, đó là phong trào Cần Vương yêu nước do các văn thân ở quê ông lãnh đạo nhân dân đứng lên theo hịch Cần Vương của vua Hàm Nghi, kêu gọi mọi người đứng lên đánh Pháp. Năm 1904 ông đi thi và đậu tiến sĩ cùng với Huỳnh Thúc Kháng, (hiện nay còn bia đề danh tiến sĩ tại triều đình Huế). Lúc này ở nước ta nền Hán học thoái trào, nền Tân học bắt đầu khởi xướng. Trần Quý Cáp thường xuyên qua lại với cụ Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu nghiên cứu những sách báo mới, nắm bắt những tư tưởng tiến bộ và ông tự xác định trách nhiệm của mình là đề cao tân học, thông qua cải cách giáo dục để nâng cao dân trí, ý thức dân quyền, tự lực tự cường dân tộc. Tại Quảng Nam, Phan Bội Châu đã cùng với các đồng chí của mình trong đó có Trần Quý Cáp sáng lập ra tổ chức “Duy Tân hội” – một tổ chức tiền cách mạng, nó đánh dấu sự phân hóa của tầng lớp trí thức tại Việt Nam. Duy Tân hội đã chọn lọc nhiều thanh niên ưu tú để đưa đi học ở Trung Quốc, Nhật Bản…học tập ở tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, quân sự… làm nòng cốt cho phong trào cách mạng nước nhà sau này. Năm 1906 ông được xung là Giáo thọ huyện Tân Định, phủ Ninh Hòa (nay là huyện Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa). Ông là đại diện những nhà ái quốc cách mạng trong phong trào Duy Tân, cổ súy cho phong trào kháng chiến chống Pháp ở miền Trung. Ông cùng một số người thành lập hội nông học, hội thương, trường học… Là người có tài thao lược, giỏi trong việc vận động nhân dân, được mọi người đánh giá cao về tài năng, đức độ. Vì vậy thực dân Pháp và bọn quan lại phong kiến biết được vai trò quan trọng của ông trong giới sĩ phu và quần chúng lao động. Ông đã mở các lớp Tân học, rước thầy dạy chữ Quốc ngữ, chữ Pháp ngay trong trường Phủ. Bọn quan lại ở đây rất căm tức và tìm mọi cách hãm hại ông, chúng bắt ông giữa lúc ông đang dạy học, về giam tại nhà lao Thành Diên Khánh – lúc đó là thủ phủ của Khánh Hòa. Ngày 15/6/1908, sau khi bị bắt hai tháng ông bị tuyên “trảm nêu” tại Cầu Sông Cạn (nay là cầu Trần Quý Cáp). Nhân dân Khánh Hòa thương tiếc ông, cảm phục tấm lòng trung nghĩa của ông đã hưởng ứng đấu tranh xây đền thờ Trần Quý Cáp vào năm 1970. Trần Quý Cáp mặc dù không phải là người sinh ra và lớn lên trên đất Khánh Hòa nhưng cuộc đời ông và sự nghiệp của ông gắn với mảnh đất này. Cuộc đời và sự nghiệp của một danh nhân như ông không thuộc về riêng một ai, mà ông thuộc về Tổ quốc, về nhân dân Việt Nam anh hùng! Đền được xây dựng trong khuôn viên Trung tâm Văn hóa - Thể thao và Sân vận động Trần Quý Cáp của huyện Diên Khánh, nhằm nâng cao giá trị di tích, tôn vinh truyền thống văn hóa, gắn kết các hoạt động văn hóa truyền thống với hoạt động văn hóa, thể thao. Đền Trần Quý Cáp đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng là di tích Quốc gia, ngày 30/8/1991. Nguồn: Sở văn hoá thể thao tỉnh Khánh Hoà

Khánh Hòa 3965 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Bia chủ quyền quần đảo Trường Sa tại đảo Song Tử Tây và đảo Nam Yết

Hai bia chủ quyền trên đảo Song Tử Tây và đảo Nam Yết là một trong những dấu tích cổ xưa trên quần đảo Trường Sa được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia. Cùng với quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa có ý nghĩa là cột mốc tiền tiêu trên biển Đông của Tổ quốc. Trường Sa nằm phía Đông Nam quần đảo Hoàng Sa, với hơn 100 hòn đảo nổi và chìm, đá, cồn cát, san hô và bãi san hô, dàn trải trên một vùng biển từ đông sang tây khoảng 800km. Quần đảo chiếm một diện tích biển khoảng 160.000km2 đến 180.000km2. Đảo gần nhất là đảo Đá Lát, nằm phía tây đảo Trường Sa, cách vịnh Cam Ranh gần 250 hải lý (450km về phía đông), cách đảo Hải Nam (Trung Quốc) trên 600 hải lý. Các đảo có độ cao trung bình so với mặt nước biển từ 3 mét đến 5 mét. Đảo có diện tích lớn nhất là đảo Ba Bình rộng khoảng 0,6km, sau đó đến các đảo Song Tử Tây, Trường Sa, Nam Yết, Sinh Tồn … Trước đây, Trường Sa có tên gọi là Đại Trường Sa, hay Vạn Lý Trường Sa được ghi trong sách Phủ biên tạp lục – quyển sách nổi tiếng của nhà bác học Lê Quý Đôn viết năm 1776 . Bia chủ quyền đảo Song Tử Tây thuộc xã Song Tử Tây, huyện Trường Sa, tỉnh Khánh Hoà. Bia chủ quyền đảo Nam Yết thuộc xã Sinh Tồn, huyện Trường Sa, tỉnh Khánh Hoà. Các chữ trên thân các bia được khắc lõm chìm vào trong, có nội dung được ghi: “Quần đảo Trường Sa trực thuộc tỉnh Phước Tuy. Phái bộ quân sự thị sát nghiên cứu đến viếng quần đảo này ngày 22 tháng 8 năm 1956 dưới sự hướng dẫn của Hải quân Việt Nam”. Các chữ trên thân bia được khắc lõm chìm vào trong, với nội dung: “Quần đảo Trường Sa trực thuộc tỉnh Phước Tuy. Trải qua thời gian cùng những biến động của lịch sử, đến nay chỉ có đảo Song Tử Tây và đảo Nam Yết còn tồn tại bia chủ quyền và đó cũng là 2 bia cũ nhất còn được bảo tồn ở quần đảo Trường Sa hiện nay. Hiện nay, bia chủ quyền tại đảo Song Tử Tây còn khá nguyên vẹn, gồm phần tháp và thân bia; bia chủ quyền tại đảo Nam Yết chỉ còn phần thân. Hai bia chủ quyền này đã được UBND tỉnh Khánh Hòa xếp hạng di tích cấp tỉnh ngày 3/11/2011. Năm 2012, Sở VHTTDL tỉnh Khánh Hòa đã có văn bản đề nghị Bộ VHTTDL công nhận cụm bia chủ quyền nói trên là Di tích lịch sử cấp quốc gia. Ghi nhận những giá trị lịch sử tiêu biểu của di tích và góp phần khẳng định chủ quyền ở quần đảo Trường Sa, ngày 13/6/2014 Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã xếp hạng di tích Bia chủ quyền quần đảo Trường Sa tại đảo Song Tử Tây và đảo Nam Yết là di tích lịch sử Quốc gia. Việc công nhận 2 bia chủ quyền trên đảo Trường Sa là Di tích lịch sử cấp quốc gia không chỉ là lời khẳng định chủ quyền biển đảo của Việt Nam, mà 2 bia này cũng là bằng chứng có giá trị trong việc chứng minh chủ quyền của đất nước ta với thế giới. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Khánh Hòa

Khánh Hòa 4127 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Phủ Đường Ninh Hoà

Theo Đại Nam Nhất Thống Chí, từ thời vua Gia Long đến Minh Mệnh năm thứ 1 (1820), Phủ đường Ninh Hòa là trụ sở hành chính cấp huyện; đến thời Minh Mệnh năm thứ 12 (1831) lỵ sở này được xây dựng lại với quy mô khang trang, tương xứng là trụ sở hành chính cấp huyện (sau đó là Phủ). Hiện nay, Phủ đường Ninh Hòa nằm trong khuôn viên Ủy ban nhân dân huyện Ninh Hòa thuộc phường Ninh Hiệp, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa. Phủ đường Ninh Hòa là công trình kiến trúc có dạng hình chữ nhật với bốn cạnh là tường hồi bít đốc, mặt tiền quay về hướng Đông Nam. Về tổng thể, di tích được kết cấu theo mô típ nhà truyền thống của vùng đồng bằng Khánh Hòa theo kiểu 3 gian 2 chái. Riêng phần tường phía trước hiên và phần mái trang trí theo mô típ cấu trúc thành cổ ở cố đô Huế - kiến trúc truyền thống của thời Nguyễn. Chính điều này tạo cho di tích vừa có nét cổ kính, vừa có sự trang nghiêm mang tính chất một công đường; kết cấu kiến trúc hài hòa, giá trị nghệ thuật cao. Năm 1930, đồng thời với việc thành lập Đảng bộ tỉnh Khánh Hòa thì Đảng bộ huyện Tân Định cũng được thành lập. Thực hiện quyết định của Xứ ủy Nam Kỳ, trên cơ sở đánh giá cao phong trào cách mạng của huyện Tân Định, Tỉnh ủy lâm thời Khánh Hòa chỉ thị cho Đảng bộ Tân Định huy động quần chúng biểu tình đấu tranh hưởng ứng phong trào ở Nghệ An. Khoảng 5 giờ sáng ngày 16/7, đoàn biểu tình tiến vào Quốc lộ 1 đoạn ngã ba quốc lộ 1 lên Bệnh viện thị xã hiện nay. Nhiều người hưởng ứng rất nhiệt tình, họ kéo nhau đi cùng đoàn biểu tình và cùng hô vang khẩu hiệu, đoàn biểu tình mỗi lúc một đông, lên đến cả ngàn người, khí thế mỗi lúc một mạnh. Đoàn biểu tình tiến vào Huyện đường, Tri huyện Đinh Bá Cẩn và bọn nha lại khiếp sợ không dám có hành động gì chống đối. Giành được thắng lợi, đoàn biểu tình tỏa ra đường diễu hành qua phố rồi tập trung trước chợ Dinh làm lễ mít tinh. Nhân dân trong khu phố và đồng bào đang mua bán trong chợ đến nghe rất đông. Đồng chí Dương Chước đứng lên vạch rõ âm mưu, tội ác của bọn thực dân, phong kiến, đồng thời nói vắn tắt chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, kêu gọi đồng bào đoàn kết đứng lên đấu tranh chống ách áp bức bóc lột. Thắng lợi của cuộc biểu tình ngày 16/7/1930 là dấu son chói lọi mở đầu thời kỳ đấu tranh cách mạng rạng rỡ của Đảng bộ và nhân dân huyện Ninh Hòa. Để đánh dấu sự kiện trọng đại này, Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân tỉnh Khánh Hòa ra Nghị quyết, lấy ngày 16/7 hàng năm làm “Ngày truyền thống đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và nhân dân tỉnh Khánh Hòa”. Năm 1931, huyện Tân Định và 3 tổng của huyện Quảng Phước được sát nhập thành Phủ Ninh Hòa, huyện đường Tân Định trở thành Phủ đường Ninh Hòa. Tháng 8/1945, cuộc khởi nghĩa ở Vạn Ninh bùng nổ và giành thắng lợi mở màn cho khí thế cách mạng ở Khánh Hòa. Phong trào cách mạng giành chính quyền ở Phủ Ninh Hòa lên cao, nhân dân Ninh Hòa nổi dậy khởi nghĩa giành chính quyền ở hầu hết các vùng nông thôn. Sau khi giành thắng lợi trong cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945, Ủy ban Cách mạng lâm thời Phủ Ninh Hòa đóng tại Phủ đường Ninh Hòa. Ngày 02/9/1945, các cán bộ cách mạng và nhân dân địa phương đã tập trung về Phủ đường để nghe qua Radio bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tại quảng trường Ba Đình (Hà Nội). Phủ đường Ninh Hòa cũng là nơi Ủy ban Cách mạng lâm thời Phủ Ninh Hòa đã tổ chức phát động các phong trào yêu nước như: Tuần lễ vàng, Quỹ độc lập, Hũ gạo kháng chiến, Hũ gạo nuôi quân… trong những ngày đầu giành độc lập. Ngoài ra, Phủ đường Ninh Hòa cũng là nơi diễn ra các sự kiện khác như: Nơi thành lập và đóng quân của Bộ chỉ huy Tiền phương Mặt trận Nha Trang và Tây Nguyên; nơi nhân dân tập trung để nghe đồng chí Lê Văn Hiến đọc thư Bác gửi cho đồng bào, chiến sĩ Khánh Hòa; nơi tiến hành Tổng tuyển cử bầu Quốc hội nước Việt Nam; nơi đồng chí Võ Nguyên Giáp đến làm việc và sinh hoạt trong thời gian kiểm tra tình hình chiến đấu của quân và dân Khánh Hòa… Với những giá trị lịch sử-văn hóa của Phủ đường Ninh Hòa, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã xếp hạng Phủ đường Ninh Hòa là di tích lịch sử-văn hóa Quốc gia ngày 21/8/2000 . Nguồn: Trung tâm bảo tồn di tích tỉnh Khánh Hoà

Khánh Hòa 3693 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Điểm di tích nổi bật