Thám hoa Giang Văn Minh – Sứ giả kiên cường trên mặt trận đối ngoại Làng cổ Đường lâm được mệnh danh là vùng đất “Địa linh nhân kiệt ”, nơi sản sinh ra những vị anh hùng dân tộc, danh nhân, khoa bảng, hiền tài. Họ là những người đã có đóng góp xuất sắc cho sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc. Thám hoa Giang Văn Minh - vị sứ thần tài ba là một trong những người con ưu tú ấy của quê hương Đường Lâm. Giang Văn Minh sinh năm 1573 tại Ấp Mông Phụ. Ông thi đỗ Thám hoa khoá Mậu Thìn, đời Vua Lê Thần Tông năm 1628. Khoa thi này không có người đỗ danh hiệu Trạng nguyên hay Bảng nhãn chỉ có danh hiệu Thám hoa. Ông là người học rộng, tài cao, là nhà ngoại giao uyên bác, khảng khái, dũng cảm. Sau một thời gian được Triều đình cử đi trấn thủ ở vùng đất Nghệ An đến năm 1637. Vua Lê cử Thám hoa Giang Văn Minh dẫn đầu đoàn đi sứ Trung Hoa. Trải qua một quãng đường hành trình vất vả, đoàn đi sứ đã đến được Bắc Kinh. Ông và những người tháp tùng phải ở lại dịch xá một thời gian dài. Nhờ vào tài thao lược thông minh nên ông mới được vào yết kiến vua Minh. Khi vào yết kiến, Vua Minh có ý thử tài sứ thần nước Việt nên ra một vế đối: “Đồng trụ chí kim đài dĩ lục” (Dịch nghĩa: Cột đồng đến nay đã phủ kín rêu phong). Vế đối của Vua Minh có ý ngạo mạn, nhắc đến việc Mã Viện xưa sang xâm lược nước ta, sau khi đàn áp cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng đã cho dựng cột đồng khắc 6 chữ “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” (nghĩa là: cột đồng mà gãy thì dân Giao Chỉ diệt vong) như một lời nguyền nhân dân ta. Nghe xong, Thám hoa Giang Văn Minh rất căm giận nhưng ông vẫn bình tĩnh đối lại: “Đằng giang tự cổ huyết do hồng” (Dịch nghĩa: Sông Bạch Đằng từ ngàn xưa máu vẫn còn đỏ). Vế đối đanh thép, tỏ rõ khí phách anh hùng và lòng tự hào dân tộc, nhắc cho Vua Minh nhớ lại ba lần sông Bạch Đằng nhuốm máu quân xâm lược phương Bắc: Chiến thắng quân Nam Hán của Ngô Quyền (năm 938), chiến thắng quân Tống của Lê Đại Hành (năm 981) và chiến thắng quân Nguyên Mông của Trần Hưng Đạo (năm 1288). Tưởng làm nhục được sứ thần nước Việt, ngờ đâu bị Giang Văn Minh làm nhục. Bất chấp luật lệ bang giao, vua Minh đã hèn hạ sai quân lính mổ bụng ông xem “Sứ thần An Nam to gan lớn mật thế nào”. Sau khi giết hại ông, vua Minh lại khen ông là người tiết tháo, bèn sai lấy thủy ngân ướp xác, cho ngậm nhân sâm và cho vào quan tài đóng kín giao cho phái bộ nước Nam chuyển thi hài ông về nước. Được tin Thám hoa Giang Văn Minh chết một cách anh dũng, Vua Lê và Chúa Trịnh vô cùng thương tiếc. Đích thân vua đã về quê ông ở làng Mông Phụ (Đường Lâm) dự lễ an táng và tặng ông mấy chữ: Sứ bất nhục quân mệnh, khả vi thiên cổ anh hùng có nghĩa là “Đi sứ mà chẳng làm nhục mệnh vua, xứng đáng là bậc anh hùng thiên cổ” và truy phong cho ông chức “Công bộ Tả thị lang, tước Vinh quận công”. Hiện nay, ngôi mộ của Thám hoa Giang Văn Minh vẫn được họ tộc chăm chút cẩn thận tại xứ đồng Gò Đống - thôn Mông Phụ, được xây bệ gạch tay ngai, xung quanh có tường hoa bảo vệ. Còn ngôi quán, nơi làm lễ an táng ông, được nhân dân địa phương gọi là quán Giang để ghi nhớ sự tích của vị sứ thần khảng khái đã làm vẻ vang cho đất nước. Năm 1845, nhân dân trong vùng lập nhà thờ Thám hoa Giang Văn Minh để tưởng nhớ công lao của ông. Khu nhà thờ có diện tích khoảng 400 m2, được kiến trúc theo kiểu chữ nhị gồm tiền đường và hậu đường. Các tòa nhà đều xây gạch, lợp ngói cổ; phần mái bằng gỗ bào trơn, đóng bén, không trạm khắc cầu kỳ. Cổng nhà thờ kiểu mặt bia, xây bằng gạch, trên đắp nổi dòng chữ Hán “Giang Thám hoa công từ” (Nhà thờ Công bộ Tả thị lang Thám hoa Giang Văn Minh). Hậu Đường là nơi thờ chính, 3 gian đều có bệ thờ với các đồ thờ được sơn son thếp vàng đẹp đẽ. Trong nhà thờ còn lưu giữ một số di vật quý như: 4 bức hoành phi, 20 đôi câu đối chữ Hán (10 đôi viết trên gỗ sơn son thếp vàng, 10 đôi viết trên cột tường), 3 tấm bia đá. Nhà thờ Thám hoa Giang Văn Minh được xếp hạng Di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia năm 1991, là nơi linh thiêng ghi công trạng của Thám hoa và cũng là nơi giáo dục truyền thống yêu nước cho thế hệ trẻ. Tại nhà thờ này, ngoài là nơi tôn vinh tri ân công đức của Thám hoa cũng là nơi tôn thờ, vinh danh nhiều vị họ Giang quá cố qua các thời kỳ đã đỗ khoa bảng được bổ nhiệm làm quan lại và giữ các vị trí quan trọng có nhiều công lao lớn cho các triều đại phong kiến. Lần gần đây nhất Nhà thờ đã được tu sửa tổng thể bằng nguồn vốn của Nhà nước, công trình được thi công hoàn thành dưới sự giúp đỡ về kỹ thuật của các chuyên gia và tình nguyện viên thuộc cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản tại Việt Nam (JICA), công trình tu bổ này cũng vinh dự được nhận giải thưởng về kỹ thuật thi công chất liệu gỗ của Ủy ban UNESCO Châu Á – Thái Bình Dương trao tặng vào năm 2013. Ngày lễ tưởng niệm ngày mất của Sứ thần, ngoài những phần nghi thức trang nghiêm, thành kính về sự hy sinh cao cả của ông, thì dòng họ còn tổ chức buổi lễ khuyến học nhằm tôn vinh và động viên các con cháu họ Giang đỗ đạt và giành các giải cao thuộc các cấp học. Nằm ở vị trí trung tâm làng cổ Mông Phụ gần với đình làng và UBND xã, hiện nay nhà thờ họ Giang đang là điểm tham quan thu hút đông đảo du khách trong và ngoài nước.
Hà Nội 117 lượt xem
GIẾNG CỔ ĐÁ ONG Ở ĐƯỜNG LÂM Trong hệ thống tổ chức làng xã tại Việt Nam, nhất là ở khu vực đồng bằng Bắc Bộ, giếng cổ đã trở thành một công trình thiết yếu, gắn bó hữu cơ mật thiết với cộng đồng dân cư có đời sống chính là sản xuất nông nghiệp. Cùng với hình bóng của cây đa cổ thụ, khoảng sân đình hút gió thoáng đãng, giếng làng và hình ảnh giá trị của nó đã ăn sâu vào ký ức của mọi người, mọi nhà. Giếng là một người bạn không thể thiếu tại mỗi công trình tâm linh của đình làng. “Bộ ba di sản văn hóa” này luôn được nhân dân đặt ở những vị trí thuận lợi giúp cho việc quy tụ, tập hợp mọi người trong làng một cách dễ dàng. Vùng đồng bằng Bắc Bộ có nhiều ngôi làng gắn liền với đó là những giếng cổ. Nhắc đến những địa danh ấy, người ta không thể không nhắc đến Làng cổ ở Đường Lâm (Sơn Tây, Hà Nội). Ở đó, ngoài những công trình giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể nổi tiếng quý báu trong đó có những giếng cổ đá ong nổi tiếng một thời, luôn tạo ra những ký ức không thể nhạt phai của các thế hệ dân làng, những kỷ niệm vui buồn, niềm kiêu hãnh, tự hào về quê hương, xứ sở địa linh nhân kiệt cổ kính. Giếng đá ong ở Làng cổ Đường Lâm được phân bố ở khắp mọi nơi: nơi tín ngưỡng tâm linh (đình, đền, chùa, miếu, nhà thờ), nơi ở của các hộ gia đình. Tùy từng vị trí mà người ta thăm dò và cho đào giếng. Các mạch nước được phun qua những vỉa đá ong tạo độ trong, sạch, mát, lược bỏ được các tạp chất gây hại. Những viên đá ong được đào lên từ lòng đất, đào đến đâu thì đá cứng đến đó (không vỡ hay bị méo hình tròn của giếng khi những thớ đất đã đào xong). Chính vì thế, đào giếng ở Đường Lâm không phải kè thành, xây tang giếng tròn sẵn rồi thả xuống gắn kết vít mạch (như các vùng chiêm trũng hay trung du Bắc Bộ). Giếng của đình hay chỗ tâm linh thường rộng từ 3 – 5m, sâu 7 – 10m; miệng giếng được đặt những viên đá ong to nguyên khối hoặc từng tảng ghép lại vừa bền, chắc, sạch. Giếng tại gia đình thì có đường kính nhỏ hơn, chỉ từ 1,2 – 1,5m, độ sâu cũng tùy thuộc 5 – 7 – 9m. Giếng ở nơi công cộng như: đầu làng, xóm thì không có gầu múc, ai muốn sử dụng phải mang theo gầu. Giếng tại gia đình lúc chưa có tời kéo thì người ta phải dùng sức người kéo gầu (cũng mất nhiều sức). Sau này, khi có các ròng rọc dây cáp mềm thì nước được múc với năng suất cao hơn, mà người dân lại đỡ tốn sức. Giếng xuất hiện ở nơi công cộng hay di tích thường được đặt tên gắn với địa điểm này như: giếng Đình, giếng Đồng, giếng Chùa. Giếng khơi, có một số tên giếng gắn với các xóm như: ở thôn Mông Phụ có giếng xóm Đình, xóm Sui, xóm Sải, xóm Giang. Riêng giếng ở hai bên ngách đình Mông Phụ được ví như hai mắt rồng thiêng, giếng xóm Giang nổi tiếng là trong mát, pha chè ngon, uống ngọt “Nước giếng xóm Giang, khoai lang đồng Bường”. Giếng nằm ở trước cửa đình, chùa, miếu làm minh đường cho di tích theo thuyết phong thủy của đạo Nho, xung quanh thường được trồng một số cây cổ thụ như: đa, gạo, muỗm. Xung quanh tang giếng hình tròn, phần nhô lên mặt đất, trải qua thời gian, mặt đá ong phủ bóng rêu phong cũng là môi trường tốt để cho loài cây dây leo có tên là cỏ bíu (cây vẩy ốc, vẩy rồng) phát triển, tạo ra hệ thống thân rễ chằng chịt, bám chắc vào mặt tường đá ong. Có những giếng xưa đào hình vuông (tượng trưng cho đất mẹ luôn nuôi nấng, thương yêu đàn con và in bóng những công trình cổ) và giếng hình tròn (giống hình mặt trời) có ý nghĩa ngày ngày luôn soi rọi ánh dương tỏa chiếu hòa khí âm dương. Việc đào giếng được người dân trong làng xem xét, bàn bạc rất kỹ, như phải xem vị trí địa lý, phong thủy nơi đặt thấu đáo để chọn được mạch nước trong mát, ngọt ngào, không đục, không hôi, không mặn; mạch nước phải đảm bảo tuôn chảy quanh năm, suốt tháng. Đầu năm, người ta có phong tục tát giếng để tiếp nhận sinh khí, thịnh vượng mới và cũng vào sáng sớm mồng 1 Tết, nhiều nhà ra giếng làng gánh nước đổ đầy các bể, chum, vại, thùng dự trữ để hy vọng vào một năm gia đình, dòng họ có thật nhiều phúc đức, đại lộc, vì theo phong tục tín ngưỡng của làng thì giếng làng là nơi sâu nhất, nơi hội tụ, chứa đựng sức sống, tài lộc (mạch nước ngầm chảy mãi). Theo tâm sự của nhiều cụ già thì lòng giếng là tấm lòng của con người , của dân làng, cũng như bản chất là: con người bao dung, nhân ái, giếng làng không chất chứa thù hận với những gì đã trải qua. Ở làng cổ còn có một giếng cổ vô cùng nổi tiếng và đã đi vào huyền thoại của biết bao thế hệ dân làng và những vùng lân cận, đó là giếng Sữa hay còn gọi là giếng Chuông Sa ở thôn Cam Lâm, gần khu vực đền – lăng thờ Vua Ngô Quyền. Đó là một giếng nhỏ và nông, đường kính rộng 0,7 – 0,8m, sâu hơn 1m, lòng giếng được kè bằng những viên gạch đá ong. Nước trong giếng Sữa có vị ngọt mát lành hết sức đặc biệt. Nước trong vắt bốn mùa và có thể nhìn thấu đáy. Nói đến giếng Sữa là người ta hồi tưởng đến một câu chuyện truyền thuyết rất ly kỳ về một em bé mới chào đời bị bỏ rơi và một bà lão có tấm lòng nhân hậu, bao dung. Khi gặp em bé này, bà bế đứa trẻ với tiếng khóc như xé lòng, đang nhớ về dòng sữa mẹ. Hai bà cháu đi tìm nhà dân ven đường để xin nước và đi mãi cũng không thấy bóng nhà, bóng người. Tới một thung lũng dưới chân đồi Cấm, hai bà cháu tìm được một mạch nước róc rách chảy từ hang đá, bé đã được bà mớm cho miếng nước trong, bé ngưng khóc và ngủ ngon trên tay bà. Từ ấy, bà dựng lều tại đây nuôi cháu. Khi bà mất, người dân trong vùng lập miếu thờ bà, người ta gọi là Miếu Mẹ bên mạch nước thiêng gọi là giếng Sữa. Khi vào mùa khô, tất cả giếng làng, giếng nhà đều cạn nước thì mạch nước giếng sữa vẫn đầy tràn, dân làng đã đến xin nước ở đây về ăn, uống, sinh hoạt. Ngày nay, giếng Sữa còn được nhiều người mẹ đang thời cho con bú biết đến với phép màu, kỳ lạ đó là mỗi khi người mẹ chảng may bị mất sữa thì nhờ người thân đến đây làm lễ và xin nước mang về uống, ắt nguồn sữa của các bà mẹ lại được hồi phục kỳ lạ. Lối xuống xóm Sải (thôn Mông Phụ) có giếng cổ gần nhà thờ họ Hà, phía trước có một bia đá khắc 4 chữ Hán cổ “Nhất phiến băng tâm”, bia nằm trên lưng một con rùa, và ghi niên đại 1933. Hay giếng Nghè ở thôn Cam Lâm (Nước giếng Nghè, chè Cam Lâm Nước giếng Giang, khoai lang đồng Bường) Đây là hai giếng nổi tiếng là trong, sạch, mát, uống ngon, ngọt Giếng đá ong ở Làng cổ tuy không còn nhiều và được sử dụng thường xuyên nhưng vẫn còn đó các giếng cổ ở những điểm tâm linh tín ngưỡng quý giá và một số khuôn viên các nhà cổ, gia đình truyền thống. Một số giếng còn được nhân dân làm cây hương thờ cúng. Giếng trong các gia đình vẫn được bơm lên sử dụng hàng ngày (tuy không còn nhô lên mặt đất để lộ cái tang giếng tròn bằng đá ong, do muốn tiết kiệm diện tích nên giếng vẫn còn nằm chìm, được che đậy bằng nắp bê tông, lấy nước lên bằng đường ống máy bơm hút chân không). Tuy không có những giếng mới được đào nhưng mỗi lần về thăm di sản văn hóa Làng cổ ở Đường Lâm, nhất là vào dịp mùa hè, thu, sau khi có chuyến tham quan quanh làng, lưu chân tại nhà cổ, không ai có thể bỏ qua phút giây cảm nhận nguồn nước giếng đá ong trong mát từ những chum nước do gia chủ để sẵn phục vụ du khách (rửa mặt mũi, tay chân, thậm chí là uống một ngụm nước giếng đá ong). Chắc chắn du khách sẽ cảm nhận được vị ngọt ngào, mộc mạc, cao quý của mạch nước trong mát, mãi tuôn chảy giống như truyền thống cần cù, hiếu khách, chịu thương, chịu khó của người dân quê hương.
Hà Nội 23 lượt xem
Bảo tồn “giếng sữa” ở Đường Lâm Trong không gian văn hóa Làng cổ ở Đường Lâm, giếng làng là bộ phận không thể thiếu của di sản văn hóa vật thể, tạo nên nét đặc sắc rất riêng trong đời sống người dân nơi đây. “Giếng sữa” ở thôn Cam Lâm xã Đường Lâm được nhiều người biết đến bởi đây là chiếc giếng thiêng, đã mang lại điều kì diệu cho những người phụ nữ đang nuôi con nhỏ bị tắc sữa hoặc mất sữa. “Giếng sữa” là cách gọi dân gian, còn người dân nơi đây vẫn gọi là giếng Chuông Sa. Tương truyền, vào thời loạn lạc, khi nơi đây vẫn là vùng núi hoang sơ không bóng người, một em bé mới chào đời bị bỏ rơi khát sữa khóc ngằn ngặt dưới chân đồi. Một bà lão đi ngang qua chứng kiến nhưng không biết làm thế nào để cháu bé nín. Bà chỉ biết bế cháu bé trên tay đi dọc đường với hy vọng tìm được nhà dân để xin nước. Đi mãi cũng không thấy bóng người, tới một thung lũng dưới chân đồi Cấm, bà thấy một mạch nước róc rách chảy từ trong hang đá bèn mớm miếng nước cho cháu bé uống. Đứa bé bỗng nhiên ngừng khóc và thiếp ngủ trên tay bà. Từ đó, bà dựng lều ở tại đây nuôi đứa trẻ. Khi mất, người dân trong vùng lập miếu thờ bà và gọi là “miếu mẹ” bên mạch nước thiêng gọi là “giếng sữa”. Mạch nước sau đó trở nên thiêng liêng và được nhiều người biết đến. Khi vào mùa khô, tất cả giếng làng đều bị cạn trơ đáy thì thấy mạch nước vẫn đầy ăm ắp, trong vắt. Họ cùng nhau ra gánh nước về ăn, càng lấy nước càng trong càng đầy. Giếng Chuông Sa nằm dưới chân núi Cấm. Tương truyền đây là vùng đất của vua Ngô Quyền nên không ai dám làm nhà trên đất của vua, vì vậy nơi này vẫn còn nguyên vẹn sự cổ kính, rậm rạp. Giếng sữa nằm cạnh con đường mòn dưới chân đồi Nghẽn và núi Cấm thuộc thôn Cam Lâm. Để đến được “giếng sữa” phải đi qua đền thờ Phùng Hưng và lăng Ngô Quyền. Cách vài trăm mét từ Lăng Ngô Quyền theo hướng Nam, vào sâu con đường đất đỏ sẽ bắt gặp “giếng sữa”. Trên thực tế, chiếc “giếng thiêng” này cũng không khác gì những chiếc giếng cổ ở những vùng quê khác. Đó là một giếng nhỏ và nông, khẩu giếng khá hẹp với đường kính rộng ước chừng 70 - 80cm, sâu hơn 1m, lòng giếng được kè bằng đá ong. Đặc biệt, nước trong “giếng sữa” có vị ngọt mát lành hết sức đặc biệt. Nước trong vắt suốt bốn mùa và có thể nhìn thấu đáy có một tảng đá ong cổ đã bạc màu. Ngày nay “giếng sữa” thôn Cam Lâm được nhiều người biết đến bởi nước giếng có khả năng chữa được bệnh mất sữa cho sản phụ mới sinh. Người tới xin sữa chỉ cần thành tâm đọc rõ tên tuổi, địa chỉ bố mẹ và cháu bé thiếu sữa kèm theo thẻ hương trái oản và vài đồng tiền lẻ. Ông bố thì để lại 7 đồng, bà mẹ thì để lại 9 đồng tiền lẻ tại miếu và ra giếng tự tay múc nước cho vào chai. Lễ sau khi cúng không ai được mang về. Các bậc cao niên trong làng chia sẻ: mọi người tuân thủ qui ước này với suy nghĩ rằng lộc được thụ hưởng sau khi làm lễ phải được “tán” cho lũ trẻ quanh vùng. Có như vậy, lời nguyện cầu của họ mới được linh ứng. Nước xin ở “giếng sữa” mang về rót một lần ra cốc cho sản phụ uống hết không được đổ bỏ. Số còn lại mang đi nấu cháo hoặc đun lên cho sản phụ dùng. Một hai ngày sau, sữa mẹ sẽ về. Chuyện giếng Chuông Sa giúp sản phụ có sữa khiến nhiều người về thăm Đường Lâm đều tò mò và muốn đến tận nơi chiêm ngưỡng di tích này. Có thể vì điều này mà bất cứ ai đứng trước chiếc giếng cổ ở Cam Lâm đều có cảm giác khác hẳn với những giếng khác ở làng cổ Đường Lâm. Trong khung cảnh âm u, tĩnh mịch, mỗi người đều tự ý thức cần nói năng nhẹ nhàng nơi bờ giếng. Trong quần thể di tích ở vùng đất hai vua, giếng Chuông Sa như là một bảo vật của làng. Những giọt nước mát lành từ chiếc “giếng sữa” này đã đem lại sự bình yên trong tâm hồn của những người mẹ trẻ, giúp họ cân bằng cuộc sống và ở góc độ nào đó, đã đạt được ước nguyện của mình. Với người dân Đường Lâm, giếng làng lại là bộ phận không thể thiếu của di sản văn hóa vật thể của làng cổ, tạo nên nét đặc sắc rất riêng trong đời sống người dân nơi đây. Thiết nghĩ, việc gìn giữ và bảo tồn hình ảnh những chiếc giếng cổ sẽ làm tăng thêm giá trị di sản của ngôi làng Việt cổ Đường Lâm. Điều này đòi hỏi quyết tâm cùng sự chung tay nỗ lực của người dân cùng chính quyền địa phương để giếng cổ - nét độc đáo của văn hóa Đoài sẽ tồn tại mãi với thời gian.
Hà Nội 111 lượt xem
Nét độc đáo kiến trúc nhà cổ ở Đường Lâm Đến thăm quần thể di tích làng cổ ở Đường Lâm, ngoài việc được chiêm ngưỡng tìm hiểu các loại hình di tích lịch sử văn hóa kiến trúc nghệ thuật quý báu như: đình, đền, chùa, miếu, lăng, quán, điếm, văn chỉ, võ chỉ…, hòa mình trong các lễ hội làng linh thiêng, rộn rã hay thưởng thức các món ăn văn hóa ẩm thực độc đáo thì du khách còn không thể bỏ qua việc đến tham quan các ngôi nhà cổ tiêu biểu đang tồn tại trong ngôi làng cổ tiêu biểu của vùng đồng bằng Bắc Bộ này. Nhà cổ ở Đường Lâm được xây cất bằng các loại truyền thống đặc trưng của vùng xứ Đoài bao gồm đá ong, gỗ, tre, nứa, rơm rạ, bùn non, đất sét mịn, mùn cưa, trấu, gạch nung các loại. Đá ong là loại vật liệu chính để xây các bước tường, đầu hồi, cổng hay tường rào, ngoài dùng để xây nhà ở, loại đá ong này còn được dùng để xây các công trình công cộng, văn hóa tín ngưỡng như: cổng làng, đình, chùa, miếu, điếm, quán, giếng cổ… Với đặc điểm là nhà xây xong bảo đảm khí hậu thông thoáng, ấm áp về mùa đông, mát mẻ về mùa hạ, chính vì thế người ta còn gọi ngôi làng này là “làng Việt cổ đá ong”. Gỗ để làm nhà nếu xưa là nhà có kinh tế, vai vế trong làng thì họ cất bằng loại tứ thiết (đinh, lim, sến , táu). Còn thông thường những nhà có kinh tế vừa phải thì làm bằng gỗ xoan là chính. Xoan được trồng ở gò đồi. Tre, vầu cũng được trồng ở gần rạch, mương, rãnh; thường là loại tre gai già, không gãy ngọn. Gỗ xoan – tre thường được ngân dưới đáy ao hồ thành bè, nơi đáy ao hồ có nhiều bùn nhằm chống lại sự gặm nhấm xâm hại của mọt. Việc ngâm thường diễn ra càng lâu càng tốt, 6 – 8 tháng hay 1 năm, lúc vớt lên bóc vỏ xoan để phơi chúng ra nắng ráo cùng với tre nó bốc mùi rất khó chịu mới được coi là ngâm kỹ bảo đảm. Mái nhà được lợp bằng các loại ngói như mũi ri, mũi hài, vảy cá, thông thường là người ta lợp một lớp ngói lót trước (còn gọi là gạch lót) và lợp từ dưới giọt gianh lợp lên. Loại ngói này xưa thường được mua qua thuyền bè chở ngược sông Hồng từ các địa phận làm gốm nổi tiếng như: Bát Tràng (Hà Nội), Chu Đậu (Hải Dương), Giếng Đáy (Đông Triều – Quảng Ninh), Phù Lãng (Bắc Ninh). Các loại vật liệu như tre được làm đòn tay dui mè, cũng có nhà làm bằng gỗ xoan, hay gỗ pha từ các tấm lớn. Đinh chốt các điểm mấu quan trọng cũng làm bằng cột tre già, phía mặt đằng trước nhà trên cùng giáp cửa là hàng con tiện có thể làm vuông, tròn… Nhà cổ thường quay mặt về hướng Nam, thiết kế theo kiểu 5 gian 2 dĩ, hay 7 gian 2 dĩ, được bố trí nhiều cửa quay vào trong. Cửa được làm chủ yếu 2 loại là bức bàn và cảnh phố. Loại kiểu bức bàn tạo cảnh tiện lợi khi nhà có việc lớn cần không gian thì gia chủ thường nhấc ra cho rộng rãi thêm và đặt cửa xuống làm phản ngồi, ăn cỗ. Nhà được bố trí 5 – 7 hàng chân, 2 cột cái và cái cột quân. Mỗi cột được đứng trên bệ kê đá xanh, phía giáp đất có hình vuông, phía đỡ cột có hình tròn (tượng trưng cho tư duy của người Á Đông – trời tròn đất vuông). Một số nhà cổ nhìn lên trần nhà cái dui, mè, đòn tay và kèo, xà nóc hay ngả màu, bồ hóng đen ấy là do xưa kia các nhà thường đốt lửa bằng bếp củi để sưởi ấm cho mùa đông, nhất là những dịp có người sinh nở, hay cụ già yếu, ốm… Nền nhà thường sử dụng chính là nền đất được nện, đầm cho chắc chắn. Một số nhà dùng sỉ vôi sau đó họ chặt đôi những hạt trám đóng xuống nền theo các ô hình tứ giác, bình hành, ngách cửa để thông cách ô cho thoáng nhà, cũng như dễ quan sát phòng bị khi có kẻ trộm (nhìn thấy chân của chúng) muốn đột nhập vào nhà. Gian giữa là nơi đặt các ban thờ người cao nhất trong 3 đời, 2 gian bên cạnh cũng đặt các ban thờ người quá cố trong dòng họ xếp theo thứ bậc (nếu là vị trưởng họ). Ban thờ có thể có nhiều bát hương và nhân vật hơn dưới bàn thờ các bộ sập hay phản bằng gỗ lim loại to bản, dày, 2 gian trái phải thường được kê các bộ trường kỷ: 1 bàn 2 ghế dài để tiếp khách bằng ấm trà pha chè xanh, thường là tích nước ủ vào hũ kèm 6 cái bát xứ nâu xỉn, bình vôi, ăn trầu, cái điếu bát, ống đựng đóm. Phía dưới bàn là một vài thứ như cơi trầu, chén phụ, ấm pha trà tàu (chè búp khô), bình đựng vôi nhỏ, điếu bát hay một thùng gỗ nhỏ dựng chiếc điếu cày được làm bằng dóng tre giữ lại cái mấu. Hai gian buồng dành cho con gái hoặc con dâu, ngoài ra cũng là kho đựng thóc, nồi niêu, bát đũa, hòm rương nhỏ. Ngoài hiên nhà có đặt 1 hay 2 chõng tre (một vài nhà hiện còn giữ chiếc hòm gian kê ngay dưới bàn thờ chính). Hòm này xưa đựng 1 vài thứ quý, tư trang dụng cụ đắt tiền, nông sản giống (thóc nếp, tẻ, lạc đỗ…) tránh được chuột bọ xâm nhập. Các công trình khác liên quan đến nhà cổ cũng không thể không kể đến là nhà ngang, bếp, giếng nước, sân, vườn, bình phong, chuồng trại nuôi gia súc gia cầm, cổng vào, cây hương. Trong đó, bình phong và cây hương cũng có vai trò tâm linh quan trọng trong gia đình. Bình phong đắp ở bờ tường, đối diện gian thờ - cửa chính, có thể bằng khảm trai hai vỏ trứng, đồ sành sứ nổi men ngọc bóng. Cây hương được xây ở góc sân hay chếch với gian đầu, cuối nhà, giếng nước đá ong xưa cũng có vai trò không nhỏ trong sinh hoạt của gia đình và chăn nuôi gia súc, gia cầm. Giếng được đào khá sâu. Ở những thôn có vị trí cao như Mông Phụ, Cam Lâm, mạch nước được thẩm thấu qua các vỉa đá ong nên đã khử lọc được các tạp chất độc hại, đạt độ trong sạch, không gây hại cho sức khỏe của con người. Việc lấy nước từ giếng lên cũng trải qua nhiều thời kỳ, bằng các dụng cụ khác nhau (vì giếng phải đào sâu). Lúc đầu, người dân dùng gầu và dây thừng múc từng gầu. Sau cải tiến, dùng tời quay bằng dây cáp bôi mỡ công nghiệp (loại dây nhỏ). Lúc này, gầu được thiết kế to và cong suất vì thế cũng tăng lên, không hao tổn sức người nhiều như trước nữa. Rồi khi có điện và khoa học phát triển tiến bộ, mọi nhà dùng máy bơm hút chân không, xây bể lọc nên nước được dự trữ, tách lọc qua cát sỏi hay than hoạt tính, càng bảo đảm hơn. Ngày nay, tuy đã có hệ thống nước máy bao phủ nhưng nhiều gia đình vẫn còn giữ lại giếng đá ong nhưng là giếng chìm (không để nhô tang giếng lên bề mặt để tiết kiệm diện tích và thay thế bằng nắp bê tông kiên cố phủ kín bề mặt). Giếng nước vẫn được sử dụng, là nguyên liệu quý để làm tương, pha trà… Riêng cổng được làm 2 mái, lập ngói vẩy cá, có hai cách quay vào trong, mỗi cách có 1 tay nắm hình trọn được chế tác bằng gỗ mộc. Trong nhà cổ mỗi gia đình còn lưu giữ được nhiều hiện vật quý như: gia phả, tài liệu Hán Nôm, đồ thờ, hiện vật liên quan đến cuộc sống sinh hoạt của mỗi thành viên như: đám cưới xưa, trang phục, tranh ảnh, dụng cụ sản xuất. Đặc biệt trên mái nhà hầu như nhà nào cũng có thước lỗ ban gác trang trọng ở gian giữa, ngoài vườn luôn xanh mát 4 mùa bởi những cây ăn trái lâu năm mùa nào thức ấy như lựu, doi, hồng xiêm, ổi, mít, bưởi, chanh, nhãn, vải, chuối… Nhiều nhà rộng hơn còn có cả ao, góc sân có để một số chum vại sành để ủ tương bần. Những chum tương ấy được ví như cái “tủ lạnh” quý khi xưa sau mỗi ngày gia chủ có sự kiện như tiệc, giỗ, cưới, chay. Họ thường ủ vào đó những khẩu thịt lợn luộc gần chín tới (khi không dùng hết) hay những quả cà bát. Lúc mang ra ăn chất lượng của nó càng ngon và hấp dẫn hơn. Những quả cà bát to ủ trong đó ngấm thấu hết những cái ngon tinh túy của tương bần, gắp ra xé phay nó ngả màu hổ phách, thêm vào tý dấm, đường, tỏi là ăn thay thức ăn được. Các dòng họ trong làng cổ thường hẹn nhau xum họp ngày chạp tổ, thông thường nó diễn ra vào dịp cuối năm, hay Tết đến xuân về, hội đình làng hay Tết Thanh minh. Ở Đường Lâm có những họ nổi tiếng như họ Phan, Hà, Giang, Đỗ, Kiều, Cao. Người trong khu vực làng cổ thường có quan hệ khăng khít với nhau. Họ thường dùng tên con trưởng (con trai đầu) để gọi thay tên cho bố mẹ đẻ, nhà ai có người mất phải có lệ mời anh em họ hàng đến thăm viếng, và viếng xong phải ra mâm ăn cơm chia buồn với gia đình. Bà cụ cao tuổi trong nhà còn được gọi là “gổ”. Mỗi di tích trong làng thường cử ra một người có uy tín trông coi còn gọi là cụ từ. Cụ này phải là người có uy tín trong làng (con cháu nếp tẻ đầy đủ, gia đình gương mẫu, không ai vi phạm pháp luật hay tệ nạn xã hội). Ông chủ tế của đình – đền phải là người có đủ tiêu chuẩn trên, nếu đang làm nhiệm vụ mà cụ từ có anh em trong 3 đời mất (người ta gọi là có cớ, có bụi) phải dừng và trả lại nhiệm vụ cho làng ngay. Bữa tiệc của đình, làng, xóm hay họ, gia đình thường phải có đủ các món như xôi, thịt gà trống, chè kho, bánh gai… Riêng ở làng Đông Sàng có tiếng là nơi nấu cỗ ngon, bày trang trí mâm cỗ đẹp. Những sản vật trong làng thì có vừng trồng ở Lồ Cang, khoai lang Đồng Bường, kẹo lạc dồi ở Đông Sàng, gà Mía, bánh rán nước, xôi đồ chim ngói mùa tháng 9 âm lịch, cá kho tương, tương bần làng Mông Phụ… Nhà cổ thường chia quyền sở hữu cho các cho các con trai trong nhà tùy theo nhà có từ 2, 3 hay 4…Có những nhà chỉ có duy nhất một anh con trai, còn lại toàn các chị em gái thì vai trò của anh này càng lớn. Các cháu nội ngoại dù đông bao nhiêu nhưng vai trò của cháu nội, là nam luôn được chú ý đề cao và nhấn mạnh. Nên một trong những người này muốn lấy lại phải thương thảo với những người kia (do bố mất để lại di chúc) nên một số nhà cổ hiện nay mặc dù chỉ có một gia đình ở nhưng lại là quyền sở hữu của vài người anh em ruột. Mỗi ngôi nhà lại có những nét kiến trúc cổ, lối bố trí không gian trong và ngoài khác nhau như: nhà ông Nguyễn Văn Hùng khác nhà ông Hà Hữu Thể, nhà bà Lan khác với nhà ông Hà Nguyên Huyến, nhà ông Hà Vĩnh, nhà ông Nguyễn Văn Vững, dáng dấp cả phương Đông lẫn Tây Âu (Pháp), kiến trúc nội tự ngoại khách…Trong vườn nhà khi chưa phải chia cho các con là lúc lập gia đình, sinh con thì đó cũng là môi trường tốt để cho gia đình trồng các loại cây hoa, ăn quả như: xoài, nhãn, ổi, mít, chuối, na, thị, vải, lựu, bưởi, khế, quất….Các loại hoa như: mộc, giấy, đỗ quyên, quỳnh, nhài, ngâu, sói,…các loại gia vị như: hành, tỏi, ớt, hẹ, gừng, giềng,….tạo màu sắc xanh tươi, mùi thơm bốn mùa trong không gian nhà cổ như: dịp đông xuân là mùi thơm thoang thoảng, dịu ngọt của hoa mộc, đầu thu là mùi quả thị, hương lá nếp, mùa hè là sắc đỏ của những chùm vải, chùm quất đen bóng dưới cái nắng đặc trưng của vùng xứ Đoài ấp cổ. Trong số lượng nhà cổ 97 cái còn tồn tại ở di tích làng cổ thì có 2 thôn là có số lượng nhà cổ nhiều nhất là Mông Phụ và Đông Sàng. Một số hộ gia đình đang sở hữu nhà cổ đã biết tận dụng lợi thế để khai thác đón khách tham quan, tạo ra các sản phẩm dịch vụ phục vụ nhu cầu của khách trong và ngoài nước đã mang lại kết quả khá cao. Họ giữ nguyên hiện trạng không gian cổ kính, hình thành các khu dịch vụ ra bên cạnh nhưng cách lắp ghép, xây dựng cũng phù hợp với cảnh quan chung, tự sưu tầm bổ sung những hiện vật có niên đại liên quan đến phong tục, tín ngưỡng tập quán để trưng bày trong không gian nhà cổ. Điều đó càng làm tăng thêm sự hấp dẫn và thu hút khách mỗi khi đến thăm. Tuy nhiên trong số đó vẫn còn nhiều nhà cổ đã trải qua niên đại lâu đời chịu sự tác động của khí hậu, côn trùng, nên các cấu kiện bằng gỗ, các hạng mục khác đều bị mai một xuống cấp rất cần sự bảo tồn phục dựng hỗ trợ của các cấp lãnh đạo chính quyền cũng như sự chủ động của nhân dân – qua đó góp phần vào công tác bảo tồn và phát huy các giá trị của di tích làng cổ ở Đường Lâm một cách bền vững hiệu quả.
Hà Nội 22 lượt xem
ĐÌNH ĐOÀI GIÁP – DI SẢN VĂN HÓA QUÝ TRONG LÀNG CỔ Ở ĐƯỜNG LÂM Theo dân gian truyền thống cũng như một số nguồn sử liệu thì đình Đoài Giáp được cất dựng từ thời vua Ngô Quyền thế kỷ thứ X, khi đó di tích chỉ là một ngôi miếu nhỏ do nhân dân trong làng dựng lên để tưởng nhớ công đức của Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng và suy tôn ông là vị Thành Hoàng làng của cả làng. Ngoài tên gọi là đình Đoài Giáp, đình còn có tên gọi khác là “Đoài Giáp từ” – chữ Hán Nôm (đền Đoài Giáp). Đình được tọa lạc trên một thế đất đẹp, thoáng đãng giữa trung tâm làng, phía trước mặt đình là một hồ nước rộng hình tứ giác, quay mặt ra hướng Tây Nam, người xưa rất khéo khi chọn không gian cảnh quan, phong thủy hợp với tâm linh tín ngưỡng và ý nguyện của dân làng phía sau đình là khu vườn rộng để nhân dân trồng cây ăn trái, 2 bên đầu trái phải của đình là 2 giếng nước được dân làng đào và xây các thành giếng bằng đá ong (loại vật liệu đặc trưng của vùng xứ Đoài), nước ở giếng được dân làng sử dụng sinh hoạt hàng ngày và quanh năm không bao giờ cạn, dân làng xưa vẫn quen gọi đây là “giếng mắt rồng”, đầu rồng hướng về hướng đông “xóm Hớm”, đuôi rồng hướng về hướng Bắc (đường liên thôn), phía xung quanh là một số ngôi nhà cổ có niên đại hàng mấy thế kỷ với mái ngói rêu phong cổ kính trầm mặc. Dù trải qua thời gian dài chịu sự tác động không nhỏ của những yếu tố như: chiến tranh, khí hậu, sự xâm hại của côn trùng mối mọt nhưng trong các hạng mục kiến trúc kết cấu của Đình vẫn giữ lại được những nét chạm trổ, điêu khắc cổ mang đậm dấu ấn của những ngôi đình làng cổ Việt Nam. Đình gồm những hạng mục công trình như “Tiền tế”, “Hậu cung” bố trí song song theo hình chữ “nhị” ngăn cách nhau bằng một sân rộng có chiều dài 7,2m, được lát bằng gạch Bát Tràng, 2 hạng mục trên có độ cao gần bằng nhau, song hậu cung có kích thước rộng hơn nhà tiền tế, hậu cung gồm 3 gian, bộ vì có kết cấu “chuồng rường giá chiêng”. Tường đốc giá ngoài xây kiểu bổ trục giật tam cấp, các hệ thống cột quân, cột cái, cửa khám, cửa ra vào hậu cung đều được làm bằng gỗ (loại tứ thiết) vững chắc, bờ nóc là cột trục biểu vuông đầu đắp đèn lồng và “đôi Nghê” chầu cách điệu, linh vật “Nghê” có đôi mắt tròn, lồi, mũi sư tử, khoằm miệng mở rộng nhìn xuống, lông chân sau là những vằn xoắn lớn. Theo quan niệm của người Việt xưa, Nghê biểu hiện cho sức mạnh của thiên nhiên, phần bờ dải, bờ guột đắp nổi hình “dơi vũ cách” và đề tài “Phúc – Lộc – Thọ” mang nhiều ý nghĩa tâm linh sâu sắc, mái đình dốc ngắn được lợp ngói mũi hài nay như trên mình lớp rêu phong cổ kính, tàu mái hơi vuốt cong được cài then con sỏ vào xà hạ với chiều dài 9,6 m, lòng nhà 8 m, cao 5,2 m và nền nhà hậu cung cao hơn sân trong sân ngoài gần 1m. Ngoài đôi trục tay ngai còn có 4 trụ vuông tạo sự vững vàng, trên các mặt trụ vuông có những câu đối bằng chữ Hán, sơn son thiếp vàng tăng vẻ cổ kính và giá trị của di tích, hệ thống thờ tự trong đình được bài trí rất quy mô, cân xứng, đảm bảo tôn nghiêm trang trọng. Gian bên trái Đình là ban thờ : “Bản thần thổ đất” (Thần Đất), nơi đây được bài trí một số đồ thờ quý được chế tác bằng các chất liệu như: đồng, gỗ, gốm, vải, giấy, nổi bật là bộ lư hương đồng được đúc tỉ mỉ công phu hình “đôi sư tử quả địa cầu” thể hiện ước mơ, tài năng sáng tạo của các nghệ nhân xưa, niên đại của cổ vật này có cách đây 2 thế kỷ, gian bên phải là ban thờ “Bộ hạ thần vị”, 2 bên ban trang trí hình “Rùa đội hạc”, mỏ hạc ngậm hoa sen gợi lên vẻ đẹp thanh tao nơi cửa thánh hiền, các đồ thờ khác ở đây cũng rất đa dạng, độc đáo, đáng lưu ý là bát hương được làm bằng gốm sành đất ở giữa ban thờ, giữa trán bát hương đắp nổi hình linh vật “lưỡng long chầu nguyệt” (2 linh vật rồng chầu mặt nguyệt) ở giữa bát hương có hình chữ “thọ” biểu hiện sự trường tồn vĩnh cửu với thời gian, bát nhang này có niên đại vào giữa thế kỷ XVIII. Nổi bật nhất giữa hậu cung là khám thờ Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng. Khám thuộc loại lớn được chạm trổ công phu với nhiều linh vật quý, thiêng, trong khám có đặt bài vị, trên đỉnh khám treo một dòng chữ Hán cổ sơn son thiếp vàng là “Thánh cung vạn tuế” khẳng định người sống mãi trong tâm khảm của mỗi người dân trong làng. Bộ khám này được chế tác vào khoảng đầu thế kỷ XVIII, các đồ thờ trong khám cũng rất phong phú, bằng các chất liệu khác nhau có niên đại cuối đời nhà Lê đầu nhà Nguyễn. Nhà tiền tế đã được sửa chữa lại vài lần, lần bị hư hỏng nặng nhất là trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Trong Đình hiện còn lưu giữ 1 quả chuông đồng đề 4 chữ Hán “Đoài Giáp từ chung” (chuông đình Đoài Giáp) đúc năm Tự Đức thứ 13 – 1861. Ngoài ra trong đình hiện còn lưu giữ được 6 đạo sắc phong quý có niên đại từ đời vua Minh Mệnh đến Khải Định (Đây là di tích rất tiêu biểu của vùng còn lưu giữ được các sắc phong), một số bia đá được tạc đời Hồng Đức thứ 4 (1474) ghi lại tiểu sử và công trạng của vua Phùng Hưng, long ngai bài vị, giá văn (thế kỷ XVIII), kiệu bát cống… đó là những nguồn sử liệu vô giá để cho các thế hệ sau này nghiên cứu và minh chứng về công lao của người với dân với nước. Điều hiếm thấy ở các di tích không có được là nóc nhà hậu cung là nơi trú ngụ của hàng trăm con dơi (cũng là loại động vật quý). Dơi gắn liền với ngũ phúc là “phú – quý – thọ - khang – ninh”. Với những giá trị văn hóa lịch sử tiêu biểu, đình Đoài Giáp đã được Nhà nước xếp hạng vào năm 2001, lễ hội của Đình diễn ra trong 2 ngày 7 và 8/1 âm lịch. Nhà văn hóa của thôn gần với Đình nên rất thuận tiện cho việc tổ chức các nội dung như lễ hội, hội họp tọa đàm cộng đồng, tuyên truyền, thu hút nhan dân và du khách đến tham dự (do Đình nằm ở vị trí trục đường thuận lợi; dịp lễ hội của Đình luôn thu hút đông đảo nhân dân ở trong và ngoài địa phương tham dự, là ngày hội, là niềm tự hào vinh dự của mỗi người con trong làng. Hiện tại Ban lãnh đạo địa phương cũng cắt cử các cụ cao niên trong làng ra trông coi, dọn dẹp, quản lý di tích, thường xuyên phục vụ nhu cầu hành lễ của bà con trong làng và du khách. Hiện tại, di tích đã được Nhà nước đầu tư kinh phí để tôn tạo, tu bổ lại các hạng mục cũng như: khuôn viên, không gian, cảnh quan bên ngoài, đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu của nhân dân và du khách.
Hà Nội 107 lượt xem
ĐÌNH CAM THỊNH Đình tọa lạc theo hướng Đông Nam thuộc khu vực thôn Cam Thịnh (một trong năm thôn hợp thành di tích Làng cổ ở Đường lâm, thị xã Sơn Tây, Hà Nội). Đình thờ Đức Thành hoàng Bản thổ Kỳ Đại vương và Đức gia hậu Thượng tướng quân Cao Phúc Diễn cùng phu nhân là bà Giang Thị Thắng – người chị gái của sứ thần tài ba Giang Văn Minh. Đình được dựng vào thời vua Lê Thần Tông (1649 – 1662) với phần công đức lớn của vợ chồng tướng quân Phù Việt Hầu (là người làng Cam Thịnh đã có công giúp nước về nội trị và ngoại giao dưới thời vua Lê Trung Hưng). Đến nay, ngôi đình đã được tu bổ 3 lần, lần cuối vào năm Bính Thìn (1916). Ngoài ra còn có một số lần tu sửa nhỏ do nhân dân trong làng tự nguyện làm. Đình Cam Thịnh mang nhiều nét đặc trưng của kiến trúc nghệ thuật thời Nguyễn. Kết cấu kiến trúc của đình gồm 3 phần: Nghi môn, Tả mạc, Đại đình. Ngoài cùng là một Nghi môn trụ có niên đại vào thế kỷ XX. Đây là những trục thông linh, hai trụ giữa lớn hơn ở trên đỉnh là “tứ phượng” và hai trụ nhỏ hơn ở trên đỉnh là đôi lân trong thế ngồi nhìn xuống. Bước qua nghi môn là là một sân rộng, ở phía bên trái là dãy nhà tả mạc 4 gian kiểu “tường hồi bít đốc”. Đại đình Cam Thịnh được làm theo kết cấu chữ Đinh, với tòa Đại bái gồm 3 gian 2 dĩ, mặt bằng 4 hướng chân cột gỗ, 4 bộ. Nối liền với gian giữa Đại bái là một chuôi vồ 3 gian bằng hệ thống kẻ suốt chạy từ nóc xuống mái, bộ vì ngoài cùng của Hậu cung được bưng kín và làm hệ thống cửa ngăn cách Đại bái với cung cấm, bộ vì bên trong được làm theo kiểu “chồng rường” với kỹ thuật bào trươn đóng bén. Cung cấm được bưng kín mặt trên một sàn gác lửng cao 1.8 m, phía trước cung cấm là bộ cửa khảm gỗ có diềm gỗ chạm lộng. Bên ngoài cửa cung cấm là một sàn lửng bài trí đồ tế tự. Đình được xây dựng ở nửa sau thế kỷ XVII nên dấu tích xưa nhất trong điêu khắc đình còn đọng lại ở một số rường nách của các bộ vì đỡ hai mái hồi và 3 đầu dư kìm hình rồng ở 2 nách bộ vì chính. Những đầu rồng này tuy đã bị rụng, hỏng, mất nhiều chi tiết đao mác, chân…nhưng còn nhận rõ những dáng vẻ và điệu bộ như: mũi hếch, trán rô, mắt lồi, tai dơi… Đây alf dạng đặc trưng của điêu khắc cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII. Các xà nách của đình chủ yếu được bào trơn soi chỉ, duy có một số đầu xà, rường được điểm hình hoa lá cách điệu, ở các thân bẩy, các cành, hoa, lá trang trí được cách điệu thành các hình tượng lá hóa rồng, lân một cách tinh tế. Những mảng chạm này măng đặc trưng của điêu khắc thế kỷ XIX. Trong đình hiện còn lưu giữ một số di vật quý như 5 đạo sắc phong có niên đại sớm nhất mang niên hiệu Cảnh Hưng thứ 28 (1767), 1 tấm bia đá dựng năm Vĩnh Thịnh thứ 8 (1712), cao 132 cm, rộng 80 cm, dày 4 cm có 2 mặt khắc chữ, một bộ kiệu luyện tạo tác ở thế kỷ XVIII. Các đòn cái được cách điệu thành hình rồng, đòn cái dài 4m, đòn ngang dài 2.1 m và mui luyện uốn cong, một bộ long ngai bài vị thờ Đức bản thổ kỳ Đại vương. Đây là tác phẩm điêu khắc cuối thế kỷ XVIII. Lễ hội của đình làng được dân làng và chính quyền tổ chức vào ngày 11, 12 tháng giêng âm lịch. Mọi người con của thôn quê và ở các nơi tụ hội về đình để tưởng nhớ đến công đức của vị Thành hoàng làng, Đức Thánh gia hậu cùng thầy dạy của ông. Trong các ngày này còn diễn ra các trò chơi truyền thống, sinh hoạt văn hóa dân gian như: tế lễ thành hoàng, múa sen, múa sinh tiền, rước kiệu thánh, rước kiệu lễ vật, bịt mắt bắt dê, đấu vật, chơi đu, chọi gà…Đình Cam Thịnh đã được Nhà nước xếp hạng là Di tích lịch sử văn hóa vào năm 2000, nằm trong vùng đất cổ có nhiều di sản văn hóa quý và truyền thống của làng văn hóa tiêu biểu cấp tỉnh. Di tích đình Cam Thịnh cùng một số nhà cổ ở thôn đã trở thành điểm tham quan thu hút đông đảo du khách trong và ngoài nước. Tuy nhiên, trải qua thời gian dài do tác động của người dân và khách tham quan, hiện tại các hạng mục của đình đã được Nhà nước tu bổ, tôn tạo, đáp ứng nhu cầu tham quan tìm hiểu của du khách và Nhân dân.
Hà Nội 105 lượt xem
Chùa Ón (Ôn Hòa Tự) Ngôi chùa độc đáo của Di tích Làng cổ ở Đường Lâm Chùa Ón nằm ở khu vực giữa cánh đồng, cách cổng làng Mông Phụ vài trăm mét. Nhìn vào tổng thể của di tích này chỉ giống một ngôi nhà nhỏ với mái ngói mũi ri rêu phong cổ kính, tường được xây bằng gạch chỉ mỏng, nung thủ công. Các vật liệu khác cũng được cất dựng bằng các loại vật liệu truyền thống của vùng bán sơn địa. Tên chữ Nôm của chùa được mọi người quen gọi là Ôn Hòa Tự. Cũng không có nguồn tài liệu nào khẳng định mốc thời gian cụ thể mà dân làng gọi tên chùa Ón, và cũng có nhiều câu hỏi đặt ra là Tại sao gọi là chùa mà không có một vị tượng Phật hay hiện vật quý nào được yên vị để thờ phụng. Vào ngày rằm, mùng 1 đầu tháng cũng hiếm khi thấy có người mang lễ vật ra cúng bái, hành hương (chỉ trừ ngày 3/3 và 1/4 âm lịch hàng năm). Dù đã trải qua một vài lần tu bổ, trong đó lần được thực hiện gần đây nhất là vào năm 2010, với sự giám sát của các chuyên gia thuộc cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản tại Việt Nam (JICA). Trong quá trình tu bổ, các nhà khoa học Nhật Bản và cán bộ theo dõi thi công, giám sát của cơ quan đã thực hiện thành công gia cố bức tường bị nghiêng của chùa đang ở mức nguy hiểm trở về hiện trạng an toàn. Các hạng mục của chùa Ón được tu bổ tổng thể. Giai đoạn vài năm trở lại đây, dân làng cũng gia cố thêm một số hạng mục phụ cận khác như: đường vào, trồng cây xanh ở xung quanh, mở rộng sân trước của Chùa. Mỗi khi đến thăm nơi này, du khách thường được dân làng kể lại một giai thoại liên quan đến Chùa rằng: Ôn Hòa là tên một vị tướng người Tàu (Trung Hoa cổ đại), khi mãn hạn làm quan ở Việt Nam, ông dành chút thời gian để đi vi hành đến đất Đường Lâm thì thấy cảnh đẹp. Ông bèn xin dân làng cho ở lại khai khẩn, trồng cấy nuôi thân. Sau nhiều năm chịu thương chịu khó tích lũy có bát ăn bát để, ông bèn dựng một ngôi nhà để trấn yểm long mạch cho làng. Vì xuất thân là một võ tướng, có tài võ nghệ nên vào những ngày rảnh rỗi, ông thường mời gọi thanh niên trai tráng trong làng ra để dạy truyền võ nghệ. Ngoài mục đích rèn luyện sức khỏe, còn là để đề phòng giặc giã, cướp bóc đến xâm hại làng xóm. Trước khi lâm chung, ông đã cho đúc quả chuông đồng khắc 4 chữ “Hồng chung ôn hòa”. Tương truyền, dân làng Mông Phụ vẫn lưu giữ đến ngày nay. Ngoài ra, trên 2 câu đầu của chùa, hiện vẫn còn lưu giữ những dòng chữ Hán Nom, tạm đọc là “Khởi tạo Bính Dần niên, Quý xuân, Nhâm Tý nhật, Mão khắc động thổ, Bính cơ, Ất Mão nhật, Dậu thời, thu trụ thương lượng cát. Tạm dịch là: chùa được khởi công năm Bính Thân, cuối mùa xuân, ngày Nhâm Tý, giờ Dậu bắc nóc và phú quý thọ khang (giàu sang, sống lâu, khỏe mạnh).Lễ hội ngày 3/3 tại Chùa Ón. Hội chùa diễn ra vào ngày 3/3 âm lịch hàng năm, cũng trùng với ngày tết Hàn thực của người dân nói chung ở các làng quê đồng bằng Bắc Bộ. Ngoài lễ vật được dân làng sửa soạn cũng lễ, bao gồm: xôi, gà thiến, oản quả, hương hoa thì nhất định trai làng phải khiêng quả chuông nặng 145kg từ trong đình Mông Phụ ra đây để đánh 3 hồi 9 tiếng (nhưng tổng cộng phải là 99 tiếng). Người nào được dân làng tín nhiệm sử đánh chuông phải dốc sức tâm niệm mà hoàn thành, nếu không là có lỗi với thánh thần. Sau khi cúng lễ xong, Ban tổ chức tiến hành các thủ tục để khai hội vật chàu Ón. Gọi là “hội” nhưng quãng thời gian tồn tại sôi nổi của nó chỉ kéo dài vài ba tiếng đồng hồ, từ 15h đến lúc xẩm tối là kết thúc. Thông thường, có nhiều người tham gia đấu vật, chủ yếu là trai làng và các vùng lân cận. Theo các cụ kể lại thì những năm đất nước còn chiến tranh thì xới vật vắng bóng trai tráng, chỉ có tầng lớp người cao tuổi và đám trẻ nhỏ. Thời hòa bình, hội vật được tổ chức sôi nổi và có những keo vật hồi hộp hơn, mang lại cảm xúc cho nhiều người xem, thể hiện ý chỉ, sức khỏe. Giải thưởng vì thế cũng được tăng dần. Nguồn phí trao thưởng và tổ chức cũng được nhiều tổ chức, cá nhân trong và ngoài làng tình nguyện ủng hộ thông qua những pha ghì kìm đối thủ, mẹo lừa miếng, kết liễu đối thủ… Vào ngày 1/4 âm lịch, ở nhiều nơi khác, dân làng cũng tổ chức lễ vào hạ tại các di tích, tại làng Mông Phụ, song song với việc tổ chức cúng lễ trong đình Mông Phụ, có món lễ vật là cháo cũng được mang ra đây để dâng quan Thần Ôn. Cháo được múc ra những cái gọi là bù đài lá đa, cầm dọc từ chùa Ón ra đến đường cái chính. Xưa kia, mỗi dịp vào hè, khu vực làng quê thường phải gánh chịu những nạn dịch, sâu bệnh, gây nên thất thu hoa màu, thời tiết nóng bức dễ sinh bệnh, ảnh hưởng đến sức khỏe con người. Thế nên, cũng lễ ở ngày này cũng thể hiện ý nghĩa là cầu mát (một mùa hè ít nóng nực) và cầu an (một mùa hạ an lành). Mỗi lần du khách hành hương về thăm di sản văn hóa Làng cổ ở Đường Lâm, nếu một lần ghé thăm ngôi chùa cổ độc đáo này còn được các cụ cao niên trong làng kể cho nghe một vài giai thoại hấp dẫn khác. Tuy di tích đơn sơ, nhỏ bé nhưng là tài sản văn hóa quý của dân làng, đã được bao thế hệ người dân gây dựng, gìn giữ, trải qua những giai đoạn lịch sử, di sản nay vẫn tồn tại giữa cánh đồng với màu sắc trầm mặc rêu phong cổ kính, di sản ấy đã chứng kiến biết bao đổi thay của cuộc sống, con người làng quê truyền thống, văn hiến.
Hà Nội 104 lượt xem
Di tích kiến trúc nghệ thuật đình Hạ Thái, xã Duyên Thái, huyện Thường Tín, Hà Nội là một trong số 15 di tích của cả nước được Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch xếp hạng di tích quốc gia trong đợt 1/2017. Bộ VHTTDL vừa có quyết định số 824/QĐ- BVHTTDL công nhận Di tích kiến trúc nghệ thuật đình Hạ Thái, xã Duyên Hải, Thường Tín, Hà Nội là di tích quốc gia. Đình Hạ Thái, xã Duyên Thái, huyện Thường Tín mang đậm nét kiến trúc của đồng bằng Bắc bộ với cây đa, bến nước, sân đình. Đây là nơi thờ hai vị thành hoàng làng là quan võ thời Lê Bùi Sĩ Lương và bà Đinh Thị Trạch (hay còn gọi là bà Lạy) người đã hy sinh tính mạng của mình để cho dân làng thoát nạn cống nạp người. Thần phả ghi lại rằng: trước đây vùng đất này hoang vu, cây cối um tùm và dân cư thưa thớt. Lúc đó trong rừng có một con hổ dữ, dân làng gọi là hổ lang thường tìm về bắt người và gia súc ăn thịt. Không thể thu phục được con hổ đã thành tinh này nên hàng năm dân làng đành phải cống nạp cho hổ một người vào ngày 10/11. Trong làng có bà Lạy, một người đàn bà không chồng, không con, thấu hiểu nỗi đau và mất mát của dân làng, bà đã tự nguyện dâng mình cho hổ với mong muốn việc cống nạp này sẽ chấm dứt. Lời khấn cầu nguyện của bà trước trời đất có vẻ linh thiêng và ứng nghiệm, bởi kể từ ngày 10/11 năm đó khi hổ đến vồ bà Lạy và đưa đi mất, người dân không còn thấy hổ quay lại quấy phá nữa. Để tưởng nhớ công ơn của bà, người dân đã xây miếu thờ, sau này bà được tôn làm thành hoàng làng và miếu đó trở thành đình làng Hạ Thái và lấy ngày 10/11 hàng năm là ngày hội làng truyền thống. Đình làng Hạ Thái còn liên quan đến quan võ thời Lê Bùi Sĩ Lương (1544-1597), ông làm đến chức Thái sư kiêm Điện Tiền Chỉ Huy Sứ. Là người thông minh văn võ song toàn, ông có công lớn trong phò Lê, diệt Mạc. Khi đến Hạ Thái, nhận thấy vùng đất nơi này có thế rồng chầu hổ phục, ông đã chọn Hạ Thái để lập gia trang và dạy dân lập nghiệp, vì vậy sau khi mất, ông cũng được tôn là Thành hoàng làng. Lễ hội làng Hạ Thái diễn ra từ ngày 9 đến 11/11 âm lịch hàng năm và thu hút được đông đảo du khách thập phương về tham dự. Nguồn Sở văn hóa và thể thao thành phố Hà Nội.
Hà Nội 2903 lượt xem
Đình Hạ, đình Thượng thuộc xã Tự Nhiên, huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội. Theo truyền thuyết, thần phả và các đạo sắc phong còn lưu lại thì hai đình thờ Chử Đồng Tử (một trong tứ bất tử của người Việt) cùng hai phu nhân là công chúa Tiên Dung và nàng Hồng Vân. Sau khi công chúa Tiên Dung lấy Chử Đồng Tử làm chồng, hai người đã học được phép tiên trị bệnh cứu người và cùng dân làng cải tạo, mở mang đất đai, trồng trọt, chăn nuôi lập nên xóm làng trù phú. Vua Hùng nghe tin, cả giận sai quân lính bắt về triều đình để trị tội. Biết tin đó, Chử Đồng Tử và Tiên Dung hóa phép bay về trời, mang theo nàng Hồng Vân của đất Tự Nhiên. Nhân dân biết ơn lập đền thờ. Đình Thượng và đình Hạ là hai công trình kiến trúc nằm song song, có niên đại tương đồng nhau, được khởi dựng vào thời Hậu Lê; tôn tạo, tu sửa làm Hậu cung vào cuối triều Nguyễn. Có điểm khác nhau là Đại bái đình Thượng không có tích “Rồng mẫu tử” mà có tích “Độc long”. Đình Thượng có 69 đạo sắc phong nhiều hơn đình Hạ 03 sắc phong. Lễ hội của làng Tự Nhiên diễn ra vào ngày mồng 1 tháng 4 (âm lịch). Vào ngày này, dân làng tổ chức lễ rước Long Ngư bao gồm 07 cỗ kiệu của ba đình: Đình Thượng, đình Hạ, đình Thủy tộc để tái hiện lại thiên tình sử mấy ngàn năm về trước của Chử Đồng Tử và Tiên Dung. Hai ngôi đình đều được xếp hạng di tích cấp Quốc gia: Đình Hạ xếp hạng năm 1988, đình Thượng xếp hạng năm 2002. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Thường Tín , thành phố Hà Nội.
Hà Nội 2503 lượt xem
Đến với làng Đào Xá, xã Thắng Lợi, huyện Thường Tín, du khách sẽ được chiêm bái những nét cổ kính, độc đáo của cụm di tích đình, chùa với những nét tinh xảo, độc đáo trong kiến trúc, được hòa mình vào không gian xanh, sạch, đẹp của làng quê yên bình với con người tài hoa, thân thiện, hiếu khách… Xã Thắng Lợi, huyện Thường Tín, nổi tiếng bởi có làng thêu Đào Xá với những sản phẩm có chất lượng nghệ thuật tinh xảo. Nơi đây còn là điểm đến của nhiều du khách xa gần bởi một tổng thể kiến trúc liên hoàn đặc sắc là đình Đông, đình Tây, chùa Đào Xá. Cả 3 di tích này đều được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích lịch sử – văn hóa cấp quốc gia vào năm 2000. Đào Xá sở hữu nét đặc biệt mà ít có địa phương nào có được đó là trong một làng lại có tới 2 ngôi đình liền kề nhau. Hai ngôi đình được phân biệt theo cách gọi mộc mạc, dân dã: Đình Đông và đình Tây. Đình Tây Đào Xá vốn là đền thờ Chử Đồng Tử (một trong Tứ bất tử của người Việt) và Tiên Dung công chúa. Tương truyền, Chử Đồng Tử và Tiên Dung trong một lần đi ngang qua làng Đào Xá thấy phong cảnh hữu tình bèn dừng lại nghỉ chân. Để tưởng nhớ Đức thánh và Công chúa, người dân đã lập đền thờ. Đền được xây dựng thời Chính Hòa nguyên niên (1680-1705), đời vua Lê Hy Tông, có kiến trúc theo kiểu chữ “nhị”. Sau này, đền trở thành đình làng. Trước đại bái đình Tây có đôi sấu đá – linh vật phổ biến thời Lý – Trần, còn nguyên vẹn. Đại bái có 5 bậc lên, mái lợp ngói vảy cá, trên đắp nổi hình lưỡng long tranh châu, hai bên hồi có mái. Khoảng cách nối giữa đại bái và thượng điện khoảng 1m, hai bên cổng đắp hình tờ thánh chiếu đang mở ra. Hai bên vách đại bái có hai tấm bia đá chìm ghi lại sự kiện trùng tu đình. Đại bái có 2 bức đại tự chữ Hán “Nhạc độc chung linh” và “Thượng đẳng linh từ” ca ngợi công đức của đức thánh Chử Đồng Tử. Hệ thống cột gỗ được đặt trên các bệ đá, các đầu bảy được điêu khắc hình rồng tinh xảo cùng các linh vật được điêu khắc rời đặt trên hệ thống xà. Đình Đông Đào Xá trước là đền Lá Cọ, được xây dựng vào đầu thế kỷ XX theo kiểu kiến trúc liên hoàn hình chữ “tam”. Ba nếp nhà cao dần từ ngoài vào trong, nhà tiền tế có 4 hàng cột gỗ đặt trên trụ đá kiểu thắt cổ bồng, bên trái là một con chó đá nằm quay đầu ra ngoài. Ngôi đền thờ ông tổ nghề thêu Lê Công Hành (1606-1661), quê gốc ở làng Quất Động (nay là xã Quất Động, huyện Thường Tín). Nhờ giá trị tâm linh to lớn, đền được chuyển thành đình và được gọi là đình Đông để phân biệt với đình Tây thờ Chử Đồng Tử – Tiên Dung. Đình Đông có quy mô nhỏ hơn đình Tây. Đình Đông Đào Xá là nơi tổ chức lễ giỗ tổ nghề thêu Lê Công Hành vào ngày 12 tháng Sáu (âm lịch) hằng năm. Nằm giữa hai ngôi đình là chùa Đào Xá (Vân La tự), có quy mô nhỏ, với 36 pho tượng được bài trí theo từng lớp từ bái đường đến thượng điện. Trước sân chùa có cây hương chạm chữ Hán: “Vĩnh Khánh nguyên niên tuế tại Ất Dậu ngũ nguyệt cốc nhật” (dựng năm 1729, thời vua Lê Duy Phường). Đào Xá là một trong số ít làng còn giữ được kiến trúc tâm linh liên hoàn đình – đền – chùa và hệ thống sân, cổng, ao cùng cây cổ thụ. Tam quan là cổng chung cho cả quần thể được điêu khắc chi tiết. Trải qua thời gian, tam quan mang vẻ đẹp cổ kính, uy nghiêm. Mỗi cổng đều có 2 tầng, gác chuông, lầu khánh. Cổng chính đề 4 chữ Hán “Nhật chiếu nguyệt lâm”, hướng về phía tây nam, cao 15m, trước mặt là sân rộng tạo vẻ uy nghi, bề thế khi nhìn từ phía xa. Lễ hội làng Đào Xá tổ chức vào ngày 12 tháng Hai (âm lịch), cứ 5 năm lại tổ chức lễ tắm Thánh Chử Đồng Tử và Tiên Dung công chúa bằng nước lấy ở đầm Dạ Trạch (tỉnh Hưng Yên). Với những giá trị lịch sử to lớn, năm 2000, di tích đình Đông, đình Tây và chùa Đào Xá được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích lịch sử – văn hóa cấp quốc gia. Năm 2009, làng Đào Xá được UBND thành phố Hà Nội công nhận là Làng nghề truyền thống. Đào Xá được nhiều du khách xa gần chọn làm điểm đến trong hành trình du lịch văn hóa tâm linh. Đến với Đào Xá, du khách sẽ được chiêm bái những nét cổ kính, độc đáo của cụm di tích đình chùa với những nét tinh xảo, độc đáo trong kiến trúc, được hòa mình vào không gian xanh, sạch, đẹp của làng quê còn giữ được những nét đặc trưng của nông thôn đồng bằng Bắc bộ. Không những thế, nếu có thời gian, du khách sẽ có thêm những trải nghiệm tuyệt vời tại làng nghề thêu Đào Xá để hiểu thêm về vùng đất, con người nơi này. Nguồn Sở văn hóa và thể thao thành phố Hà Nội.
Hà Nội 2916 lượt xem
Hà Hồi là xã ở phía đông bắc huyện Thường Tín. Trước cách mạng tháng Tám năm 1945, xã Hà Hồi thuộc tổng Hà Hồi, phủ Thường Tín, tỉnh Hà Đông. Nhắc đến xã Hà Hồi phải nói đến ngôi đình cổ nằm trong trung tâm xã - đình Hà Hồi, là một trong 6 ngôi đình cổ của vùng đồng bằng Bắc bộ còn tồn tại đến ngày nay. Đình được xây dựng cách đây khoảng hơn 400 năm vào thời nhà Lê, thế kỷ XVI. Theo các nhà khảo cổ học, thì ngôi đình được xây dựng vào năm 1578, đời Mạc Mậu Hợp, thờ Đức thánh Cao Sơn là Thành hoàng của làng. Do có nhiều công lao với dân với nước, ngài Cao Sơn Đại vương đã được các triều đại phong tặng 24 sắc phong còn lưu giữ đến ngày nay, sắc phong cao nhất là Thượng đẳng tối linh thần. Theo dòng lịch sử, ngôi đình đã trải qua nhiều triều đại, sự thăng trầm của thời gian và chiến tranh, đình được tu bổ nhiều lần, song vẫn giữ nguyên được những giá trị nghệ thuật, kiến trúc tinh hoa của các nghệ nhân xưa. Đình Hà Hồi được xây dựng bố cục theo hình chữ Tam, hướng Nam chếch Đông, trước mặt là một thủy đình khá lớn. Tòa đại đình gồm 3 hạng mục lớn, nằm song song liền kề, gồm: Đại bái, Trung cung và Hậu cung. Mái đình được thiết kế theo kiểu hình thuyền lợp ngói mũi, các vì kèo được thiết kế theo hệ thống chồng giường, tạo nên sự vững chắc bề thế cho ngôi đình, phần nền được lát đá nguyên khối, tạo không gian thoáng mát. Đình còn lưu giữ bảo tồn được các mảng kiến trúc chạm trổ, điêu khắc nghệ thuật, thể hiện ở các bức cốn như: Tứ linh (Long, lân, quy, phượng), chuột ngó đầu gậm lá sen, các đầu dư, đầu bẩy chạm khắc rồng hết sức mềm mại và tinh vi. Bức hoành phi ở Trung cung phiên âm hán việt là: “Hộ quốc tí dân” (dịch nghĩa: Phù giúp đất nước, che chở muôn dân). Bên cạnh là đôi câu đối. Phiên âm Hán việt như sau: “Nãi văn nãi vũ, thần công hà hải hộ khang dân, Tối tú tối linh, thánh đức thường lưu phù quốc thái.” Dịch nghĩa: “Là văn là võ, công lao của thần như biển hồ ngầm giúp dân chúng yên ổn, Xuất chúng uy linh, đức của thánh lưu truyền phù trì vận nước thái bình”. Ngoài gian Đại bái có bức hoành phi chính giữa đề 04 chữ là “Sơn anh hà tú” (Tạm dịch nghĩa là: Núi sông anh linh tối tú). Ngoài ra đình còn lưu giữ được nhiều câu đối, hoành phi, cửa võng…và các hạng mục kiến trúc theo phong cách truyền thống bắc bộ, đặc biệt là hai pho tượng phỗng đá Xiêm Thành ngay trước cửa Hậu cung. Phía ngoài sân, trước thềm đại bái, hai đầu hồi có hai tượng chó đá, chính giữa có hai bệ đá chạm khắc rồng tinh tế, tỉ mỉ bằng đá Lam Sơn (Thanh Hóa). Hai dãy nhà hai bên (tả mạc – hữu mạc) hơi lùi xuống so với tòa Đình chính. Nhìn tổng thể từ ngoài vào cổng đình Hà Hồi có tới 5 cửa hay còn gọi là (ngũ môn), khác với những ngôi đình khác, cổng được xây dựng thiết kế theo hình vòng cung, ôm lấy ngôi đình, ba cửa chính giữa có dáng dấp của một tam quan, cửa chính cao tới 15m, tầng dưới được xây thành những khối vuông, cửa dạng cuốn vòm, mái kiểu chồng diêm lợp ngói ri. Hai bên cửa phụ được xây dựng nhỏ hơn, theo kiểu một tầng, nối với tường chạy bao quanh diện tích vào đến nhà Tả mạc - hữu mạc. Qua khỏi Ngũ môn nối với khoảng sân hẹp bắc qua thủy đình là chiếc cầu gạch có 5 nhịp, thành cầu được trang trí những viên gạch có màu men xanh ngọc. Có thể nói, Đình Hà Hồi là công trình kiến trúc nghệ thuật, toàn bộ không gian là tổng hòa của tri thức, ở đó mang hồn cốt kiến trúc dân tộc, ẩn chứa trong mình cả một hệ thống văn hóa – lịch sử. Với những giá trị nghệ thuật và giá trị lịch sử, Đình Hà Hồi như một báu vật lịch sử mà tiền nhân để lại cho hậu thế. Ngày 23/12/1985, Đình Hà Hồi đã được Bộ Văn hóa thông tin công nhận là Di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Thường Tín , thành phố Hà Nội.
Hà Nội 2711 lượt xem
Đình Tổng La Phù là ngôi đình của tứ dân La Uyên, Phúc Trại, Thọ Ngãi, Mai Hồng (xã Tân Minh) và Mai Sao (xã Nguyễn Trãi), tổng La Phù, huyện Thượng Phúc xưa (nay thuộc xã Tân Minh, huyện Thường Tín, Hà Nội), xây dựng nên cách đây gần năm thế kỷ. Đình vẫn được gọi theo tên tổng là đình La Phù. Đình tọa lạc trên một mảnh đất vìa làng thôn La Uyên, phía trước đình là dòng sông Nhuệ Giang, con đường giao thương thủy quan trọng của đất nước, nối kinh đô Thăng Long về miền Sơn Nam Thượng trước kia. Đây cũng là một trong số ít ỏi những ngôi đình tổng cổ xưa nhất không chỉ của Hà Nội, mà của cả vùng đồng bằng Bắc Bộ. Theo như cuốn ngọc phả và những tư liệu dã sử trong dân gian cho biết, đình Là thơ 3 vị thần là đức thánh cả Minh Lang đại vương, đức An Lang đại vương và đức Xạ Thần đại vương. Tam vị đại vương là những vị anh hùng, có công với dân với nước, hiển linh được nhân dân tôn vinh. Đức thánh cả Minh Lang đại vương chính là tướng quân Nguyễn Phúc, một cựu thần thời hậu Lê. Ông vốn là người xã Đoàn Tùng, huyện Trường Tân của xứ Đông (nay thuộc Hải Dương), đỗ tiến sĩ Hoàng giáp khoa Quý Dậu, năm Thái Hòa 11 (1453) triều Lê Nhân Tông. Cuộc đời làm quan, ông từng giữ chức Hàn lâm đại học sĩ, kiêm chức chức Thái phó, thầy dạy Lê Thánh Tông lúc nhỏ tuổi. Khi vua Lê Thánh Tông đi đánh giặc Chiêm Thành, sai Nguyễn Phúc chỉ huy việc vận chuyển quân lương. Trên đường biển vận chuyển gặp gió bão, quân lương vào chậm một ngày nên bị tử phạt theo quân luật. Do có quân lương nên nhà vua mới đánh thắng quân Chiêm Thành. Khi trở về luận công ban thưởng, vua Lê Thánh Tông minh oan cho Nguyễn Phúc và phong cho ông là Minh lang Đại vương, hộ quốc cứu dân, bảo quốc công thần, đồng thời, sắc chỉ cho 72 nơi thờ phụng. Nguyên xưa đình chỉ có một ngôi nhà Đại bái, công trình kiến trúc nghệ thuật xây dựng từ thời Mạc, cấu trúc mặt bằng hình chữ nhật dài 24m30m, rộng 9m30, hiên rộng 1m30, bốn mái đình rộng, xòe thấp. Các tàu mái bốn phía chạy uốn hình mạn thuyền, giao nhau tạo các góc đao uốn cong lượn lên trời. Tàu đao gỗ chạm cánh hoa. Bờ nóc, bờ dải mái đình đắp bờ đinh. Các lá mái đình lớp ngói mũi hài. Vào thời Nguyễn đời vua Bảo Đại 11 (1936) xây thêm hậu cung 3 gian là một ngôi nhà ở phía sau nằm song song với Đại bái. Đến năm 1948, giặc Pháp đốt phá hậu cung, khi hòa bình thống nhất đất nước nhân dân đóng góp xây dựng lại. Đặc biệt, về nghệ thuật điêu khắc thời Lê – Mạc trên kiến trúc hai bộ vì gian giữa phía sau giáp hậu cung, một bộ rường cốn có mảng điêu khắc nghệ thuật đúc chạm lộng một con rồng tạo nên khối hình ô van, con rồng hình yên ngựa, đấu đầu vào giữa thân lộ ra đôi mắt lồi, mũi tròn, miệng loe, tai dơi, từ đầu rồng phát ra hai phía những tia mác mảnh. Đây là tác phẩm nghệ thuật điêu khắc trên gỗ của thời Mạc khá sinh động. Trên bộ vì hạ rường cốn thứ hai phía sau giáp hậu cung được chạm rồng thời Mạc ở trên đấu, trên thân đầu rường và mảng cốn. Con rồng ở đây nguyên hình thể khối hình yên ngựa tai lớn, mắt lồi, đuôi bút lông. Mặt rồng ở giữa đặt trên lưng yên ngựa, miệng rộng, mũi dẹt và trán nhô cao. Những gì còn sót lại ở đình La Phù, tuy không nhiều nhưng cũng đã góp phần cung cấp tư liệu cho việc nghiên cứu mỹ thuật. Thời Mạc đình là một trong 5 ngôi đình mang dấu ấn của đình cổ xưa nhất. Phía tiếp sau là hậu cung, ngôi nhà 3 gian nằm phía sau và chạy song song với Đại bái được xây tường hồi bít đốc, hai mái chảy, lợp ngói ri bờ nóc chữ đinh, kìm đấu hình chữ nhật, kiến trúc gỗ của những bộ vì làm theo hình thức quá giang kèo cầu và có hệ thống trần vòm của mái cua. Hiện, đình Là còn lưu giữ được nhiều hiện vật quý hiếm như thần phả, 38 đạo sắc phong, đạo sớm nhất đời vua Lê Vĩnh Thịnh (1705); một kiệu bát cống chạm đầu rồng, miệng ngậm ngọc, mũi to tròn, bờm tóc lưới mác bay về phía sau phong cách nghệ thuật thời Lê; 5 tấm ván thưng chạm rồng yên ngựa thời Mạc; 2 rùa đá nghệ thuật điêu khắc thời Lê; 3 bộ hoành phi câu đối; 3 cỗ ngai chạm khác đầu rồng thời Nguyễn… Mỗi năm đình Là mở hai lần hội, xuân thu nhị kỳ. Trong đó hội chính là vào ngày 12 tháng 8 âm lịch. Hội lệ hàng năm vẫn diễn ra bình thường, nhưng hội chính thì 2 năm mới tổ chức một lần và 3 ngày 11, 12, 13 tháng 8 âm lịch. Với những giá trị về lịch sử, văn hóa, kiến trúc và nghệ thuật, đình Là đã được Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch công nhận là Di tích cấp Quốc gia năm 2003. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Thường Tín , thành phố Hà Nội.
Hà Nội 2559 lượt xem
Nhà thờ Nguyễn Trãi thuộc xã Nhị Khê, huyện Thường Tín, Hà Nội. Nguyễn Trãi (1380 - 1442), người anh hùng dân tộc, nhà văn hoá kiệt xuất, là danh nhân văn hoá thế giới, đã được Tổ chức-giáo dục Khoa học và Văn hoá của Liên hợp quốc (UNESCO) công nhận năm 1980. Nhà thờ Nguyễn Trãi được xây dựng ở thôn Nhị Khê, xã Nhị Khê, huyện Thường Tín. Ở Côn Sơn (Hải Dương) và các nơi khác cũng có đền thờ danh nhân - anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi. Cổng làng Nhị Khê đắp nổi bốn chữ Hán lớn: “Như kiến đại tân” (như thấy người khách lớn). Đó là tấm lòng của cổ nhân quý khách đến làng. Cổng này còn có tên gọi là “Cổng Quốc” - tương truyền gọi như vậy là để tưởng nhớ vị khai quốc công thần Nguyễn Trãi. Qua Cổng Quốc một đoạn đường ngắn là tới khu vực nhà thờ Nguyễn Trãi có tượng đài Nguyễn Trãi, nhà thờ, nhà trưng bày “Thân thế sự nghiệp Nguyễn Trãi”, thư viện Nhị Khê. Từ đó đến nay nhà thờ đã đón tiếp hàng triệu lượt khách đến tham quan chiêm ngưỡng và mọi người cùng có cảm tình với một tác phẩm có nội dung tốt, đã khắc họa chân dung Nguyễn Trãi - con người văn võ toàn tài. Qua khu tượng đài là đến nhà thờ. Phía trước nhà thờ có hồ bán nguyệt. Nhà thờ có hệ thống cột trụ, tường bao, cổng pháo... được đắp vẽ công phu theo kiểu đình làng. Qua một sân gạch nhỏ là tới Đại bái, nhà thờ Nguyễn Trãi được xây dựng bằng gỗ tứ thiết, đầu hồi bít đốc, trên lợp ngói ri cổ. Nhà thờ mang dáng dấp kiến trúc thời Nguyễn - kết quả của những tu bổ ở thế kỷ XIX. Nghệ thuật kiến trúc thiên về bền chắc, bào trơn, đóng bén. Nét nổi bật ở tòa Đại bái là các bức đại tự, hoành phi và câu đối đều được sơn son thếp vàng hoặc thếp bạc phủ hoàn kim thể hiện lòng tôn kính, biết ơn đối với bậc công thần, đại thi hào Nguyễn Trãi. Đó là các hoành phi: Khai quốc nguyên huân, Bình Ngô khai quốc, Bình dị cận dân.. Trên ban thờ Nguyễn Trãi ở Hậu cung có bức tranh chân dung Nguyễn Trãi, hòm sắc phong của các triều Lê và Nguyễn. Đặc biệt có một biển để trang trọng lời vua Lê Thánh Tông, năm Quang Thuận thứ 5 (1464) “Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo” (tấm lòng Nguyễn Trãi sáng đẹp như sao khuê). Đó là lời minh oan của nhà vua đối với Nguyễn Trãi. Đến thăm nhà thờ Nguyễn Trãi, khách sẽ được giới thiệu “Trại Ổi”, “Ao Huệ” nói về thân phụ của Nguyễn Trãi là Nguyễn Phi Khanh đã mở trường dạy học. Sự nghiệp vĩ đại của Nguyễn Trãi in đậm lên mảnh đất Nhị Khê. Nhà thờ Nguyễn Trãi đã được tu sửa nhiều lần. Nhân Đại lễ 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, thành phố Hà Nội và huyện Thường Tín đã đầu tư kinh phí để trùng tu, tôn tạo lại toàn bộ khu tưởng niệm Nguyễn Trãi. Nhà thờ Nguyễn Trãi đã được Bộ Văn hoá và Thông tin xếp hạng di tích lịch sử lưu niệm danh nhân năm 1964. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Thường Tín , thành phố Hà Nội .
Hà Nội 3844 lượt xem
Chùa Đậu (Thường Tín, Hà Nội) được công nhận hai kỷ lục quốc gia: Là nơi có tượng nhục thân đầu tiên ở Việt Nam và sở hữu cuốn sách ghi lịch sử chùa bằng đồng có nhiều trang và cổ xưa nhất Việt Nam. Tọa lạc trên một gò đất cao giữa cánh đồng làng Gia Phúc (xã Nguyễn Trãi, huyện Thường Tín, Hà Nội), Chùa Đậu - Đệ nhất danh lam cổ tự - trong hơn 1.800 năm qua vẫn luôn trầm mặc dưới bóng những hàng cây xanh mát, xung quanh là các hồ nước bao bọc và dòng sông Nhuệ hiền hòa chảy phía sau. Chùa Đậu có tên chữ là Thành Đạo Tự hoặc Pháp Vũ Tự, dân gian thường gọi là chùa Vua, chùa Bà, hay chùa Đậu, mỗi tên gọi đều gắn với một huyền tích. Theo cuốn sách cổ bằng đồng hiện vẫn đang được lưu ở Chùa Đậu, chùa được khởi công xây dựng từ thời Sỹ Nhiếp vào thế kỷ thứ III sau Công nguyên, cùng thời điểm xuất hiện sự tích về Phật mẫu Man Nương và hệ thờ Phật Tứ Pháp (bao gồm Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện). Ban đầu, chùa có tên là Thành Đạo Tự, sau khi chùa rước Đại thánh Bồ tát Pháp Vũ (vị nữ thần cai quản mưa) về thờ thì được gọi là Pháp Vũ Tự. Thời phong kiến, ngôi chùa chủ yếu dành cho các vị vua đến lễ Phật, còn người dân chỉ được vào lễ bái khi có lễ hội nên dân gian gọi là Chùa Vua. Chùa thờ Bồ tát Pháp Vũ hiện thân là nữ nên người dân cũng gọi là chùa Bà. Ngôi chùa nổi tiếng linh thiêng, các bậc chí sỹ cầu nghiệp lớn ở đây đều thi đậu khoa bảng, công thành danh toại; người làm nông cầu mùa màng bội thu cũng được như ý nguyện nên dân gian gọi tên khác là Chùa Đậu. Dưới thời vua Lê Thần Tông (thế kỷ XVII), chùa bị xuống cấp, sau đó được trùng tu lại, uy nghiêm và khang trang hơn. Sau đó, Vua ban sắc phong chùa là “An Nam đệ nhất danh lam” tức "Danh lam số một của nước Nam." Phật tử và nhân dân quanh vùng coi là đất Phật bởi sự linh ứng mà chùa mang lại. Chùa Đậu không chỉ có địa thế tuyệt đẹp như đang ngự trên bông hoa sen đang nở, mà còn là một quần thể kiến trúc nguy nga mang những nét nghệ thuật kiến trúc đặc trưng của các vương triều Lý-Trần-Lê-Nguyễn. Đặc biệt, chùa nổi tiếng với nhục thân Bồ tát của hai vị thiền sư tu hành đắc đạo Vũ Khắc Trường và Vũ Khắc Minh. Đây là hai trường hợp cực kỳ hiếm gặp trong chặng đường tu tập Phật giáo của các bậc thiền sư trong nước và trên thế giới. Với bề dày lịch sử, lưu giữ nhiều giá trị văn hóa, kiến trúc, nghệ thuật, Chùa Đậu đã được Nhà nước xếp hạng Di tích lịch sử, nghệ thuật loại A từ năm 1964. Hai pho tượng nhục thân của hai vị thiền sư được Nhà nước công nhận là Bảo vật Quốc gia năm 2016; Chùa Đậu cũng được xác lập kỷ lục là ngôi chùa có tượng nhục thân đầu tiên tại Việt Nam. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Thường Tín , thành phố Hà Nội.
Hà Nội 3017 lượt xem
Đền Bà Kiệu tọa lạc tại số 59 Đinh Tiên Hoàng, phường Lý Thái Tổ, Hoàn Kiếm, Hà Nội. Theo sử sách, đền Bà Kiệu có tên chữ là “Thiên Tiên điện” hay “Huyền Chân Từ”, trước đây thuộc thôn Tả Vọng, huyện Thọ Xương, tỉnh Hà Nội. Giữa thế kỷ XIX, đền thuộc thôn Hà Thanh, phường Đông Các, huyện Thọ Xương. Đầu thế kỷ XX, đền thuộc phố Bờ Hồ (Rue du Lac), tọa lạc theo hướng Nam, đối diện đền Ngọc Sơn. Đền thờ ba vị nữ thần là Liễu Hạnh Công chúa, Đệ nhị Ngọc Nữ và Đệ tam Ngọc Nữ (Quỳnh Hoa và Quế Hoa). Theo Thăng Long cổ tích khảo thì đền xây vào thời nhà Lê triều Vĩnh Tộ (1619-1628), đến triều Cảnh Hưng thì mở rộng thêm. Vào thời Tây Sơn triều Cảnh Thịnh đền đúc quả chuông lớn. Triều vua Tự Đức ngôi đền được tu sửa lần nữa. Đền Bà Kiệu xưa kia khá khang trang trong một khuôn viên đẹp và rộng rãi. Năm 1891, do thực dân Pháp xây đường vòng quanh Hồ Gươm nên khu đền bị tách làm hai phần: Tam quan nằm sát ven hồ Gươm gồm ba gian xây gạch kiểu “tường hồi bít đốc”, mái lợp ngói ta với các bộ vì kiểu chồng rường đỡ mái, thân các con rường chạm nổi hoa văn thực vật, vân mây; Kiến trúc chính gồm đại bái, phương đình và hậu cung được xấp theo dạng chữ “công”. Nhà đại bái gồm ba gian xây gạch kiểu tường hồi bít đốc, mái lợp ngói ta, mái nhỏ đều như gợn sóng . Bộ mái gần gũi với phong cách kiến trúc của cố đô Huế. Bờ nóc có dạng bờ đình, bên trên gắn hình cá hoá rồng bằng gốm hoặc men xanh đang nhìn vào bình nước thiêng ở giữa. Bộ khung được làm khá vững chắc với 8 cột trụ bằng gỗ lim, chu vi cột cái 115cm, cột quân 105cm. Các cột hiên nhỏ hơn được làm bằng đá trắng, hình hộp chữ nhật mỗi cạnh rộng 25cm. Nhà Tiền tế có 4 tượng cá chép hóa rồng đặt trên xà và dưới điểm của hai mái sau, trước. Các tường dẹt, được thể hiện khá sinh động, chau chuốt và đem lại hiệu quả đáng kể cho kiến trúc đến. Liền sau tiền tế là một kiến trúc nhỏ dựng trên bốn chân cột lớn kiểu phương đình, hai tầng bốn mái. Bốn mái chạm mảng hoa văn truyền thống phổ biến theo kiểu kiến trúc thời Nguyễn. Hậu cung là nơi tọa lạc của các vị thần được thờ với một nếp nhà ngang xây gạch kiểu “tường hồi bít đốc”. Các nữ thần được tọa lạc trong một khám thờ lớn, chạm khắc cầu kỳ. Lớp trên gồm ba pho trong tòa Thánh Mẫu. Lớp dưới có các tượng Công chúa Liễu Hạnh và hai tiên nữ Quỳnh Hoa, Quế Hoa. Ngoài khám thờ còn có bốn tượng nhỏ (hai tượng cô, hai tượng cậu). Hai bên có hai khám thờ nhỏ, bên phải đặt tượng chầu thủ đền, bên trái là Bà Chúa Thượng Ngàn. Hai bên là nơi thờ những vị thần phổ biến trong tín ngưỡng thờ Mẫu. Đền Bà Kiệu hiện còn giữ được bộ sưu tập di vật văn hoá lịch sử gồm nhiều chủng loại và chất liệu khác nhau trải dài qua ba triều đại Lê, Tây Sơn, Nguyễn. Trong đó phải kể đến bốn tấm bia đá dựng năm Cảnh Thịnh 8 (1800), Tự Đức 19 (1866) cùng hệ thống 27 đạo sắc từ triều Lê, Tây Sơn đến Nguyễn phong thần cho Bà Chúa Liễu và hai vị tiên nữ. Di tích đền Bà Kiệu đã được Bộ văn hóa – Thông tin (nay là Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch) xếp hạng Di tích lịch sử văn hoá, kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia ngày 2/5/1994. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận Hoàn Kiếm , thành phố Hà Nội.
Hà Nội 2842 lượt xem
Đình, đền Vũ Thạch có địa chỉ ở số 13 phố Bà Triệu, phường Tràng Tiền, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Đình, đền và chùa Vũ Thạch đã may mắn thoát khỏi sự phá huỷ vào cuối thế kỉ 19, đầu thế kỉ 20 khi thực dân cho dỡ bỏ làng cũ để xây nhiều công sở và phố Tây. Thời Pháp thuộc, cụm di tích đã được trùng tu, sửa chữa nhiều lần qua các năm: Tự Đức thứ 35 (1882), Thành Thái thứ 3 (1891) và Khải Định thứ 9 (1924). Đình Vũ Thạch là một trong những nơi thờ Khỏa Ba Sơn, vị tướng của Hai Bà Trưng. Theo các tư liệu còn lại, ông được Hai Bà cho lĩnh 500 quân tới ấp Hoa Động (nay thuộc xã Cự Khối, huyện Gia Lâm, Hà Nội) lập một đồn giả để lừa quân Hán, nhờ đó mà đánh bại được thái thú Tô Định. Sau khi lên ngôi, Hai Bà Trưng cử Khỏa Ba Sơn trở về đóng đồn tại ấp Hoa Động, song ông đã hoá ngay giữa buổi tiệc khao thưởng dân làng. Nơi thờ chính của ông hiện ở làng Xuân Đỗ, xã Cự Khối. Tại đây có cuốn Thánh tích ngọc phả ghi rất rõ về gốc tích và công trạng của ông, trong sách ghi niên đại “tháng trọng thu niên hiệu Vĩnh Hựu thứ 6” (tức năm 1740). Để tưởng nhớ công ơn vị thần này, dân làng Vũ Thạch mở hội đình vào ngày 10 tháng 2 và 15 tháng 10 Âm lịch hàng năm. Trong những ngày này bao giờ cũng có một đoàn của làng Xuân Đỗ (Hạ) đến cùng tham gia. Lễ hội có rất nhiều trò chơi dân gian truyền thống như hát ca trù, hát văn, biểu diễn võ dân tộc. Ngôi đình Vũ Thạch từng là nơi đặt hòm phiếu bầu Quốc hội khoá 1 (6-1-1946) và là nơi đóng quân Tự vệ thành Hà Nội trong 60 ngày kháng chiến cuối năm 1946 đầu năm 1947. Năm 1995, phường Tràng Tiền đã tiến hành dựng Bia tưởng niệm 77 anh hùng liệt sỹ là công dân của phường. Trải qua mấy trăm năm, đình Vũ Thạch đã được trùng tu nhiều lần. Khoảng sân trước đại đình có lẽ đã bị thu nhỏ diện tích khi người Pháp bắt đầu mở rộng phố xá. Phía sau và hai bên đình cũng bị dân lấn chiếm một phần đất. Dáng vẻ hiện nay cho thấy ngôi đình mang phong cách nghệ thuật kiến trúc của thời Nguyễn. Đình quay về hướng tây, cổng tam quan và bức tường dài xây giáp liền với hè phố Bà Triệu phủ bóng cây xanh. Nhà đại bái rộng 5 gian, kết cấu với thượng điện thành hình chuôi vồ, bên trong bài trí trang nghiêm theo lối truyền thống. Trong đình Vũ Thạch hiện có pho tượng thánh Khỏa Ba Sơn cùng 30 ngai thờ sơn son thiếp vàng, trong đó 5 ngai lớn được chạm trổ rất công phu. Đình cũng giữ được cỗ kiệu bát cống và bốn đôi lọ lộc bình men trắng vẽ lam có niên hiệu đời Thanh. Hoành phi, câu đối, cửa võng, hương án đều được trang trí đẹp đẽ, các đồ tế khí thể hiện trình độ chế tác rất cao. Đặc biệt nơi đây hiện còn lưu 5 sắc phong của các vị vua nhà Nguyễn mang niên hiệu khác nhau rải rác suốt thế kỷ 19: Gia Long (năm 1802), Tự Đức (1852 và 1879), Đồng Khánh (1886), Thành Thái (1889). Những sắc phong này đều thể hiện sự kính trọng đối với danh tướng Khỏa Ba Sơn. Đình Vũ Thạch và đền Mẫu liền kề cùng với chùa Vũ Thạch (trong ngõ 13b Bà Triệu) đã được Bộ Văn hóa – Thông tin xếp hạng là một cụm di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia vào năm 1986. Cổng thông tin điện tử quận Hoàn Kiếm , thành phố Hà Nội.
Hà Nội 2576 lượt xem
Chùa Quán Sứ là một ngôi chùa ở số 73 phố Quán Sứ, phường Trần Hưng Đạo, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội. Trước đây, địa phận này thuộc thôn An Tập, phường Cổ Vũ, tổng Tiền Nghiêm (sau đổi là tổng Vĩnh Xương), huyện Thọ Xương. Chùa Quán Sứ được xây dựng vào thế kỷ 15, năm 1942 được xây dựng lại và năm 1980 trở thành trụ sở trung ương của Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Sách “La thành cổ tích vịnh” do tiến sĩ Trần Bá Lãm soạn năm 1787 viết rằng: vào khoảng đời vua Trần Dụ Tông (1341—1369) triều đình cho dựng một tòa sứ quán để tiếp sứ thần các nước láng giềng Chiêm Thành, Vạn Tượng và Ai Lao. Triều ta vẫn theo nề nếp ấy. Từ đời Lê trung hưng về sau sứ thần có đến cống nạp phương và nghỉ ngơi ở đây … cho xây ngôi chùa thờ Phật để trấn yểm từ đó mới được bình an vô sự. Nhân thế gọi tên chùa Quán Sứ. Năm 1942 sư Tổ Vĩnh Nghiêm duyệt cho chùa xây dựng lại theo bản thiết kế của hai kiến trúc sư Nguyễn Ngọc Ngoạn và Nguyễn Xuân Tùng, với nghệ thuật kiến trúc và trang trí kết hợp tinh hoa từ các ngôi chùa lớn của miền Bắc. Mặt bằng các công trình tuân theo truyền thống “nội Công ngoại Quốc”. Tam quan chùa có ba tầng mái, ở giữa là lầu chuông. Một nét rất mới là ở đây tên chùa cũng như nhiều câu đối đều được viết bằng chữ quốc ngữ. Đi qua cổng tam quan rồi qua sân trước, du khách bước tiếp lên 11 bậc thềm mới tới chính điện. Toà Tam bảo xây cao đặt ở trên tầng hai, tầng dưới là để cách ẩm. Điện Phật được bài trí trang nghiêm, các pho tượng đều có kích thước khá lớn và thếp vàng lộng lẫy. Phía trong cùng, thờ tượng ba vị Phật Tam Thế trên bậc cao nhất. Bậc kế tiếp thờ tượng Phật A-di-đà ở giữa, hai bên có các tượng Bồ tát Quán Thế Âm và Đại Thế Chí. Bậc dưới đó, ở giữa thờ tượng Phật Thích-ca, hai bên là các tượng tôn giả A-nan-đà và Ca-diếp. Bậc thấp nhất, ở ngoài cùng có tòa Cửu Long đặt giữa các tượng Bồ tát Quán Thế Âm và Địa Tạng Vương. Gian bên phải chính điện thờ Lý Quốc Sư (tức Thiền sư Minh Không) với hai thị giả, gian bên trái thờ tượng Đức Ông. Bốn mặt xung quanh chùa Quán Sứ là những hàng hiên thoáng mát có các cột vuông chống đỡ. Hai dãy hành lang dài cách Tam bảo một khoảng sân đủ hút gió. Hương hoa đại thoang thoảng khắp nơi. Chùa Quán Sứ mới đây lại được trùng tu và nâng cấp, chủ yếu ở khu vực giữa và phía sau. Các tòa nhà chính và nhà phụ đều xây cao và rộng rãi, tường vẫn được quét vôi vàng như trước kia. Toà hậu đường gồm có 3 tầng, tầng giữa nối với chính điện qua một cầu thang lộ thiên. Chùa Quán Sứ có cả hội trường, giảng đường và thư viện Phật giáo. Chùa đủ chỗ để đặt văn phòng Phân viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam và văn phòng tổ chức Phật giáo Châu Á vì hòa bình (ở Việt Nam). Chùa cũng là nơi đặt văn phòng Hội đồng trị sự, văn phòng Hội đồng chứng minh và phòng khách quốc tế. Hiện nay các vị hòa thượng Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Hội đồng trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam cùng các vị thượng tọa, đại đức, tăng ni của văn phòng Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam đều làm việc ở chùa Quán Sứ. Các hội nghị Phật giáo ở cấp quốc tế và quốc gia cũng thường được tổ chức tại đây. Trong các dịp lễ lạt và cả ngày thường, chùa cũng có rất đông Phật tử và du khách đến thăm viếng. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận Hoàn Kiếm , thành phố Hà Nội.
Hà Nội 2947 lượt xem
Chùa Huyền Thiên Quán vốn là một quán của Đạo giáo, rồi chuyển thành chùa từ cuối thời Lê, hiện nay ở số 54 phố Hàng Khoai. Tương truyền quán Huyền Thiên được lập từ thời Lý và sớm nổi tiếng là một trong “Thăng Long Tứ quán” của đạo Lão (ba quán kia gồm: Đế Thích quán, nay là chùa Vua ở phố Thịnh Yên; Chân Vũ quán, tức đền Quán Thánh ở phố Quán Thánh; Đồng Thiên quán, nay là chùa Kim Cổ ở phố Đường Thành). Cuối thời Lê, đạo Lão suy tàn, quán chuyển thành chùa. Công trình được tu bổ, sửa chữa nhiều lần và định hình kiến trúc từ cuối thời Nguyễn trên địa phận thôn Huyền Thiên, tổng Hậu Túc, huyện Thọ Xương. Tại đây có hai dịp lễ lớn vào ngày 3/3 và 9/9 âm lịch hàng năm. Quán Huyền Thiên vốn là nơi thờ Huyền Thiên Thượng Đế, vị thần trấn phương Bắc được thờ ở đền Quán Thánh. Tục thờ này xuất hiện ở nước ta từ thời Bắc thuộc. Trong quán có một pho tượng của Ngài bằng gỗ trầm. Khi đạo Lão suy, đạo Phật thịnh, dân trong thôn đưa tượng Phật vào thờ chung, từ đó cũng quen gọi là chùa Quán Huyền Thiên hay đền Huyền Thiên. Văn bia “Trùng sáng Huyền Thiên bi minh” niên hiệu Vĩnh Tộ thứ 10 ghi rõ “…Đây thuộc về phường Đồng Xuân, huyện Thọ Xương, Phụng Thiên … tên là Huyền Thiên cổ quán… Phía đông gối vào sông Nhị Hà trắng xoá, phía tây nhìn sang non Tản xanh lơ, phía nam có cầu (Hà Kiều) phía bắc có chùa Hồng Phúc, thật là thắng tích …. Quán có từ thời Lê năm Thiệu Bình thứ 7 (1439)”. Bia còn cho biết hồi đó (tức năm 1628) nơi đây đã có 13 gian thờ Phật, thờ Mẫu và thờ thần Huyền Thiên. Tấm bia dựng năm Cảnh Trị thứ 6 (1668) đời vua Lê Huyền Tông ghi: quán được tô tượng, trùng tu tam quan, gác chuông, hành lang, thiêu hương, thượng điện, tương Tự như kiểu các ngôi chùa lớn thời Trần-Lê. Lại được “đúc chuông mới và san khắc sách Thánh đạo giáo kinh khoa, cả thảy 4 quyển lưu tại bản quán”. Việc trùng tu với quy mô lớn lần này là do chính chúa Trịnh ban Lệnh chỉ, nên có các cung tần trong phủ chúa cùng quan lại trong triều đóng góp công đức. Năm Cảnh Thịnh thứ 1 (1793) thời Tây Sơn chùa lại được trùng tu và đúc chuông. Thời Nguyễn chùa cất thêm 7 gian nhà hậu vào năm Tự Đức thứ 21 (1868). Đầu thế kỷ 20, khi thực dân Pháp lấp hồ và mở rộng phố xá, chùa bị thu hẹp. Năm Bảo Đại thứ 5 (1930) phần lớn công trình của chùa được xây dựng lại và định hình như hiện nay. Những ngày kháng chiến đầu năm 1947, chùa bị tàn phá, tượng thần Huyền Thiên bị cháy. Năm 1948 dân sở tại cùng khách thập phương quyên góp khôi phục chùa theo bố cục cũ kiểu “nội Công, ngoại Quốc”. Từ ngoài vào bao gồm cổng nghi môn, gác chuông, qua sân đến hai nhà bia, hai giếng cổ và nhà bái đường 7 gian xây kiểu vọng lâu 2 tầng 8 mái, nơi thờ thần Huyền Thiên. Thiêu hương chạy dọc như thượng điện, nối với 2 gian nhà ngang phía sau. Áp vào hai đầu hồi là hai dãy hành lang, nay dùng làm nhà khách. Năm 2014 chùa lại được trùng tu sau nhiều năm bị lấn chiếm và xuống cấp. Hai bên sân trước nhà bái đường có 2 bia đá lớn được đặt trong nhà bia. Tấm bia cổ mang niên hiệu Cảnh Trị thứ 6 (1668) bị vỡ nứt bề mặt, nhiều chữ không còn. May bản rập đã được Học viện Viễn đông Bác cổ cho in trước năm 1945, hiện lưu tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Văn bia cho biết quy mô kiến trúc của ngôi chùa quán thời đó cùng nhiều thông tin khác. Ngoài ra còn có 40 tấm bia to nhỏ khác nhau khắc chữ Hán Nôm được ốp lên tường dọc theo hai bên tòa bái đường và chính điện. Có một bài minh cho quả chuông nặng 500kg, cao 1m60, đúc năm Cảnh Thịnh thứ 1 (1793) treo ở gác chuông sau cổng. Cũng như các minh văn thời Tây Sơn khác, dòng niên đại Cảnh Thịnh ở đây bị đục bỏ vào thời Nguyễn. Lại có mấy chục văn bia quốc ngữ, chủ yếu khắc sau năm 1954. Trong chùa hiện cũng lưu giữ được các hệ thống tượng Phật giáo, tượng Thánh, tượng Mẫu, tượng đạo Lão cùng các đồ tế khí và trang trí đẹp đẽ. Điện Phật ở sau bái đường được thiết đặt trang nghiêm với nhiều pho tượng gỗ có giá trị nghệ thuật như tượng các vị Bồ tát Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền và tượng hai vị Hộ pháp cao 3m, v.v… Điện Mẫu ở trong hậu cung được bài trí đầy đủ theo đúng khuôn phép tín ngưỡng dân gian. Chùa Quán Huyền Thiên được xếp hạng Di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia năm 2008. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận Hoàn Kiếm , thành phố Hà Nội.
Hà Nội 2801 lượt xem
Chùa Bà Đá nguyên là chốn tổ của Thiền Phái Lâm Tế, một trong hai Thiền Phái lớn của Phật giáo ở miền Bắc Việt Nam. Chùa Bà Đá (Linh Quang tự) tọa lạc tại số 3 phố Nhà Thờ, Phường Hàng Trống, Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội, cách khu vực Hồ Hoàn Kiếm chỉ khoảng 100m. Nơi đây khi trước thuộc thôn Tiên Thị, phường Báo Thiên, tổng Tiên Túc, huyện Thọ Xương, phủ Phụng Thiên, kinh đô Thăng Long. Chùa Bà Đá là một trong bốn ngôi chùa Bà cổ kính bậc nhất Thủ đô cùng với chùa Bà Đanh, chùa Bà Nành và chùa Bà Ngô. Chùa Bà Đá nguyên là chốn tổ của Thiền Phái Lâm Tế, một trong hai Thiền phái lớn của Phật giáo ở miền Bắc Việt Nam. Chùa cũng gắn với nhiều chứng tích của hai cuộc kháng chiến cứu nước của nhân dân Hà Nội. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, chùa Bà Đá là cơ sở đi lại của cán bộ Việt Minh. Sau ngày thành lập Hội Phật giáo Thống nhất Việt Nam (5/1958), chùa Bà Đá là trụ sở Ban liên lạc Phật giáo Hà Nội. Sau khi Giáo hội Phật giáo Việt Nam thành lập (11/1981), chùa trở thành Trụ sở Thành hội Phật giáo Hà Nội. Từ năm 1992 tại chùa Bà Đá khai giảng lớp Trung cấp Phật học Hà Nội khóa đầu tiên (1989 – 1992). Cuối đời Lê Trịnh (1767 - 1782), khi người dân đào đất chung quanh vườn chùa để lấy đất đắp thành Thăng Long đã tìm thấy pho tượng đá. Người ta cho rằng đây là tượng của Phật bà nên rước vào thờ phụng trong chùa, từ đấy mới gọi là chùa Bà Đá. Tháng 6 năm Bính Ngọ (1786), quân Tây Sơn tiến vào Thăng Long, trong cuộc binh đao, ngọn lửa vô tình đã làm cho chùa Bà Đá hóa tro tàn. Chùa bị cháy chỉ còn một nền đất không, cỏ mọc rêu phong. Bấy giờ quan trên bắt dân làm cỏ vườn hoang ấy để sửa sang lại cảnh điêu tàn. Dân làng lại làm nên một ngôi chùa toàn bằng tranh tre để tỏ lòng kính Phật để có chỗ lễ bái. Năm Quý Sửu (1793), sư tổ Khoan Giai trụ trì chùa, dần dần dựng lên một ngôi chùa ba gian lợp ngói. Năm Tân Tỵ (1821), tổ Giác Vượng kế đăng, được thập phương công đức, bèn lập nên một ngôi chùa rộng lớn hơn, lại làm thêm mấy dãy hành lang và tăng phòng khách xá. Tiếp đấy là tổ Phổ Sĩ lên kế đăng… Từ đây trở đi, chùa Bà Đá hồi phục lại cái vẻ danh lam thắng tích như xưa. Chùa ngày nay có quy mô tương đối lớn với 5 gian tiền đường, 4 gian thượng điện và khu nhà thờ Tổ, thờ Mẫu nằm gọn trong một khuôn viên khép kín. Chùa không có tam quan như các chùa khác, lối vào là một ngõ hẹp sâu khoảng 9 mét. Mặt chùa hướng về phía Bắc. Kiến trúc độc đáo nhất của ngôi chùa này chính là mái hiên thấp được đỡ bằng bốn chiếc cột đá có kích thước khiêm nhường, tương xứng. Trên cột có các họa tiết chạm khắc rất tinh xảo và mềm mại, miêu tả cảnh bốn mùa và tứ quý. Trong chùa có nhiều tượng gỗ sơn son thiếp vàng, trên cao có tượng Tam thế, dưới là tượng Di Đà tam tôn. Sau đó là tượng Đức Phật Thích Ca niêm hoa, có tượng hai ngài Bồ tát Văn Thù và Bồ tát Phổ Hiền ở hai bên. Hàng dưới là Toà Cửu Long, các tượng đều có kích thước lớn hơn so với chùa khác, những pho tượng ở đây mang dáng vẻ riêng rất đẹp và cổ kính. Đặc biệt, nhà Bái đường không có Tượng Hộ Pháp như ở các chùa khác, nhưng có nhiều bia hậu gắn ở tường hai bên. Chùa cũng còn lưu giữ được một số hiện vật quý như hai quả chuông đồng đúc vào năm 1873 - 1881; khánh đồng đúc năm 1842. Chùa Bà Đá đã được UBND Thành phố Hà Nội xếp hạng di tích lịch sử - văn hoá năm 2006./. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận Hoàn Kiếm , thành phố Hà Nội.
Hà Nội 3237 lượt xem
Chùa Cầu Đông (Đông Môn tự) tọa lạc tại số 38B phố Hàng Đường (phường Hàng Đào, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội), xưa thuộc đất làng Đông Hoa Môn, thuộc tổng Hậu Túc, huyện Thọ Xương, thành Thăng Long. Tương truyền, chùa được khởi dựng vào thời Lý và đã trải qua nhiều lần trùng tu từ thế kỷ XVII - XIX. Sở dĩ chùa có tên Cầu Đông là bởi nhiều thế kỷ trước, gần khu vực này có một cây cầu bằng đá bắc qua sông Tô Lịch nối Hà Khẩu với các con phố và cửa phía đông của thành Thăng Long. Đồng thời, gần đó cũng có một khu chợ tên là chợ Cầu Đông. Vì thế, chùa được đặt tên là Cầu Đông. Chùa Cầu Đông xưa có khuôn viên rộng rãi. Trong tấm văn bia “Đông Môn tự” khắc năm Dương Hòa thứ 5 (1639) có đoạn miêu tả như sau: “Chùa Đông Môn đẹp như cảnh tiên, dải sông Nhị phô bày trước mắt...”. Đến thế kỷ XIX, khuôn viên chùa bị thu hẹp do thực dân Pháp lấp sông, mở đường; chùa được xây dựng lại theo phong cách đặc trưng của kiến trúc thời Nguyễn. Tam quan chùa khá đồ sộ, gồm 2 tầng 8 mái, bên trên là gác chuông. Tòa tam bảo được thiết kế theo hình chữ “Công”, gồm 5 gian tiền đường và 3 gian ống muống nối với thượng điện thờ Phật rộng 3 gian. Phía sau là sân rồi đến nhà Mẫu, nhà Tổ, nhà tăng. Ngoài ra, trong khuôn viên chùa còn có đình Đức Môn - nơi thờ vị tướng Ngô Văn Long thời Văn Lang, và một đài tưởng niệm liệt sĩ. Trong chùa Cầu Đông hiện còn nhiều di vật có giá trị: Quả chuông đồng - “Đông Môn tự chung” đúc năm Cảnh Thịnh thứ 8 (1800) thời Tây Sơn; 60 pho tượng tròn, trong đó có 3 pho tượng Tam thế được tạo tác vào thế kỷ XVIII, cùng nhiều mảng chạm trang trí có giá trị nghệ thuật cao. Đặc biệt, trong hậu cung có 2 pho tượng thờ là tượng Thái sư Trần Thủ Độ và phu nhân Trần Thị Dung - người được phong là Linh Từ Quốc mẫu. Họ là những người có công lớn với triều Trần, và bà Trần Thị Dung là người đã đứng ra tu sửa chùa Cầu Đông. Hai pho tượng được chạm khắc trong tư thế tọa sen, thể hiện thái độ quy Phật. Chùa Cầu Đông là nơi duy nhất tại Hà Nội thờ Thái sư Trần Thủ Độ và Linh Từ Quốc mẫu Trần Thị Dung. Bên cạnh những giá trị về văn hóa - lịch sử, chùa Cầu Đông còn là một di tích cách mạng. Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, đây là nơi che giấu cán bộ Việt Minh. Hiện nay, dưới ban thờ Mẫu của chùa vẫn còn dấu tích cửa hầm bí mật. Với những giá trị đó, năm 1989, chùa Cầu Đông và đình Đức Môn đã được xếp hạng Di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận Hoàn Kiếm , thành phố Hà Nội.
Hà Nội 2769 lượt xem
Đình Vạn Phúc (còn gọi là đình Tổng, đình Vạn Bảo) tọa lạc trên khu đất cao trong ngõ 194 phố Đội Cấn, quận Ba Đình. Đình được xây dựng từ thế kỷ thứ XI, là nơi thờ tự Linh Lang Đại Vương Thượng Đẳng Phúc Thần. Trại Vạn Bảo sau đổi là trại Vạn Phúc, có đình hàng tổng của khu Thập tam trại. Cụm di tích Vạn Phúc gồm đình Vạn Phúc, miếu Trắng và chùa Bát Tháp. Đình có nguồn gốc xa xưa từ thời xây dựng kinh đô Thăng Long (thời Lý). Khu vực này có ngôi đền thờ Linh Lang Đại Vương, theo truyền thuyết, người là Hoàng Chân, con thứ tư của vua Lý Thánh Tông (1054 - 1073), là người có công chống giặc Tống xâm lược gìn giữ kinh thành Thăng Long. Đình Vạn Phúc cũng là nơi đóng quân của ngài. Ngoài ra đình còn là nơi thờ Mẫu Thiên Tiên Lý Huệ Tông. Linh Lang Đại Vương có tên là Hoàng Chân, con trai thứ tư của Vua Lý Thánh Tông. Năm 1075, đất nước có nạn ngoại xâm, Linh Lang xin nhà vua cùng Hoàng tử Chiêu Văn chỉ huy Hạm thuyền vượt qua biển Vĩnh An, tiến công, đập tan các đồn bốt giặc, phối hợp cùng các đạo quân của tướng Tôn Đản đánh chiếm cơ sở chiến lược, tập trung lương thảo của giặc Tống xâm lược. Quân ta đại thắng, nhà Vua mở Đại yến, muốn nhường ngôi cho Hoàng tử nhưng ngài từ chối. Đất nước thanh bình được một thời gian, đến cuối năm 1076 giặc Tống lại đưa quân sang xâm lược nước ta, một lần nữa Hoàng tử lại cùng Hoàng tử Chiêu Văn chỉ huy Hạm thuyền từ Vạn Xuân ngược dòng Kháo Túc, bất ngờ tập kích vào phòng tuyến phía Đông của giặc Tống bên bờ bắc sông Như Nguyệt, đánh đuổi giặc Tống khỏi biên cương của Tổ Quốc. Tại dòng sông này Hoàng tử đã anh dũng hy sinh (mùng 10 tháng 02 Đinh Tỵ – 1077). Xét công trạng của hoàng tử nhà Vua ban phong Mỹ tự, cho phép 269 làng trại trong cả nước xây đền miếu thờ cùng sắc phong Linh Lang Đại Vương Thượng Đẳng Phúc Thần. Lễ hội chính của đình vào ngày 09/2 Âm lịch kỷ niệm ngày hóa của Đức Thánh, còn lại các ngày 12/9 Âm lịch ngày Đại yến khao quân, ngày 13/12 Âm lịch là ngày sinh của Đức Thánh. Tại đình còn lưu giữ chiếc trống lớn bậc nhất ở Hà Nội, mỗi mặt trống phải căng cả cỗ da của con trâu mộng và để mỗi khi đánh trống, toàn dân “Thập tam trại” đều nghe thấy. Đến năm 1986, đình Vạn Phúc đã được Nhà nước xếp hạng Di tích lịch sử – văn hóa quốc gia và là Di tích lịch sử – văn hóa vào năm 1992. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận Ba Đình , thành phố Hà Nội.
Hà Nội 2798 lượt xem
Đình Ngọc Hà ở ngõ 158 Ngọc Hà, phường Ngọc Hà, quận Ba Đình; đình được xây dựng vào khoảng cuối thời Lê trung hưng, thờ Đức thánh Huyền Thiên Hắc Đế. Ngọc Hà là tên của một trong Thập tam trại thời Lý; ngày nay bao gồm phần đất trước kia của ba ngôi làng cổ: Ngọc Hà, Hữu Tiệp, Đại Yên, nổi tiếng với nghề trồng hoa và làm thuốc nam. Chưa rõ ngôi đình Ngọc Hà được xây dựng chính xác vào năm nào nhưng dòng lạc khoản ở một câu đối tại nhà tiền tế cho biết ngày 16 - 10 - 1898, là ngày hoàn thành của đợt trùng tu dưới thời vua Đồng Khánh. Đình đã bị huỷ hoại trong cuộc chiến đấu bảo vệ Thủ đô vào cuối năm 1946, đầu năm 1947, đến năm 1952 đã được dân làng xây dựng lại. Bên trong đình có ban thờ Đức thánh Huyền Thiên Hắc Đế – vị thánh đã phò trợ vua nhà Lý đánh thắng giặc ngoại xâm, bảo vệ đất nước. Hội làng được tổ chức vào ngày 19 tháng Giêng, chung với làng Hữu Tiệp. Hai làng rước bài vị của thần đến núi Sưa để tế chung. Ngôi đình vốn nằm trên một cù lao giữa hồ nước, cổng nghi môn quay về phía nam, gồm 4 trụ biểu và 2 cổng phụ 2 tầng 8 mái giả. Sân trước đình có hai cây cổ thụ, ở giữa là bức bình phong với đôi voi đá chầu vào. Xa hơn có một ao vuông nhỏ rồi mới đến hồ nước. Hai bên tả hữu sân trong cổng nghi môn giáp với hai nhà giải vũ 3 gian đối diện nhau, chính giữa là bậc thềm dẫn lên toà tiền tế rộng 3 gian 2 chái. Cấu trúc tiền tế làm theo kiểu “trùng thiềm điệp ốc” và “thượng rường, hạ kẻ”. Tại đây có các hoành phi, câu đối, hương án v.v. thếp vàng rực rỡ. Tòa phương đình nằm sau tiền tế, mái làm kiểu chồng diêm 3 tầng, trên đỉnh đắp hình bầu rượu. Bốn góc phương đình có 4 cột đỡ được trang trí hình rồng cuốn, bên trong đặt cỗ kiệu bát cống chạm khắc hình rồng theo phong cách cuối Lê, đầu Nguyễn. Tòa hậu cung gồm 3 gian, gian giữa đặt ngai thờ, bài vị và đồ tế khí là những cổ vật quý báu tạo tác vào thế kỷ 19. Ngày 15-02-1992, Bộ Văn hóa và Thông tin đã xếp hạng là Di tích lịch sử văn hóa quốc gia Nguồn Cổng thông tin điện tử quận Ba Đình , thành phố Hà Nội.
Hà Nội 2570 lượt xem
Đình Giảng Võ thờ bà Lý Thị Châu Nương. Theo ngọc phả lưu giữ ở Đình, Bà là người Võ trại (Giảng Võ). Năm 16 tuổi, Bà đã tinh thông võ nghệ, trí dũng song toàn. Chồng bà là tướng quân Trần Thái Bảo - Đốc bộ Châu Hoan (nay là tỉnh Nghệ An). Trong cuộc chiến đấu chống giặc Nguyên Mông lần thứ ba, bị địch bao vây, Ông đã dẫn quân xông ra phá vòng vây, Bà giả trai chỉ huy binh lính giữ thành, bảo vệ kho tàng trong hơn một tháng. Sau đó, quan Thái Bảo chiêu mộ thêm quân sĩ, tiến về thành giải vây. Bà xuất quân cùng đánh, quân Nguyên thua phải rút chạy. Vua Trần Nhân Tông hay tin khen ngợi tài trí của Châu Nương và phong Bà là Khố nương Công chúa Quản trưởng Quốc khố Đại Phu nhân. Sau chiến công đó, Ông được phong chức Tiền quân Dực thánh chỉ huy đạo quân bảo vệ nhà vua và kinh thành Thăng long. Bà được nắm toàn quyền thu phát binh lương của Quốc khố kiêm cai quản phủ Phụng Thiên. Trong một trận chiến đấu ác liệt, Bà đã anh dũng hy sinh năm 1287. Vua Trần phong cho Bà là " Anh linh Hiển ứng Khố nương Công chúa Chủ Khố Đại vương Phu nhân Thánh Mẫu" và lệnh cho làng Giảng Võ lập đền thờ Bà. Để tỏ lòng kính phục người con gái anh hùng, Bà đã được tôn thờ làm Thành hoàng làng Giảng Võ nên Đền thờ Bà được gọi là Đình thờ, nhân dân quen gọi là Đình thờ Bà Chúa Kho (ngoài Giảng Võ là nơi thờ chính theo lệnh nhà Vua, nhiều làng ở Châu Hoan cũng lập Đền thờ Bà). Đình thờ Bà nằm ở giữa làng Giảng Võ xưa (nay là ngõ 612, đường La Thành, phường Giảng Võ, quận Ba Đình, Hà Nội), toạ lạc trên khu đất rộng gần 2.000 m2. Mặc dù bị chiến tranh và thời gian tàn phá, được trùng tu, xây dựng lại, Đình vẫn giữ được kiến trúc khá đẹp và cổ kính. Phía trước là miếu thờ Cô Đệ Nhật và Cô Đệ Nhị, hai người hầu của Bà. Chính giữa là nhà Phương Đình, phía trong là toà Đại Đình, nơi thờ Bài vị và Long ngai Bà. Di tích cổ nhất của Đình là 2 nhà Tả mạc và Hữu mạc nằm hai bên nhà Phương Đình. Đây là nhà có kiến trúc cổ độc đáo, kết cấu vì kèo quá giang, đầu hồi bịt đốc với các cây trụ đỡ mái. Đỉnh trụ là 2 con nghê quay mặt vào nhau. Ngoài ra, trong khuôn viên Đình còn có 4 con nghê đá, 2 tấm bia đá và một số trụ đá trước đây dùng để kê cột đình. Trên nóc Đình có bức đại tự ghi 4 chữ " Lý Trần phương danh"(tiếng thơm 2 họ Lý Trần). Trong Đình có bức đại tự "Nữ trung anh kiệt" (anh hùng hào kiệt trong giới nữ) và đôi câu đối ca ngợi Bà: Tài chính túc sung quân, môn nội mệnh văn Thiên tử chiếu. Âm mưu năng thoái lỗ, quốc trung danh chấn nữ thần cơ. Dịch : Của cải đủ nuôi quân, khắp chốn nghe tin Vua xuống chiếu. Mưu hay lui giặc dữ, nước nhà nức tiếng gái tài cao. Trước sân đình là những cây đa cổ thụ soi bóng trên làn nước trong xanh làm tôn thêm vẻ uy nghiêm, cổ kính của Đình. Ngày 20/07/1994, Đình Giảng Võ được công nhận là Di tích Lịch sử cấp Quốc gia. Đình Giảng Võ thờ Bà Chúa kho là ngôi đình thiêng của đất Hà thành. Hàng năm, Đình tổ chức lễ hội truyền thống vào ngày sinh (12/02 âm lịch) và ngày hoá (20/07 âm lịch) của Bà. Ngoài ra, vào ngày 23/12 âm lịch, Trung tâm Hội chợ Triển lãm Việt Nam, UBND phường Giảng Võ và Nhà hát Tuồng Trung ương phối hợp tổ chức rước bài vị và bát hương của Bà để cầu cho quốc thái dân an. Lễ hội được tổ chức trang trọng, đậm đà bản sắc dân tộc, không có tệ nạn mê tín dị đoan, thu hút rất đông nhân dân trong vùng và khách thập phương tham dự. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận Ba Đình , thành phố Hà Nội .
Hà Nội 2825 lượt xem
Khu Di tích lịch sử Đình - Đền Liễu Giai thuộc phường Liễu Giai, quận Ba Đình. Đền thờ Thánh Mẫu và Ngọc Nương công chúa. Theo thần tích còn lưu ở đền, tại làng Phan Sơn, huyện Bằng Châu, phủ Nam Sách, tỉnh Hải Dương, có một gia đình họ Lý húy là Nghi, vợ họ Hoàng, có truyền thống văn hóa ba bốn đời đều có người làm quan. Lý Nghi làm quan bộ Lễ thời vua Trần Nhân Tông. Một hôm trời nóng, bà ra hồ Bạch Nhạn tắm. Bỗng dưng sóng gợn, hiện lên một con rắn trắng bơi đến rồi quấn chặt mình bà. Năm sau, đúng giờ Thìn ngày 21 tháng 3 Giáp Thìn, bà sinh ra một bé gái, đặt tên là Ngọc Nương, càng lớn càng xinh, đức độ hiền hòa thông minh hơn người. Năm 18 tuổi, Ngọc Nương đi thuyền ngắm trăng vào đêm 17 tháng 8 Âm lịch, đến địa phận trại Liễu Giai thì gặp cơn dông. Lúc đó xuất hiện một con rắn dài khoảng 10 trượng đến đón Ngọc Nương về Thủy Quốc. Bố mẹ vô cùng thương xót, xây đền thờ Ngọc Nương trên mảnh đất long chầu hổ phục cạnh hồ Bạch Nhạn, sau gọi là hồ Đống Nước. Đời Trần Anh Tông, quân giặc Nguyên Mông sang xâm lược nước ta, Ngọc Nương đã âm phù giúp vua đánh thắng quân giặc một trận lớn. Vua bèn ban cho dân làng 100 quan tiền tu bổ sửa chữa đền thờ và sắc phong cho nữ sĩ: “Vạn cổ huyết thực, Dư quốc đông vô viết vi, Nữ bạch hổ trang, Thủy tinh tôn linh công chúa, Hộ nhị đệ nhất tử”. Sang các triều vua Vĩnh Khánh, Cảnh Hưng, Chiêu Thống, Minh Mịnh, Thiệu Trị, Tự Đức, Duy Tân, Khải Định đều có Sắc phong: Thủy Tinh công chúa Thượng đẳng phúc thẩm. Đền Liễu Giai quay hướng Tây Nam. Sau nhiều lần tu sửa hiện nay mang phong cách nghệ thuật kiến trúc thời Nguyễn. Đền được xây theo hình chữ “Công”, có lầu Cô, lầu Cậu, ở giữa là đền thờ Thánh Mẫu, bên hữu có lầu Mẫu Cửu Trùng Thiên. Trong thời kỳ chống Pháp năm 1946, thực dân nghi có các chiến sĩ cách mạng ẩn náu nên đã nã súng cối tàn phá, gây sập cháy. Lễ hội kỷ niệm Ngày hóa Đức Thánh mẫu Ngọc Nương Công Chúa vào ngày 17 tháng 8 âm lịch, ngày 12 tháng Giêng là Lễ hội kỷ niệm ngày hóa của thành hoàng Hoàng Phúc Trung. Đền – Đình Liễu Giai đã được Bộ Văn hóa Thông tin quyết định công nhận và xếp hạng di tích lịch sử nghệ thuật kiến trúc quốc gia ngày 27/12/1990. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận Ba Đình , thành phố Hà Nội .
Hà Nội 2695 lượt xem
Đền Núi Sưa tọa lạc trên đỉnh Núi Sưa thuộc khu vực phía Tây kinh thành Thăng Long của vùng đất Thập Tam Trại, nay thuộc công viên Bách Thảo, phường Ngọc Hà, quận Ba Đình. Đền thờ Huyền Thiên Hắc Đế - vị thần có công phò trợ Lý Thánh Tông đánh giặc Chiêm Thành, chống giặc ngoại xâm, bảo vệ nền độc lập, tự chủ của dân tộc. Đền được xây dựng vào thế kỷ XIX. Theo thần tích làng Hữu Tiệp, trước thời Lý, ở khu núi Sưa huyện Quảng Đức, phủ Phụng Thiên thuộc thành Thăng Long có một nhà hào trưởng nổi tiếng tên là Lý Phục, lấy vợ là Hoàng Thị Đức người bản khu. Vợ chồng gia sản giàu có, bản tính khoan hòa, tu nhân tích đức, hay cưu mang những người nghèo khó, bần hàn. Phàm những việc làm phúc cứu người không có việc gì không gắng sức làm. Chỉ có một điều vợ chồng đã ngoại tam tuần mà vẫn chưa có con, liền đến chùa Một Cột cúng cầu ngày đêm đèn hương không dứt. Một hôm, trong chùa tối om, bỗng thấy trên điện có tia hào quang chiếu sáng rực rỡ ở một góc, hình tựa bó đuốc. Vợ chồng mộng thấy một vị quan nhân râu tóc bạc trắng tay bế một đứa bé trai trao cho ông bà nói rằng đứa trẻ này là con thứ ba của Ngọc Hoàng, vì mắc tội đánh vỡ chén ngọc trên thiên đình nên phải giáng sinh xuống trần thế. Nay thấy nhà vợ chồng phúc dày, Hoàng Thiên đã soi xét cho đầu thai vào làm con của các ngươi. Nói đoạn vợ chồng ôm lấy đứa bé, thấy vị quan nhân bay lên trời đi mất. Lúc ông bà tỉnh dậy biết đó là giấc mộng tốt lành. Được ba hôm bà vợ biết mình có thai, từ đó ăn uống chay tịnh. Ngày 19 tháng Giêng năm Bính Dần, bà sinh một đứa bé mặt mũi khôi ngô giống y trong mộng, nước da ngăm đen tướng mạo phi thường. Cậu bé có nước da bánh mật, năm lên ba, gia đình làm lễ đặt tên là Hắc Công, cũng trong năm ấy không may bà mẹ qua đời. Hắc Công năm lên tám chẳng may trèo cây trượt ngã và hóa vào ngày 21 tháng 11. Dân làng thương xót những người chết trẻ bèn lập miếu thờ trên núi, dân lễ bái đông vì cầu sao ứng vậy. Khi Vua Lý Thánh Tông dẫn quân đi dẹp giặc Chiêm ở biên giới phương Nam, đêm nằm mộng thấy có cậu bé nước da đen xin đến phò Vua cứu nước. Khi vào trận Vua thấy có đám mây đen bao phủ bầu trời, che kín mắt quân thù. Trận đại thắng góp phần giữ yên nước Đại Việt. Vua cho là giấc mộng ứng với giấc mơ gặp thiên sứ, bèn ban cho trang Hán Xuân 100 quan tiền, xây lại miếu trên núi Sưa, phong cho vị thần là Huyền Thiên Hắc Đế là Thượng đẳng phúc thần, các nơi trong vùng hương khói thờ tự. Lễ hội Núi Sưa được tổ chức hàng năm vào ngày sinh của ngài - 19/1 âm lịch. Năm 2015, Đền Núi Sưa đã được xếp hạng là Di tích lịch sử văn hóa, kiến trúc – nghệ thuật. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận Ba Đình , thành phố Hà Nội.
Hà Nội 2692 lượt xem
Khu di tích Láng Le Bàu Cò tọa lạc tại xã Tân Nhựt, huyện Bình Chánh, Tp HCM. Láng Le Bàu Cò gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược vào năm 1948 với những trận đánh lớn đi vào lịch sử. Di tích Láng Le Bàu Cò được công nhận là di tích lịch sử cấp thành phố vào năm 2003. Sở dĩ được gọi tên là khu di tích Láng Le Bàu Cò vì Tên gọi của khu di tích Láng Le Bàu Cò là do người dân địa phương đặt ra. Xóm làng được thành lập cạnh những con kênh rạch chằng chịt và dòng sông. Láng Le Bàu Cò có vị trí nằm ở bên trong cánh đồng có diện tích rộng lớn và có rất nhiều tôm, cua, cá. Cùng với nhiều loài chim như vịt trời, cò, con le le, cúm núm, cồng cộc, đa đa, diệc, đỏ nách tới kiếm ăn tại đây. Vì vậy, người dân Tân Nhựt gọi với cái tên thân thuộc và mộc mạc đó là Láng Le Bàu Cò. Di tích Láng Le Bàu Cò được xem là cửa ngõ để di chuyển tới trung tâm căn cứ Vườn Thơm và tấn công cơ quan đầu não của quân địch tại Sài Gòn. Trước đây khu di tích Láng Le Bàu Cò vốn là cánh đồng lau sậy mọc um tùm. Vào ngày 15/4/1948 thực dân Pháp đưa 3 nghìn quân lính cùng nhiều vũ khí hiện đại đồng loạt tấn công khu vực Láng Le Bàu Cò nhằm tiêu diệt căn cứ Vườn Thơm. Khi đó lực lượng vũ trang cách mạng ở Láng Le - Bàu vì lực lượng nhỏ và vũ khí thô sơ tuy nhiên được sự giúp đỡ của người dân địa phương cùng với lợi thế về địa hình. Chỉ sau hơn nửa ngày đấu tranh đã chuyển sang tấn công khiến quân Pháp bị thương vong với số lượng lớn. Chiến thắng Láng Le Bàu Cò đã tiêu diệt 300 tên địch và bắt sống 30 lính đánh thuê cùng phá hủy nhiều máy móc, xe nhà binh, súng các loại của quân giặc. Tuy nhiên, về phía ta có nhiều cán bộ chiến sĩ đã anh dũng hy sinh với tuổi đời còn rất trẻ. Ngày 14/10/1966 tại Láng Le tiểu đoàn biệt động quân Việt Nam Cộng Hòa bị dân quân du khách tiêu diệt. Khu di tích Láng Le Bàu Cò có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với người dân Sài Gòn nói riêng và cả nước nói chung. Trước lòng căm thù thực dân Pháp, quân dân Láng Le Bàu Cò đã có cuộc chiến vang lừng lịch sử và có ý nghĩa to lớn mở đầu cho phía ta và phía địch. Đối với phía ta trận đánh mở đầu cho sự anh dũng trong tư thế kháng chiến vững mạnh. Còn với quân địch đã phải lùi vào thế bỏ chiến lược và bị tiêu diệt. Thực dân Pháp không còn định hình được chiến lược đánh bại Việt Minh. Hơn thế, tại căn cứ Vườn Thơm, Láng Le Bàu Cò còn diễn ra trận chiến quyết tâm bảo vệ căn cứ của ta và đập tan mọi kế hoạch phá hoại của quân giặc. Khu di tích Láng Le Bàu Cò sau phong trào Đồng Khởi vào năm 1960 còn là hậu cần, bàn đạp của lực lượng vũ trang để giải phóng Long An - Sài Gòn - Gia Định. Để tưởng nhớ sự hy sinh của đồng bào và các chiến sĩ của ta, vào năm 1988 huyện Bình Chánh đã xây dựng công trình lịch sử tại vùng đất Láng Le Bàu Cò với diện tích rộng 1000m2. Nguồn: Báo thông tin điện tử TP Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 11422 lượt xem
Nhà lao Tân Hiệp còn có tên là "Trung tâm cải huấn Tân Hiệp" tọa lạc ở khu phố 6, phường Tân Tiến, TP Biên Hòa. Di tích Nhà lao Tân Hiệp đã được Bộ Văn Hoá Thể Thao xếp hạng là di tích cấp quốc gia ngày 15-1-1994. Nhà lao Tân Hiệp là một trong sáu nhà tù lớn nhất miền Nam Việt Nam và là nhà tù lớn nhất vùng Đông Nam bộ, được xây dựng ở vị trí quân sự quan trọng, án ngữ phía đông bắc thị xã Biên Hòa. Phía trước là quốc lộ 1; phía sau là đường xe lửa Bắc - Nam. Đây là vị trí biệt lập, thuận tiện trong giao thông, dễ dàng cho việc bảo vệ, canh gác, nhận tù từ nơi khác đến và chuyển tù đi Côn Đảo, Phú Quốc... Nhà lao Tân Hiệp có diện tích 46.520m2 với 8 trại giam, trong đó có 5 trại giam những người tù cộng sản, người yêu nước. Xung quanh nhà tù được bao bọc bởi 4 lớp kẽm gai bùng nhùng với 9 lô cốt, 3 tháp canh cùng đội lính bảo vệ và hệ thống báo động tối tân. Mang tên "Trung tâm cải huấn" nhưng thực chất bên trong là kho súng, phòng xét hỏi, tra tấn với những dụng cụ hiện đại bậc nhất. Mỗi trại giam chỉ có diện tích gần 200m2 nhưng giam giữ từ 300-400 người, có lúc lên đến cả ngàn người. Đặc biệt ở đây có các phòng "cải hối", "chuồng cọp" rất nhỏ hẹp và điều kiện sinh hoạt cực kỳ khắc nghiệt, tù nhân sống chẳng khác gì trong lò thiêu xác. Chế độ ăn uống cực kỳ mất vệ sinh, bọn cai ngục mua gạo mục, cá thối dùng để bón ruộng, chiên bằng dầu luyn cho tù nhân ăn dẫn đến nhiều người bị ngộ độc. Với quyết tâm thoát khỏi nhà tù đế quốc, trở về với Đảng, với nhân dân để tiếp tục chiến đấu, giải phóng dân tộc, ngày 2-12-1956, được sự nhất trí của Liên Tỉnh ủy miền Đông, những chiến sĩ cộng sản bị "câu lưu" trong nhà lao Tân Hiệp dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Trọng Tâm (Bảy Tâm) - phụ trách Đảng ủy nhà tù và một số đồng chí khác đã bất thần làm một cuộc phá xiềng tập thể giải thoát gần 500 đồng chí, đồng bào yêu nước. Sự kiện này đã làm xôn xao cả Lầu Năm Góc. Mỹ - Diệm vội vã huy động cả quân chủ lực lẫn bảo an, dân vệ đang trấn thủ 3 tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một và hai biệt đoàn biệt động quân đến bủa lưới bao vây, truy bắt đoàn tù nhưng đều thất bại. Các đồng chí, đồng bào của ta thoát khỏi nhà lao Tân Hiệp đã được sự giúp đỡ, che chở của các cơ sở địa phương, trở về căn cứ an toàn. Trong số tù nhân vượt ngục có các đồng chí: Bảy Tâm, Hai Thông, Lý Văn Sâm... đã trở thành những hạt nhân nòng cốt cho phong trào Đồng Khởi sau này. Năm 2001, để tái hiện phần nào tội ác của Mỹ - Diệm đối với các đồng chí, đồng bào ta bị giam cầm tại nhà lao Tân Hiệp và diễn tả lại toàn bộ cuộc nổi dậy phá khám Tân Hiệp ngày 2-12-1956, Bảo tàng Đồng Nai đã tiến hành sưu tầm hình ảnh, tài liệu, hiện vật trưng bày tại di tích và làm một sa bàn để phục vụ nhu cầu nghiên cứu, tham quan của mọi tầng lớp nhân dân. Hàng ngày, di tích luôn mở cửa đón khách tham quan. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 10334 lượt xem
Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh còn gọi là đình Bình Kính tọa lạc bên tả ngạn sông Đồng Nai, xưa kia thuộc ấp Bình Kính, thôn Bình Hoành, tổng Trấn Biên, nay là ấp Nhị Hòa, xã Hiệp Hòa, TP Biên Hòa, đã được Bộ Văn Hoá – Thông Tin – Thể Thao & Du Lịch xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 25-3-1991. Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ 18, ban đầu ngôi đền có qui mô nhỏ, vách làm bằng ván, mái ngói âm dương, cách ngôi đền hiện tại khoảng 400m về hướng Nam. Các tư liệu cho biết: ngôi đền được xây dựng lại lần đầu tiên vào năm Tự Đức thứ tư (1851); đến năm 1923, đền được tái thiết lại ở địa điểm hiện nay. Nguyễn Hữu Cảnh sinh vào năm 1650 tại Gia Miêu, huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa trong một gia đình có nhiều bậc danh tướng đương triều. Ông là người văn võ song toàn, lập được nhiều chiến công lớn và được chúa Nguyễn tin yêu, trọng vọng. Mùa Xuân năm Mậu Dần (1698), ông vâng lệnh chúa Nguyễn vào kinh lược xứ Đàng Trong khi ấy còn rất hoang vu. Đến đất Đồng Nai, ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố (nay là xã Hiệp Hòa); lấy đất Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn, đất đai mở mang ngàn dặm. Ông chiêu mộ lưu dân đến lập nghiệp, tổ chức bộ máy hành chính từng bước có qui củ, khuyến khích khai hoang, thúc đẩy Cù lao Phố phát triển thành một trong những cảng thị sầm uất, năng động nhất đàng Trong suốt thế kỷ 18 và chính thức sáp nhập vùng đất mới phương Nam vào bản đồ Đại Việt. Sau khi kinh lược phương Nam trở về, năm sau ông lại phụng mệnh chúa Nguyễn Phúc Chu thống lĩnh đại binh dẹp vua Chân Lạp giữ vững miền biên ải phương Nam. Tháng 4 năm Canh Thìn (1700), sau khi hoàn thành sứ mệnh, trên đường trở về đến Rạch Gầm (Tiền Giang) thì ông thọ bệnh qua đời nhằm ngày 16 tháng 5 âm lịch, thọ 51 tuổi. Trên đường di quan ông về quê an táng, quan tài của ông được đình lại khu đất khi xưa ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố để cho nhân dân địa phương có dịp bái biệt ông lần cuối. Nơi đình quan đã được nhân dân địa phương xây một ngôi mộ vọng để ghi nhớ sự kiện này. Khi hay tin Nguyễn Hữu Cảnh mất, Chúa Nguyễn vô cùng thương tiếc đã phong tặng ông là Thượng đẳng công thần đặc Trấn phủ Chưởng cơ với tước: Lễ Thành Hầu và đưa bài vị của ông vào thờ tại Thái miếu. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 8302 lượt xem
Di tích chiến thắng La Ngà (tại km số 104-112 trên quốc lộ 20 đi Đà Lạt, thuộc xã Phú Ngọc, huyện Định Quán) được Bộ Văn hóa xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 12-12-1986. Để cổ vũ cho chiến thắng Việt Bắc thu - đông 1947 và cũng để giáng cho kẻ thù một đòn chí mạng, Ban chỉ huy chi đội 10 đã quyết định phải tổ chức một trận đánh lớn, để quân giặc thấy rằng dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam không dễ dàng chịu khuất phục trước bất kì một kẻ thù nào; Bằng tinh thần quả cảm và sự khôn khéo sau gần nửa năm chuẩn bị, nghiên cứu địa hình, chọn địa điểm: vào lúc 15 giờ 12 phút ngày 1/3/1948 trận chiến phục kích La Ngà bắt đầu và kết thúc vào lúc 15 giờ 57 phút cùng ngày, chỉ trong vòng 45 phút. Chiến thắng La Ngà đã làm nức lòng nhân dân Định Quán nói riêng, quân dân Đồng Nai nói chung. Đây là chiến thắng thể hiện sự mưu trí, dũng cảm của quân và dân ta làm cho địch một phen kinh hồn, bạt phía. Từ chiến thắng này lực lượng ta ngày càng thêm lớn mạnh, góp phần đánh bại kế hoạch đánh nhanh, thắng nhanh của địch, buộc chúng phải rơi vào thế bị động. Quần thể danh thắng đá Chồng, Thác Mai, sông La Ngà và Tượng đài chiến thắng La Ngà là một quần thể du lịch kì thú của Định Quán. Vẻ đẹp kỳ thú của Hòn Ba Chồng, Núi Đá Voi, Hòn Dĩa, cùng với ngôi chùa thiên nhiên dưới chân núi đá là những cụm tiêu biểu tạo thành cảnh đẹp hài hòa cho khu danh thắng Đá Chồng. Quần thể Đá Chồng Định Quán còn là nơi lưu lại những dấu tích của cuộc sống người tiền sử. Tại đây dưới các mái đá, ven các khe suối và cả các sườn dốc ven thung lũng đã phát hiện nhiều công cụ sản xuất, sinh hoạt của người xưa bằng đá, đồng, đất nung. Trong suốt cuộc kháng chiến dài 30 năm. Định Quán là một phần quan trọng của Chiến khu Đ. Đá Chồng đã chứng kiến sự hình thành, phát triển, trú quân, triển khai chiến đấu của lực lượng cách mạng. Ngày nay, một phần đất của khu danh thắng Đá Chồng Định Quán đã được sử dụng, xây dựng thành khu Trung tâm văn hóa thể thao huyện Định Quán. Tương lai không xa khu danh thắng Đá Chồng Định Quán sẽ được đầu tư tôn tạo góp phần làm cho cảnh quan thiên nhiên ngày càng tươi đẹp, là địa điểm du lịch sinh thái hấp dẫn. Nguồn: Uỷ Ban Nhân Dân Huyện Định Quán
Đồng Nai 8293 lượt xem
Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt, tọa lạc ấp Xóm Tháp, xã Tân Phong, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử - văn hóa ngày 23 tháng 7 năm 1993. Đồng thời là một trong ba công trình tháp cổ cuối cùng còn lại ở miền Nam nước ta. Trải qua nhiều lần trùng tu vào các năm 1938, 2003 và gần đây nhất là vào năm 2013. Mặc dù trải qua các đợt trùng tu tôn tạo, nhưng khu di tích tháp cổ Chót Mạt đã mang cho mình một diện mạo mới nhưng vẫn giữ nguyên được tinh thần kiến trúc cổ. Toàn bộ tòa Tháp được xây dựng bằng gạch và đá phiến với phần đỉnh tháp nhọn dần lên, từ mặt đất lên nơi cao nhất của đỉnh tháp được ước tính là 10m. Ngoài ra, ngọn tháp cổ này nằm trên gò đất cao giữa cánh đồng nên nhìn từ xa nó tựa như ngọn bút đang vươn lên cao dần. Năm 2003 Uỷ ban nhân dân tỉnh Tây Ninh quyết định phê duyệt dự án đầu tư trùng tu tôn tạo bảo tồn di tích tháp Chót Mạt và được tiến hành triển khai trùng tu tôn tạo phục hồi, trưng bày mở hố khai quật năm 2003 đưa vào sử dụng. Ngày 27/11/2019 UBND tỉnh ban hành Quyết định Quy định về phân cấp quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. Quyết định giao UBND huyện Tân Biên trực tiếp quản lý 4 di tích, trong đó có di tích cấp Quốc gia di tích Lịch sử- văn Hóa Tháp Chót Mạt. Đặc biệt Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt trên địa bàn xã Tân Phong, huyện Tân Biên được chọn nằm trong chũi liên kết phát triển du lịch của Tỉnh Tây Ninh. Đây là một địa điểm tham quan rất đáng để khám phá, góp phần phát triển du lịch trên địa bàn xã Tân Phong nói riêng và huyện Tân Biên nói chung. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Tây Ninh
Tây Ninh 7853 lượt xem
Thời kỳ nhà Mạc đóng đô ở Cao Bằng, để phòng bị quân nhà Lê tiến đánh, nhà Mạc đã tu bổ, sửa chữa thành Na Lữ (nay thuộc xã Hoàng Tung, Hòa An) và thành Bản Phủ (nay thuộc xã Hưng Đạo), thành Phục Hòa, ngoài ra còn xây dựng nhiều thành lũy khác ở Cao Bằng, làm cho Cao Bằng trở thành một trung tâm chính trị và quân sự ở vùng biên viễn Đông Bắc thời bấy giờ. Thành Na Lữ và thành Phục Hoà là hai thành được xây dựng từ trước. Theo ghi chép của Bế Hựu Cung trong Cao Bằng thực lục, thành Na Lữ và thành Phục Hòa mở đầu từ đời Đường Ý Tông năm Giáp Thân, niên hiệu Hàm Thông thứ 5 (874). Căn cứ vào sự hiện diện của nhiều ngôi mộ cổ có đá khắc ghi bia mộ tên, địa chỉ, quê quán những người phu dịch xây thành chết ở đây từ thời Hàm Thông có thể khẳng định hai thành này xây từ đời Đường. Thành Na Lữ được xây qua nhiều triều đại khác nhau. Khi nhà Mạc lên Cao Bằng đã cho xây lại bằng gạch. Thành Na Lữ có hình gần chữ nhật, có tổng diện tích khoảng 37,5 ha, chiều dài khoảng 800 m, chiều rộng khoảng 600 m, thành có 4 cửa. Thành Bản Phủ tại kinh đô Nam Bình, nước Nam Cương của Thục Phán khi xưa ở Cao Bình (Cao Bằng), nhà Mạc đã tu bổ thành Vương phủ tại vòng trong của kinh đô cũ Nam Bình và được gọi là thành Bản Phủ hay Vương phủ. Tại kinh đô Nam Bình xưa của nước Nam Cương và của nhà Mạc, thành Bản Phủ vẫn còn dấu tích khá rõ nét. Kinh đô Nam Bình gồm có hai vòng thành, để bảo vệ kinh thành, vòng ngoài có chu vi khoảng 5 km, gồm cả một vùng gò đồi thấp, quanh chân đồi được bạt dựng đứng như một bức tường thành, thuận lợi cho việc xây dựng phòng tuyến bảo vệ. Bờ thành phía Tây chạy song song với bờ sông Bằng đến đầu làng Bó Mạ, nối bờ thành Đông Nam chảy qua trước mặt Bản Phủ theo chân đồi ra gặp quốc lộ 4, phía Đông Bắc chạy theo chân đồi sát phía ngoài quốc lộ 4, lên đến Đầu gò là phía Tây Bắc tiếp tục chạy theo chân đồi, ra đến bờ sông gặp bờ thành phía Tây tạo thành một vòng thành khép kín. Khi nhà Mạc lên đóng đô đã tu sửa lại và xây dựng thêm một số công trình, trong đó thành Bản Phủ (thành nội - nơi của vua làm việc) được xây lên cao hơn trên các tường thành cũ từ thời kỳ Thục Phán, thành nằm trên một khu đất bằng phẳng. Cùng với việc xây dựng lại kinh thành, nhà Mạc còn xây dựng một hệ thống đồn bốt, thành lũy khá dày xung quanh kinh đô và một số điểm biên giới quan trọng, tạo thành một hệ thống bảo vệ kinh thành và bảo vệ biên giới. Thành Phục Hòa (huyện Phục Hoà) được xây theo kiểu hình vuông, mỗi chiều khoảng 400 m, gồm hai vòng thành, khoảng cách giữa hai vòng là 80 m. Hiện nay, tường thành phía Nam đã bị phá huỷ hoàn toàn. Thành Phục Hòa có 2 cổng chính: Cổng phía Bắc được mở thông ra quốc lộ đi Cửa khẩu Tà Lùng ngày nay, nhân dân thường gọi là Pác Cổng, cổng này được xây theo kiểu hình chữ nhật, rộng 8 m, cao 5 m, gồm hai cánh cổng làm bằng gỗ nghiến dày rất chắc chắn; cổng thứ hai ở phía Nam, mở thông ra bờ sông. Cả hai cổng đều bị san phẳng từ lâu, hiện nay không còn vết tích. Gần thành, tại phía Tây Bắc ngoại thành dọc bờ sông còn có nhiều vết tích lò nung gạch, nhân dân cho biết trong quá trình lao động, khai phá đã tìm thấy ở khu vực này nhiều lò gạch còn nguyên vẹn. Qua nghiên cứu, khảo sát cho thấy, tại Cao Bằng, nhà Mạc đã tu bổ, tôn tạo và xây dựng thêm nhiều thành, đồn luỹ, trong đó tu bổ, tôn tạo xây lại thành Bản Phủ, thành Na Lữ, thành Phục Hoà. Các đồn luỹ này đã tạo thành một hệ thống liên hoàn bảo vệ kinh thành khá vững chắc. Đến nay, những thành cổ nhà Mạc xây dựng thời kỳ đóng đô ở Cao Bằng, một số thành xây dựng bằng đất chỉ còn vết tích, nhưng các thành được xây bằng đá vẫn còn rất rõ. Nguồn: Báo Cao Bằng điện tử
Cao Bằng 7228 lượt xem
Dinh Quận Hóc Môn tọa lạc tại số 1, đường Lý Nam Đế, thị trấn Hóc Môn, (cạnh trụ sở UBND huyện) là nơi để lại nhiều sự kiện đấu tranh nổi bật suốt chặng đường dài lịch sử từ 1885 đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng của Nhân dân 18 Thôn vườn trầu. Sau khi hạ được Đại đồn Chí Hòa, thực dân Pháp xây dựng tại nơi đây một ngôi nhà gỗ cao 3 tầng dùng làm Đồn binh. Khi tên Trần Tử Ca về nhậm chức Đốc Phủ, dùng Đồn làm Dinh huyện Bình Long. Vốn là một tay say quỷ quyệt của thực dân Pháp, Trần Tử Ca bị nhóm do các ông Phan Văn Hớn (Quản Hớn) và Nguyễn Văn Quá (Chánh Lãnh Binh) cầm đầu gần 1.000 nghĩa quân tiến về đốt Dinh Quận, bắt và cắt đầu bêu giữa chợ. Đó là ngày 8/2/1885 Tết Ất Dậu. Sau đó, Dinh Quận Hóc Môn được xây dựng lại với nền móng đá xanh, tường gạch, có hệ thống phòng thủ từ lầu cao đến tận vòng rào. Lối kiến trúc y như Đồn binh nên người địa phương gọi là Đồn Hóc Môn. Trấn nhậm thay Trần Tử Ca là Đốc phủ Ngôn, đến Quận Trà rồi Quận Thọ. Đây là khoảng thời gian dài người dân vùng Hóc Môn hứng chịu bao cảnh tham tàn, bỉ ổi của thực dân Pháp và bọn tay sai đầu sỏ kể trên. Với truyền thống kiên cường bất khuất của Nhân dân Hóc Môn. Ngày 4/6/1930, khoảng 6 giờ sáng trước Dinh Quận, hàng trăm bà con Hóc Môn kéo biểu tình đòi “bãi bỏ thuế thân, giảm các thuế môn bài và thuế chợ, cấp đất cho dân cày nghèo”. Quận Trà cho mời những người cầm đầu vào Dinh thương lượng, nhưng chúng xảo quyệt bắt giữ họ trong đó có ông Lê Văn Uôi (Bí thư xã Tân Thới Nhì), là người cầm đầu cuộc biểu tình. Mọi người không nao núng, quyết liệt đòi hỏi Quận Trà phải thả những người bị cầm giữ. Đoàn biểu tình càng lúc càng đông, khí thế đấu tranh có phần lan rộng, khiến Quận Trà nhượng bộ. Một mặt chúng thả những người bị giữ, mặc khác chúng gọi điện cho quan thầy ở Sài Gòn cứu viện. 2 giờ sau, cuộc đấu tranh bị 2 tên Blachôlê và Nobbot chỉ huy bắn xối xả vào đoàn biểu tình, gây thương vong nhiều người. Nhưng sự kiện lịch sử gây ấn tượng nhất tại Dinh Quận Hóc Môn là cuộc khởi nghĩa Nam kỳ ngày 23/11/1940. Đồn Hóc Môn rất kiên cố, xây bằng đá xanh như là một pháo đài, cao khoảng 15 thước, có ụ súng và hệ thống phòng thủ lỗ châu mai do một trung đội lính khố xanh trấn giữ. Ngày 22/11/1940, Pháp tăng cường thêm 1 trung đội để đối phó với tình hình. Chiều 22/11/1940, cánh quân của ông Đỗ Văn Cội đột nhập vào thị trấn, giả dạng thường dân, phục kích sau lưng Đồn chờ lệnh cướp Đồn. Một cánh quân khác có nhiệm vụ phá cầu, đốn cây ngăn lộ, đánh chiếm các công sở, nhà việc... Cánh quân từ Phước Vĩnh An, Tân Thông, Tân An Hội, Tân Phú Trung do ông Phạm Văn Sáng và Đặng Công Bỉnh chỉ huy, xuất phát từ ấp Bến Đò, đánh chiếm nhà việc, diệt 1 tên, thu 4 súng, làm chủ tình hình tại đây (Tân Phú trung). Liền đó cánh quân này được lệnh kéo về Hóc Môn. Cánh quân Long Tuy Thượng do ông Bùi Văn Hoạt chỉ huy. Cánh quân thuộc Tổng Long Tuy Trung do ông Đỗ Văn Dậy và Lê Bình Đẳng chỉ huy. Khoảng 24 giờ đêm ngày 22/11/1940, vẫn chưa nghe thấy tiếng pháo lệnh ở Sài Gòn. Sau khi hội ý, các vị chỉ huy những cánh quân thống nhất tấn công Đồn giặc. Lập tức các cánh quân tiến thẳng về Đồn Hóc Môn, nơi trú ngụ của tên Quận trưởng Bùi Ngọc Thọ. 2 nghĩa quân tên Nghé và Kinh xung phong vào cổng trước, hy sinh. Nghĩa quân bốn phía xông vào Đồn như nước vỡ bờ. Trước sức mạnh của nghĩa quân và quần chúng, bọn lính trong Đồn không còn tinh thần kháng cự, bỏ chạy tán loạn. Nghĩa quân chiếm lĩnh hoàn toàn bên trong Đồn nhưng trên lầu, địch vẫn ngoan cố dùng súng bắn tẻ, cùng lúc gọi điện về Sài Gòn, Thủ Dầu Một cấp cứu. Vì nóng lòng bắt cho được tên Quận Thọ nên đồng chí Đỗ Văn Dậy bám ống máng nước để leo lên tầng trên Đồn. Đến lưng chừng bị trúng đạn, đồng chí bị rơi xuống và hy sinh sau đó. Cuộc chiến đấu đang thế giằng co thì viện binh địch đến. Không thể cầm cự, nghĩa quân rút khỏi thị trấn, phân tán về các làng, lực lượng vũ trang rút về ấp Bến Đò (Tân Phú Trung) rồi di chuyển sang ấp Mỹ Hạnh (Đức Hòa). Cuộc tiến công Đồn Hóc Môn (sau gọi là Dinh Quận Hóc Môn) tuy thất bại nhưng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng mọi người dân sự khâm phục lòng dũng cảm của các chiến sĩ cách mạng trong cuộc chiến đấu chống thực dân cướp nước. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, 7 giờ sáng ngày 30/4/1975, thị trấn Hóc Môn hoàn toàn được giải phóng, lá cờ Tổ quốc phất phới bay trên Dinh Quận, nơi tên Quận trưởng Nguyễn Như Sang và bọn tay sai đã chạy trốn từ tối đêm trước. Ngày nay Dinh Quận Hóc Môn được chọn làm Bảo tàng huyện, nơi đây tập trung nhiều tư liệu trưng bày, minh họa các giai đoạn lịch sử thăng trầm cũng như khí thế đấu tranh cách mạng của quân và dân trong huyện Hóc Môn qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Một Tượng đài đặt trước di tích Dinh Quận Hóc Môn thể hiện gương hy sinh bất khuất của quân và dân 18 Thôn Vườn trầu, được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn: Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 7164 lượt xem
Di tích tòa Đại sứ Mỹ còn được gọi "Nhà trắng phương Đông" là nơi xuất phát các âm mưu thâm độc về quân sự lẫn chính trị nhằm thôn tính lâu dài đất nước Việt Nam, địa điểm di tích là tòa nhà 5 tầng xây dựng theo kiến trúc hiện đại, tọa lạc tại góc đường Mạc Đĩnh Chi - Lê Duẩn, Phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, trên một mảnh đất rộng gần 5.000m2. Trước đó, tòa đại sứ Mỹ nằm tại số 39 đường Hàm Nghi. Khoảng 10 giờ sáng ngày 30/3/1963, tòa đại sứ Mỹ trên đường Hàm Nghi đã bị đội Biệt động F21 đánh chất nổ làm sập 3 tầng lầu: 1, 2, 3 do đó Mỹ đã quyết định xây lại. Tòa nhà được khởi công xây dựng vào năm 1965, hầu hết vật liệu cũng như máy móc xây dựng đều được chở từ Mỹ sang, dưới sự điều khiển của kỹ sư người Mỹ. Theo thiết kế, tòa nhà bao bọc bởi 7.800 viên đá Taredo có khả năng chống đỡ mìn, đạn pháo. Cửa chính trang bị bằng thép dầy, những cửa khác chắn bởi lớp kín dầy đặc biệt chống đạn. Tất cả cửa sử dụng hệ thống tự động kể cả cửa sắt chắn lối lên các tầng lầu. Bên trong tòa nhà gồm 140 phòng với 200 nhân viên phục vụ ngày đêm ngoài ra bên cạnh tòa nhà còn được xây thêm một dãy nhà phụ gọi là khu "Norodom" dành riêng cho nhân viên C.I.A. Khi khánh thành, tòa nhà chỉ có 3 tầng. Cuối năm 1966 xây thêm 2 tầng và 1 sân thượng dùng làm nơi hạ cánh cho máy bay lên thẳng. Bao quanh tòa nhà là bức tường cao 3m, hai đầu tường sát đường Lê Duẩn xây 2 lô - cốt cao, canh gác ngày đêm. Tòa Đại sứ hoàn thành tháng 9/1967 với một hệ thống phòng thủ như là một pháo đài có 60 lính gác, một hầm tránh bom, một hệ thống màn hình ra-đa nhằm kiểm soát mặt tiền. Ngay sau khi tòa nhà hoàn tất, ngày 24/9/1967, hàng ngàn sinh viên, học sinh kéo đến trước cổng Đại sứ quán Mỹ đấu tranh đòi "Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc", "Mỹ cút về nước" và ra thông báo tố cáo Mỹ "chà đạp và vi phạm nghiêm trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam". Nhưng sự kiện nổi bật xảy ra tại Tòa Đại sứ Mỹ là trận đánh của Biệt động thành trong Tổng Tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968. Mục tiêu đánh Đại sứ quán Mỹ được bổ sung ngày 24/ 1/1968 do Ngô Thành Vân phụ trách chung. Đội Biệt động 11 nhận lãnh nhiệm vụ quan trọng này gồm đội trưởng Út Nhỏ (đội trưởng trinh sát quân khu) và các chiến sĩ: Bảy Truyền, Tước, Thanh, Chức, Trần Thế Ninh, Chính, Tài, Văn, Đực, Cao Hoài Vinh, Mang, Sáu và 2 lái xe: Trần Sĩ Hùng và Ngô Văn Thuận. Một sự kiện khác cũng không kém phần tủi nhục cho Toà Đại sứ Mỹ là cảnh hỗn loạn tháo chạy xảy ra trong 2 ngày 29 và 30/04/1975 của Mỹ và đồng bọn. Trước sức tấn công thần tốc của quân và dân Việt Nam trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, trên 1.000 người Mỹ và hơn 5.000 người Việt thân Mỹ đã chen lấn, xô đẩy, đạp nhau để tranh giành một chỗ trên sân thượng của toà nhà hòng được trực thăng cứu thoát. Di tích này đã được cấp bằng công nhận của Bộ Văn hoá ngày 25/6/1976. Hiện nay, toà nhà Đại Sứ Mỹ đã bị phá bỏ, xây mới thành lãnh sự quán tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng cạnh đó một bia tưởng niệm ghi nhớ mãi chiến công của các chiến sĩ biệt động đã hy sinh trong trận đánh. Nguồn: Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 7078 lượt xem
Mai Xuân Thưởng là người lãnh đạo phong trào Cần Vương chống Pháp cuối thế kỷ XIX ở Bình Định. Mai Xuân Thưởng sinh năm Canh Thân 1860, mất năm Đinh Hợi 1887 người thôn Phú Lạc, tổng Phú phong, huyện Tuy Viễn, tỉnh Bình Định (nay là thôn Phú Lạc, xã Bình Thành, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Cha là Mai Xuân Tín làm Bố chánh ở Cao Bằng, mẹ là Huỳnh Thị Nguyệt con của một nhà quyền quý trong làng. Mai Xuân Thưởng vốn là người thông minh, ham học. Năm 18 tuổi (1878) ông đỗ Tú tài tại Trường thi Bình Định. năm 25 tuổi (1885) thi đỗ cử nhân. Hưởng ứng chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi, Mai Xuân Thưởng về quê Phú Lạc, chiêu mộ nghĩa binh, lập căn cứ ở hòn Sưng dựng cờ cần vương chống Pháp, sau đó Mai Xuân Thưởng đã đem lực lượng của mình gia nhập vào nghĩa quân do Đào Doãn Địch lãnh đạo và được Đào Doãn Địch phong giữ chức Tán lương quân vụ (phụ trách về lương thực của nghĩa quân). Kể từ đó cho đến năm 1887, phong trào cần vương ở Bình Định phát triển mạnh mẽ và lan ra đến Quảng Ngãi, Phú Yên...thu hút hàng chục ngàn người thuộc mọi tầng lớp tham gia. Ngày 20/9/1885 Đào Doãn Địch mất, giao toàn bộ lực lượng cho Mai Xuân Thưởng. Ông chọn vùng núi Lộc Đổng (nay thuộc xã Bình Tường, huyện Tây Sơn) làm đại bản doanh và tổ chức lễ tế cờ , truyền hịch kêu gọi sỹ phu, văn thân, nhân dân tham gia phong trào cần Vương chống Pháp. Trong buổi lễ ấy, nghĩa quân nhiều vùng trong tỉnh Bình Định đã nhất trí suy tôn ông làm Nguyên soái lãnh đạo cuộc khởi nghĩa và nêu cao khẩu hiệu: “Tiền sát tả, hậu đả Tây”. Đầu năm 1887, quân Pháp dưới sự chỉ huy của Trung tá Cherrean và quân triều đình do Trần Bá Lộc chỉ huy cùng với Công sứ Trira đã mở cuộc tấn công lớn lên căn cứ đại bản doanh của phong trào Cần Vương Bình Định, trận giao chiến giữa lực lượng nghĩa quân với giặc Pháp diễn ra vô cùng ác liệt, cuộc chiến đấu không cân sức, cuối cùng lực lượng khởi nghĩa bị đẩy lùi. Tháng 3 năm 1887, sau trận ác chiến ở Bàu Sấu (thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định), Mai Xuân Thưởng bị thương nặng, nghĩa quân rút về Mật khu Linh Ðổng. Ngày 21 tháng 4 năm 1887, Trần Bá Lộc bao vây đánh chiếm căn cứ mật khu Linh Đổng và bắt được một số nghĩa quân, trong đó có thân mẫu Mai Nguyên Soái. Đêm 30 tháng 4 năm 1887, Mai Xuân Thưởng đã cử một đội quân cảm tử đột nhập doanh trại Trần Bá Lộc, giải vây cho những người bị bắt, ông cùng đoàn thuộc hạ gồm 50 người vượt núi vào Phú Yên, tiếp tục kháng chiến, nhưng khi đến đèo Phú Quý (ranh giới giữa Bình Định và Phú Yên) thị bị phục binh Trần Bá Lộc bắt và đưa ra xử trảm tại Gò Chàm (Phía đông Thành Bình Định). Di tích Lăng mộ nhà yêu nước Mai Xuân Thưởng tọa lạc trên ngọn đồi cao của dãy núi Ngang (thuộc thôn Hòa Sơn, xã Bình Tường, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định) cách thành phố Quy Nhơn khoảng 50km về hướng Tây Bắc; Lăng mộ được xây dựng trên khu đất rộng 1988m2, khánh thành ngày 22 tháng 1 năm 1961.Về tổng thể, Lăng được thiết kế theo kiểu lăng mộ cổ, xung quanh có thành thấp bao bọc. Cổng Lăng (tam quan) là 4 trụ vuông, phía trên thắt lại theo kiểu bầu lọ mang dáng dấp kiến trúc cổng đình, miếu cuối thế kỷ XIX. Giữa nhà Lăng là mộ phần Mai Xuân Thưởng hình khối chữ nhật theo hướng Đông - Tây; Phía đầu mộ dựng tấm Bia đá khắc bài ký ghi tiểu sử và sự nghiệp của Mai Xuân Thưởng: Di tích được Bộ Văn hóa Thông tin quyết định xếp hạng cấp Quốc Gia ngày 20 tháng 4 năm 1995. Nguồn: UBND Huyện Tây Sơn tỉnh Bình Định
Gia Lai 6988 lượt xem
Di tích Ngã Ba Giồng là di tích lịch sử cách mạng thuộc Ấp 5, xã Xuân Thới Thượng, huyện Hóc Môn. Được bao quanh bởi ba con đường: Phan Văn Hớn, Nguyễn Văn Bứa và tỉnh lộ 19. Khu di tích Ngã Ba Giồng là khu tưởng niệm về những sự kiện lịch sử trong hai cuộc khácg chiến chống ngoại xâm. Được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia vào năm 2002. Ngã ba Giòng (còn có tên gọi đầy đủ là Ngã ba Giòng Bằng Lăng) nằm trên địa phận thôn Xuân Thới Tây thuộc 18 thôn vườn trầu xưa được hình thành từ những năm 1698 đến năm 1731. Từ lâu đời, Ngã ba Giồng là 1 địa danh có tên gọi dân gian đã đi vào lịch sử của quê hương 18 thôn vườn trầu Hóc Môn – Bà Điểm. Tục truyền rằng xưa kia nơi đây là 1 vùng đất giồng tương đối cao ráo và là nơi mọc nhiều cây bằng lăng nên địa danh này có tên gọi từ đó. Sau khi cuộc khởi nghĩa Nam kỳ (23/11/1940) bị thất bại, thực dân Pháp đã tăng cường đàn áp, khủng bố khốc liệt phong trào cách mạng vùng Hóc Môn – Bà Điểm. Chúng đã lập ra ở Hóc Môn 3 trường bắn để giết hại các đồng chí lãnh đạo Đảng, các đồng chí đồng bào yêu nước của quê hương Hóc Môn và các vùng lân cận. Ngã ba Giồng là trường bắn thứ ba ghi lại tội ác tày trời của giặc pháp và bọn tay sai đối với nhân dân Hóc Môn. Rút kinh nghiệm từ 2 trường bắn trước (1 tại rạp hát cũ trung tâm Quận lỵ Hóc Môn, 1 cạnh giếng nước sau Bệnh viện Hóc Môn ngày nay), chúng xử bắn công khai, bắt nhân dân đến xem nhằm mục đích uy hiếp tinh thần cách mạng của nhân dân Hóc Môn. Nhưng cách xử bắn đó đã phản tác dụng, nhân dân Hóc Môn đã tận mắt chứng kiến sự tàn ác của thực dân Pháp, sự hy sinh cao cả của các chiến sĩ cộng sản nên ngọn lửa yêu nước của họ càng bùng lên mãnh liệt. Trường bắn thứ 3 này, chúng không dám xây dựng gần trung tâm Quận lỵ nữa mà đưa ra khu vực Ngã ba Giồng là vùng hoang vắng, thưa dân để tránh sự phản kháng của nhân dân. Tại đây, chúng xây dựng thành 1 trường bắn có mô đất kiên cố dài 12m, cao 2,2m, phía trước có trồng 6 cột bắn, mỗi cột cao 1.7m, hướng bắn quay về phía đồng ruộng (bưng Tràm Lạc). Vào năm 1941, tại đây chúng lén lúc xử bắn rất nhiều lần, không cho nhân dân xem, hàng trăm chiến sĩ cộng sản và đồng bào yêu nước bị chúng giết hại. Với ý nghĩa lịch sử vô cùng thiêng liêng của Ngã ba Giồng, nơi ghi dấu tội ác dã man của giặc Pháp, nơi thể hiện ý chí chiến đấu bất khuất kiên cường và sự hy sinh cao cả của đồng chí và đồng bào ta sau cuộc khởi nghĩa Nam kỳ (23/11/1940); sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (30/4/1975), huyện Hóc Môn đã nhanh chóng khôi phục và tôn tạo khu di tích lịch sử cách mạng Ngã ba Giồng nhằm giáo dục truyền thống cho các thế hệ thanh thiếu niên. Nơi đây đã trở thành điểm tham quan, nơi tổ chức lễ hội truyền thống trong những ngày lễ lớn hàng năm của huyện Hóc Môn và thành phố đặc biệt là lễ kỷ niệm ngày Nam kỳ Khởi nghĩa (23/11). Hiện nay được sự nhất trí của thành phố, huyện đang tiến hành tôn tạo xây dựng Ngã ba Giồng thành “Khu tưởng niệm liệt sĩ Ngã ba Giồng”. Nguồn: Cổng thông tin điện tử Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 6820 lượt xem