Di tích lịch sử

Quảng Trị

Đình làng cổ Hà Thượng

Đình làng Hà Thượng nằm về phía Đông của làng Hà Thượng, thị trấn Gio Linh, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị; cách quốc lộ 1A chưa đầy 1 km về phía Đông và cách đường 75B khoảng 800m về phía Bắc. Đình có diện tích 8.450m2, nằm tại vị trí đắc địa, lưng tựa vào xóm làng, mặt hướng ra hồ lớn và cánh đồng trù phú. Phía xa xa trước mặt đình là một dải đất cao như tấm bình phong. Vị trí này phù hợp với phong thuỷ của người Việt. Theo các tài liệu lưu trữ, đình làng Hà Thượng được xây dựng năm Chính Hoà thứ 11 (năm 1690). Đến năm Thành Thái thứ 15 (1903), ngôi đình được đại trùng tu và xây mới một số công trình khác như cổng ngõ, tường thành. Phương pháp sử dụng tường gạch và cột xi măng đã được áp dụng. Hệ thống cột cù, cột hiên được thay bằng các trụ gạch đắp vữa và trang trí. Hệ thống tường cũng đã được xây lên xung quanh hai gian tiền sảnh…Toàn bộ khuôn viên bao gồm một tòa đại đình và 4 ngôi miếu thờ 4 vị thần: Miếu thờ Thành hoàng, hai miếu thờ hai vị khai khẩn họ Lê và họ Nguyễn, miếu thờ ông Lê Hiếu. Cấu trúc bộ khung gỗ chịu lực được thực hiện theo mô thức của một ngôi nhà rường 3 gian 2 chái, phân bố theo 6 hàng cột. Trên bộ mái lợp ngói, mái thẳng, độ dốc vừa phải; bờ nóc, bờ quyết, đầu đao gắn các mảng trang trí rồng chầu nguyệt, giao hồi văn, giao lá bằng nghệ thuật đắp vữa và ghép mảnh sành sứ. Bên trong ngôi đình được phân thành hai phần. Phần tiền đường gồm không gian của gian chái trước và hai gian ngoài dùng làm nơi sinh hoạt văn hóa, hội họp, ăn uống. Phần hậu liêu gồm không gian của gian chái sau và một gian trong dùng làm nơi thờ cúng, tế tự. Hệ thống cổng và tường thành phía trước đình được xây bằng gạch, xi măng; nền móng khá cao được xây bằng đá bazan. Các ngôi miếu thờ ở trong khuôn viên đình làng Hà Thượng đều có cổng và tường khép kín. Cấu trúc theo kiểu nhà rường một gian hai chái, các miếu đều có dạng gác lửng dựa trên bốn cột chính của bộ khung gỗ, có chức năng làm bệ thờ. Với lối xây dựng này, đình làng Hà Thượng được xem là sản phẩm tiêu biểu duy nhất còn sót lại thể hiện kiến trúc đình làng của miền Trung vào thế kỷ XVII. Đây là ngôi đình mà theo đánh giá của các nhà nghiên cứu lịch sử và mỹ thuật là cổ nhất, còn sót lại trong hệ thống di tích đình làng tại Quảng Trị với lối kiến trúc độc đáo nhất miền Trung; đây cũng chính là nơi thành lập Chi bộ Cộng sản đầu tiên của huyện Do Linh - Chi bộ Chợ Cầu. Với những giá trị lịch sử và kiến trúc Đình làng cổ Hà Thượng được công nhận di tích quốc gia năm 1991. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị

Quảng Trị 1962 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Di Tích Bến Đò Tùng Luật( Bến đò B)

Bến đò Tùng Luật là một trong những khu di tích lịch sử đặc biệt nổi tiếng, góp phần quan trọng trong công cuộc đấu tranh chống Pháp của nhân dân ta. Vào ngày 6/1/1950, ngay chính tại bến đò, Trung đoàn 95 và Đại đội 354 vượt sông, đánh bại quân Pháp tại đồn Cửa Tùng. Qua đó khẳng định sức mạnh, ý chí chiến đấu quật cường và tinh thần đấu tranh giải phóng dân tộc của quân và dân ta. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân và dân các xã đông Vĩnh Linh và Gio Linh đã hợp lực phá tan các đợt càn quét của giặc Pháp, loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm lính Pháp, tề ngụy, phá hủy nhiều phương tiện quân sự hiện đại của chúng. Bến đò Tùng Luật đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử, là cầu nối giữa hai bờ nam bắc, góp phần cùng với nhân dân cả nước đánh tan âm mưu xâm lược của thực dân Pháp. Ngày 21-7-1954, Hiệp định Geneve được ký kết, tưởng chừng đất nước sẽ hưởng hòa bình, độc lập, tuy nhiên, bến đò Tùng Luật lại phải bước vào những trang sử đầy máu, nước mắt. Lịch sử chống Mỹ-ngụy của bến đò Tùng Luật bắt đầu từ những chuyến đò xuyên màn đêm, bí mật đưa chiến sĩ, cán bộ quân báo vào Nam hoạt động trong những năm 1956-1965. Trong những chuyến đò đó có vị khách đặc biệt được bí mật đón qua sông, đó là Bí thư thứ nhất Lê Duẩn. Phải chịu những thất bại cay đắng của ngụy quyền Sài Gòn trước phong trào cách mạng ở miền Nam, quân Mỹ trực tiếp tham chiến. Bến đò Tùng Luật một lần nữa trở thành tâm điểm của cuộc chiến giữa chính nghĩa và bạo tàn. Với mật danh là “Bến đò B”, Bến đò Tùng Luật lại là cầu nối hai bờ bắc-nam sông Hiền Lương, là một trong những điểm xuất phát của đường Hồ Chí Minh trên biển, điểm khởi đầu của tuyến giao thông duy nhất nối đất liền với đảo Cồn Cỏ anh hùng. Đại đội dân quân thôn Tùng Luật được thành lập với quân số 110 người, có nhiệm vụ bảo vệ bến đò, chuyên chở bộ đội, dân quân, dân công hỏa tuyến và lương thực, vũ khí, đạn dược. Bến đò B chuyên chở các đoàn dân công hỏa tuyến của các xã: Vĩnh Long, Vĩnh Tân, Vĩnh Trung, Vĩnh Tú, Vĩnh Thành, Vĩnh Hòa... qua sông vào Nam phục vụ cuộc tấn công cứ điểm đồi 31, 28, Quán Ngang, Cửa Việt. Cũng trong thời gian chiến tranh ác liệt này, Bến đò B Tùng Luật được giao thêm nhiệm vụ vận chuyển, đưa người dân khu vực phía nam sông Bến Hải sơ tán ra miền Bắc. Bến đò B Tùng Luật đưa được gần 1,4 triệu lượt chiến sĩ, dân quân, dân công hỏa tuyến qua lại. Cũng chính bến đò này là điểm xuất phát của Đại đội 22, đơn vị cảm tử vận chuyển vũ khí đạn dược, thuốc men, lương thực cho đảo Cồn Cỏ bị hải quân Mỹ và chính quyền Sài Gòn phong tỏa. Hằng đêm, khi giông tố, biển động, mỗi con thuyền mang trên mình một tiểu đội dân quân được truy điệu sống trước khi lên thuyền ra đảo. Những dân quân vốn là những người dân đánh cá hiền lành bỗng trở thành chiến sĩ, sẵn sàng để “Sóng gọi hồn ta về đảo nhỏ”. Với những chiếc thuyền gỗ, thuyền nan chạy buồm, chèo tay xuyên màn đêm vào những thời khắc biển động, từ năm 1965 đến 1972, Đại đội 22 đã vận chuyển hàng nghìn tấn đạn dược, vũ khí, lương thực, thực phẩm cho đảo Cồn Cỏ, góp phần giữ vững tiền đồn của Tổ quốc trên Biển Đông. Bến đò B là điểm sinh tử vô thường nhất của đất nước thời kỳ chiến tranh chống Mỹ, cứu nước. Biết bao người con của đất Tùng Luật và nhiều miền quê khác của đất nước đã nằm lại nơi đây với máu, xương hòa trộn nước sông Hiền Lương và bùn cát của đáy sông này. Nhờ những đóng góp to lớn trong 2 cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ cứu nước, vào năm 1996, di tích lịch sử bến đò Tùng Luật đã được nhà nước ta công nhận và xếp hạng là di tích lịch sử quốc gia. Để khắc ghi những kỳ tích của quân, dân đã chiến đấu và hy sinh anh dũng, tại bến đò này đã xây dựng tượng đài Bến đò B. Tượng đài được xây trên một diện tích khoảng 100m2. Tuy nhiên, theo các nhân chứng lịch sử và các nhà nghiên cứu, quy mô cấu trúc và hồn phách của tượng đài chưa thật sự tương xứng với những kỳ tích to lớn của quân, dân ta, nhất là sự hy sinh của rất nhiều chiến sĩ trên mảnh đất này. Vì vậy, cán bộ và người dân thôn Tùng Luật, người dân Vĩnh Giang, Vĩnh Linh và những người lính từ nhiều miền đất nước từng chiến đấu nơi đây, những người có con, em đã nằm lại nơi này rất mong muốn và đề nghị chính quyền địa phương, cơ quan chức năng tỉnh Quảng Trị sớm nghiên cứu, tu bổ, nâng tầm di tích lịch sử Bến đò B Tùng Luật cho tương xứng với chiến tích lịch sử hào hùng của địa danh này. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Trị

Quảng Trị 1898 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Khu tưởng niệm vụ thảm sát Mỹ Thủy 1948

Mỹ Thuỷ là một làng nằm phía Nam của xã Hải An, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị, cách thị trấn huyện lỵ Hải Lăng và quốc lộ 1A chừng 15 km về phía Đông theo tỉnh lộ 8. Địa điểm khu vực phía Bắc đường tỉnh lộ 8, đầu làng Mỹ Thuỷ là Trung tâm diễn ra vụ thảm sát làng Mỹ Thuỷ năm 1948 đã được bộ văn hoá thông tin xếp hạng di tích quốc gia theo quyết định số 38-2001/Quyết Định -Văn Hóa Thể Thao ngày 12 tháng 7 năm 2001. Mỹ Thuỷ là một làng biển nằm trên triền Đông của cồn cát đại trường sa được hình thành tương đối muộn từ sau thế kỷ XVII. Cũng như nhiều làng biển khác trên vùng đất Quảng Trị, người dân Mỹ Thủy từ lâu đời đã gắn chặt cuộc sống của mình với biển bằng sự chống chọi với sóng gió và những nỗi lo toan vất vã cực nhọc trong kế mưu sinh. Chính trong hoàn cảnh đó đã hun đúc nên trong con người Mỹ Thuỷ đức tính chịu thương, chịu khó, đôn hậu, bao dung và một tấm lòng khẳng khái, kiên trinh, bất chấp kẻ thù để đi theo cách mạng. Trong những năm 1930-1945, phong trào cách mạng ở Mỹ Thuỷ dưới sự chỉ đạo của chi bộ Triệu Lăng đã có những hoạt động tích cực, góp phần cùng cả vùng Hải Lăng làm nên thắng lợi của cuộc tổng khởi nghĩa tháng 8 năm 1945. Sau cách mạng tháng 8 thắng lợi, Mỹ Thuỷ là một thôn của xã Hải Châu. Từ khi thực dân Pháp quay trở lại bình định Quảng Trị (tháng 01 năm 1947), do có nhiều ưu thế về chiến lược nên Mỹ Thuỷ vừa là vùng giáp ranh vừa là vùng tự do) để khống chế và làm chủ địa bàn nhưng vẫn không thể lập được hội tề. Phong trào cách mạng vẫn luôn duy trì và phát triển. Dựa vào vị trí giao thông thuỷ bộ thuận lợi lại xa trung tâm chính trị của Mỹ Thuỷ, bộ đội chủ lực, cán bộ kháng chiến đã chọn đây làm địa bàn dừng chân, củng cố lực lượng, tiến hành chiến tranh du kích. Nhân dân Mỹ Thuỷ một lòng theo Đảng, theo kháng chiến. Đặc biệt, sau năm 1947, chiến trường Trị Thiên gặp nhiều khó khăn: dân đói , cán bộ, bộ đội thiếu lương thực, thuốc men, đạn dược ... Quân khu IV đã tổ chức vận động các tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh chi viện để giúp Trị Thiên tiếp tục kháng chiến. Do không có điều kiện vận chuyển đường bộ nên hàng hoá phải vận chuyển bằng đường biển và tập kết ở các vùng bãi ngang, xa tầm kiểm soát, khống chế của chính quyền Pháp và tay sai. Ở Mỹ Thuỷ đường giao thông liên lạc tiếp tế vận tải Bình Trị Thiên đã nhiều lần tập kết và phân tán hàng hóa, vũ khí trót lọt. Chính điều này đã làm cho quân Pháp vô cùng cay cú và điên cuồng tìm cách tiêu diệt phong trào cách mạng tại Mỹ Thuỷ, liên tục tổ chức các cuộc càn quét, đốt phá và gây ra những tội ác dã man. Kể từ khi tiến quân bình định Quảng Trị ( tháng 01 năm 1947 – ngày 08 tháng 4 năm 1948), quân Pháp đã tiến hành 3 lần càn quét, đốt phá thôn Mỹ Thuỷ . Ngày 05 tháng 3 năm 1947 (ngày 2 tháng 2 năm Đinh Hợi), quân Pháp tràn vào làng Mỹ Thuỷ đốt cháy gần hết nhà cửa, giết chết 3 người. Trong các ngày 17,18 và 19/3 /1948, thực dân Pháp đã huy động lực lượng đồng loạt càn quét vào các thôn xóm thuộc vùng đồng bằng Hải Lăng với chiến dịch mang tên “Tuần lễ Hải Lăng”. Trong đợt càn quét quy mô này, chúng đã giết hại hơn 1.300 người, đốt cháy hàng ngàn ngôi nhà, cướp đi rất nhiều tài sản, trong đó có làng Mỹ Thuỷ. Ngày 19/3/1948, Chỉ sau 1 giờ đồng hồ gây tội ác rồi rút đi, quân đội Pháp và tay sai đã giết chết 74 người dân Mỹ Thuỷ vô tội; Trong đó phần lớn là đàn ông trung niên, trụ cột gia đình. Hàng trăm mét lưới, ngư cụ và hơn 20 xuồng đánh cá bị phá huỷ hoàn toàn. Đây vừa là cuộc thảm sát vừa là đòn đánh vào kinh tế hồng đè bẹp tinh thần, ý chí kháng chiến của nhân dân Mỹ Thuỷ. Chưa đầy 20 ngày sau vụ thảm sát, khi cỏ trên những nấm mồ của những người bị giết ngày 19 tháng 3 còn chưa kịp mọc thì ngày 08 tháng 4 năm 1948, thực dân Pháp lại tiến hành một cuộc tàn sát, đốt phá dã man hơn, tàn bạo hơn theo đúng nghĩa “3 sạch” vào dân làng Mỹ Thuỷ. Sau hơn 3 giờ thoả sức đốt phá, hãm hiếp cướp bóc, quân Pháp mới chịu rút quân để lại một làng Mỹ Thuỷ hoang tàn, tang tóc; cát trắng loang lổ máu người, hàng đống thịt xương ngập ngụa trong những ngôi nhà đang cháy. Cả làng chỉ sót lại một vài đứa trẻ và chưa đầy 20 người. Có 452 người dân vô tội đã bị sát hại cùng toàn bộ nhà cửa, ngư cụ của dân làng Mỹ Thuỷ bị huỷ hoại hoàn toàn. Đây là một vụ thảm sát dã man và có số lượng người chết nhiều nhất mà thực dân Pháp đã gây ra cho đồng bào Quảng Trị. Vụ thảm sát Mỹ Thuỷ năm 1948 là bằng chứng hùng hồn về tội ác giết người dã man của thực dân Pháp đối với nhân dân Mỹ Thuỷ nói riêng và nhân dân Quảng Trị nói chung; là nỗi đau thương mất mát, nhưng cũng là biểu thị một truyền thống đấu tranh anh dũng, kiên cường của những người đã hy sinh vì độc lập dân tộc. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Trị.

Quảng Trị 2048 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Chiến thắng Khe Sanh - Làng Vây

Đầu năm 1968, Khe Sanh - Hướng Hóa bỗng nhiên được cả thế giới chú ý, theo dõi khi Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương quyết định mở Chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh. Không chỉ đội ngũ cố vấn quân sự của Mỹ ở Sài Gòn mà ngay cả những chuyên gia quân sự hàng đầu của nước Mỹ cũng bị “mất phương hướng” khi cho rằng sẽ có một “Điện Biên phủ khác” ở Khe Sanh. Tổng thống Mỹ B.Johnson chỉ đạo thiết lập “Phòng tình hình đặc biệt”, làm sa bàn Khe Sanh ở Washington, yêu cầu tướng Westmoreland - Tư lệnh Bộ chỉ huy cố vấn quân sự Mỹ tại miền Nam Việt Nam phải ký giấy cam đoan không được để mất Khe Sanh bằng mọi giá vì đó là danh dự của nước Mỹ. Thung lũng Khe Sanh nằm ở vùng rừng núi heo hút phía tây Quảng Trị, được xác định là một trong những địa bàn chiến lược ở khu vực giáp ranh giới tuyến. Năm 1966, tại khu vực nam vĩ tuyến 17 đến đường 9 - Khe Sanh, Mỹ đã cho xây dựng tuyến phòng thủ vô hình, lấy tên là hàng rào điện tử McNamara. Ở vị trí “mỏ neo” khu vực ngã ba biên giới, Khe Sanh được định vị là một trong ba mắt thần của hàng rào điện tử McNamara, nơi Mỹ tập trung xây dựng một tập đoàn cứ điểm mạnh gồm Chi khu quân sự Hướng Hóa, cụm cứ điểm Làng Vây và sân bay Tà Cơn, được trang bị đầy đủ các loại vũ khí hiện đại, tối tân nhất lúc bấy giờ với nhiều hệ thống công sự dày đặc có sự yểm trợ bằng máy bay B52, cùng với đội quân tinh nhuệ nhằm cắt đứt tuyến chi viện trên đường mòn Hồ Chí Minh, ngăn chặn quân ta từ Bắc vào, từ Lào sang và làm tấm bình phong che chắn cho khu vực phòng thủ của chúng ở phía Đông đường 9. Vào thời điểm đầu năm 1968, có nhiều nguyên nhân khiến người Mỹ tin rằng quân giải phóng sẽ thực hiện trận quyết chiến chiến lược ở Khe Sanh. Đầu tiên, từ sự tương đồng về yếu tố địa hình và vai trò chiến lược giữa lòng chảo Điện Biên Phủ và Khe Sanh. Tiếp đến, Mỹ tin rằng với sự “từ bỏ” địa bàn truyền thống nông thôn của ta thì rừng núi sẽ là bàn đạp để ta đánh vào đồng bằng và đô thị. Từ cấp chỉ huy cho đến viên đại sứ Mỹ, tất cả đều phán đoán quân giải phóng không đủ sức tấn công vào các thành phố, đô thị mà đó chỉ là “đòn nghi binh”; chiến trường chính nhất định sẽ diễn ra ở Khe Sanh. Trung ương Cục miền Nam còn cố ý để rơi những tài liệu khiến Mỹ càng tin rằng Khe Sanh chính là nơi diễn ra một cuộc quyết chiến chiến lược. Về phía ta, sau những thắng lợi giành được trong mùa khô 1965 - 1966, 1966 - 1967, Hội nghị Bộ Chính trị tháng 12/1967 nhận định: Chúng ta đã thắng địch cả về chiến lược và chiến thuật, lực lượng quân sự và chính trị của ta ở miền Nam đã lớn mạnh hơn bất cứ thời kỳ nào, ta đang nắm quyền chủ động trên khắp chiến trường. “Diễn biến cơ bản của tình hình là ta đang ở thế thắng, thế chủ động và thuận lợi, địch đang ở thế thua, thế bị động và khó khăn”. Trên cơ sở đó, Bộ Chính trị chủ trương mở: “đòn tiến công của bộ đội chủ lực ở hướng phối hợp chiến lược đặc biệt quan trọng là Đường 9 - Khe Sanh nhằm thu hút, giam chân lực lượng chiến lược của địch…” Thực hiện chủ trương chiến lược trên, thể theo đề nghị của Bộ Tổng Tham mưu, Bộ Chính trị quyết định mở Chiến dịch tiến công Đường 9 - Khe Sanh xuân hè 1968. Bộ Tổng tư lệnh điều động cho chiến dịch một lực lượng mạnh, gồm 4 sư đoàn (304, 320, 324 và 325), Trung đoàn 270 và 2 tiểu đoàn bộ đội địa phương tỉnh Quảng Trị, 1 tiểu đoàn và 5 đại đội đặc công, 5 trung đoàn pháo binh (45, 84, 164, 204 và 675), 3 trung đoàn pháo phòng không (128, 282, 241), 1 tiểu đoàn xe tăng (4 đại đội), 1 tiểu đoàn thông tin, 1 tiểu đoàn trinh sát, 1 tiểu đoàn phòng hóa, 1 trung đoàn và 2 tiểu đoàn công binh, 1 đại đội súng phun lửa, 6 tiểu đoàn vận tải và lực lượng vũ trang địa phương các huyện Gio Linh, Cam Lộ, Hướng Hóa. Toàn bộ lực lượng trên được chỉ huy thống nhất của Bộ Tư lệnh Chiến dịch, do Thiếu tướng Trần Quý Hai - Phó Tổng Tham mưu trưởng làm Tư lệnh, Thiếu tướng Lê Quang Đạo - Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị làm Chính ủy. Tại thời điểm ta mở chiến dịch, lực lượng địch phòng ngự ở Đường 9 - Khe Sanh có khoảng 45.000 quân, trong đó có 28.000 quân Mỹ (10 tiểu đoàn của Sư đoàn 3 thủy quân lục chiến, 9 tiểu đoàn pháo, 3 tiểu đoàn và 1 đại đội cơ giới; được bố trí thành tuyến trước ở phía đông: từ cứ điểm 31, Dốc Miếu, Cồn Tiên, Quán Ngang đến miếu Bái Sơn; tuyến sau là Đông Hà, Cam Lộ, Ái Tử và thị xã Quảng Trị; tuyến giữa là các cứ điểm Tân Lâm, Ca Lu, 241 (phía tây thị xã Quảng Trị); khu vực phía tây gồm các cứ điểm Hướng Hóa, Làng Vây, Huội San và cụm cứ điểm Tà Cơn (gồm các cứ điểm Động Tri, 832, 845…). Với quyết tâm “Biến Khe Sanh thành địa ngục trần gian của quân Mỹ”, ngày 20/01/1968, ta mở chiến dịch đường 9 - Khe Sanh. Sau 170 ngày đêm liên tục tiến công, vây hãm, quân ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 17.000 tên địch, bắn rơi và phá hủy 480 máy bay, 120 xe quân sự, 65 đại bác và súng cối cỡ lớn, 55 kho xăng và đạn, thu hàng ngàn súng các loại, kết thúc thắng lợi Chiến dịch đường 9 - Khe Sanh lịch sử, huyện Hướng Hóa được giải phóng hoàn toàn với hơn 10.000 dân. Thắng lợi của chiến dịch đường 9 - Khe Sanh đã chứng tỏ sự đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta trong việc đấu trí, đấu lực với kẻ thù, không chỉ với Bộ chỉ huy quân sự Mỹ mà còn cả với những nhà hoạch định chiến lược “sừng sỏ” ở Nhà Trắng. Chiến thắng Khe Sanh là kết quả của đường lối lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị.

Quảng Trị 2033 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Trụ Sở Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam (6/1973 -  5/1975).

Địa điểm khu trụ sở Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam (từ tháng 6/1973 đến tháng 5/1975) nằm ở thôn Tân Hòa thuộc địa phận thị trấn Cam Lộ, huyện Cam Lộ; cách quốc lộ 9 hơn 200m về phía Bắc, cách thị xã Đông Hà 12km về phía Tây. Di tích đã được Bộ Văn Hóa Thể Thao xếp hạng quốc gia theo Quyết định số 154/Quyết Định - Văn Hóa ngày 25 tháng 01 năm 1991. Thuộc thị trấn Cam Lộ, cách Uỷ Ban Nhân Dân huyện Cam Lộ 150 m về phía Bắc, được khởi công xây dựng từ ngày 06/05/1973, đến ngày 30/05/1973 thì hoàn thành. Mặc dù được xây dựng khẩn trương trong một thời gian ngắn nhưng vẫn mang dáng vẻ bề thế, khang trang và đầy đủ các tiện nghi sinh hoạt thiết yếu. Tại đây, ngày 06/06/1973, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã làm lễ ra mắt nhân dân trong buổi lễ mít tinh long trọng, trước sự chứng kiến của đông đảo phóng viên báo chí trong và ngoài nước. Đại biểu của 19 nước anh em bầu bạn khắp 5 châu tới dự và cổ vũ nhiệt tình cuộc đấu tranh hy sinh gian khổ của nhân dân Miền Nam như đồng chí Phiden Catxtơrô - Chủ tịch Đảng cộng sản CuBa, đồng chí Gioóc-giơ-mác-xen - Bí thư Đảng cộng sản Pháp, ... Khu Chính phủ Cách Mạng Lâm Thời từ khi ra đời đã tập hợp các lực lượng dân chủ đấu tranh đòi dân chủ và độc lập dân tộc, đại diện cho nhân dân Miền Nam nói lên tiếng nói của mình, là nơi đặt quan hệ ngoại giao với tất cả các nước anh em bạn bè gần xa trên thế giới. Chính phủ Cách Mạng Lâm Thời với những chiến lược, sách lược nhạy bén, sáng suốt đã lãnh đạo nhân dân Miền Nam đấu tranh đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đưa cuộc kháng chiến thần thánh chống đế quốc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn. Hiện nay, trụ sở được Bảo tàng Quảng Trị xây dựng tượng đài kỷ niệm vào tháng 5/1993 và khôi phục lại Nhà Trình quốc thư. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị.

Quảng Trị 1767 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Các địa điểm liên quan đến Dinh Chúa Nguyễn (1558-1626)

Di tích lịch sử các địa điểm liên quan đến Dinh Chúa Nguyễn (1558-1626) xã Triệu Ái, xã Triệu Giang, thị trấn Ái Tử, huyện Triệu Phong. Tháng Mười năm Mậu Ngọ (1558), Nguyễn Hoàng được vua Lê cử vào trấn thủ xứ Thuận Hóa. Nguyễn Hoàng đã cùng đoàn tùy tùng theo đường biển tiến đến cửa Việt Yên (Cửa Việt) sau đó đi ngược sông Thạch Hãn (Quảng Trị) và dừng chân tại bãi cát có tên là Sa Khưu (sau này gọi là bãi Cồn Cờ) thuộc xã Ái Tử, huyện Vũ Xương, phủ Triệu Phong. Vừa đặt chân lên vùng đất mới, Nguyễn Hoàng được quan lại và nhân dân địa phương ủng hộ và ông đã quyết định chọn bãi cát này để đóng doanh trại. Đây là dinh phủ đầu tiên của Chúa Nguyễn tại huyện Vũ Xương, phủ Triệu Phong. Trong 68 năm trấn nhậm trên đất Vũ Xương, Triệu Phong, Nguyễn Hoàng đã 2 lần di dời dinh phủ. Lần thứ nhất là vào năm 1570, sau 12 năm đóng tại Ái Tử, ông cho chuyển dinh trấn của mình sang Trà Bát; lần thứ hai vào năm 1600, ông cho chuyển dinh phủ từ Trà Bát sang Dinh Cát. Việc di dời dinh phủ/dinh trấn là quá trình mở rộng quy mô và kiên cố hóa lỵ sở chứ không phải thay đổi không gian lỵ sở. Trước sau Nguyễn Hoàng vẫn chọn vùng đất Ái Tử - Trà Bát, huyện Vũ Xương làm trung tâm chính trị - hành chính, là nơi tập trung bộ máy đầu não cai quản toàn xứ Thuận - Quảng. Năm 1613, Nguyễn Hoàng qua đời, Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên kế vị và ông tiếp tục thực hiện những dự định còn dang dở của cha mình. Đến năm 1626, Chúa Nguyễn Phúc Nguyên cho chuyển dinh phủ vào vùng Phước Yên (nay thuộc huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế), chấm dứt 68 năm vùng đất Ái Tử - Trà Bát, huyện Vũ Xương, phủ Triệu Phong là lỵ sở của chính quyền họ Nguyễn ở Đàng Trong. Trong hành trình 68 năm đặt lỵ sở tại huyện Vũ Xương, phủ Triệu Phong, ngoài việc cho xây dựng các dinh phủ đảm bảo việc điều hành quản lý của chính quyền, Chúa Tiên Nguyễn Hoàng và Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên đã tập trung cho việc thiết lập các thiết chế phục vụ hoạt động quân sự, thương mại và văn hóa mà dấu vết ngày nay còn để lại qua các địa danh như: Bãi Trận, Mô Súng, Cồn Kho, Cồn Tập, Tàu Tượng, Chợ Hôm, Gềnh Phủ, Miếu Trảo Trảo phu nhân… nhằm biến lỵ sở Ái Tử - Trà Bát thành trung tâm đầu não của cả Ðàng Trong; tạo nền móng vững chắc cho công cuộc mở cõi về phương Nam. Với những ý nghĩa và giá trị lịch sử văn hóa đó, các địa điểm liên quan đến Dinh Chúa Nguyễn (1558-1626) trên đất Triệu Phong đã được xếp hạng đặc cách là di tích cấp tỉnh theo Quyết định số 707/Quyết Định -Uỷ Ban ngày 12/7/1996. Tuy nhiên, hơn 20 năm qua, do điều kiện khách quan và chủ quan, sự tàn phá của chiến tranh, thiên tai nên các di tích thời Chúa Nguyễn trên đất Triệu Phong, Quảng Trị hầu như chưa được quan tâm đúng mức về việc bảo tồn và đầu tư, tôn tạo, chưa được đưa vào khai thác để phát huy giá trị lịch sử văn hóa của nó nên chưa khơi dậy, đánh thức tinh thần tự hào của nhiều thế hệ nhân dân Triệu Phong, Quảng Trị về mảnh đất khởi nghiệp của Chúa Nguyễn. Chính điều này là một trong nhiều nguyên nhân làm cho di tích mất dấu vết. Ngày 20/6/2018, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ban hành Quyết định số 2328/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao Du Lịch Quyết định xếp hạng di tích Quốc gia Di tích lịch sử các địa điểm liên quan đến Dinh Chúa Nguyễn (1558-1626) xã Triệu Ái, xã Triệu Giang, thị trấn Ái Tử, huyện Triệu Phong. Từ đây, di tích lịch sử các địa điểm liên quan đến Chúa Nguyễn trên đất Triệu Phong đã có cơ sở khoa học trong việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch bảo tồn, đầu tư tôn tạo và đặc biệt phát huy giá trị lịch sử, văn hóa, xứng tầm với vai trò và vị thế trong việc giáo dục truyền thống yêu nước, lòng tự hào và tấm lòng tri ân sâu sắc tới các thế hệ tiền nhân đã cống hiến cho sự phát triển của dân tộc. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Trị.

Quảng Trị 1971 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

DI TÍCH LỊCH SỬ TRẬN CHIẾN THẮNG XUÂN BỒ

Trên đường quốc lộ 1A qua địa phận tỉnh Quảng Bình, từ ngã ba Cam Liên, đi theo hướng Tây Nam khoảng 7km đến Trung tâm huyện Lệ Thủy. Từ đó đi qua cầu chợ Tréo đến thôn Xuân Bồ - xã Xuân Thủy - huyện Lệ Thủy. Hơn 55 năm trước, trên mảnh đất giàu truyền thống văn hóa, truyền thống cách mạng này đã xảy ra một trận chiến quyết liệt giữa ta và quân Pháp, đó là chiến thắng Xuân Bồ (20-5-1950). Để đối phó với âm mưu thủ đoạn của địch, Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Bình Trị Thiên quyết định mở các chiến dịch Lê Lai và chiến dịch Thu Đông 1949. Mục đích của các chiến dịch này là mở rộng và củng cố các vùng căn cứ đồng bằng mà trọng điểm là hai huyện Quảng Ninh và Lệ Thủy, quyết tâm bảo vệ mùa màng. Để thực hiện chiến dịch, Bộ Tư lệnh cũng đã tăng cường cho hai huyện Quảng Ninh và Lệ Thủy, Trung đoàn 18 và Trung đoàn 95, thuộc Sư đoàn 325. Trung đoàn 18 được bố trí đóng quân ở xã Xuân Thủy, Tiểu đoàn 436 thuộc Trung đoàn 18 đóng ở thôn Xuân Bồ, xã Xuân Thủy. Sáng 19-5-1950, các đơn vị của Trung đoàn 18 cùng với nhân dân Xuân Bồ tổ chức mít tinh kỷ niệm ngày sinh nhật Bác Hồ đồng thời mừng thắng lợi chiến dịch Lê Lai. Nhận được tin này, tướng Lơ-Brít của Pháp từ Thừa Thiên- Huế bay ra Đồng Hới, quyết định bất ngờ mở cuộc tấn công, âm mưu tiêu diệt Trung đoàn 18. Tiểu đoàn 6 Spha-hy khét tiếng gian ác, được báo chí Pháp luôn khoe khoang là “rất thiện chiến” và “chưa gặp đối thủ” cũng được điều động từ đồng bằng Bắc bộ vào trước đó. Nắm được âm mưu và kế hoạch của địch, các đồng chí lãnh đạo của Trung đoàn 18 lập tức cho giải tán cuộc mít tinh để chuẩn bị chống càn. 8 giờ sáng ngày 20-5-1950, Tiểu đoàn 6 Spha-hy từ đồn Mỹ Trạch, Tiểu đoàn ứng chiến Quảng Bình từ đồn Thượng Phong đều vượt sông sang cùng phối hợp tấn công thôn Xuân Bồ. Cùng lúc đó, pháo binh từ đồn Hòa Luật Nam cũng dồn dập bắn tới. Nhận định cuộc chiến không cân sức giữa ta và địch, đồng chí Trung đoàn trưởng Phùng Duy Phiên đã bố trí Tiểu đoàn 436 bám trụ tại chỗ phối hợp cùng quân dân đánh trả địch, đồng thời quyết định điều thêm Tiểu đoàn 724 (lúc này đang đóng ở thôn Uẩn Áo, đối diện thôn Xuân Bồ) vượt sông sang tiếp viện thêm. Do có sự bố trí lực lượng hợp lý, khi địch vừa tấn công Xuân Bồ, lập tức chúng đã vấp phải sự chống trả quyết liệt của ta. Các cánh quân của ta, với lối đánh mưu trí, dũng cảm, lúc lừa địch lọt sâu vào trận địa rồi tổ chức phản công; lúc đánh bật chúng ra cánh đồng rồi dùng hỏa lực sát thương, ta đã liên tục bẻ gãy nhiều đợt tấn công của địch. Trận đánh diễn ra hết sức quyết liệt. Sau nửa ngày, ta từ thế phòng ngự chuyển sang tấn công. Bộ đội ta xông vào đánh giáp la cà với địch bằng lưỡi lê, báng súng. Cuộc chiến đấu kéo dài đến sẩm tối và chuyển dần từ làng Xuân Bồ ra ngoài cánh đồng. Trước khí thế tấn công dũng mãnh của các lực lượng của ta, địch phải lùi dần. Trên đà thắng lợi, quân ta đuổi đánh địch đến cùng. Kết quả, sau 13 giờ đồng hồ, bằng sự mưu trí, dũng cảm và tinh thần quyết chiến quyết thắng, Trung đoàn 18 cùng với bộ đội địa phương đã bẻ gãy hoàn toàn cuộc tấn công với âm mưu thủ đoạn vô cùng thâm độc của thực dân Pháp, khiến cho kế hoạch của chúng bị thất bại thảm hại. Từ trong cuộc đọ sức quyết liệt với địch đã xuất hiện nhiều tấm gương chiến đấu và hy sinh anh dũng. Đồng chí Lâm Úy, Tiểu đội trưởng của Đại đội 2 đã giằng co quyết liệt với địch, sau khi súng gãy, anh đã dùng lưỡi lê đâm chết hàng chục tên lính Pháp. Lê gãy, anh tiếp tục xông vào vật lộn với tên sĩ quan Pháp, quật hắn cùng ngã xuống sông. Anh đã hy sinh bên dòng Kiến Giang. Cha con bác lão quân Dương Né đã chèo thuyền như con thoi chở bộ đội vượt sông giữa làn mưa đạn của giặc. Các bà mẹ chiến sĩ và chị em phụ nữ không quản hiểm nguy, tiếp cơm nước cho bộ đội và chăm sóc thương binh. Tất cả đã làm nên chiến thắng oanh liệt: chiến thắng Xuân Bồ. Sau trận chiến thắng Xuân Bồ, tập thể cán bộ, chiến sĩ của Sư đoàn 325 đã được Quốc hội, Chính phủ tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Trung đoàn 18 được tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Nhì. Và, để ghi nhận công lao to lớn cũng như sự hy sinh anh dũng của đồng chí Lâm Úy, Nhà nước đã truy tặng anh danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Năm 1992, Bộ Văn hóa-Thông tin đã ký Quyết định xếp hạng di tích lịch sử Chiến thắng Xuân Bồ. Tại địa điểm nơi diễn ra trận đánh, nơi anh hùng Lâm Úy hy sinh đều đã được xây dựng bia đài tưởng niệm, ghi dấu chiến công hào hùng mà lớp cha ông đã phải đổ máu, hy sinh để giành lại từng mảnh ruộng, bờ tre, để nhắc nhở bao thế hệ con em luôn biết cách gìn giữ, bảo vệ, xây dựng quê hương trong thời đại mới. Nguồn Cổng thông tin điện tử xã Xuân Thủy , huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình.

Quảng Trị 1909 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Lũy Thầy ( lũy Đào Duy Từ)

Di tích lũy Thầy, hay còn gọi là lũy Đào Duy Từ là hệ thống chiến lũy được hình thành trong cuộc chiến tranh Trịnh- Nguyễn (1627-1672) trên mảnh đất Quảng Bình với các chiến lũy Trường Dục ở Hiền Ninh, huyện Quảng Ninh, lũy Đầu Mâu, lũy Nhật Lệ ở thành phố Đồng Hới, được xếp hạng Quốc gia theo Quyết định số 97/Quyết Định ngày 21/1/1992 của Bộ Văn hóa- Thông tin (nay là Bộ Văn hóa-Thể thao và Du lịch). Lũy Thầy còn có nhiều tên gọi khác như luỹ Nhật Lệ hay luỹ Đồng Hới, Trường Dục... thuộc tỉnh Quảng Bình ngày nay. Vua Thiệu Trị sau này từng gọi hệ thống lũy là nơi 'Định Bắc trường thành' để nhớ ơn tổ tiên đã giữ vững cõi Nam. Lũy Thầy là cái tên do người dân Đàng Trong đặt để tỏ lòng thành kính với danh nhân Đào Duy Từ như bậc thầy về quân sự và chính trị. Công trình này được bắt đầu khởi công năm 1630 sau khi giành thắng lợi tại trận chiến với quân Trịnh trên bờ sông Nhật Lệ, năm 1627. Công trình nhằm bảo vệ và củng cố Đàng Trong khỏi các cuộc tấn công của chúa Trịnh ở Đàng Ngoài. Tiếp đó, năm 1631, chúa Nguyễn tiếp tục cử Đào Duy Từ và Nguyễn Hữu Dật xây thêm lũy Đầu Mâu và lũy Nhật Lệ (cả 2 lũy này gọi chung là lũy Trấn Ninh). Đến năm 1634, chúa Nguyễn lại cho đắp tiếp lũy Trường Sa dài 7km khép lại vùng động cát Bảo Ninh. Như vậy, trong vòng hơn 3 năm, chúa Nguyễn đã hoàn thiện 1 hệ thống chiến lũy dài gần 34 km. Đây là một hệ thống thành lũy liên hoàn gồm nhiều tầng, nhiều lớp, nhiều tuyến và được gọi chung là lũy Thầy. Đại Nam thực lục tiền biên có ghi: Lũy Trường Dục xây theo kiểu chữ Hồi, cho nên còn được gọi là Lũy Hồi Văn. Theo đó, ngoài có khung thành bao bọc, trong là doanh trại, công sự chiến đấu, kho tàng bố trí theo lối chữ Dĩ liên hoàn chặt chẽ với lũy ngoài. Lũy dài 2.500 trượng, chân rộng trượng rưỡi, cao 1 trượng (khoảng 4m). Lũy Trường Dục là một công trình kiến trúc thể hiện tài năng quân sự của Đào Duy Từ. Năm 1648, sau khi đánh không được cửa lũy Trường Dục, quân Trịnh quay sang đánh vào vùng Võ Xá và thu được thắng lợi. Song, khi chiếm được chỗ đứng chân thì lại bị quân Lưu Đôn chặn đánh ở Thập Dinh (nay vẫn còn xã Dinh Mười, huyện Quảng Ninh) đẩy xuống vùng đầm lầy Võ Xá, vốn là một dải đầm lầy tự nhiên kéo theo đường thiên lý từ Quảng Bình vào Thuận Hóa. Quân Trịnh bị sa lầy tại đây. Và trong thế trận tiến thoái lưỡng nan do không có được sự hỗ trợ từ đường thủy, sau đó buộc phải rút quân ra Bắc. Chính vì sự kiện này mà đến nay, dân gian truyền tục câu ca: “Nhất sợ Lũy Thầy, nhì sợ đầm lầy Võ Xá”. Hai trăm năm sau, khi vua Thiệu Trị hành hương qua hệ thống lũy Thầy xúc động trước hệ thống thành luỹ hùng vĩ này đã đặt thêm cho nó cái tên "Định Bắc trường thành" để nhớ ơn tổ tiên đã giữ vững cõi Nam. Trải qua thời gian và bom đạn chiến tranh, lũy Thầy gần như hư hại hoàn toàn. Đến năm 1994, lũy được phục hồi lại nguyên trạng và được Nhà nước công nhận là di tích Quốc gia. Lũy Thầy ngày nay còn dấu tích rõ nét ở đường Quách Xuân Kỳ và phía Tây phường Phú Hải, thuộc địa bàn thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình và trở thành dấu tích trăm năm nhắc nhở các thế hệ về một thời nhà Trịnh -Nguyễn phân tranh trong lịch sử Việt Nam. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Bình

Quảng Trị 1904 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Bến đò và tượng đài Mẹ Suốt

Tên tuổi anh hùng Nguyễn Thị Suốt được cả nước biết đến như biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Tên tuổi của mẹ gắn liền với sự kiện lịch sử trong những ngày đầu đánh Mỹ của quân và dân Quảng Bình nói riêng và cả nước nói chung. Là biểu tượng sinh động, hào hùng của dân tộc ta quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ, để bảo vệ chủ quyền quốc gia. Mẹ Suốt là một phụ nữ tiêu biểu của vùng đất “hai giỏi” như Bác Hồ kính yêu đã khen tặng “Quảng Bình chiến đấu giỏi, sản xuất cũng giỏi”. Trải qua những năm tháng trường kỳ chống thực dân Pháp và đi đến thắng lợi. Năm 1954, Hòa bình lập lại chưa được bao lâu thì đế quốc lại gây chiến tranh phá hoại. Dựng ra sự kiện vịnh Bắc Bộ, năm 1964, đế quốc Mỹ bắt đầu đánh phá miền Bắc mà vùng đất Đồng Hới - Quảng Bình được chúng xem là cán soong, là tuyến đầu của hậu phương lớn, nên chúng đã tập trung đánh phá với mức độ ác liệt và dữ dội nhất với ý đồ nhằm huỷ diệt và san bằng, biến nơi đây trở về thời kỳ đồ đá. Mẹ Nguyễn Thị Suốt sinh ra ở xóm Vạn chài làng Phú Mỹ (nay thuộc thôn Mỹ Cảnh, xã Bảo Ninh, thị xã Đồng Hới). Từ thuở nhỏ phải đi ở nuôi thân, cuộc đời mẹ hết đi ở đợ nhà giàu này đến nhà giàu khác, làm thuê làm mướn suốt năm, suốt tháng mà vẫn khổ cực. Cách mạng tháng Tám thành công chặt đứt xiềng xích nô lệ, giải phóng quê hương, giải phóng dân tộc và giải phóng chính cuộc đời mẹ. Nhưng chưa kịp mừng vui thì thực dân Pháp lại xâm lược nước ta lần nữa và cũng như đồng bào cả nước, mẹ phải tiếp tục cuộc đời lầm than, cay đắng. Khi giặc Mỹ gây chiến tranh phá hoại miền Bắc, lúc này mẹ đã tròn 60 tuổi, nhưng theo tiếng gọi của cách mạng, của Bác Hồ và của Đảng bộ địa phương, thấu hiểu cuộc đời lầm than nô lệ, cảnh nước mất nhà tan cũng như thấm nhuần tình yêu quê hương, căm thù giặc Mỹ tàn phá xóm làng. Mẹ Suốt đã xung phong nhận lấy một công việc tưởng như bình thường, đơn giản nhưng cực kỳ nguy hiểm: Đó là chở đò ngang qua sông Nhật Lệ lúc bấy giờ là một trong ba nhiệm vụ quan trọng của tổ 3 phòng: phòng chữa cháy, cấp cứu, chuyển tải thương binh và giao thông đi lại. Ngược dòng thời gian để trở lại những ngày đầu chống mỹ. Hôm đó là ngày chủ nhật 7 tháng 2 năm 1965 (tức là ngày mồng 6 tết ất Tỵ) không lực Hoa Kỳ ồ ạt tấn công bắn phá thị xã Đồng Hới và các vùng lân cận (chúng đã huy động 160 lần chiếc máy bay phản lực hiện đại). Thị xã Đồng Hới như rung chuyển trong khói lửa đạn bom của kẻ thù. Trên sông Nhật Lệ, những cột nước đen ngòm tung lên dữ đội bởi đạn bom. Mẹ Nguyễn Thị Suốt vẫn hiên ngang cầm chắc tay chèo chở bộ đội sang sông, vận chuyển đạn từ bờ ra tàu chiến của ta để đánh trả quân thù. Những chuyến đò của mẹ cũng là đường dây thông tin liên lạc giữa thị xã Đồng Hới với Bảo Ninh. Dưới làn mưa bom bảo đạn của kẻ thù, mẹ cùng chiếc đò ngang đưa đón cán bộ, bộ đội, nhân dân qua lại đôi bờ. Không hình ảnh nào đẹp hơn một bà mẹ đã ngoài 60 tuổi mà vẫn bất chấp hiểm nguy, hiên ngang ngẩng cao đầu trước hàng loạt đạn bom của Mỹ luôn khống chế và ngăn chặn. Những người đã từng qua đò của mẹ trong những giờ phút nóng bỏng đó không thể không khâm phục trước lòng quả cảm, gan dạ của một bà mẹ đã biến căm thù thành hành động phi thường. Và cho đến nay, Những người đã từng trực tiếp chiến đấu và chứng kiến sáng 7 tháng 2 năm 1965 vẫn không thể lý giải và hiểu nổi vì sao giữa dòng Nhật Lệ nước sôi, đạn bỏng mà mẹ Suốt vẫn anh dũng xông pha và hoàn thành nhiệm vụ xuất sắc đến thế: tiếp đạn cho hải quân ta đánh trả máy bay Mỹ, đưa thương binh vào bờ, chở bộ đội sang sông. Chiến công của mẹ Suốt cùng bao chiến công thầm lặng khác của quân và dân Đồng Hới đã lập nên một kỳ tích vang dội chỉ trong hai ngày 7 và ngày 8 tháng 2 năm 1965, quân dân Đồng Hới đã bắn rơi 14 máy bay Mỹ; Từ ngày 14 tháng 2 đến ngày 28 tháng 4 năm 1965 - 5 tàu chiến Mỹ bị bắn chìm, bắn cháy tại biển Nhật Lệ - mở đầu cho thắng lợi rực rỡ của quân và dân ta. Sau trận chiến đấu ác liệt ấy, con đò mẹ Suốt lại tiếp tục đưa đón cán bộ, bộ đội sang sông trong những ngày đánh Mỹ. Với những chiến công của mẹ, ngày 01 tháng 1 năm 1967, mẹ Nguyễn Thị Suốt đã được Đảng và Nhà nước ta phong tặng danh hiệu Anh hùng lao động trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Chiến tranh ngày càng ác liệt, bị thua đau ở miền Nam, đế quốc Mỹ lại tăng cường đánh phá miền Bắc và Đồng Hới lại tiếp tục hứng chịu cảnh đạn bom. Ngày 11/10/ 1968 trong lúc làm nhiệm vụ mẹ Suốt đã anh dũng hy sinh bởi một trận bom đạn của kẻ thù. Như là một bức tranh sinh động về chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Hình tượng đó đã được nhân dân Quảng Bình, nhân dân cả nước biết đến như tấm gương tiêu biểu của bà mẹ Việt Nam anh hùng. Bến đò mẹ chèo năm xưa đã trở thành một di tích lịch sử tiêu biểu ở Quảng Bình trong thời kỳ chống Mỹ với tên gọi thân thương, kính trọng: Bến đò Mẹ Suốt. Di tích bến đò Mẹ Suốt nằm ở địa phận thôn Trung Bính, xã Bảo Ninh (phía hữu ngạn) và gần chợ cá Đồng Hới (phía tả ngạn sông Nhật Lệ). Năm 1980, để tưởng nhớ và cảm kích về một người Mẹ anh hùng của quê hương, Uỷ Ban Nhân Dân thị xã Đồng hới đã cho xây dựng bia đài Mẹ Suốt nằm giữa trung tâm của bến đò để hàng ngày người dân Quảng bình đều được gần gũi bên hình tượng của Mẹ. Nơi đây, một ngày không xa, tượng đài Mẹ Suốt sẽ là nơi giao lưu, sinh hoạt văn hóa của nhân dân địa phương trong tỉnh, là nơi vui chơi quây quần của các cháu thiếu nhi, là nơi để nhân dân cả nước khi thăm bến đò Mẹ Suốt năm xưa tỏ lòng ngưỡng mộ trước một bà mẹ Việt Nam anh hùng. Nguồn Cổng thông tin điện tử thành phố Đồng Hới , tỉnh Quảng Bình.

Quảng Trị 2207 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Miếu Thành Hoàng Mỹ Thổ - Trung Lực

Miếu thành hoàng Mỹ Thổ - Trung Lực nằm trên đồi Lòi Dạ, thôn Tân Lực, xã Tân Thủy. Phía đông giáp làng Trung Lực, phía tây giáp làng Mỹ Thổ. Từ chợ Mai - ngay sát đường quốc lộ 1A đi vào theo đường đất khoảng 4 km về phía đông nam là tới di tích. Miếu thành hoàng Mỹ Thổ - Trung Lực gắn liền với những sự kiện lịch sử tiêu biểu của Đảng bộ Quảng Bình, gắn liền với những ngày đầu phấn đấu để đi đến việc thành lập Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên ở phía Nam tỉnh Quảng Bình, với cuộc đấu tranh để giữ gìn, phát triển phong trào cách mạng, gắn liền với cuộc vận động giải phóng dân tộc của tỉnh, của nước trong cách mạng tháng Tám. Trong phong trào Cần Vương, vùng Mỹ Thổ - Trung Lực là nơi tập kết, giấu quân Cần Vương. Nghĩa quân của Hoàng Phúc, Đề én, Đề Chít thường lưu trú nơi đây, được nhân dân che chở (Đề Chít lấy vợ quê Mỹ Thổ). Trong hàng ngũ nghĩa quân có hàng chục người chỉ huy vốn là dân Mỹ Thổ - Trung Lực. Các nhà nho có hiểu biết ở hai làng đều tham gia hay có cảm tình với nghĩa quân Cần Vương. Ngày 3-2-1930, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời, một phong trào đấu tranh được Đảng phát động trong toàn quốc, đặc biệt là cao trào 1930-1931, Xô Viết - Nghệ Tĩnh ra đời cổ vũ phong trào các địa phương. Vào những năm 1929 - 1930, những thanh niên hăng hái đầy nhiệt huyết của Trung Lực - Mỹ Thổ đi tìm cách mạng, mang trong mình tinh thần yêu nước, bằng nhiều con đường trong những thời gian khác nhau đã lần tìm bắt liên lạc với Đảng. Được sự ủy nhiệm của Tỉnh ủy Quảng Trị, một số cơ sở Đảng ở Vĩnh Linh tìm cách phát triển cơ sở ra vùng Lệ Thủy. Ông đồ nho Dương Công Phát - một quần chúng tốt làm trung gian cho Chi bộ Đảng bắt liên lạc với những thanh niên hăng hái cách mạng, trong đó có 3 người: Lê Thuận Chất, Lê Thuận Sản, Nguyễn Đông. Theo sự hướng dẫn của Đảng, anh Chất mang tài liệu tuyên truyền của Đảng về địa phương và cùng với anh Sản tổ chức những anh em nông dân nghèo, có tinh thần yêu nước, chống địa chủ phong kiến vào 7 tổ có 21 người, gọi là tổ "Nông hội đỏ’’, một hình thức tổ chức như Xô Viết - Nghệ Tĩnh, nhằm tập hợp nông dân cách mạng. Theo chỉ thị của Tỉnh ủy Quảng Trị, các cán bộ Đảng tìm cách đột nhập và ở lại cơ sở tại vùng Mỹ Thổ - Trung Lực. Anh Nguyễn Đông tự nguyện đem cán bộ Đảng về nuôi giấu trong nhà. Đồng chí Đoàn Bá Thừa về cơ sở giáo dục 3 quần chúng cốt cán để đưa các đồng chí đó vào Đảng, chỉ đạo 3 quần chúng tiến hành tổ chức các cơ sở quần chúng khác. Bí mật tổ chức những cuộc tuyên truyền cương lĩnh của Đảng cộng sản trong từng nhóm quần chúng tốt ở Mỹ Thổ - Trung Lực. Ba quần chúng trung kiên Chất, Sản, Đông lại được rèn luyện thử thách nhiều trong việc bảo vệ cán bộ, vận động quần chúng. Đêm 17-11-1931, tại miếu thành hoàng làng Trung Lực, đồng chí Đoàn Bá Thừa thay mặt Đảng kết nạp 3 đồng chí Chất, Sản, Đông vào Đảng cộng sản Đông Dương. Cũng đêm đó, đồng chí Đoàn Bá Thừa thay mặt cấp uỷ cấp trên quyết định thành lập chi bộ Mỹ Trung, chi bộ Đảng đầu tiên ở phía Nam tỉnh. Chi bộ do đồng chí Chất làm Bí thư, mở đầu một thời kỳ mới, một bước ngoặt quan trọng trong đời sống chính trị và tình cảm của nhân dân hai làng Mỹ Thổ - Trung Lực và phong trào đấu tranh ở vùng Nam Quảng Bình. Đến tháng 6-1932, chi bộ đã có 9 đồng chí, chi bộ cử ra chi ủy, phân công một số việc: Thành lập đội xích vệ, gây quỹ tạo vốn, tiếp chuyển tài liệu từ Vĩnh Linh ra Lệ Thủy và ngược lại. Chi bộ đã phát động quần chúng đấu tranh, thu được một số thành công bước đầu: Năm 1935, chi bộ phát triển lên 12 đồng chí với một đội xích vệ khá mạnh. Các hội quần chúng của Đảng đã có hàng trăm người tham gia. Đầu tháng 9/1941, đồng chí Bùi Trung Lập, cán bộ Tỉnh uỷ Quảng Trị được xứ ủy Trung Kỳ phái ra liên lạc với chi bộ Mỹ Trung, phổ biến tình hình nhiệm vụ mới và truyền đạt Nghị quyết lần thứ VIII của Trung ương Đảng. Nội dung nêu: “Nhiệm vụ giải phóng dân tộc nhiệm vụ bức thiết nhất của cách mạng Đông Dương” và chủ trương thành lập mặt trận Việt Minh. Cơ sở Việt Minh Mỹ Thổ - Trung Lực được thành lập do đồng chí Lê Thuận Chất làm chủ nhiệm, chi bộ lúc này đã có 29 đảng viên, đồng chí Lê Thuận Khuông làm Bí thư. Tháng 11/1942, bọn tay sai mật thám lần được đầu mối ta ở Trung Lực - Mỹ Thổ, chúng đã bắt Lê Gia Liêu và 13 đồng chí khác. Sau đó, đồng chí Bùi Trung Lập cũng bị bắt. Một thời kỳ đẫm máu đầy thử thách đối với cơ sở Đảng, quần chúng nhân dân Mỹ Thổ - Trung Lực. Mặc dù bị địch tra tấn dã man, các đảng viên, các đồng chí kiên trung của Mỹ Thổ - Trung Lực vẫn chiến đấu đến hơi thở cuối cùng. Có những cơ sở Đảng trung kiên như vợ chồng anh Đinh Tứ Khắc, chị Tương là những tấm gương củng cố lòng tin với Đảng, với cách mạng. Ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp, tin này truyền nhanh đến Mỹ Thổ - Trung Lực. Ngày 27/3/1945, đồng chí Võ Hồ Thanh (Võ Hậu), đồng chí Nguyễn Văn Đồng (Đồng Sỹ Nguyên) về nối lại liên lạc và chỉ thị của cấp trên đối với Mỹ Thổ - Trung Lực. Cuối tháng 6/1945, Ban thống nhất Trung Kỳ cử đồng chí Hồng Xích Tâm vào truyền đạt chỉ thị của Trung ương, lời kêu gọi của Ban thống nhất Trung Kỳ cho các cơ sở ở Quảng Bình và liên lạc với đồng chí Võ Hồng Thanh ở Mỹ Thổ - Trung Lực và đồng chí Trần Hữu Dực, chuẩn bị thành lập cơ quan lãnh đạo chung của tỉnh. Đầu tháng 7/1945, Hội nghị các Đảng bộ toàn tỉnh triệu tập tại chùa An Xá. Đồng chí Lê Thuận Khuông, Bí thư Chi bộ Mỹ Thổ - Trung Lực là một trong 13 đại biểu dự Hội nghị đó. Hội nghị thành lập mặt trận Việt Minh tỉnh tại An Sinh, quyết định trụ sở tỉnh bộ đóng tại Mỹ Thổ. Đêm 22 rạng 23 tháng 8, quần chúng cách mạng Mỹ Thổ - Trung Lực và 18 làng phụ cận chia thành 4 mũi kéo thẳng lên huyện đường Lệ Thuỷ cùng với các mũi tiến công khác trong huyện tiến hành hợp vây giành chính quyền ở huyện, góp phần cùng cả tỉnh cả nước làm nên cuộc tổng khởi nghĩa cách mạng tháng 8 thành công thắng lợi. Hiện nay, di tích đã được đầu tư kinh phí, trùng tu lại miếu, cổng vào di tích và một tấm bia hoành tráng đã được dựng lên ghi lại sự kiện lịch sử đáng ghi nhớ này. Hàng năm cứ vào ngày 17/11 Đảng bộ và nhân dân huyện Lệ Thủy tổ chức dâng hương, viếng thăm di tích. Đây thực sự là địa chỉ đỏ ngời sáng để giáo dục các thế hệ trẻ, nguyện sống và làm việc, phấn đấu theo con đường mà Đảng và Bác Hồ đã chọn. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Lệ Thủy , tỉnh Quảng Bình.

Quảng Trị 2081 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Núi Thần Đinh.

Núi Thần Đinh ở thôn Rào Đá, xã Trường Xuân, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Núi này còn gọi là Bất Nghĩa Sơn . Cách Thành Phố Đồng Hới khoảng 25km về phía Tây Nam và cách đường Hồ Chí Minh nhánh Đông 3km, ngọn núi này mang nhiều huyền tích về một cõi tâm linh, từng được người xưa coi là “chốn đa Phật” Trên núi còn nhiều di tích của một ngôi chùa khá tiếng tăm, liên quan đến câu chuyện về chiếc chuông đồng của vua Càn Long đem phụng cúng cho chùa vì tiền kiếp của mình... Trông xa núi mang hình một chiếc yên ngựa. Núi nằm ở độ cao 405m so với mực nước biển và mất chừng khoảng 40 phút leo qua 1260 bậc đá để lên đến Chùa Non (còn có tên Kim Phong). Chùa được xây dựng vào năm 1701. Ở đây tồn tại tấm bia đá lập vào thời Minh mạng thứ 11 (1830) ghi chép về chùa. Trước cửa chùa có giếng nước trong vắt, mát ngọt, không bao giờ cạn được gọi là giếng Tiên. Giếng nằm ngay giữa bốn bề là đá khô khốc, vậy mà không biết nước có từ đâu để giếng luôn đầy cho dù là vào những năm nắng nóng khô hạn nhất. Bây giờ nhiều người tứ xứ đến ngoạn cảnh Thần Đinh, họ không quên mang theo chai nước để lấy ít nước từ giếng Tiên về dùng, coi như nguồn nước tinh tuý từ chốn thần tiên với bao điều mong ước. Đứng trên đỉnh núi Thần Đinh nghe gió ù thổi, nghe truyền thuyết kể rằng: Thầy Ân Khả đã tu ở chùa này (chùa Kim Phong) từ năm 1694 (đời Lê Huy Tông, niên hiệu Chính Hòa, ứng với triều Khang Hy bên Trung Quốc), thầy là người đức độ tài trí, được tăng ni phật tử trong vùng yêu mến. Trước khi viên tịch, thầy cắt một ngón tay út bỏ vào tráp để lại cho chùa. Lạ thay ngón tay tươi mãi không hề bị thối rữa. Sau này thầy đầu thai vào một gia đình bên Trung Quốc và tái sinh trong hình hài vua Càn Long (1736-1796) (tương truyền vua Càn Long cũng bị thiếu mất một ngón tay út). Vua Càn Long linh cảm tiền kiếp có duyên nợ với chùa non trên núi Thần Đinh bên Đại Việt nên đã gửi một quả chuông sang tặng, chuông có khắc mấy chữ "Thần Đinh chung". Thuyền chở chuông vào đến cửa sông Nhật Lệ thì không may bị bão tố nhấn chìm. Sau này một ngư dân quê ở huyện Bố Trạch tên là Đặng Văn Tiên, trong một lần thả lưới đã bắt được quả chuông và đem cúng vào chùa Non trên núi Thần Đinh. Không biết huyền thoại về quả chuông đồng do vua Càn Long tặng có thật hay không. Một số người cho rằng hiện nay quả chuông chùa Non trên núi Thần Đinh đang được treo ở chùa Phổ Minh (ở Thành Phố Đồng Hới). Chiếc chuông của chùa Phổ Minh hiện nay là có thật, nhưng có liên quan với truyền thuyết trên hay không thì chưa ai khẳng định. Toàn đỉnh núi Thần Đinh là những dãy đá vôi thấp màu xám đen, lô nhô như những dãy núi nhỏ mọc lên từ một đỉnh núi lớn trông rất kỳ lạ. Phải chăng vì vậy mà người xưa từng gọi chùa Thần Đinh bằng tên khác nữa là chùa Non? Núi Thần Đinh có ba ngọn. Đá xếp chồng lên nhau gợi cho ta tưởng tượng đây là vị quan viên đội mũ cánh chuồn đang đọc văn. Kia là hình con đại bàng tung cánh, nọ là con hổ đang nhe nanh vuốt. Ngôi chùa Thần Đinh xưa nay chỉ còn lại những mảng tường đá rêu phong, đổ nát, chen đầy cây cối, giữa một vạt đất bằng phẳng đầy cây cổ thụ. Một vài căn miếu nhỏ nằm lẻ loi ở rìa cây phía Bắc là còn khá nguyên vẹn. Cảnh sắc Thần Đinh gợi nhớ biết bao đến tiền nhân. Núi Thần Đinh bây giờ đã trở thành điểm du lịch sinh thái, tâm linh khá hấp dẫn cho du khách. Những người thành tâm khi đến dâng hương, uống nước giếng thần sẽ gặp nhiều may mắn, tránh được ốm đau bệnh tật, cả năm làm ăn phát đạt. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Bình.

Quảng Trị 1962 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Di Tích Lịch Sử Bến Phà Quán Hàu

Bến phà Quán Hàu, là nơi ghi dấu ấn những hoạt động của các công nhân bến phà khi nhiều lần bãi công, dừng chạy phà để cản bước chân quân xâm lược thực dân Pháp. Đây cũng chính là "toạ độ lửa" trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước khi hàng ngày đế quốc Mỹ đã trút hàng ngàn tấn bom hòng chặt đứt nguồn lực tiếp tế từ hậu phương vào tiền tuyến… Bến phà Quán Hàu là di tích lịch sử cấp Quốc gia ở trên QL1A đoạn đi qua thị trấn Quán Hàu huyện Quảng Ninh. Năm 1886, thực dân Pháp đã cho xây dựng bến phà để vượt sông Nhật Lệ. Hàng ngày, những chiếc phà gỗ thô sơ được dùng để vận chuyển người, lương thực, quân đội Pháp qua lại phục vụ mục đích xâm lược của thực dân. Để ngăn cản những bước chân xâm lược của thực dân Pháp, những người công nhân làm việc tại bến phà đã nhiều lần tổ chức đình công, bỏ chèo và cương quyết không tiếp tay cho mục đích xâm lược của thực dân. Những hành động kiên quyết của công nhân bến phà đã góp phần công sức cùng toàn dân đánh đuổi thực dân xâm lược…Trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước, hàng vạn tấn bom đạn của Mỹ đã ném vào bến phà này nhằm chặt đứt tuyến đường huyết mạch vận chuyển hàng hoá, nguồn lực từ miền Bắc chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam. Mặc dù trong mưa bom bão đạn dày đặc của đế quốc Mỹ, các chiến sĩ làm nhiệm vụ tại bến phà này đã anh dũng chiến đấu, bắn trả máy bay địch. Với ý chí quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, được sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng và chính quyền nhân dân huyện Quảng Ninh và sự đùm bọc, giúp đỡ của quân và dân địa phương các xã anh hùng như Lương Ninh, Vĩnh Ninh, Võ Ninh... các cán bộ, chiến sĩ bến phà Quán Hàu đã phát huy truyền thống cách mạng của quê hương "Hai giỏi", xác định tư tưởng chấp nhận gian khổ hy sinh, quyết chiến quyết thắng, dù tình huống nào cũng bảo đảm mạch máu giao thông thông suốt "phà chờ xe chứ quyết không để xe chờ phà". Cán bộ chiến sĩ phà Quán Hàu đã lập nhiều chiến công xuất sắc, hoàn thành tốt nhiệm vụ. Theo chiều dài lịch sử, mỗi ngày bến phà Quán Hàu có nhiều lượt đưa bộ đội, đưa hàng tiếp tế, đưa vũ khí đạn dược vượt qua mưa bom bão đạn để chi viện cho miền nam ruột thịt. Nơi đây cũng đã có biết bao cái tên đi vào huyền thoại trong kháng chiến của quê hương như tấm gương tận tụy, hy sinh của liệt sĩ…Cùng với sự phát triển đi lên của đất nước, bến phà Quán Hàu đã dừng hoạt động và thay vào đó là chiếc cầu Quán Hàu hiện đại được xây dựng nối hai bờ Nam - Bắc phục vụ việc phát triển kinh tế xã hội của địa phương nói riêng và cả nước nói chung. Bến phà Quán Hàu cũng đã được xếp hạng là di tích lịch sử cấp Quốc gia. Hiện nay, điểm di tích này đã được đầu tư xây dựng là nơi người dân huyện Quảng Ninh thường xuyên đến dâng hương tưởng nhớ các anh hùng liệt sĩ… Nguồn Trang thông tin điện tử huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình.

Quảng Trị 2054 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Bến phà Long Đại

Nơi đây ghi dấu sự hy sinh anh dũng của 16 thanh niên xung phong thuộc đơn vị C130 tỉnh Thái Bình trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước cách đây 50 năm: 9/1972- 9/2022. Đây là những câu thơ viết vội của người sinh viên còn rất trẻ tên là Vũ Đình Văn khi đi trên một trong những chuyến phà qua sông Long Đại trong đội hình của đơn vị hành quân vào mặt trận Quảng Trị năm 1972. Chứng kiến cảnh chiến tranh ác liệt và sự hi sinh vô cùng lớn lao của bộ đội, thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến của các đơn vị phục vụ bến phà, anh vô cùng xúc động, cảm phục và đã viết nên bài thơ Đêm hành quân qua phà Long Đại. Bài thơ viết vội ấy đã có những câu thơ thực không thể thực hơn. Hơn nửa thế kỷ trước, bến Phà Long Đại là địa bàn nằm trong vùng “cán soong” của Quân khu IV, trở thành điểm “yết hầu”, “huyết mạch “, là cầu nối giao thông đặc biệt quan trọng trên tuyến đường 15 giữa hậu phương lớn miền Bắc với chiến trường miền Nam và nước bạn Lào, Campuchia. Bến phà còn là một trọng điểm vượt sông trọng yếu, ác liệt nhất của tuyến đường Hồ Chí Minh lịch sử. Chính tại nơi này, đế quốc Mỹ tập trung dội xuống hàng trăm tấn bom đạn dày đặc hòng hủy diệt và “bóp nghẹt” nguồn lực từ hậu phương chi viện vào tiền tuyến. Bến phà Long Đại cùng với các địa danh khác như: Mụ Dạ, Xuân Sơn, Cổng Trời, phà Gianh, phà Quán Hàu trở thành những “túi bom”, “chảo lửa” trong cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ, nhất là từ những năm 1967-1971. Để đảm bảo giữ vững mạch máu giao thông thông suốt, tránh những khi bị địch đánh phá không thể vận chuyển hàng hóa và vũ khí được, từ tháng 1/1971 ở khu vực Long Đại được phát triển thành 2 bến phà: bến phà I ở sát cầu Long Đại ngày nay và bến phà II ở hạ lưu sông Long Đại cách bến I khoảng 500m. Tháng 7 – 1972, đế quốc Mỹ đánh phá ác liệt tại bến phà Long Đại và đường 15A. Đơn vị thanh niên xung phong huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An trong khi đang làm nhiệm vụ đã bị giặc Mỹ ném bom rải thảm vào đội hình làm cho đơn vị bị thương vong nặng nề phải chuyển về tuyến sau củng cố lực lượng. Để đảm bảo mạch máu giao thông thông suốt, đơn vị C130 được điều động ra đóng quân và thường trực ứng cứu tại đây cùng bộ đội công binh kịp thời thông xe thông tuyến. Sống và chiến đấu tại nơi được mệnh danh là “túi bom”, là “chảo lửa” nhưng các chiến sĩ Thanh Niên Xung Phong của Đại đội 130 vẫn không hề nao núng, luôn giữ vững ý chí và quyết tâm: “Đánh địch mà đi, mở đường mà tiến”, “Địch đánh phá ta sửa ta đi, địch lại phá ta lại sửa ta đi, “Sống bám cầu bám đường, chết kiên cường dũng cảm”. Địch đánh xong, ta cứu người, cứu hàng hóa, khí tài, người này ngã, người khác thay thế, tiếp tục làm nhiệm vụ thông bến, bảo đảm mạch máu giao thông. 15 giờ ngày 19/9/1972, trong lúc các chiến sĩ của đơn vị C130 tỉnh Thái Bình đang làm nhiệm vụ tại bến phà 2 Long Đại, thì máy bay Mỹ đã liên tục ném bom tại bến phà Long Đại và đánh vào đội hình của C130. Trận oanh kích của địch chỉ kéo dài trong khoảng một giờ đồng hồ đã gây những thiệt hại hết sức nặng nề và tổn thất lớn cho đơn vị: 15 chiến sĩ đã hy sinh (7 nữ, 8 nam), trong đó có 3 chiến sĩ hy sinh khi đang vận chuyển hàng bằng thuyền từ bờ Bắc sang bờ Nam sông Long Đại; 12 chiến sĩ hy sinh tại bến phà và trong hầm trú ẩn, một số đồng chí khác bị thương. Sau khi máy bay giặc Mỹ ngừng ném bom, khu vực đơn vị đóng quân chỉ còn lại bãi đất ngồn ngang hố bom. Các chiến sĩ đã khẩn trương đến khu vực hầm để đào bới thật nhanh với hy vọng đồng đội của mình vẫn an toàn, nhưng sau mỗi lớp đất trái tim họ lại quặn thắt khi nhìn thấy đồng đội của mình nằm đó, có những chiến sĩ thi thể không còn nguyên vẹn. Toàn đơn vị đã nén đau thương để mai táng các anh, các chị và tiếp tục nhiệm vụ của mình. Nỗi đau của đơn vị chưa nguôi, ngày 23/9/1972, đế quốc Mỹ lại tiếp tục ném bom xuống bến phà Long Đại, chiến sĩ Trần Mạnh Hà trong khi đang làm nhiệm vụ đã hy sinh. Đơn vị C130 một lần nữa lại phải tiễn đưa người đồng đội của mình trong niềm tiếc thương vô hạn, trong nỗi đau lên đến tột cùng. Sau hai đợt rải thảm bom của đế quốc Mỹ, đơn vị C130 đã hy sinh 16 đồng chí gồm 7 nữ, 9 nam. Các anh, các chị đã dũng cảm hy sinh khi đang làm nhiệm vụ tại bến phà 2 Long Đại ở thời điểm ác liệt nhất và mãi mãi nằm lại với đất mẹ Quảng Ninh (Quảng Bình). 50 NĂM ĐÃ TRÔI QUA (9/1972 – 9/2022), máu xương của các anh chị đã hòa vào dòng chảy của dòng sông Long Đại, an giấc ngàn thu. Để tri ân, tưởng nhớ các anh hùng liệt sỹ đã hy sinh vì sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, Tỉnh đoàn Quảng Bình đã phối hợp với Tập đoàn Công nghiệp cao su Việt Nam đầu tư xây dựng Nhà bia tưởng niệm 16 thanh niên xung phong hy sinh tại bến phà II Long Đại. Công trình khánh thành vào ngày 21-12-2012. Ngày 7-10-2016, Uỷ Ban Nhân Dân tỉnh Quảng Bình đã ban hành Quyết định số 3101/Quyết Định -Uỷ Ban Nhân Dân xếp hạng di tích lịch sử đối với nơi hy sinh của 16 Thanh Niên Xung Phong tại bến phà II Long Đại tháng 9-1972. Cùng với đền tưởng niệm các anh hùng liệt sỹ Trường Sơn, di tích là “địa chỉ đỏ” trong hành trình du lịch thăm lại chiến trường xưa, tri ân đồng đội. Và trong mỗi người dân, cán bộ chiến sỹ trong và ngoài huyện nhà khi đến đây dâng hương tưởng niệm đều cảm thấy tự hào về những chiến công của các thế hệ cha anh đã chiến đấu anh dũng, hy sinh vì nền độc lập, tự do dân tộc. Nguồn Trang thông tin điện tử huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình.

Quảng Trị 2003 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Mộ và nhà thờ Hoàng Kế Viêm

Mộ và nhà thờ Hoàng Kế Viêm thuộc thôn Văn La, xã Lương Ninh (huyện Quảng Ninh) được xếp hạng di tích lịch sử cấp tỉnh theo Quyết định số 2167/Quyết Định - Uỷ Ban Nhân Dân ngày 26-8-2011. Di tích là nơi để tưởng niệm Hoàng Kế Viêm-một nhân vật lịch sử có vai trò quan trọng trong thời kỳ chống Pháp nửa sau thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, đồng thời cũng là nơi để giáo dục cho thế hệ trẻ truyền thống yêu nước, lòng dũng cảm, kiên cường đấu tranh bảo vệ đất nước của tổ tiên, ông cha, khơi dậy lòng tự hào về truyền thống quê hương. Hoàng Kế Viêm (1820-1909) còn gọi là Hoàng Tá Viêm, tự Nhật Trường, hiệu Tùng An, quê làng Văn La, tổng Văn Đại, phủ Quảng Ninh (nay thuộc xã Lương Ninh, huyện Quảng Ninh). Năm 1843, Hoàng Kế Viêm thi đỗ cử nhân và được bổ làm tư vụ, hàm Quang Lộc Tự Khanh. Năm 1846, đời vua Thiệu Trị, ông làm lang trung Bộ Lại. Năm 1852, ông giữ chức án sát tỉnh Ninh Bình; năm 1854, ông được thăng Bố Chính tỉnh Thanh Hóa; năm 1859, là Bố Chính kiêm Tuần vũ tỉnh Hưng Yên; năm 1863, ông giữ chức Tổng đốc An-Tĩnh (Nghệ An-Hà Tĩnh). Trong thời gian này, ông đã có công trong việc trị an, mở mang kinh tế, phát triển dân sinh. Năm 1870, ở Bắc Kỳ xảy ra nhiều biến loạn, giặc Cờ Đen, Cờ Trắng, Cờ Vàng hoành hành, cướp phá, quấy nhiễu nhân dân, Pháp âm mưu chiếm vùng sông Hồng để được tự do buôn bán với vùng Vân Nam và Hoa Nam (Trung Quốc), khiến cho tình hình xã hội hết sức rối loạn. Trước tình hình đó, triều đình đã cử Hoàng Kế Viêm làm Thống đốc quân vụ đại thần bốn tỉnh Lạng-Bình-Ninh-Thái, trực tiếp chỉ huy quân thứ Tam Tuyên cùng với Tán tương Tôn Thất Thuyết lo việc dẹp loạn, ổn định Bắc Kỳ. Với kế sách “vừa đánh vừa dụ hàng”, chỉ sau một thời gian ngắn, Hoàng Kế Viêm đã thu phục được thủ lĩnh quân Cờ Đen là tướng Lưu Vĩnh Phúc, cùng hợp sức đánh tan giặc nổi loạn Cờ Trắng, Cờ Vàng. Nhờ vào công lao này, ông được phong hàm Đại học sĩ lãnh Tổng đốc Tam Tuyên, sung Tiết chế quân vụ Bắc Kỳ. Năm 1873, quân Pháp dưới sự chỉ huy của đại úy F.Garnier đánh chiếm thành Hà Nội và nhiều tỉnh khác ở Đồng bằng sông Hồng, Hoàng Kế Viêm được triều đình cử làm Tiết chế quân vụ Bắc Kỳ (chức vụ quân sự cao nhất ở Bắc Kỳ) để chỉ huy, đôn đốc việc phòng thủ chống Pháp. Ở chức vụ này, ông đã chỉ huy quân dân Hà Nội phối hợp với quân Cờ Đen đánh thắng cuộc tấn công của Pháp vào thành Hà Nội, giết chết tên chỉ huy Pháp F.Garnier. Mười năm sau, ngày 19-5-1883, Hoàng Kế Viêm lại chỉ huy quân dân Hà Nội đập tan cuộc tấn công của quân Pháp ở Cầu Giấy, bắn chết tên trung tá chỉ huy H.Riviere. Năm 1887, ông được thăng chức Thái tử Thiếu bảo, Cơ mật Viện Đại thần. Ngoài tài năng về quân sự, Hoàng Kế Viêm còn là người hay chữ: làm thơ, viết văn, viết sử. Những tác phẩm của ông bằng Hán Nôm với bút danh Tùng An khá đa dạng và phong phú như: Trù Thiết sơn phòng sư Nhị tấn (tổng kết việc củng cố an ninh vùng biên cương kết hợp với khai hoang và tăng gia sản xuất), Thần cơ yếu ngữ (sách giáo khoa cho bộ binh nói về cách sử dụng các loại vũ khí mới, cách bắn súng, bảo quản vũ khí có tranh vẽ minh họa và các bài tập), Hoàng Triều Văn Vũ thế tắc lệ (Những phép tắc cho các trường thi võ), Phê thị trần hoàn (ghi chép về đời vua Tự Đức), Tiên công sự tích biệt lục (ghi lại thân thế và sự nghiệp của cha ông)... Sau khi mất, ông được vua Duy Tân truy tặng hai chữ “Văn Nghị " có nghĩa là bạn của văn chương. Người dân địa phương truyền tụng về Hoàng Kế Viêm rằng, khi về hưu, vua ban cho ông 4 mẫu ruộng nhất đẳng điền tùy ý chọn nhưng ông chỉ chọn 4 mẫu đất cỏ hoang mà người làng Thế Lại dùng để nuôi trâu bò rồi ông vận động con cháu trong họ cùng dân làng đi khẩn hoang một vùng đất khác cạnh đó thành đồng ruộng hai mùa tươi tốt. Nhân dân gọi đó là đồng cồn Hoàng ngàn mùa không mất. Ruộng khai phá xong, ông chia đều cho mọi người cày cấy. Biết ơn ông, dân làng đã lập một đền thờ Thổ công tại cánh đồng để hàng năm cúng tế. Ngày khai trương đền thờ, người dân thắp hương, đèn cúng khấn nhưng hương không cháy, đèn không đỏ, họ lấy làm kỳ lạ, hoảng sợ họ phải cho người về mời rước ông lên cúng. Từ đó về sau, đến kỳ cúng bái không còn xảy ra chuyện như vậy nữa nên dân làng xem ông còn to hơn cả Thổ thần. Khuôn viên lăng mộ Hoàng Kế Viêm có diện tích hơn 230m2, bao gồm: cổng, sân, hàng rào, bia mộ, hồ bán nguyệt và mộ. Phần mộ được xây bằng xi măng theo h́ình chữ nhật, phía trên mộ đắp nổi h́ình 7 lá sen chồng lên nhau tượng trưng cho sự thanh bạch, tấm lòng trong sáng như cuộc đời của ông. Nhà thờ được xây dựng vào năm 1937 bằng gạch và lợp ngói âm dương. Kiến trúc của nhà thờ gồm ba gian, được bài trí theo hướng đông-nam, rộng khoảng 300m2. Năm 1967, nhà thờ đã bị đánh sập trong một đợt không kích của giặc Mỹ. Năm 1998, con cháu hậu duệ đã đóng góp công, của xây dựng lại nhà thờ như hiện nay. Hàng năm, cứ đến ngày giỗ ông, con cháu trong dòng họ tập trung tại nhà thờ làm lễ dâng hương, cúng bái để tưởng nhớ công đức của ông. Với những ý nghĩa và giá trị lịch sử đó ngày 24/02/2023, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ban hành Quyết định số 396/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao Du Lịch về việc công nhận Di tích lịch sử Mộ và Nhà thờ Hoàng Kế Viêm ở xã Lương Ninh (huyện Quảng Ninh) là di tích Quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Bình.

Quảng Trị 1998 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đình Kim Bảng và hang lèn Cây Quýt

Di tích lịch sử cách mạng đình Kim Bảng và hang lèn Cây Quýt thuộc thôn Kim Bảng, xã Minh Hóa (huyện Minh Hóa). Nơi đây gắn liền với những sự kiện lịch sử sôi động hào hùng của tỉnh Quảng Bình và của dân tộc trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp. Đặc biệt, nơi đây diễn ra sự kiện Đại hội đại biểu tỉnh Đảng bộ Quảng Bình lần thứ II vào ngày 19/5/1949. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Minh Hóa có vị trí chiến lược quan trọng, là căn cứ địa cách mạng của tỉnh Quảng Bình. Đình Kim Bảng là ngôi đình không rộng lắm nhưng nằm ở vị trí thuận lợi giữa một vùng đất khá rộng và bằng phẳng. Từ Kim Bảng, theo các con đường bí mật xuyên rừng có thể tỏa về các ngả, vì vậy, các đại biểu có thể đến dự đại hội mà vẫn được bảo đảm bí mật, an toàn. Cạnh đình Kim Bảng còn có các hang lèn như hang Quýt, hang Diêm rộng và sâu, có thể tổ chức cho vài trăm người hội họp phòng khi bất trắc. Với điều kiện đó, Huyện ủy Tuyên Hóa đã bố trí lấy lèn đá phía ngoài hang Diêm làm nơi đặt vọng gác bảo vệ vòng ngoài, đồng thời bố trí lực lượng dân quân du kích canh gác suốt ngày đêm trong thời gian diễn ra đại hội. Còn hang Quýt được chọn làm nơi trú ẩn hoặc có thể làm nơi tổ chức đại hội khi có sự cố xảy ra. Nhân dân ở đây giàu truyền thống cách mạng, một lòng đi theo Đảng, Bác Hồ…Chính vì vậy, chỉ trong thời gian ngắn, 4 ngôi nhà dã chiến bằng gỗ, tranh, tre, nứa,…đã được dựng lên quanh đình Kim Bảng để phục vụ cho đại hội. Đồng bào Minh Hóa không chỉ góp công mà còn dốc hết của từ trâu bò, lợn, gà đến ngô, sắn, rau quả…ủng hộ cho đại hội. Hàng chục cán bộ, du kích và nhân dân được cử đến phục vụ đại hội trong suốt 12 ngày (đại hội diễn ra trong 9 ngày và 3 ngày cho công tác chuẩn bị). Quanh khu vực đình Kim Bảng, 8 vọng gác được đặt trên điểm cao và cắt cử người canh giữ nghiêm ngặt. Nhờ đó, đại hội đã được bảo đảm bí mật, an toàn tuyệt đối, thậm chí đến 7 ngày sau khi đại hội bế mạc thì thực dân Pháp mới biết được, chúng điên cuồng cho máy bay đến thả bom, đốt cháy đình.Đại hội đại biểu tỉnh Đảng bộ Quảng Bình lần thứ II là một sự kiện vô cùng quan trọng trong lịch sử Quảng Bình. Nghị quyết do Đại hội thông qua đã đáp ứng kịp thời những đòi hỏi khách quan của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Quảng Bình. Đưa phong trào kháng chiến chuyển sang bước ngoặt lịch sử mới có ý nghĩa cực kỳ quan trọng không những với nhân dân trong tỉnh mà còn có ảnh hưởng tích cực đối với phong trào kháng chiến của cả nước. Di tích lịch sử cách mạng đình làng Kim Bảng và hang lèn Cây Quýt được xếp hạng cấp tỉnh theo Quyết định số 1088/Quyết Định -Uỷ Ban Thể Thao Du Lịch ngày 9-7-1999 của UBND tỉnh Quảng Bình. Đình Kim Bảng, hang lèn Cây Quýt với “Quảng Bình quật khởi”, ngày 15-7, đã trở thành ngày truyền thống lịch sử của Quảng Bình, trở thành phong trào thi đua vượt qua thử thách trong suốt chặng đường kháng chiến của nhân dân ta. Đình Kim Bảng được tiến hành xây dựng vào 1924 và hoàn thành vào năm 1925. Đình được làm bằng gỗ, mái lợp tranh, nền đất, đình gồm có đình Tiền và đình Hậu. Trong thời kỳ chống Pháp đình bị máy bay Pháp bắn cháy, sau đó đình được sửa lại làm trường học và nhà kho quốc phòng. Năm 1966, đình lại bị máy bay Mỹ ném bom Napan cháy toàn bộ. Hiện nay, đình được tỉnh cấp kinh phí khôi phục lại đình trên nền đất cũ của đình làng. Năm 2004, đình được phục hồi và tu bổ, tôn tạo, trở thành một điểm đến ý nghĩa cho du khách và nơi sinh hoạt văn hóa, giáo dục truyền thống yêu nước và cách mạng cho các thế hệ. Hang lèn Cây Quýt nằm cách đình Kim Bảng khoảng 500m; có chiều cao trung bình khoảng 3m; rộng 15,5m; chiều sâu của hang 22m; cửa hang rộng 10m. Hang lèn Cây Quýt được sử dụng trong những ngày diễn ra Đại hội II tháng 5 năm 1949. Cũng tại hang lèn Cây Quýt tháng 9 năm 1964 đã diễn ra Hội nghị quân chính của sư đoàn 325A an dưỡng để ổn định tổ chức chuẩn bị vào Nam chiến đấu. Năm 1968, huyện tổ chức mừng công bắn rơi chiếc máy bay thứ 3.000 của Mỹ trên miền Bắc; Hang lèn Cây Quýt cũng là nơi cất giấu 400 tấn lương thực trong những năm chiến tranh chống Mỹ. Đặc biệt, hang lèn Cây Quýt vừa là di tích khảo cổ được M.cô-la-ni một nhà khảo cổ học người Pháp thuộc trường Viễn đông Bác cổ Hà Nội trước đây khai quật và nghiên cứu. Nguồn Cổng thông tin điện tử xã Minh Hóa , huyện Minh Hóa , tỉnh Quảng Bình.

Quảng Trị 1902 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Đình làng Lý Hòa

Đình Lý Hòa thuộc xã Hải Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình. Đình nằm trên một vùng đất cao giữa làng, với địa thế đẹp, thoáng mát. Cách quốc lộ 1A theo đường bờ sông về phía Đông Bắc chừng 1 km, đình hướng về phía Nam, trước mặt là con sông Lý hiền hòa chảy xuôi ra biển. Đình Lý Hòa được xây dựng năm 1737, do dân làng cùng nhau góp công, góp của. Mới đầu đình chỉ có 4 trụ bằng lim, hàng năm khi tế lễ nhân dân mới dựng lên lợp tranh, khi tế lễ xong lại hạ xuống xếp lại. Vị thần được thờ trong đình làng “Cương khẩu Đại vương”, một vị thần giữ cửa biển Cương Gián được thờ ở đình làng Cương Gián (Nghi Xuân - Nghệ An) - Gia phả các dòng họ ở Lý Hòa đều ghi các vị thần tổ ở làng Cương Gián - xứ Nghệ vào. Năm 1804 - 1808 khi Hội đồng hương Lý vững mạnh, thì nhân dân quyên góp để làm, mái đình được lợp bằng ngói vảy, phần hậu chẩn chỉ để giữ thờ. Sau đó dựng thêm đình trung. Năm 1824 xây cất thêm phần ngoài, hai gian cũ để thờ đồ tử khí. Theo phần phả để lại thì trong cùng “tứ trụ” gồm 4 vị thần: Thiên Yana, Hạnh Tiểu Nương và hai nàng công chúa con Thiên Yana (dân gọi là tứ vị đại càn). Đình giữa thờ thành hoàng và thờ vọng các vị thần có miếu dinh trong làng. Ngoài cùng thờ thập nhị gia tiên (tiên tổ 12 họ) có sắc bằng của vua. Nói đến làng Lý Hoà, không ai lại không biết đến dòng họ Nguyễn Duy, một dòng họ trong nhiều đời kế tục đỗ đạt làm quan to, được kính trọng. Trong thời kỳ nhà Nguyễn, kể từ năm Minh Mạng thứ 10 mở đại khoa đầu tiên cho đến khoa thi cuối cùng 1919, dòng họ Nguyễn Duy ở làng Lý Hòa đã đóng góp 5 vị đại khoa (tiến sĩ). Đó là trường hợp có một không hai trong lịch sử khoa cử Việt Nam thời phong kiến. Đình Lý Hòa ngoài việc thờ tự các vị tổ khai cơ làng, khai cơ nghề nghiệp cho con cháu, thờ tự các danh khoa danh giá của làng, còn gắn liền với các sự kiện lịch sử tiêu biểu của địa phương, của tỉnh trong thời kỳ tiền khởi nghĩa giành chính quyền ở huyện lỵ, trong thời kỳ chống thực dân Pháp xâm lược nước ta đặc biệt là trong cuộc chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ. Những ngày đầu chuẩn bị cho việc vận động quần chúng, tập hợp lực lượng trong mặt trận Việt Minh để cùng địa phương tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền. Đình Lý Hòa là nơi các chiến sĩ cách mạng đã cất dấu tài liệu và đi lại bắt liên lạc, nhóm họp để trao đổi các chủ trương lớn của cấp trên. Ngày 23/8/1945, cả làng đã hội tụ tại đình, đổ về huyện đường. Cùng các địa phương trong huyện làm nên cuộc khởi nghĩa cách mạng tháng Tám giành chính quyền ở huyện lỵ thắng lợi. Trong cuộc chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ. Đình Lý Hòa nói riêng, làng Lý Hòa nói chung là một trong những nơi đánh phá cực kỳ dã man của giặc Mỹ. Địch đánh từ trên trời xuống, từ biển vào.v.v... Các thế hệ, các lớp thanh niên của làng trước khi lên đường nhập ngũ đều tập trung tại đình để được nhắc nhở phát huy truyền thống cha ông, sống xứng đáng với tổ tiên đã tạo dựng ra nền văn hóa tinh thần, văn hóa vật chất và quyết tâm bảo vệ quê hương đất nước, trong những năm tháng chiến tranh quyết liệt, làng Lý Hòa vinh dự được các đồng chí Võ Nguyên Giáp, Đồng Sĩ Nguyên, Lê Quang Hoà... khi vào chiến trường đều ghé thăm. Đình Lý Hòa cũng như làng Lý Hòa nói chung bị đánh đi đánh lại nhiều lần, đình bị bom Mỹ tàn phá, nhưng làng còn là đình còn. Nhân dân địa phương vẫn kiên trì bám trụ, một tấc không đi, một ly không rời, bám làng bám quê hương. Chắc tay chèo tay súng, hưởng ứng khẩu hiệu: “xe chưa qua nhà không tiếc, đường chưa thông không tiếc máu tiếc xương”. Những cột đình bị sập, bị gãy, cùng với nhà cửa, nhân dân tháo dỡ để phục vụ cho những chuyến xe qua, đảm bảo giao thông, đảm bảo mạch máu vì miền Nam ruột thịt. Những chiến sĩ bị thương, những đoàn an dưỡng đều dừng chân tại đình để sau đó ra Bắc, vào Nam. Từ ngày hòa bình lập lại đến nay, đình làng thành nơi hội họp, nơi sinh hoạt văn hóa, là trung tâm chính trị, xã hội của cộng đồng làng xã, nơi các thế hệ con cháu tìm hiểu thêm quá khứ rực rỡ của tổ tiên, nâng cao lòng tự hào và trách nhiệm của mỗi người đối với quê hương làng xóm. Đình Lý Hòa có giá trị lịch sử kiến trúc nghệ thuật tiêu biểu, là nơi thờ tự các vị tổ có công khai sáng làng và các nghề đặc trưng của làng biển (việc tế lễ của đình ngoài hai kỳ Xuân - Thu, mỗi năm có đại trường câu, có việc của làng, ngày tết. Ngoài ra cứ 6 năm có một kỳ tế lễ thành hoàng rất long trọng). Đình Lý Hòa là hiện thân của bản sắc văn hóa làng quê Việt Nam cùng với biết bao giá trị văn hóa đáng được bảo tồn. Hơn nữa đình còn gắn liền với những sự kiện lịch sử tiêu biểu của địa phương, của tỉnh, đặc biệt từ năm 1945 đến nay. Đình còn là một công trình mang biểu tượng lịch sử văn hóa, là nơi sinh hoạt văn hóa của làng biển Lý Hoà. Nơi giáo dục phát huy truyền thống hiếu học, lòng yêu quê hương đất nước cho các thế hệ hôm nay và mai sau. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình

Quảng Trị 2048 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đình làng Tượng Sơn

Đình Tượng Sơn nằm ngay trung tâm xã Quảng Long, trên một thế đất tương đối cao, phía trước có dòng sông Mai (sông Kênh Kịa) chảy qua, sau dựa vào triền cát như ôm trọn lấy làng Tượng Sơn. Lịch sử xây dựng đình làng gắn với lịch sử xây dựng và phát triển cùng với những biến động về chính trị - xã hội diễn ra trên vùng đất Quảng Long, Quảng Trạch (thời phong kiến thuộc xã Đại Đan, tổng Thuận Bài). Đình được xây dựng vào năm Canh Ngọ (1750), đời vua Cảnh Hưng thứ XI đến nay đã hơn 250 năm. Đình Tượng Sơn lúc đầu xây dựng để thờ và ghi công các vị tổ đã có công khai khẩn lập ra làng Đại Đan và những vị được vua giao "Bảo quốc hộ dân", sau này thờ các vị thần trung quân ái quốc. Qua ký ức của nhiều thế hệ dân làng, đình Tượng Sơn là một trong những ngôi đình lớn trên đất Quảng Bình lúc bấy giờ. Đình được xây dựng và bài trí khá công phu. Đình gồm sân đình, tiền đình và hậu đình. Sân đình, tiền đình là nơi diễn ra lễ hội và nơi vui chơi giải trí, gặp mặt tế lễ, hội họp, rước sắc của làng. Hậu đình là nơi thờ Thành Hoàng và các vị thần có công với quê hương đất nước. Đình Tượng Sơn là sự kết hợp giữa chính quyền và thần quyền. Sau vụ đàn áp phong trào Cần Vương ở huyện Quảng Trạch thất bại (1888), thực dân Pháp điên cuồng tìm cách trả thù. Chúng đã lợi dụng hiềm khích giữa dân lương giáo, xúi giục bọn việt gian đội lốt tôn giáo đốt cháy đình làng. Dù rằng lúc này Đình chỉ còn lại dấu tích một thời, nhưng hình ảnh ngôi đình làng vẫn in đậm trong ký ức của mỗi người dân. Với tâm huyết đó, mùa xuân năm Nhâm Tý (1912) đình làng được khởi công xây dựng lại trên nền đình cũ theo kiến trúc của triều Nguyễn. Sau một năm chung lòng chung sức, góp công góp của của cộng đồng làng, đến mùa xuân năm Quý Sửu (1913) đình làng hoàn thành. Về cấu trúc, đình xây dựng lại lần 2 cơ bản vẫn như cũ nhưng đồ sộ và hoàn hảo hơn. Đặc biệt phần trang trí phối cảnh bên ngoài cũng như các chi tiết đường nét hoa văn, chạm trổ hình ảnh con voi trận được khắc ở bình phong đều thể hiện rõ tinh thần thượng võ của vùng đất Tượng Sơn. Riêng phần hậu đình ngoài việc thờ Thành Hoàng làng còn thờ vua Quang Trung và danh tướng Nguyễn Dụng ở chính diện hợp với ý nguyện lòng dân. Năm 1968, do tính chất của cuộc chiến tranh phá hoại ngày càng ác liệt của đế quốc Mỹ, ngôi đình lại bị bom đánh sập. Mãi cho đến năm 1993, Đảng bộ và nhân dân Quảng Long đã phục hồi lại phần hậu đình gồm 3 gian, được xây bằng đá, gạch, xi măng, mái lợp ngói như hiện trạng ngày nay. Tuy nhiên, việc làm đó cũng mới chỉ dừng lại việc phục hồi nơi thờ tự, chứ chưa tái hiện lại phần kiến trúc nghệ thuật của ngôi đình ngày xưa. Đình Tượng Sơn là một công trình lịch sử - văn hóa, là nơi hội tụ những sinh hoạt văn hóa truyền thống tốt đẹp của vùng đất Quảng Long là nơi trao truyền giá trị văn hóa giữa các thế hệ. Các phong tục, lễ hội của làng diễn ra ở Đình đều tập trung phản ánh các quan niệm thờ cúng và thể hiện tư tưởng người nông dân làng xã trong sự tôn vinh các vị thần. Trong những năm vận động thành lập chi bộ Đảng ở địa phương, Đình Tượng Sơn là nơi các chiến sĩ cộng sản đi lại, họp kín để trao đổi, tuyên truyền những chủ trương, đường lối của Đảng. Thời kỳ tiến tới tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng 8, đình làng cũng là nơi diễn ra các cuộc mít tinh của mặt trận Việt Minh kêu gọi quần chúng nổi dậy hưởng ứng sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc. Đêm 19/8/1945, tại đình làng, Ban vận động và chỉ đạo khởi nghĩa xã được thành lập. Tại đây ngày 23/8/1945, tên lý trưởng đã giao nộp ấn tín và sổ sách cho Việt Minh. Hoà bình lập lại (1954), đình Tượng Sơn là trụ sở hành chính trong một thời gian khá dài của uỷ ban xã Quảng Long. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, để đảm bảo cho việc chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến miền Nam. Đình Tượng Sơn trở thành nơi tập kết, dừng chân của các đơn vị bộ đội, nơi trung tâm tiếp nhận hàng hóa, vũ khí. Ngoài ra đình cũng là nơi chứa đựng quân khí của đại đội 365, pháo 37, Bệnh viện Quảng Trạch cũng đóng ở đây. Khi phát hiện được những điểm cất dấu hàng nên đế quốc Mỹ đã tập trung đánh phá ác liệt vùng đất Quảng Long, lúc này đình đã bị đánh sập. Nhưng với tinh thần tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng, Đảng bộ và nhân dân Quảng Long đã dùng số gỗ còn lại để làm hầm phòng không, hầm cứu thương và phần lớn đưa ra làm cầu Kênh Kịa cho xe qua. Có thể nói trong những năm tháng đầy khó khăn, gian khổ, hy sinh chống lại cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, đình Tượng Sơn đã góp một phần đẩy nhanh sự nghiệp thống nhất đất nước. Với những giá trị về mặt lịch sử trên năm 2003, đình Tượng Sơn được Bộ Văn hóa-Thể thao và Du lịch công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Bình.

Quảng Trị 1918 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đình làng Lũ Phong

Đình làng Quảng Phong-trước đây gọi là đình Lũ Phong, được xây dựng vào năm 1542, để thờ 5 vị thánh Thành hoàng có công khai khẩn, lập làng qua các thời kỳ. Năm 1962, đình được công nhận là Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Trong những năm kháng chiến chống Mỹ, đình là mục tiêu đánh phá ác liệt của kẻ thù. Tới nay đình đã được tôn tạo lại và dần dần phục hồi các giá trị truyền thống lịch sử tốt đẹp của địa phương. Đình làng Lũ Phong là nơi tưởng nhớ công ơn Thành Hoàng Làng (những vị quan, tướng đầu tiên về khai khẩn sinh sống tại đây), đặc biệt hơn đình làng cũng ghi dấu ấn lịch sử Chi bộ đầu tiên được thành lập của Huyện Quảng Trạch và phía Bắc Quảng Bình (10/1993). Để tưởng nhớ công lao của ông, cha và cầu cho làm ăn thuận lợi, mùa màng bội thu, cuộc sống ấm no, bình an, hàng năm người dân tổ chức cúng tế. Việc chuẩn bị cho lễ hội đình làng Lũ Phong được thực hiện rất công phu. Chiều ngày 17 tháng Giêng, người dân của 10 tổ dân phố của phường Quảng Phong đều bận rộn, chuẩn bị các mâm cỗ để cúng lễ cho sáng ngày hôm sau. Trong mâm cỗ cúng ngày lễ được chia làm hai loại: loại mâm cỗ thứ nhất gồm có hoa quả, vàng mã, hương, rượu,…;loại mâm cỗ thứ hai gồm xôi thịt. Lễ hội đình làng Lũ Phong được tổ chức từ 9 giờ sáng ngày 18 tháng Giêng khi các mâm cỗ của 10 tổ dân phố trong phường đã được trưng bày đầy đủ tại đình Lũ Phong. Các nghi lễ cúng do các bậc cụ lão lớn tuổi trong phường thực hiện. Quá trình hình thành, phát triển của đình làng Lũ Phong,các truyền thống ông cha sẽ được đọc lại trong buổi lễ, nhằm giáo dục cho các thế hệ sau nhớ về cội nguồn. Đồng thời lễ hội Lũ Phong cũng nêu lên những thành tích mà phường Quảng Phong đã đạt được trong năm trước, cầu mong cho năm mới mọi điều thuận lợi, hướng thiện, cầu bình an, mọi người dân sẽ có cuộc sống tốt đẹp hơn. Nguồn Cổng thông tin điện tử thị xã Ba Đồn, tỉnh Quảng Bình.

Quảng Trị 2138 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đình làng Phù Trịch

Làng Phù Trịch (Quảng Lộc, TX. Ba Đồn) vốn nổi danh bởi chiến thắng Phù Trịch - La Hà những năm chống Pháp ác liệt. Mảnh đất này vẫn còn lưu dấu bao giá trị lịch sử, văn hóa vững bền theo thời gian. Đình làng Phù Trịch là nơi hội họp, diễn ra các hoạt động văn hóa-văn nghệ, lưu giữ nhiều phong tục, tập quán tốt đẹp và còn là hiện thân của tình đoàn kết cộng đồng. Một trong những giá trị làm nên niềm tự hào vững bền của người dân Quảng Lộc nói chung và làng Phù Trịch nói riêng là mái đình Phù Trịch cổ kính, mang đậm dấu ấn thời gian. Đình Phù Trịch được xây dựng vào năm 1843, là một công trình kiến trúc ẩn chứa nhiều giá trị lịch sử, văn hóa của địa phương. Điều đáng quý là bên trong đình Phù Trịch hiện đang lưu giữ 12 sắc phong thời nhà Nguyễn từ vua Tự Đức đến vua Duy Tân, điều đó thể hiện được sự trân trọng quá khứ, cũng như công lao của các bậc tiên hiền. Mặt đình hướng ra sông Gianh, lưng tựa vào làng tạo thế đứng vững chắc giữa không gian thoáng đãng. Đình được thiết kế hai phần: đình tiền và đình hậu. Đình tiền được xây dựng khá rộng, có thiết kế đẹp, công phu. Các đường nét hoa văn được chạm khắc trau chuốt, tỉ mỉ. Ở hai đầu hồi phía đông và tây đắp hình hai con chim phượng có tư thế đang bay, với cách đắp ốp những đường nét cong lượn tinh tế, sắc sảo, uyển chuyển, hài hòa, tuyệt mỹ, mang cốt cách đăng đối cung đình. Đình hậu có kiểu kiến trúc và cách bố trí mang những nét tương đồng như những đình khác ở các địa phương khu vực miền Trung, từ các chi tiết hoa văn phối cảnh bên ngoài cho đến phần nội thất bên trong. Đình hậu được xây dựng theo hình chữ nhật, mái lợp bằng ngói Hưng Ký. Đình hậu là nơi thờ phụng vị thành hoàng danh tướng Phạm Bá Quý và các vị thần, vị tướng có công danh, đức độ, các vị khoa bảng danh thơm, tiếng tốt, phò dân, giúp nước được nhân dân mến mộ. Cách đình khoảng 20m về phía tay trái, dân làng còn lập riêng một lăng miếu được xây cất khá công phu thờ Thành hoàng Phạm Bá Quý, người có công lớn trong việc khai khẩn ruộng đất lập nên làng Phù Trịch, vừa là một vị tướng có tài. Phía trên hương án treo 2 chữ Hán “Anh Linh” do vua ban tặng, thể hiện là nơi trang nghiêm và kính cẩn để thờ ngài. Năm 1817, ông được vua Thành Thái sắc phong “Bản thổ Thành hoàng chi thần”, sau đó sắc phong là “Thượng đẳng Tôn thần”. Bởi thế, khi xây dựng miếu thờ, dân làng đã khắc hai câu đối bằng chữ Hán: “Sinh vi tướng Binh Lồi cứu quốc/Tử phong thần bản thổ thành hoàng”. Phía trên 4 nóc miếu vẫn còn giữ được những nét chạm trổ rồng, phượng tinh xảo và nguyên bản, thể hiện uy quyền của một danh tướng. Về phía đông cách đình khoảng 1.200m nhân dân địa phương còn lập nên một khu miếu gọi là “Tam tòa tứ miếu”, gồm có 4 ngôi miếu. Mỗi ngôi miếu được thiết kế theo ba tòa kiến trúc giống nhau, các đường nét đắp ốp, uốn lượn, chấm họa đều theo một thể thống nhất. Bốn ngôi miếu dùng để thờ các vị: Nam Hán Lang Lai, Tả phụ thiền tướng công Nguyễn Hữu Hiền, thân phụ các tả phụ thiền quận công, tứ vị thần nông, những vị có công trong việc trấn ải biên thùy, khai cơ điền thổ, xây dựng bảo vệ quê hương và được sắc phong qua các triều vua. Di tích lịch sử đình Phù Trịch ngoài việc thờ tự vong linh những vị tổ khai cơ lập nghiệp nên làng, những vị có công đức được nhân dân tôn kính, đình còn gắn liền với những sự kiện lịch sử quan trọng trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Tiêu biểu như chiến thắng Phù Trịch La Hà vào mùa xuân tháng 2-1950 đã đi vào lịch sử của địa phương và dân tộc như một mốc son chói lọi, xác và máu quân thù nhuốm đỏ cả dòng sông. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Phù Trịch là địa bàn trọng điểm; bến đò ngang Phù Trịch là huyết mạch giao thông quan trọng, là nơi đưa đón bộ đội, thanh niên xung phong, nhân dân qua lại và vận chuyển hàng hóa vào chiến trường. Đình Phù Trịch là nơi tập kết quân, cất dấu hàng hóa quan trọng như vũ khí quân trang, quân dụng, gạo muối, thuốc men. Đình Phù Trịch, vùng đất Phù Trịch trở thành điểm nóng mà địch tập trung đánh phá suốt đêm với hàng ngàn loại bom đạn khác nhau hòng ngăn chặn cắt đứt mạch máu giao thông đường bộ, đường thuỷ. Đến năm 1967, 1968 với cuộc chiến tranh mang tính huỷ diệt, đế quốc Mỹ đánh bom vào nhà thương, trường học, đình, chùa, lăng, miếu… phần đình tiền cũng bị đánh sập từ đây. Qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, đình Phù Trịch nói riêng, làng Phù Trịch nói chung đã có những đóng góp đáng kể cho sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc. Đã gần hai trăm năm qua mà các đường nét hoa văn chạm trổ trong tổng thể kiến trúc của ngôi đình vẫn nguyên vẹn trên một vùng đất có nhiều chiến tích, là nơi thờ tự, tín ngưỡng và địa điểm sinh hoạt văn hoá tâm linh của các thế hệ người làng Phù Trịch. Cứ vào mỗi dịp tết đến xuân về, nhất là đêm giao thừa Tết Nguyên đán, con cháu trong làng đều tập trung về đình để cùng nhau đón giao thừa, dâng hương và đánh chiêng, gõ trống khai xuân, ngày 6 tháng giêng hàng năm, tất cả các họ tựu trung tại đình làng để tổ chức lễ khai canh đầu xuân của làng. Đây là dịp để các tộc họ, con cháu gần xa trở về tham dự lễ, cùng ôn lại những giá trị truyền thống tốt đẹp của vùng đất này. Và đình làng mãi là nơi chốn đi về đầy tự hào của bao thế hệ người dân nơi đây. Nguồn Cổng thông tin điện tử xã Quảng Lộc, thị xã Ba Đồn, tỉnh Quảng Bình.

Quảng Trị 2025 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đình Hòa Ninh.

Đình Hòa Ninh thuộc làng Hòa Ninh xưa nay là xã Quảng Hòa, thị xã Ba Đồn được xây dựng từ năm Bảo Đại thứ 11 – 1936. Thời phong kiến, đình vừa là “trạm giao liên của các binh đoàn phục vụ cho việc hành quân”, vừa là nơi thờ cúng các vị anh hùng, các vị có công khai khẩn đất hoang lập nên làng mạc… Cùng với các giá trị về văn hóa, Đình làng Hòa Ninh trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ xâm lược cũng là nơi ghi dấu nhiều sự kiện lịch sử. Ngôi đình là nơi hội họp của nhân dân, nơi diễn ra các cuộc mít tinh của mặt trận Việt Minh kêu gọi quần chúng nổi dậy giành chính quyền ở làng xã, huyện lỵ (8-1945). Trong những năm chống Mỹ cứu nước, đây cũng là nơi lực lượng vũ trang ta tập kết và là kho cất dấu vũ khí sẵn sàng đánh trả lại máy bay địch khi chúng đánh phá miền Bắc. Năm 1965, bom đạn giặc Mỹ khiến đình Hòa Ninh bị hư hỏng nặng. Nhưng, với sự quyết tâm của bà con, cùng sự chỉ đạo sâu sát của chính quyền các cấp, năm 1976, Đình đã được tu sửa thành công và trở thành một “địa chỉ vàng” cho thế hệ đi sau nêu cao niềm tự hào, trách nhiệm đối với truyền thống vẻ vang của cha ông. Năm 1993, Bộ Văn hóa-Thông tin (cũ) đã xếp hạng đình Hòa Ninh là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Đình Hòa Ninh được xây dựng với quy mô và kiến trúc đồ sộ, tỷ mỷ. Đình được bố trí với hệ thống tường thành bao quanh, cổng trụ, bình phong và tòa đại đình nằm ngang. Sự sắc sảo, tinh tế thể hiện ngay ở cổng của đình, với cổng chính được xây dựng bằng gạch. Hai trụ biểu hai bên được thiết kế vô cùng công phu, các đường nét hài hòa với từng họa tiết và màu sắc. Trên hai đỉnh trụ biểu là hình ảnh hai con nghê được ốp tinh xảo bằng men xanh, nâu nhạt thể hiện sức mạnh đoàn kết của người dân. Cổng đình mang đậm nét kiến trúc nghệ thuật của làng quê Việt Nam. Đình Hòa Ninh xã Quảng Hoà gồm có 5 gian, 4 vài, 1 cửa chính và 4 cửa phụ. Trước cửa chính đình có khắc chữ “Thọ” được lồng trong mặt trăng và 3 chữ Hán đắp nổi là Phúc, Du, Đồng. Đây cũng là trung tâm thể hiện các họa tiết trang trí như: Long, Lân, Quy, Phụng, bát bửu, hoa lá… bằng nghệ thuật đắp vữa và ghép các mảnh sành, sứ. Ngoài ra, khu vực này còn có thêm 2 câu đối của cử nhân Nguyễn Tiến Ích. Đình Hòa Ninh có phần mái độc đáo, được xây theo kiểu tứ giác, hai mái thượng phía trước và sau, hai mái hạ ở hai đầu Đông, Tây. Ở giữa nóc đình là hình tượng lưỡng long chầu nguyệt linh thiêng. Hằng năm, vào mỗi dịp Tết, tại đình Hòa Ninh Quảng Bình có tổ chức lễ hội Kỳ Phúc, đây là lễ hội nhằm với mục đích cầu phúc cho nhân dân, cầu cho quốc thái dân an, mùa màng bội thu, thuận buồm xuôi gió... Ngoài ý nghĩa cầu phúc, đây cũng là dịp mà người dân làng Quảng Hòa, mà lớn hơn nữa là người dân Quảng Bình nhớ về tổ tiên, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Nguồn Cổng thông tin điện tử xã Quảng Hòa , thị xã Ba Đồn, tỉnh Quảng Bình.

Quảng Trị 1927 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Di Tích Thành Tân Sở

Di tích Căn cứ Thành Tân Sở nằm ở làng Mai Đàn, xã Cam Chính, huyện Cam Lộ. Di tích Căn cứ Thành Tân Sở được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng Quốc gia vào ngày 16 tháng 1 năm 1995. Đây là một di tích thành lũy quân sự cuối cùng của triều đại phong kiến triều Nguyễn ghi dấu những sự kiện lịch sử quan trọng của phong trào Cần Vương chống Pháp đầu thế kỷ XX. Tân Sở là một vùng đất biệt lập với đồng bằng và xa cách với trung tâm các sở lỵ. Bao quanh bốn phía là các đỉnh núi, dãy đồi tự nhiên tạo ra như một vòng thành khép kín. Mặt phía đông hướng ra đồng bằng Triệu - Hải rất thuận lợi cho việc giao lưu với miền xuôi. Các mặt kia đều có những con đường thượng đạo dẫn qua Lào và ra Bắc phòng khi rút lui, vì vậy nơi đây đã được chính quyền quân chủ phong kiến qua các thời kỳ chọn làm đồn trấn ải biên giới, Nha sơn phòng. Đến năm 1883 thì đổi thành Sơn phòng Quảng Trị hay còn gọi là thành Tân Sở. Căn cứ kháng chiến ở Tân Sở bắt đầu xây dựng từ năm 1883 và đến năm 1885 thì hoàn thành. Dưới sự chỉ đạo của các quan: Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Lệ, Đặng Duy Cát, hàng nghìn binh lính, dân phu đã đào đắp miệt mài suốt ngày đêm. Chính từ công việc đào đất, trồng tre để xây dựng căn cứ Tân Sở vốn tốn rất nhiều công sức nhưng nhân dân ta lại không hề nghĩ đến lợi ích riêng mà có câu ca: "Ăn cơm nhà đi vác tre ngà cho quan". Thành Tân Sở có cấu trúc theo hình chữ nhật: chiều dài 548m, chiều rộng 418m, tổng diện tích là 22,9 ha. Thành ngoại có 4 cửa: Tiền, Hậu, Tả, Hữu đắp bằng đất, phía ngoài có hàng rào cọc nhọn và hệ thống hào bao quanh (sâu 2m, rộng 10m), 4 mặt thành được trồng tre ngà dày đặc gồm bốn lớp cách nhau hàng chục mét, giữa các lớp tre là thành đắp bằng đất. 4 góc thành có 4 giếng nước sâu 20m, bên trong thành ngoại có nhà cửa, trại lính, kho tàng, bãi tập trận của voi ngựa; Ở các cửa và góc thành đều có các đồn lính, ụ súng canh giữ, bảo vệ thành nội. Thành nội được xây dựng bằng gạch vững chắc, chiều dài là 165 m, chiều rộng 100m, tổng diện tích là 1,65 ha. Nội thành có 5 cửa: Tiền, Hậu, Tả, Hữu và Ngọ Môn giành cho vua và các quan ra vào hành cung. Bên trong thành nội có các khu nhà là nơi ở, làm việc của các quan. Thực dân Pháp sau vụ bị quan quân triều đình nhà Nguyễn tấn công đã trả thù man rợ. Chúng gây ra vụ thảm sát tàn khốc đối với nhân dân kinh thành Huế, rồi sau đó tức tốc đánh chiếm Tân Sở, bắt cho được vua Hàm Nghi và những người cầm đầu phe chủ chiến. Cuối cùng thì Pháp chiếm được Tân Sở, chúng đã đốt phá, huỷ diệt hoàn toàn. Tân Sở chìm trong biển lửa, báo hiệu sự kết thúc của một kinh đô - một trung tâm đầu não lãnh đạo phong trào Cần vương, ghi lại một mốc lịch sử vô cùng oanh liệt chống ngoại xâm của dân tộc ta, trở thành nơi chứng kiến, ghi nhận tinh thần dân tộc của một vị vua yêu nước - vua Hàm Nghi. Sau hoà bình, Tân Sở ngổn ngang những đống phế liệu chiến tranh và chi chít hàng trăm hố bom. Di tích Căn cứ Thành Tân Sở rất cần được gìn giữ, tôn tạo. Nguồn: Báo Quảng Trị

Quảng Trị 2959 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Quảng Bình Quan

Quảng Bình Quan (mới phục chế lại), ở ngay trung tâm phường Đồng Hải giữa bốn ngả đường: phía Tây là đường đi lên Đức Ninh, phía Đông là đường Mẹ Suốt đi xuống bến sông Nhật Lệ, phía Bắc là đường đi Hà Nội, phía Nam là đường đi Huế. Quảng Bình Quan cũng có nhiều tên gọi. Người thì nói đó là cửa vào dinh Quảng Bình, người thì nói Cổng Bình Quan. Sách Đại Nam Nhất Thống Chí chép: ’’cửa quan dài hai trượng 1 thước, rộng hai trượng 5 thước; thành ngoài bảo vệ cửa quan dài 14 trượng 6 thước cao 3 thước, năm Minh Mệnh thứ (1826) xây gạch đá…’’ Quảng Bình Quan thời Nguyễn, được đắp bằng đất vào năm 1631, là hệ thống thành lũy cổ được xây đắp để bảo vệ kinh thành Nguyễn. Quảng Bình quan nằm trong hệ thống Lũy Thầy, bao gồm Lũy Trường Dục, Lũy Trấn Ninh, Lũy Nhật Lệ, Lũy Trường Sa kéo dài hơn 30 km. Hệ thống Lũy Thầy do Quân sư chúa Nguyễn là Đào Duy Từ (1572-1634) thiết kế và trực tiếp chỉ đạo xây dựng từ năm 1631-1634, nhằm giúp Chúa Nguyễn ở Đàng Trong chống lại các đợt tấn công của Chúa Trịnh ở Đàng Ngoài vào thời Trịnh – Nguyễn phân tranh. Nơi đây có địa thế tựa núi gần khe rất chắc chắn, ngăn cách với đất Bắc, vô cùng hiểm trở chẳng khác gì đang đi vào đất Thục cả. Dưới thời chúa Nguyễn, người châu Nam Bố Chính hay ở phương Bắc có việc gì, muốn vào dinh Quảng Bình nếu đi đường bộ thì trước hết phải vào Quảng Bình Quan trình giấy tờ rồi mới ngược ra hướng bắc mà vào cửa Nam Môn để nhập thành. Người đi đường thủy thì phải ghé thuyền ở cửa Nhật Lệ, trình giấy tờ ở cửa quan Thủ Ngự rồi cho thuyền lên bến cửa đông mà nhập thành. Quảng Bình quan nằm trấn giữ con đường huyết mạch Bắc-Nam và đường thuỷ từ cửa biển Nhật Lệ vào. Vì thế, mà hơn 7 lần quân của Chúa Trịnh vượt Sông Gianh vào Nam đều bị chặn đứng tại đây. Là chứng tích đau thương của một thời phân tranh đất nước, nhưng Quảng Bình Quan cũng như hệ thống Luỹ Thầy đã thể hiện sự phát triển cao của nghệ thuật kiến trúc thành luỹ quân sự Việt Nam. Nơi này là trung tâm của hệ thống Lũy Thầy, Quảng Bình Quan được xây dựng theo một mô hình kiến trúc độc đáo, kết hợp hài hoà giữa hai yếu tố, vừa là chiến luỹ phòng ngự chiến đấu kiên cố vững chắc, vừa là một công trình kiến trúc nghệ thuật đặc sắc. Quảng Bình Quan chính là địa chỉ tin cậy cho các nhà nghiên cứu kiến trúc và quân sự sau này. Vào năm 1825, vua Minh Mạng đã cho trùng tu Quảng Bình Quan và nâng cao thêm tầng tháp canh bằng loại gạch nung kiên cố, sau khi khánh thành nhà vua đã xếp Quảng Bình Quan là một trong những công trình văn hoá lịch sử đặc sắc của đất nước, cho đúc nổi hình ảnh Quảng Bình Quan vào Nghi Đỉnh đặt trước Thế Miếu trong Tử Cấm Thành. Trước Cách mạng tháng 8-1945, Quảng Bình Quan (phía đường Đức Ninh) còn có hào ngoài thành, có cầu gạch vòng qua hào và phía ngã ba giữa hai con đường Đức Ninh và Cầu Rào (ngày xưa thời chúa Nguyễn là đường thiên lý và đường thượng đạo) còn có một âm hồn trên một nghĩa địa lớn. Quảng Bình Quan bị quân đội Pháp phá hủy khi họ rút khỏi Đồng Hới năm 1954, sau đó được xây lại gần giống như cũ. Năm 1965, chiến tranh phá hoại, bị máy bay của Mỹ đánh tan. Hiện nay, Quảng Bình Quan đã được phục chế lại như nguyên bản cách đây hơn ba thế kỷ. Quảng Bình Quan, một di tích kiến trúc có giá trị lịch sử và nghệ thuật, biểu tượng đặc trưng về văn hóa của vùng đất địa linh nhân kiệt. Nguồn: BẢO TÀNG TỔNG HỢP QUẢNG BÌNH

Quảng Trị 2543 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình làng Câu Nhi

Di tích Đình làng Câu Nhi thuộc làng Câu Nhi, xã Hải Tân, huyện Hải Lăng (nay là xã Hải Phong, huyện Hải Lăng), nơi gắn với danh nhân Bùi Dục Tài. Di tích đã được Bộ Văn hóa thông tin xếp hạng quốc gia ngày 13/3/2001. Làng Câu Nhi thuộc xã Hải Tân xưa có tên là Câu Lãm – một làng có tiếng văn vật. Mảnh đất này đã sản sinh ra nhiều nhân vật vang bóng một thời, trong đó nổi danh là Bùi Dục Tài. Các tài liệu hiện có cho biết làng được thành lập từ đầu thế kỷ 15. Đình làng Câu Nhi nguyên xưa là một ngôi đình lớn và đẹp có tiếng khắp vùng. Theo Thỉ Thiên thì ngôi đình đầu tiên được dựng lên ở khu đất mà nay còn có tên gọi là cồn đình vào khoảng những năm đầu thời Lê sơ (1428 – 1433). Đến thời Tây Sơn, đình được chuyển đến khu vực đầu làng, ở ven ngã ba sông – tại địa điểm hiện nay. Gia phả họ Bùi cho biết đình được xây dựng vào năm 1879, đến năm 1882 thì hoàn thành. Đây là lần xây dựng đình quy mô. Kiến trúc của đình là một ngôi nhà rường rộng 5 gian 2 chái. Bộ khung gỗ có kết cấu vững chãi, các cột cái bằng gỗ lim, những cột khác bằng gỗ mít. Bộ mái lợp ngói liệt. Xung quanh đại đình có tường gạch che chắn ba mặt. Vào năm 1950, trong thời kỳ Pháp xâm lược, ngôi đình bị đốt cháy hoàn toàn. Năm 1955, làng tổ chức quyên góp tiền của để tu tạo lại, nhưng do không có đủ vật lực nên diện tích ngôi đình phải thu hẹp và diện mạo kiến trúc cũng thay đổi. Đó là hai nếp nhà song ngang theo kiểu chữ nhị làm theo lối nhà rường 3 gian 2 chái. Phía trước là tiền đường, phía sau là chính điện. Trong cuộc chiến tranh chống Mỹ, đình làng Câu Nhi cũng như bao ngôi đình khác trên vùng đất Quảng Trị không tránh khỏi sự phá hoại của bom đạn. Đình Câu Nhi được trùng tu 3 lần vào các năm 1967, 1985 và 1955. Năm 1991, xây lại bình phong và cổng thành phía trước. Đình hiện còn chỉ gồm một ngôi nhà 3 gian, quy mô nhỏ, trải theo chiều ngang, mặt hướng ra sông Ô Lâu. Hai đầu hồi xây tường phẳng, ba phía xây tường gạch, mặt trước lắp đặt hệ thống cửa “thượng song hạ bản”. Cấu trúc kiểu vài chồng, cột nóc. Mái lợp ngói móc. Các họa tiết rồng, giao trên mái tuy không đơn điệu nhưng không có gì đặc biệt. Bình phong và cổng thành xây lại rất quy mô. Trong khu vực đình có một công trình kiến trúc đáng chú ý là Văn Thánh nằm ở góc Tây bắc, nơi dân làng tạo dựng để thờ Khổng Tử và những người đỗ đạt ngõ hầu mong con cháu mai sau nối dõi thánh hiền. Trước mặt đình là một chợ làng họp vào mỗi buổi sáng thường ngày, nay vẫn còn nhưng không đông đúc mấy. Phía sau lưng đình làng, đối diện qua con đường là chùa Quan Khố. Trong khuôn viên của ngôi chùa trước đây có ngôi miếu thờ thượng thư Bộ Lễ Bùi Dục Tài (nay chỉ còn nền móng). Bên trong thờ thành hoàng và những người có công xây dựng đình. Lễ hội được tổ chức hàng năm ở đình làng Câu Nhi có lễ Cầu an tổ chức vào những ngày đầu năm; Vào những dịp tế lễ, dân làng thường tổ chức hội làng với các trò diễn, trò vui như: đua thuyền, hội chợ, đánh đu, chơi cờ… Đình làng Câu Nhi trong tiến trình lịch sử của mình là nơi xảy ra nhiều sự kiện gắn với làng Câu Nhi và vùng đất Hải Lăng Quảng Trị. Dưới thời Mạc (1527 – 1592), nhân dân Câu Nhi do quan tướng địa phương Hoàng Bôi lãnh đạo đã dùng đình làng làm nơi hội họp, rèn luyện võ nghệ, tích trữ lương thực. Cuộc khởi nghĩa Hoàng Bôi đã để lại những dấu ấn lịch sử trên vùng đất bên bờ sông Ô Lâu. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược, đình làng Câu Nhi là trụ sở của Ủy ban hành chính kháng chiến xã Hải Tân – nơi lần đầu tiên người dân bên bờ sông Ô Lâu được cầm lá phiếu bầu Quốc hội khóa I nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với tư cách là người dân làm chủ. Đây cũng là nơi tổ chức hội họp, luyện tập tự vệ, thực hiện các phong trào diệt giặc đói, giặc dốt, tuần lễ vàng… Nguồn: Di tích lịch sử văn hoá và danh lam thắng cảnh tỉnh Quảng Trị

Quảng Trị 3690 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Nhà Lưu niệm Tổng Bí thư Lê Duẩn

Khu lưu niệm Tổng Bí thư Lê Duẩn nằm bên bờ sông Thạch Hãn, trên địa phận thôn Hậu Kiên, xã Triệu Thành, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Khu di tích lưu niệm Tổng Bí thư Lê Duẩn được công nhận là di tích Quốc gia ngày 29-10-2010. Lê Duẩn (1907 - 1986) là một người con của thôn Bích La Đông, xã Triệu Đông, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Sinh ra và lớn lên trên mảnh đất có bề dày về truyền thống yêu nước, Lê Duẩn sớm giác ngộ cách mạng. Năm 1928, tham gia Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên và trở thành một trong những Đảng viên lớp đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cuộc đời hoạt động cách mạng sôi nổi gắn bó mật thiết với lịch sử đấu tranh cách mạng cũng như sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội của Đảng và đất nước. Trong suốt 26 năm, với cương vị là Bí thư thứ nhất và sau đó là Tổng Bí thư, dù ở bất kỳ hoàn cảnh nào, đồng chí Lê Duẩn vẫn luôn nêu cao khí phách kiên trung của người cộng sản đặc biệt là những đóng góp to lớn của đồng chí cho sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội do Đảng cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo. Lê Duẩn xứng đáng là một lãnh tụ kiệt xuất của dân tộc, một chiến sĩ kiên cường của phong trào Cộng sản và công nhân quốc tế và là một người con ưu tú của quê hương Quảng Trị. “Di tích khu lưu niệm Tổng Bí thư Lê Duẩn”, là tên gọi chung cho một quần thể di tích bao gồm: Nhà lưu niệm đồng chí Lê Duẩn - nơi sinh hoạt của gia đình đồng chí từ khi chuyển từ Bích La Đông lên Hậu Kiên và hiện nay là nơi thờ tự hai cụ thân sinh và đồng chí tại quê hương, thôn Hậu Kiên; Nhà tưởng niệm, là nơi tổ chức hành lễ, viếng thăm của khách tham quan; Nhà trưng bày bổ sung, là nơi trưng bày những hiện vật, ảnh tư liệu liên quan đến thân thế và sự nghiệp đồng chí Lê Duẩn Nhà lưu niệm cố Tổng Bí thư Lê Duẩn nằm trên khuôn viên có diện tích 2.000m2. Nguyên trước đây là nhà và vườn của cụ thân sinh Lê Hiệp. Nhà làm bằng gỗ, khá khang trang. Trải qua hai cuộc chiến tranh tàn khốc, ngôi nhà bị đốt cháy nhiều lần, sau giải phóng chỉ còn lại nền nhà. Năm 1976, để tỏ lòng tôn kính và biết ơn công lao to lớn của đồng chí đối với Đảng và Nhà nước, Đảng bộ và nhân dân huyện Triệu Phong đã chung tay góp sức dựng lại ngôi nhà của gia đình đồng chí trên nền đất cũ. Ngôi nhà có kết cấu theo dạng nhà băng xưa gồm 3 gian 2 chái, có nhà sau (nhà dưới) rộng 4,5m, dài 9m, mái lợp tranh, vách khại tre, trát bùn và gỗ. Bên trong nhà còn phục chế lại các đồ dùng như giường nằm, sập, bàn, tủ thờ... Cuối năm 1977, mái tranh bị hỏng, UBND huyện đã thay lại bằng ngói mốc. Từ năm 1978 - 1985, tiếp tục trải qua nhiều lần tu sửa, cải tạo thay vách tre bằng gỗ ép. Năm 1995, Bảo tàng tỉnh Quảng Trị đã trùng tu lại ngôi nhà dựa trên những kết cấu của ngôi nhà cũ (bốn vài hai chái, có nhà sau) rộng 10m, dài 12m, mỗi gian rộng 2,5m, mỗi chái rộng 1,5m có mái hiên. Năm 2005, dự án quy hoạch, xây dựng trùng tu tôn tạo di tích khu lưu niệm Tổng Bí thư Lê Duẩn hoàn thành, một số hiện vật, tư liệu trưng bày ở nhà lưu niệm trước đây chuyển sang trưng bày tại Nhà trưng bày bổ sung. Nhà lưu niệm vẫn dùng làm nơi thờ tự hai cụ thân sinh và đồng chí Lê Duẩn. Khu di tích lưu niệm Tổng Bí thư Lê Duẩn là một di tích lịch sử lưu niệm danh nhân tiêu biểu của tỉnh Quảng Trị, gắn liền tuổi trẻ và những năm tháng hoạt động cách mạng của đồng chí ở quê nhà với sự tồn tại và phát triển phong trào đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và nhân dân Quảng Trị trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Nguồn: Trung tâm Quản lý Di tích và Bảo tàng tỉnh Quảng Trị

Quảng Trị 3735 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Địa đạo Vịnh Mốc

Địa đạo Vịnh Mốc và Hệ thống làng hầm Vĩnh Linh là công trình kiến trúc quân sự kỳ vĩ dưới lòng đất, ra đời trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Với khẩu hiệu “quân sự hóa toàn dân, công sự hóa toàn khu vực” quân dân Vĩnh Linh đã tiến hành đào hầm hào, với nhiều công năng: trụ sở, kho hậu cần, trường học, bệnh viện, khu vực sinh hoạt của từng gia đình…, được bố trí khắp các điểm dân cư, dọc đường đi, ven ruộng, bờ biển, được nối thông nhau bằng hệ thống giao thông hào chằng chịt thay cho đường trên mặt đất. Tính từ cuối năm 1965 đến năm 1968 (theo thống kê chưa đầy đủ), toàn huyện Vĩnh Linh có 114 địa đạo với tổng chiều dài hơn 40km, hệ thống giao thông hào hơn 2.000km và hàng trăm tiểu đạo khác, trở thành những “làng hầm” - lần đầu tiên xuất hiện trong lịch sử chiến tranh Việt Nam, thể hiện ý chí “một tấc không đi, một ly không rời” bám trụ chiến đấu bảo vệ quê hương và giữ thông mạch máu ra tiền tuyến. Địa đạo Vịnh Mốc và hệ thống làng hầm Vĩnh Linh phân bố khắp 15 xã, thị trấn của huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị, bao gồm: 1. Địa đạo Vịnh Mốc (Vĩnh Thạch). Thuộc thôn Vịnh Mốc và thôn Sơn Hạ, xã Vĩnh Thạch. Gồm 13 cửa ra vào (có 6 cửa được thông lên đồi, 7 cửa thông ra hướng biển). Dọc hai bên đường hầm, có khoét các ngách nhỏ đủ sinh hoạt cho 2 đến 4 người. Trong hầm còn có hội trường (sức chứa từ 50 đến 60 người), làm nơi hội họp, xem phim, biểu diễn văn nghệ... và một số công trình khác như: bảng tin, nhà hộ sinh, 3 giếng nước, nhà vệ sinh, trạm phẫu thuật, trạm xá, bếp nấu ăn (bếp Hoàng Cầm). Ngoài hệ thống đường hầm, địa đạo trong lòng đất, địa đạo Vịnh Mốc còn có các công trình trên mặt đất như: giao thông hào, ụ pháo, kè chắn sóng, nhà trưng bày... 2. Hệ thống địa đạo Hiền Dũng (Vĩnh Hòa). Nằm trên địa phận thôn Hiền Dũng, xã Vĩnh Hòa, bao gồm 2 địa đạo: Địa đạo Ban Chỉ huy Công an nhân dân vũ trang khu vực Vĩnh Linh có chiều dài khoảng 1.540m, bao gồm 18 cửa lên xuống, 15 giếng thông hơi. Địa đạo Thông tin Công an nhân dân vũ trang khu vực Vĩnh Linh có 8 cửa lên xuống và 10 giếng thông hơi. 3. Hệ thống địa đạo Hương Nam, Troong Môn - Cửa Hang, thôn Roọc và các địa đạo Hải Quân (Vĩnh Kim). Gồm Địa đạo Hương Nam: thuộc thôn Hương Nam, xã Vĩnh Kim. Hệ thống địa đạo Troong Môn: nằm sát bờ biển của xã Vĩnh Kim. Địa đạo Cửa Hang: Trục đường hầm chạy theo hướng Đông - Tây, có 2 cửa. Địa đạo thôn Roọc: thuộc thôn Roọc Các địa đạo Hải Quân: Các tiểu đạo này nằm gần nhau trong vòng bán kính 50m gồm: Địa đạo Hải quân 1, Địa đạo Hải quân 2, Địa đạo Hải quân 3, Địa đạo Hải quân 4. 4. Hệ thống địa đạo Mũi Si, địa đạo 61 (thị trấn Cửa Tùng). Gồm Địa đạo Mũi Si: nằm bên trục đường ven biển từ Cửa Tùng đến Địa đạo Vịnh Mốc, thuộc khu phố Thạch Bàn, thị trấn Cửa Tùng. Địa đạo 61: nằm bên trục đường vào xóm Bến, thuộc khu phố An Hòa 2, thị trấn Cửa Tùng. 5. Địa đạo Hải quân (Vĩnh Nam). Nằm trên quả đồi thuộc thôn Nam Cường, xã Vĩnh Nam. Địa đạo Vịnh Mốc và hệ thống làng hầm Vĩnh Linh là chứng tích lịch sử về sức mạnh, tinh thần bất khuất, ý chí kiên cường bám đất giữ làng, sự sáng tạo độc đáo của chiến tranh nhân dân, biểu tượng sáng ngời về chủ nghĩa anh hùng cách mạng, góp phần to lớn vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước dân tộc ta. Với giá trị đặc biệt tiêu biểu, di tích lịch sử Địa đạo Vịnh Mốc và Hệ thống làng hầm Vĩnh Linh (huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị) đã được xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt. Nguồn: Cục Di sản văn hóa

Quảng Trị 3812 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Điểm di tích nổi bật